Category: SKKN Luận Văn Luận Án

  • SKKN Thiết kế và sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học chủ đề địa lí tự nhiên Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp THPT môn Địa lí

    SKKN Thiết kế và sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học chủ đề địa lí tự nhiên Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp THPT môn Địa lí

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
    Đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) là một trong những nhiệm vụ quan
    trọng của cải cách giáo dục cũng như cải cách cấp trung học phổ thông. Hiện nay,
    vấn đề đổi mới PPDH nói chung cũng như đổi mới PPDH Địa l nói riêng đã được
    pháp chế hóa trong điều 28, Luật Giáo dục: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
    phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc
    điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc
    theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình
    cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh (HS)”. Việc dạy học không chỉ
    dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức mà quan trọng hơn là dạy cho học sinh phương
    pháp tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức.
    Trong thực tế, những năm gần đây, dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp
    lãnh đạo, sự quan tâm sát sao của Ban Giám hiệu nhà trường, trước yêu cầu của Đổi
    mới giáo dục, đổi mới hoạt động dạy và học theo hướng nghiên cứu bài học và phát
    huy năng lực của học sinh, đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá, các thầy cô trường
    THPT Ngô Quyền nói chung và nhóm Địa l nói riêng đã rất cố gắng nỗ lực, tìm tòi,
    sáng tạo trong quá trình đổi mới phương pháp, với mục đ ch nhằm nâng cao chất
    lượng dạy học, làm tăng hứng thú học tập cho học sinh trong các giờ học Địa lí, giúp
    các em yêu thích môn học hơn, làm chủ quá trình chiếm lĩnh kiến thức, phát huy năng
    lực tự học của học sinh và giúp các em có khả năng vận dụng kiến thức lí thuyết vào
    thực tiễn cuộc sống. Một trong những phương pháp mà cá nhân tôi đã sử dụng có
    hiệu quả trong quá trình giảng dạy và ôn thi Tốt nghiệp THPT môn Địa l là phương
    pháp sử dụng sơ đồ tư duy trong việc hệ thống hóa kiến thức giúp học sinh phát huy
    được tính tích cực, chủ động, phân loại kiến thức theo mức độ nhận thức trong chuẩn
    kiến thức và kĩ năng.
    Phương pháp này đã được tôi áp dụng nhiều năm trong quá trình giảng dạy,
    ôn thi Tốt nghiệp THPT Quốc gia năm học 2020- 2021 và 2021- 2022. ản thân tôi
    đã sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy và ôn thi Tốt nghiệp THPT Quốc gia để làm
    tăng hứng thú học tập và nâng cao chất lượng môn Địa lí cho học sinh. Qua việc sử
    2
    dụng sơ đồ tư duy, tôigiúp học sinh nắm vững kiến thức môn học, thúc đẩy ham
    muốn học tập của học sinh, tăng cường năng lực hoàn thành những công việc quan
    trọng và niềm khát khao được đánh giá các kết quả đã hoàn thành. Khi học sinh có cơ
    hội kiểm soát được việc học của chính mình thì giá trị của việc học đối với các em
    cũng tăng lên. Cơ hội lựa chọn và kiểm soát, cũng như cơ hội cộng tác với các bạn
    cùng lớp sẽ làm tăng hứng thú học tập của các em.
    II. Mô tả giải pháp:

    1. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến:
      Một trong những nội dung của Đổi mới Giáo dục là đổi mới cách thi, hình thức
      thi trong kỳ thi Tốt nghiệp trung học phổ thông . Ở môn Địa l , để hình thành mạch
      kiến thức liên tục, giáo viên thường xây dựng thành các chủ đề: Địa l tự nhiên, địa l
      dân cư, địa l ngành kinh tế, địa l vùng kinh tế. Chủ đề địa l tự nhiên luôn là chủ đề
      khó nhất, khó trong cách truyền đạt kiến thức, khó trong việc tiếp cận kiến thức. Vì ở
      địa l tự nhiên, phải hiểu bản chất của vấn đề mới ghi nhớ được nội dung kiến thức.
      Thực trạng các phương pháp giảng dạy Địa l hiện nay vẫn được áp dụng là:
    • Phương pháp thuyết tr nh – giảng giải
      Đây là phương pháp cổ điển không thể thiếu trong mọi quá trình dạy học. Nhưng
      phương pháp này chỉ phát huy hiệu quả mạnh khi giáo viên:
    • Trình bày bài lôg c.
    • Ngôn ngữ truyền đạt trong sáng, dễ hiểu.
    • Học sinh phải tuyệt đối chú để nắm bắt kiến thức từ giáo viên.
    • Phương pháp v n đáp
      Đây là phương pháp thường được nhiều giáo viên sử dụng trong các giờ lên lớp.
      Những phương pháp này c n một số hạn chế:
    • Học sinh c n thụ động tiếp nhận tri thức từ giáo viên
    • Chỉ những học sinh thực sự hứng thú với giờ học mới tham gia vào việc trả lời các
      câu h i.
      Trước thực trạng dạy học môn Địa l c n sử dụng nhiều phương pháp truyền thống
      nên tôi xây dựng sáng kiến: “Thiết kế, sử dụng sơ đồ tư duy trong chủ đề địa lí tự
      nhiên Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả ôn thi Tốt nghiệp trung học phổ thông –
      3
      môn Địa lí” . Việc thiết kế và sử dụng các loại sơ đồ tư duy đóng một vai tr quan
      trọng trong quá trình dạy học. Nó có tác dụng rất lớn trong quá trình nhận thức của
      học sinh. Ch nh vì vậy, việc thiết kế và sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Địa l là
      một vấn đề cấp thiết, nhằm đổi mới tư duy, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá.
      Qua những chia sẻ trong sáng kiến này, tôi muốn giúp học sinh nắm vững kiến thức
      về địa l tự nhiên Việt Nam, thúc đẩy ham muốn học tập, năng lực của học sinh. Từ
      việc nắm vững kiến thức sẽ giúp các em giải quyết các câu h i, bài tập và đề thi đạt
      hiệu quả cao hơn.
    1. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
      Sơ đồ tư duy là hình thức ghi chép sử dụng nhiều màu sắc, hình ảnh để mở
      rộng và đào sâu các tưởng. Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng có
      thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu
      sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai
      thác tiềm năng vô tận của não bộ.
      Sơ đồ tư duy giúp học sinh có phương pháp học hiệu quả hơn: Việc rèn luyện
      phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy
      học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy, một số học sinh chăm chỉ nhưng
      kết quả học tập vẫn thấp vì các em học bài nào biết bài đấy, học trước quên sau,
      không biết vận dụng kiến thức đã học phần trước vào phần sau, không biết liên kết
      các kiến thức với nhau. Phần lớn học sinh khi đọc sách và nghe giảng không biết
      cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức một cách khoa học, trọng tâm vào trí
      nhớ của mình. Sử dụng thành thạo sơ đồ tư duy trong dạy học sẽ giúp học sinh có
      phương pháp học, tăng cường t nh độc lập, sáng tạo và chủ động. Học sinh sẽ hiểu
      sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính bản thân mình tự suy nghĩ, tự viết và vẽ ra
      theo ngôn ngữ của mình.
      Địa l là một môn khoa học vừa l thuyết vừa thực hành với nhiều kiến thức về
      tự nhiên, dân cư và kinh tế rất cần thiết cho mỗi người dân Việt Nam. Trong các PPDH
      t ch cực, phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy sẽ giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức,
      xác định được kiến thức cơ bản. Mặt khác, sử dụng phương pháp sơ đồ tư duy còn giúp
      học sinh rèn luyện, phát triển tư duy logic, khả năng tự học, phát huy t nh t ch cực và
      4
      sáng tạo của học sinh không chỉ trong học tập môn Địa l mà c n trong các môn học
      khác và các vấn đề khác trong cuộc sống.
      2.1. Các lƣu ý hi sử dụng sơ đồ tƣ duy
      Có nhiều loại sơ đồ tư duy có thể được sử dụng khi giảng dạy và ôn tâp Địa l .
      Để tạo được sơ đồ tư duy và sử dụng có hiệu quả các sơ đồ đó, theo tôi cần có các lưu
      như sau:
      2.1.1. Hiểu về các iểu sơ đồ tƣ duy trong dạy học địa lí
    • Sơ đồ tìm hiểu bài mới dùng để chứng minh, giải th ch, phản ánh nội dung bài
      giảng một cách trực quan.
    • Sơ đồ tổng hợp dùng để ôn tập, tổng kết hay hệ thống 1 chương, 1 phần kiến
      thức.
    • Sơ đồ kiểm tra để đánh giá năng lực tiếp thu, hiểu biết của học sinh đồng thời
      giúp giáo viên kịp thời điều chỉnh nội dung truyền đạt.
      2.1.2. Đảm bảo tính hoa học, tính hái quát, tính thẩm mĩ của sơ đồ tƣ duy
    • T nh khoa học: nội dung sơ đồ phải bám sát nội dung của bài học, phải thể hiện
      được mối quan hệ biện chứng giữa các sự vật, hiện tượng một cách khách quan chứ không
      phải do giáo viên áp đặt.
    • T nh khái quát: sơ đồ phải có t nh khái quát hóa cao, lược b các chi tiết phụ,
      dễ học, dễ nhớ. Qua sơ đồ học sinh có thể nhận thấy ngay các mối quan hệ khách
      quan, biện chứng.
    • T nh thẩm mĩ: bố cục của sơ đồ phải hợp l , cân đối, nổi bật trọng tâm và các
      nhóm kiến thức, có thể dùng màu sắc làm rõ.
      2.1.3. Nắm vững y u cầu hi thiết ế sơ đồ tƣ duy
      Giáo viên và học sinh phân t ch nội dung bài dạy, tìm ra những khái niệm cơ bản,
      khái niệm gốc cần truyền đạt, hình thành.
    • ước 1: Chọn kiến thức cơ bản, mã hóa các kiến thức đó một cách ngắn gọn,
      cô đọng, súc t ch nhưng phải phản ánh được nội dung cần thiết (có thể sử dụng hình
      tượng trưng).
    • ước 2: Thiết lập sơ đồ với những nội dung đã lựa chọn ở bước 1.
    • ước 3: Hoàn thiện, kiểm tra lại tất cả các công việc đã thực hiện. Điều chỉnh
      sơ đồ phù hợp với nội dung bài học đảm bảo t nh thẩm mĩ và khái quát.
      5
      Trong khi sử dụng giáo viên phải hình thành rõ mạch ch nh, mạch nhánh của sơ đồ,
      mối quan hệ nhân quả, mối quan hệ tác động hoặc sự liên kết các đơn vị kiến thức
      trên sơ đồ.
      2.1.4. Nắm vững nguy n tắc hi sử dụng sơ đồ tƣ duy
    • Sử dụng sơ đồ phải đáp ứng được mục tiêu và phù hợp với nội dung của việc
      giảng dạy.
    • Phải luôn đề cao vai tr hoạt động chủ động, t ch cực của học sinh. Giáo viên
      luôn tạo điều kiện tối đa cho học sinh tự mình làm việc với các sơ đồ để khám phá,
      tìm t i các tri thức cần thiết.
    • Sử dụng sơ đồ đúng lúc, đúng vị tr , đảm bảo tất cả học sinh trong lớp đều có
      thể tiếp cận được.
    • Sử dụng sơ đồ đủ cường độ.
    • Phối hợp nhiều loại phương tiện- đồ dùng dạy học khác nhau, không nên quá
      lạm dụng một phương tiện nào đó sẽ gây nhàm chán.
      Trong dạy học Địa lí, sơ đồ có thể được dùng vào mọi thời điểm trong giờ
      học: kiểm tra kiến thức cũ của học sinh (phụ lục 1); định hướng học sinh khi hình
      thành kiến thức mới (phụ lục 2); trong khai thác kiến thức bài mới (phụ lục 3);
      trong việc luyện tập, củng cố bài học (phụ lục 4); trong việc giao bài tập về nhà
      (phụ lục 5).
      Từ những lưu trên tôi mạnh dạn đưa ra các giải pháp thực hiện như sau:
      2.2. Các giải pháp khi thiết kế, sử dụng sơ đồ tƣ duy.
      2.2.1. Sử dụng sơ đồ tƣ duy trong quá trình chuẩn bị bài giảng.
      Ngay từ đầu năm học, tôi tiến hành xây dựng giáo án: giáo án soạn mới hoàn
      toàn, có sử dụng sơ đồ tư duy và sử dụng trong giảng dạy các lớp khối 11 và 12 theo
      phân công chuyên môn của nhà trường.
      Trong quá trình soạn bài, đối với khối 12, đặc biệt phần địa lí tự nhiên, các bài
      đều có thể lập sơ đồ tư duy nên rất dễ dàng trong việc hướng dẫn học sinh thiết lập sơ
      đồ tư duy tìm hiểu bài học.
      6
      Khi soạn bài, cả trên giáo án Word và Power Point, tôi sử dụng phần mềm
      iMindMap 6 hoặc iMindMap8 để thiết kế sơ đồ tư duy phù hợp cho từng bài giảng.
      Phần mềm này sử dụng rất đơn giản, dễ dàng và tiện lợi khi xây dựng sơ đồ tư duy.
      Hơn nữa BGH và nhóm Tin của trường THPT Ngô Quyền đã tổ chức tập huấn cho
      toàn thể cán bộ, giáo viên kĩ năng thiết kế bài giảng sử dụng sơ đồ tư duy trong năm
      học 2019- 2020. Ở các lớp tôi giảng dạy, nhiều học sinh cũng rất thành thạo thao tác
      cài đặt và sử dụng phần mềm này. Thú thực, đôi lúc bản thân tôi vừa làm vừa trao
      đổi, chia sẻ và được các em học sinh hỗ trợ rất nhiều về công nghệ thông tin.
      2.2.2. Sử dụng sơ đồ tƣ duy để khái quát chuẩn kiến thức, ĩ năng và xây dựng
      dàn ý bài học.
      Đây ch nh là bước quan trọng đầu tiên tôi chuẩn bị cho 1 tiết học, dựa và nội
      dung chuẩn kiến thức và kĩ năng, tôi sẽ thiết kế sơ đồ tư duy khái quát thể hiện các
      đơn vị kiến thức và kĩ năng trọng tâm của bài học. Từ đó, sử dung phần mềm
      iMindMap8.0 để xây dựng sơ đồ tư duy và trình chiếu trên PowerPoint.
      Ví dụ: Khi dạy bài 2:Vị tr địa lí và lãnh thổ, tôi sử dụng sơ đồ sau để khái quát kiến
      thức toàn bài giúp học sinh có cái nhìn toàn diện về bài học, có thể sử dụng kèm theo
      một số hình ảnh tiêu biểu để tăng hứng thú khám phá cho học sinh:
      Để thống nhất dàn ý cho bài học, tôi sử dụng sơ đồ còn khuyết nhánh để học
      sinh phát hiện nhánh sơ đồ còn thiếu hoặc thừa, từ đó thống nhất dàn ý chuẩn cho bài
      học:
    • Nhánh 1: Vị tr địa lí: khuyết 1 nội dung hệ tọa độ địa l trên đất liền.
    • Nhánh 2: Lãnh thổ: khuyết 2 nội dung các bộ phận vùng đất và vùng biển.
    • Nhánh 3: Ý nghĩa của vị trí và lãnh thổ khuyết nội dung các nguyên nhân của sự đa
      dạng tài nguyên sinh vật, khoáng sản.
      Sau khi học sinh bổ sung sẽ thống nhất được sơ đồ dàn ý tìm hiểu bài học.
      Cách khác, GV có thể viết nội dung bài học vào giữa bảng và yêu cầu 1- 3 học sinh
      lên bảng hoàn thành sơ đồ dàn ý bài học.
      7
      Đây là thao tác quan trọng giúp học sinh định hướng nội dung tìm hiểu bài học,
      các đơn vị kiến thức chủ yếu, trọng tâm, những nội dung kiến thức bổ trợ… trong quá
      trình khai thác tài liệu học tập hình thành kiến thức và cũng dễ dàng cho học sinh khi
      đánh giá, nhận xét các sản phẩm học tập của nhóm bạn.
      2.2.3. Sử dụng sơ đồ tƣ duy trong hoạt động hình thành kiến thức mới.
      Trong giải pháp này, tôi sử dụng sơ đồ tư duy là một phương tiện hỗ trợ hình
      thành kiến thức mới. Tôi có thể phối hợp với các phương pháp: dự án, thảo luận
      nhóm, mảnh ghép… để dẫn dắt, hướng dẫn học sinh lần lượt vẽ các nhánh theo tiến
      trình hình thành kiến thức mới. Từ mỗi nhánh chính lại triển khai các nhánh phụ: “
      con”, “ cháu”, “ chắt”, “ ch t”…
      Ví dụ: Trong nội dung hình thành kiến thức mới của Bài 2: Vị tr địa lí và lãnh thổ,
      tôi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, dựa trên sơ đồ kiến thức đã khái quát, học
      sinh hoàn thành các nhánh sơ đồ tư tuy tương ứng với chuẩn kiến thức, kĩ năng:
    • Cách thức tiến hành:
      Bước 1: Giao nhiệm vụ
      Lớp học được chia thành 8 nhóm, hai nhóm thực hiện 1 nhiệm vụ.
    • Các nhóm: bắt thăm lựa chọn nhiệm vụ thảo luận: (Phiếu học tập số 1,2,3,4)
      PHIẾU HỌC TẬP SỐ 1
    • Nêu đặc điểm vị tr địa lí của nước ta:
    • Tọa độ địa l trên đất liền, trên biển
    • Vị trí tiếp giáp
    • Múi giờ
      PHIẾU HỌC TẬP SỐ 2
    • Nêu đặc điểm lãnh thổ của nước ta:
    • Vùng đất: Khái niệm, diện tích, giới hạn
      8
    • Vùng biển: Diện tích, các bộ phận vùng biển
    • Vùng trời: Khái niệm, giới hạn
      PHIẾU HỌC TẬP SỐ 3
    • Nêu nghĩa tự nhiên của vị tr địa lí và lãnh thổ nước ta:
    • Ảnh hưởng đến thiên nhiên chung
    • Ảnh hưởng đến các thành phần tự nhiên
      PHIẾU HỌC TẬP SỐ 4
    • Nêu nghĩa kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng của nước ta:
    • Ý nghĩa về kinh tế: giao thông, thu hút đầu tư
    • Ý nghĩa xã hội
    • Ý nghĩa an ninh, quốc phòng
      Nhiệm vụ mỗi nhóm là thảo luận 3 yêu cầu:
    1. Thông tin trả lời câu h i trên được lấy từ đâu?
    2. Đưa ra dàn và nội dung trả lời các câu h i trên bằng sơ đồ tư duy.
    3. Nhóm báo cáo sản phẩm bằng hình thức nào?
    • Đánh giá kết quả Nhóm ………..:
    • Ưu điểm:
    • Hạn chế:
    • Đề xuất (bổ sung, thay thế):
    • Phản biện:………………………………………………………………………………..
    • Phương án trả lời: ………………………………………………………
    • Yêu cầu:
      9
    • Nhận xét kết quả làm việc
    • Đặt câu h i phản biện
    • Đánh giá kết quả và sản phẩm báo cáo.
    • Quy trình thực hiện hoạt động nhóm:
    • Tiết trước, tôi giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn bị bài học, nghiên cứu cá
      nhân, phân công nhiệm vụ và thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu SGK, nguồn
      học liệu mở, chuẩn bị phương tiện, đồ dùng, tranh ảnh… liên quan đến nội dung trả
      lời các câu h i và bài tập theo chuẩn kiến thức và kĩ năng.
    • Phân nhóm theo sở th ch: Đảm bảo số lượng thành viên các nhóm không quá
      chênh lệch.
    • Đại diện các nhóm xác lập lại nhiệm vụ đã bắt thăm được.
      Bước 2: Thảo luận và hoàn thành sản phẩm
    • Các nhóm thảo luận dưới sự điều hành của nhóm trưởng, thư k tập hợp ý
      kiến cá nhân thành ý kiến chung, chuẩn bị đồ dùng, phương tiện và thống nhất cách
      thức trình bày và báo cáo sản phẩm của nhóm. (5 phút)
    • Học sinh làm nhiệm vụ. GV quan sát, động viên, gợi ý.
      Bước 3: Báo cáo sản phẩm
    • Kết thúc phần hoàn thiện sản phẩm, thống nhất của các nhóm, GV ra hiệu
      lệnh mời nhóm chuyên gia lên điều khiển hoạt động báo cáo sản phẩm của các nhóm:
    • Bắt thăm để lựa chọn nhóm trình bày và nhóm đối chiếu.
    • Đại diện các nhóm lần lượt trình bày sản phẩm sơ đồ tư duy và báo cáo,.
      Trước khi trình bày nội dung sản phẩm, các nhóm cần nêu rõ hình thức báo cáo sản
      phẩm (bản thuyết trình hay Slide/tranh ảnh/…).
      Nhóm chuyên gia đánh giá kết quả làm việc của các nhóm, đặt câu h i phản
      biện. Đại diện nhóm trả lời. Nhóm chuyên gia nêu đáp án hoặc bổ sung, trao phần
      10
      thưởng cho nhóm có sản phẩm sơ đồ tư duy đầy đủ nhất và phần báo cáo xuất sắc
      nhất.
      Bước 4: Đánh giá

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Thiết kế và sử dụng kênh hình trong Dạy học Địa lí lớp 11 theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh

    SKKN Thiết kế và sử dụng kênh hình trong Dạy học Địa lí lớp 11 theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    I.1. Xuất phát từ cách tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 và yêu
    cầu đổi mới giáo dục theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh
    Trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi nước ta
    phải có nguồn nhân lực có phẩm chất, năng lực, đạo đức và trí tuệ đồng thời có khả
    năng thích ứng cao, vận dụng linh hoạt, sáng tạo tri thức của nhân loại vào hoàn cảnh
    thực tế của đất nước, từ đó tạo ra những sản phẩm đáp ứng yêu cầu của xã hội. Để có
    nguồn nhân lực đó, yêu cầu đặt ra là phải đổi mới giáo dục một cách toàn diện, đổi
    mới mục tiêu, nội dung giáo dục và phương pháp dạy và học.
    Chương trình giáo dục phổ thông 2018 giúp các em học sinh củng cố và mở
    rộng nền tảng tri thức, kĩ năng phổ thông cốt lõi, tạo sơ sở cho HS tiếp tục theo học
    các ngành nghề có liên quan sau này. Tiếp cận với chương trình GDPT mới, bản thân
    tôi được tập huấn và học hỏi các modul về xây dựng kế hoạch bài dạy, đổi mới kiểm
    tra- đánh giá trong dạy và học gắn với mục tiêu, yêu cầu cần đạt của mỗi chuyên đề,
    gắn kiến thức lí thuyết với thực tiễn nhằm phát triển năng lực, phẩm chất HS.
    Các môn học trong nhà trường phổ thông hiện nay nói chung và môn Địa lí nói
    riêng không chỉ nhằm cung cấp cho HS hệ thống các tri thức khoa học Địa lí mà còn
    hướng tới việc hình thành và phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người
    học, đáp ứng yêu cầu hội nhập phát triển của đất nước. Nhiệm vụ quan trọng hàng
    đầu của môn Địa lí hiện nay là phải đổi mới trên nhiều lĩnh vực, chú trọng phát huy
    phẩm chất, năng lực, tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học.
    Trong dạy học Địa lí, kênh hình được coi là một trong những phương tiện dạy
    học trực quan. Kênh hình là cơ sở cho việc tạo biểu tượng Địa lí, lưu giữ một khối
    lượng kiến thức rất lớn, là phương tiện để GV và HS tổ chức các hoạt động học tập.
    3
    Vai trò của kênh hình trong học tập, nghiên cứu địa lí là rất quan trọng, không
    chỉ giúp HS dễ dàng phát hiện kiến thức, khắc sâu nội dung bài học mà còn góp phần
    rèn luyện, phát triển khả năng tư duy, vận dụng sáng tạo kiến thức lí thuyết vào thực
    tiễn cuộc sống. Hiện nay, kênh hình phục vụ cho dạy học Địa lí rất đa dạng và phong
    phú bao gồm: Tranh ảnh, bản đồ, lược đồ, bảng số liệu, video clip,.. đang được tăng
    cường cả số lượng và chất lượng. Điều này tạo nhiều thuận lợi cho việc nâng cao chất
    lượng dạy học môn Địa lí. Tuy nhiên, khó khăn của nhiều GV địa lí hiện nay là chưa
    biết xây dựng, sử dụng và khai thác kiến thức một cách hiệu quả từ kênh hình, GV
    chỉ đơn thuần sử dụng kênh hình để minh họa cho nội dung bài học mà chưa biết
    cách khai thác do đó làm giảm hiệu quả giảng dạy, chưa đáp ứng được mục tiêu môn
    học đề ra. Vì thế chưa khơi dậy được tính tích cực, chủ động, hình thành và phát triển
    được các phẩm chất và năng lực cho HS. Việc tự thiết kế kênh hình của GV còn ít, sử
    dụng kênh hình trong dạy học còn nhiều hạn chế. Một số giáo viên vẫn còn tư tưởng
    ngại đổi mới, vẫn chủ yếu dựa vào kênh hình, kênh chữ SGK cũ và ít cập nhật thông
    tin, tính hiệu quả trong các giờ học chưa cao.
    Kế thừa các thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước,
    từ thực tế giảng dạy của bản thân và đồng nghiệp, tác giả thấy rằng cần phải có cái
    nhìn tổng thể về vai trò, chức năng, cách thức thiết kế và quy trình sử dụng của các
    loại kênh hình thường được dùng trong dạy học bộ môn Địa lí ở nhà trường phổ
    thông, qua đó giúp HS hình thành và phát triển các năng lực. Trong khi xây dựng kế
    hoạch bài dạy, tác giả luôn trăn trở việc gắn kênh hình với các hoạt động nhận thức
    của HS như thế nào trong mỗi bài học địa lí, để HS dễ dàng chiếm lĩnh tri thức, rèn
    luyện cho HS năng lực tư duy, khả năng sáng tạo, tự chủ và độc lập trong học tập. Vì
    vậy, tác giả chọn tìm hiểu, nghiên cứu nội dung “Thiết kế và sử dụng kênh hình
    trong dạy học Địa lí lớp 11 theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực học
    sinh” làm chủ đề cho sáng kiến kinh nghiệm của mình.
    4
    I.2. Xuất phát từ đặc điểm đối tượng học sinh hiện nay và yêu cầu thực tế
    Các đối tượng địa lí KTXH luôn thay đổi không ngừng theo không gian và thời
    gian, việc cập nhật thông tin, số liệu mới cần nhanh chóng, kịp thời về các khu vực,
    các quốc gia trên thế giới. Nếu sử dụng thông tin cũ, không có tính thời sự sẽ không
    những gây nhàm chán mà còn phản ánh không đúng bản chất, xu hướng biến đổi,
    phát triển của sự vật, hiện tượng trong giai đoạn hiện nay.
    Dạy học theo hướng phát triển năng lực đang là yêu cầu cấp thiết đòi hỏi đổi
    mới phương pháp dạy học nhằm mục đích phát huy tính chủ động, sáng tạo của HS,
    để HS thích thú với bài học, có hứng thú tìm tòi tri thức thì GV phải không ngừng đổi
    mới, nâng cao chất lượng giờ dạy của mình. GV đổi mới về phương pháp dạy học,
    hình thức dạy học tiếp cận chương trình Giáo dục phổ thông mới 2018.
    HS hiện nay rất năng động, sáng tạo, tích cực tìm tòi, học hỏi tri thức mới.
    Việc sử dụng kênh hình trong dạy học địa lí theo hướng phát triển năng lực người
    học giúp HS có cái nhìn trực quan về đối tượng, mối quan hệ giữa các đối tượng,
    thông qua kênh hình HS có thể khái thác kiến thức và vận dụng sáng tạo để giải quyết
    các nhiệm vụ học tập. Dưới sự hướng dẫn, định hướng của GV, HS cũng có thể tự
    thiết kế kênh hình phục vụ hiệu quả cho học tập (thiết kế video, Inforgraphic, sơ
    đồ…) với việc ứng dụng các phần mềm Canva, Microsoft Office, Biteable… HS thỏa
    sức sáng tạo và phát triển năng lực của mình, đồng thời kiến thức bài học cũng được
    ghi nhớ sâu hơn.
    Tác giả mong rằng những kinh nghiệm này sẽ là tài liệu tham khảo có thể giúp
    ích các đồng nghiệp và các em học sinh trong quá trình dạy học môn Địa lý nói
    chung và đặc biệt cách thiết kế bài giảng, xây dựng kênh hình phù hợp, sáng tạo, đem
    lại hiệu quả cao trong phần rèn luyện, phát triển khả năng tư duy, vận dụng sáng tạo
    kiến thức lí thuyết vào thực tiễn cuộc sống.
    5
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    II. 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Qua khảo sát điểu tra về thực trạng việc sử dụng kênh hình của GV và HS hiện
    nay, tác giả nhận ra rằng: phần lớn các GV thấy được vai trò quan trọng của kênh
    hình trong học tập, xây dựng kế hoạch bài dạy, trong kiểm tra, đánh giá địa lí. Khi
    thường xuyên khai thác kênh hình thì sẽ đạt hiệu quả cao trong giảng dạy, HS có
    hứng thú tiếp thu bài và nhớ kiến thức lâu hơn. Tuy nhiên, hiện nay nhiều GV sử
    dụng kênh hình chủ yếu với mục đích minh họa kiến thức đã học, một số GV vẫn chủ
    yếu dựa vào kênh hình từ SGK, chưa có đổi mới về nội dung và phương pháp dạy
    học, chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu bài học và vì thế việc thiết kế các hoạt động
    học tập cho HS sử dụng kênh hình còn khá ít.
    Các kênh hình thường được sử dụng đó là tranh ảnh, video có sẵn trên mạng
    hoặc tư liệu (có thể thời lượng quá dài lại không sát với nội dung bài học, không nhấn
    mạnh vào vấn đề chính…), sử dụng bảng số liệu đã có trong SGK mà chưa cập
    nhật… Một yêu cầu mới đặt ra là GV phải thường xuyên học hỏi, đổi mới làm sinh
    động bài giảng, đạt được mục tiêu, yêu cầu phát triển năng lực, phẩm chất của HS.
    GV tìm tòi, nghiên cứu, biết cách làm và hướng dẫn HS biết làm là vấn đề hết sức
    cần thiết hiện nay.
    Điểm mới của sáng kiến là đưa ra quy trình thiết kế kênh hình, sử dụng các
    kênh thông tin chính thống, hữu ích, cập nhật số liệu, thông tin mới rất cần thiết khi
    dạy học địa lí KTXH thế giới, khu vực và các nước. SK nêu bật việc làm thế nào để
    sử dụng kênh hình một cách hiệu quả đáp ứng mục tiêu bài học về kiến thức, kĩ năng,
    phẩm chất HS. Trong sáng kiến có trình bày các bước để thiết kế kênh hình trong dạy
    học Địa lí lớp 11, có ví dụ cụ thể, phân tích quy trình thiết kế, sử dụng kênh hình.
    Đặc biệt dưới sự định hướng của GV, năng lực vốn có và hiểu biết của HS thì HS đã
    tự thiết kế được kênh hình phục vụ cho học tập tại lớp và ở nhà. Từ đó khẳng định
    tính hiệu quả trong hoạt động dạy và học, ứng dụng thực tiễn, phát triển năng lực và
    6
    phẩm chất của HS. HS cũng có thể tham gia đánh giá đồng đẳng, đánh giá cá nhân về
    quá trình làm việc và sản phẩm học tập của chính mình và các bạn.
    Sáng kiến cũng thể hiện một số kết quả khi được tập huấn và tự học của cá
    nhân qua các Modul học tập trực tiếp và online trên LMS vận dụng sáng tạo vào thiết
    kế, tổ chức các hoạt động dạy- học và kiểm tra đánh giá.
    II. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    Với mục tiêu cao nhất là phát triển năng lực cho học sinh đặc biệt là năng lực
    tự học, sáng tạo và nâng cao chất lượng dạy học và kết quả học tập của HS, tôi đã
    mạnh dạn áp dụng các giải pháp mới. Những giải pháp này thể hiện sự cố gắng, đóng
    góp của bản thân giáo viên với sự học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp. Đặc biệt
    trong các giải pháp tôi còn rất chú ý đến phát huy sự cố gắng, nỗ lực, khả năng sáng
    tạo, hợp tác của học sinh. Với những biện pháp mà bản thân thực hiện trong sáng
    kiến so với những giải pháp cũ tôi nhận thấy: học sinh đã được phát triển nhiều năng
    lực như mục tiêu Đổi mới của ngành giáo dục hiện nay đang hướng tới (năng lực tự
    học, sáng tạo, hợp tác, sử dụng ngôn ngữ, giải quyết vấn đề, tư duy tổng hợp theo
    lãnh thổ, năng lực sử dụng kênh hình trong học tập địa lí…). HS được tự thiết kế
    kênh hình với sự hỗ trợ của CNTT, HS biết cách chọn lọc thông tin, thu thập và xử lí
    thông tin, HS có khả năng ghi nhớ, vận dụng tốt kiến thức đã học. HS biết cách khai
    thác, sử dụng kênh hình khi học tập. Đồng thời, hiệu quả giảng dạy cũng được nâng
    lên rõ rệt, HS yêu thích môn học, hứng thú với bài học.
    Cá nhân tôi đã tiếp cận chương trình GDPT 2018 theo định hướng phát triển
    năng lực HS, tích cực đổi mới về phương pháp dạy học, áp dụng các kĩ thuật dạy học
    mới nhằm chú trọng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh.
    II. 2.1. Cơ sở khoa học của sáng kiến
    II.2.1.1 Vai trò của kênh hình trong dạy- học
    Trong bài báo “Phát triển khả năng tư duy phản biện trong học tập Địa lý cho học
    sinh dựa trên phần mềm Visual Adobe Flash Media ở trường Trung học phổ thông”,
    7
    tác giả T Gayatri cũng đã khẳng định rằng: “Kênh hình được coi là công cụ hữu hiệu
    để nâng cao khả năng tư duy phản biện của học sinh và cũng thúc đẩy học sinh học
    tập. Kênh hình bao gồm hai khía cạnh chính là khía cạnh âm thanh và khía cạnh thị
    giác. Kênh hình hỗ trợ việc truyền tải thông điệp thông qua cảm nhận trực quan. Học
    sinh cũng có thể nhận văn bản dưới dạng âm thanh thông qua thính giác”
    Trong việc thu nhận tri thức Trong việc lưu trữ tri thức
    Qua nếm: 1%
    Qua sờ: 1.5%
    Qua ngửi: 3.5%
    Qua nghe: 11%
    Qua nhìn: 83%
    Nghe: 20%
    Nhìn: 30%
    Nghe + Nhìn: 50%
    Tự trình bày: 80%
    Tự trình bày và làm: 90%
    Kênh hình có vai trò nhấn mạnh các nội dung quan trọng bằng các bố cục, màu
    sắc phù hợp, từ đó dễ tạo được sự hào hứng, hứng thú, đam mê của HS khi theo dõi
    bài dạy. Đồng thời, góp phần hình thành và phát triển năng lực tư duy sáng tạo ở HS.
    Kênh hình sử dụng trong dạy học nhằm phát triển năng lực sử dụng công cụ
    địa lí học, khả năng tư duy sáng tạo và giải quyết vấn đề cho HS thông qua các yêu
    cầu như phân tích, so sánh, tổng hợp khi HS tiến thành khai thác kênh hình. Hơn nữa,
    HS có thể sử dụng kênh hình để xây dựng các sản phẩm học tập, giúp quá trình học
    tập trở nên trực quan và sinh động hơn.
    Sử dụng kênh hình trong dạy học có khả năng làm tăng hiệu quả giờ dạy, giúp
    HS tiếp nhận tri thức một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn.
    Sử dụng kênh hình giúp bồi dưỡng cho HS các giá trị về phẩm chất như yêu
    nước, trung thực, chăm chỉ, cần cù và trách nhiệm.
    Trong dạy học địa lí, kênh hình được hiểu là nguồn tri thức, thông tin địa lí
    dưới dạng trực quan, có thể được thể hiện dưới dạng tĩnh hoặc động và được trình
    bày bằng phương pháp đồ họa. Kênh hình không chỉ giúp minh họa cho nội dung bài
    học mà còn giúp HS khai thác kiến thức, từ đó hình thành các khái niệm, biểu tượng
    8
    địa lí cho HS. Hệ thống các kênh hình được xác định như: tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ,
    lược đồ, biểu đồ, video clip, …
    Như vậy, kênh hình trong dạy học ngoài việc cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ
    năng, hình thành phẩm chất và thái độ còn phát triển khả năng tư duy địa lí, năng lực
    sử dụng công cụ địa lí học, năng lực giải quyết vấn đề cho HS. Trong dạy học, kênh
    hình vừa đóng vai trò là phương tiện trực quan vừa là phương pháp trong giảng dạy.
    II.2.1.2. Tiếp cận chương trình GDPT mới 2018
    Chương trình bảo đảm phát triển phẩm chất và năng lực học sinh: Chương
    trình môn Địa lí xác định rõ các phẩm chất và năng lực có thể hình thành, phát triển
    qua môn học. Một mặt, chương trình căn cứ vào các yêu cầu cần đạt về phẩm chất
    chủ yếu và năng lực cốt lõi làm cơ sở và điểm xuất phát để lựa chọn các nội dung
    giáo dục; mặt khác, chương trình hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu và
    năng lực cốt lõi cho học sinh thông qua việc hướng dẫn học sinh tiếp thu và vận dụng
    nội dung giáo dục của môn học vào thực tiễn.
    Chương trình bảo đảm kết nối giữa các lớp học, cấp học và đáp ứng yêu cầu
    định hướng nghề nghiệp: Nội dung chương trình được thiết kế theo ba mạch: địa lí
    đại cương, địa lí thế giới, địa lí Việt Nam, bao gồm các kiến thức cốt lõi và chuyên đề
    học tập; phát triển, mở rộng và nâng cao nội dung giáo dục địa lí đã học ở cấp trung
    học cơ sở; bảo đảm tinh gọn, cơ bản, cập nhật các tri thức khoa học, hiện đại của địa
    lí học, các vấn đề về phát triển của thế giới, khu vực, Việt Nam và địa phương. Các
    nội dung giáo dục và yêu cầu cần đạt của chương trình có tính đến sự phù hợp với
    thực tế dạy học ở trường phổ thông trong định hướng phát triển. Đối với những học
    sinh có định hướng nghề nghiệp liên quan đến kiến thức địa lí, ngoài kiến thức cốt
    lõi, chương trình có các chuyên đề học tập ở mỗi lớp, nhằm thực hiện yêu cầu phân
    hoá sâu, đáp ứng yêu cầu định hướng nghề nghiệp.
    Chương trình bảo đảm tính kế thừa, hiện đại: Chương trình môn Địa lí kế thừa
    phát huy ưu điểm của những chương trình đã có, tiếp thu kinh nghiệm phát triển
    9
    chương trình môn học của các nước có nền giáo dục tiên tiến, tiếp cận với những
    thành tựu của khoa học kĩ thuật hiện đại; phù hợp với thực tiễn xã hội, giáo dục, điều
    kiện và khả năng học tập của học sinh ở các vùng, miền khác nhau.
    Chương trình chú trọng tích hợp, thực hành và vận dụng: Chương trình môn
    Địa lí chú trọng tích hợp, thực hành, gắn nội dung giáo dục của môn học với thực tiễn
    nhằm rèn luyện cho học sinh kĩ năng vận dụng kiến thức địa lí vào việc tìm hiểu và
    giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của cuộc
    sống.
    Chương trình được xây dựng theo hướng mở: Trên cơ sở bảo đảm định hướng,
    yêu cầu cần đạt và những nội dung giáo dục cốt lõi thống nhất trong cả nước, chương
    trình dành thời lượng nhất định để các trường hướng dẫn học sinh thực hành tìm hiểu
    địa lí địa phương phù hợp với điều kiện của mình; đồng thời triển khai kế hoạch giáo
    dục phù hợp với đối tượng giáo dục và điều kiện của cơ sở giáo dục, của địa phương.
    Trong đó, chương trình môn Địa lí đã xác định được các phẩm chất chủ yếu và
    năng lực cốt lõi cụ thể cần hình thành cho HS như sau:
    Hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu: Thông qua việc tổ chức các hoạt
    động học tập, môn Địa lí giáo dục cho học sinh thế giới quan khoa học, lòng yêu
    nước, tình yêu thiên nhiên, tình cảm yêu thương người lao động, thái độ tôn trọng
    những giá trị nhân văn khác nhau; ý thức, niềm tin, trách nhiệm và hành động cụ thể
    trong việc sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; rèn luyện cho
    học sinh các đức tính chăm chỉ, trung thực trong học tập và nghiên cứu khoa học.
    Hình thành, phát triển các năng lực chung:

    • Năng lực tự chủ và tự học: được hình thành và phát triển thông qua các hoạt
      động học tập như thu thập thông tin và trình bày báo cáo địa lí; khảo sát, điều tra thực
      tế địa phương, vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề thực tế,…
    • Năng lực giao tiếp và hợp tác: được hình thành và phát triển thông qua các
      hoạt động nhóm và phương pháp dạy học thảo luận, dạy học dự án, xêmina,…
      10
    • Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo: được hình thành và phát triển thông
      qua các hoạt động phát hiện vấn đề, nêu giả thuyết hoặc giả định, tìm lôgic trong giải
      quyết vấn đề, đề xuất được giải pháp giải quyết vấn đề, đánh giá giải pháp giải quyết
      vấn đề, tưởng tượng khoa học, giải quyết vấn đề mới, tự học về lí thuyết và công cụ
      địa lí.
      Hình thành, phát triển năng lực địa lí:
    • Để phát triển thành phần năng lực nhận thức khoa học địa lí, giáo viên tạo
      cho học sinh cơ hội huy động những hiểu biết, kinh nghiệm sẵn có để tham gia hình
      thành kiến thức mới.
    • Để phát triển thành phần năng lực tìm hiểu địa lí, giáo viên tạo điều kiện cho
      học sinh sử dụng các công cụ của địa lí học như: atlat địa lí, bản đồ, lược đồ, biểu đồ,
      sơ đồ, lát cắt, mô hình, khối đồ, bảng số liệu, tranh ảnh,… tìm tòi, khám phá các tri
      thức địa lí; tăng cường khai thác Internet trong học tập, tổ chức cho học sinh học tập
      ngoài thực địa, trong môi trường tự nhiên, kinh tế – xã hội địa phương.
    • Để phát triển thành phần năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học về địa
      lí, học sinh cần được tạo cơ hội để cập nhật thông tin và liên hệ thực tế, tiếp cận với
      các tình huống thực tiễn, thực hiện các chủ đề học tập khám phá từ thực tiễn; vận
      dụng được các kiến thức, kĩ năng địa lí để giải quyết một số vấn đề thực tiễn phù hợp.
      Giáo viên cần quan tâm rèn luyện cho học sinh các kĩ năng phát hiện vấn đề, lập kế
      hoạch nghiên cứu, giải quyết vấn đề, đánh giá kết quả giải quyết vấn đề, nêu giải
      pháp khắc phục hoặc cải tiến, tăng cường sử dụng các bài tập đòi hỏi vận dụng kiến
      thức thực tế và tư duy phản biện, sáng tạo.
      II.2.2. Thiết kế kênh hình trong dạy- học Địa lí 11
      Nguyên tắc sử dụng kênh hình trong dạy học:
    • Đảm bảo tính khoa học, thẩm mĩ, tính vừa sức đối với HS.
    • Đảm bảo tính thực tiễn, hệ thống
    • Đảm bảo tính giáo dục.
      11
    • Đảm bảo tính phát triển tư duy cho HS
      Quy trình thiết kế kênh hình trong dạy học ĐL theo hướng phát triển phẩm
      chất và năng lực HS
      Các bước thực hiện:
    • Xác định mục tiêu bài học
    • Xác định nội dung của các hoạt động nhận thức
    • Lựa chọn và thiết kế kênh hình phù hợp
    • Sử dụng kênh hình để thiết kế các hoạt động học phù hợp mục tiêu, yêu cầu của bài
      học.
      Về xác định mục tiêu bài học và xác định nội dung của các hoạt động nhận
      thức, tôi minh họa qua thiết kế kế hoạch bài dạy chuyên đề “Nhật Bản” ở mục
      II.2.3.3. của sáng kiến.
      Đề cập đến lựa chọn, thiết kế kênh hình phù hợp cho tổ chức hoạt động ở một số bài
      học chương trình địa lí 11, tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm như sau:
      Ngoài việc sử dụng kênh hình có sẵn trong SGK hay từ tư liệu trên Internet, GV
      cũng có thể tự thiết kế kênh hình cho các hoạt động trên lớp và hướng dẫn để HS
      thiết kế kênh hình trong quá trình học bài cũ và chuẩn bị bài học mới cũng như ôn tập
      hiệu quả tại nhà. Các công cụ thiết kế kênh hình hữu ích như Microsoft Powerpoint,
      Microsoft Excel, Mapinfo, Arcgis, Canva, các công cụ online khác…
      Các kênh hình thường dùng đó là:
    1. Số liệu thống kê
      Số liệu trong SGK Địa lí 11 hiện nay đang sử dụng đã là các số liệu cũ từ năm
      2005, GV có thể sử dụng các công cụ tìm kiếm thông tin như Google với kho dữ liệu
      rất phong phú. Tuy nhiên, GV cần sử dụng có chọn lọc, lựa chọn những trang web
      chính thống, đối chiếu thông tin để có sự chuẩn xác và phù hợp với yêu cầu bài
      giảng. Một số trang web hữu ích cho học tập, nghiên cứu địa lí đó là: The World
      Bank- Ngân hàng thế giới, cung cấp các số liệu về dân số, GDP, nông nghiệp, công
      12
      nghiệp, dịch vụ của các quốc gia và khu vực trên TG. Hơn nữa ở đó còn có các biểu
      đồ, lược đồ về kinh tế các quốc gia.
      Một số trang web tham khảo hữu ích có thể kể đến là :
      http://vietnam.unfpa.org
      http://www.prb.org
      http://www.undp.org
      http://www.worldbank.org
      http://www.fao.org
      Ví dụ
      Trong khi dạy bài 1, Sự tương phản về trình độ phát triển KTXH của các nhóm
      nước, thay vì sử dụng số liệu năm 2004 trong SGK, GV có thể bổ sung thêm các số
      liệu mới theo bảng sau:
      Bảng 1. GDP bình quân đầu người của một số quốc gia trên thế giới năm 2020
      (Đơn vị: USD/người)
      Các nước phát triển Các nước đang phát triển
      Tên nước GDP/người Tên nước GDP/người
      Đan Mạch 57141 Cô-lôm-bi-a 6376
      Thuỵ Điển 53744 An-ba-ni 4533
      Ca-na-đa 45070 In-đô-nê-xi-a 3837
      Anh 40361 Ấn Độ 1981
      Niu Di-lân 42260 Ê-ti-ô-pi-a 768
      (Nguồn: http://www.worldbank.org)
      Bảng 2. Tỉ suất gia tăng dân số tự nhiên của thế giới và các nhóm nước giai đoạn
      1950- 2020 (Đơn vị %)
      Nhóm nước
      Tỉ suất gia tăng dân số tự nhiên các giai đoạn
      1950 –
      1955
      1965 –
      1970
      1985 –
      1990
      1990 –
      1995
      1995 –
      2000
      2010 –
      2015
      2015 –
      2020
      Thế giới 1,8 2,1 1,6 1,5 1,4 1,2 1,1
      Các nước phát triển 1,2 0,8 0,6 0,2 0,2 0,1 0,1
      13
      Các nước đang phát triển 2,0 2,6 1,9 1,9 1,7 1,4 1,3
      (Nguồn: http://www.worldbank.org)
      Bảng 3. Cơ cấu dân số theo nhóm tuổi của các nhóm nước năm 2000 và 2020
      Nhóm tuổi
      Nhóm nước
      Năm 2000 Năm 2020
      0 −14 15 −64
      65 trở
      lên 0 − 14 15 −64
      65 trở
      lên
      Thế giới 30,2 63,0 6,8 25,5 65,2 9,3
      Các nước phát triển 18,2 67,5 14,3 16,4 64,3 19,3
      Các nước đang phát triển 33,1 61,9 5,0 27,2 65,4 7,4
      (Nguồn: http://www.worldbank.org)
      Bảng 4. GDP của Hoa Kì, thế giới và một số châu lục năm 2004 và 2020
      (đơn vị: Tỉ USD)
      Năm
      Lãnh thổ 2004 2020
      Thế giới
      Hoa Kì
      Châu Âu
      Châu Á
      Châu Phi
      40887,8
      11667,5
      14146,7
      10092,9
      790,3
      84710,0
      20941,0
      20253,1
      29478,0
      2215,9
      (Nguồn: http://www.worldbank.org)
      Bảng 5. Bảng sản lương một số sản phẩm công nghiệp của Liên Bang Nga giai
      đoạn 1995- 2020
      Năm
      Sản phẩm
      1995 2005 2010 2015 2020
      Dầu mỏ (triệu tấn) 305,0 470,0 511,8 541,8 554,3
      Than đá (triệu tấn) 270,8 298,3 322,9 372,6 412,5
      14
      Điện (tỉ kWh) 876,0 953,0 1038,0 1063,4 1089,6
      Giấy (triệu tấn) 4,0 7,5 5,6 8,0 8,7
      Thép (triệu tấn)) 48,0 66,3 66,9 70,9 71,5
      (Nguồn: http://www.worldbank.org)
    2. Biểu đồ
      Công cụ để vẽ biểu đồ tác giả thường dùng đó là Microsoft Excel, từ các số liệu
      thống kê, chúng ta có thể lựa chọn dạng biểu đồ thích hợp và vẽ biểu đồ mang tính
      trực quan cao, biểu đồ là phương tiện khá phổ biến trong học tập Địa lí.
      Ví dụ 1: Khi tìm hiểu về dân số Nhật Bản- một quốc gia có cơ cấu dân số già, tăng
      dân số chậm, có giai đoạn dân số giảm, để HS trả lời cho câu hỏi: Em hãy nhận xét
      về quy mô dân số và tỉ lệ tăng dân số Nhật Bản từ 1970- 2019? HS dựa vào biểu

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Xây dựng các công cụ kiểm tra đánh giá phẩm chất, năng lực học sinh cho một số chủ đề Lịch sử lớp 10 thuộc Chương trình giáo dục phổ thông 2006 và 2022

    SKKN Xây dựng các công cụ kiểm tra đánh giá phẩm chất, năng lực học sinh cho một số chủ đề Lịch sử lớp 10 thuộc Chương trình giáo dục phổ thông 2006 và 2022

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Ngày 03 tháng 8 năm 2022, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Thông tư Số
    13/2022/TT-BGDĐT, sửa đổi, bổ sung một số nội dung trong Chương trình
    Giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Thông tư Số 32/2018TT-BGDĐT ngày
    26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong Thông tư
    này, một trong những nội dung được điều chỉnh lớn nhất là Lịch sử trở thành
    môn học bắt buộc ở bậc THPT. Vì vậy có thể nói chưa bao giờ môn Lịch sử có
    “vị thế, cơ đồ tươi sáng như hiện tại”. Điều này chứng tỏ ý Đảng và lòng dân đã
    thống nhất với nhau về vai trò đặc biệt quan trọng của việc giáo dục Lịch sử cho
    các thế hệ công dân tương lai của đất nước. Đây cũng là nguyện ước của Bác Hồ
    lúc sinh thời “ Dân ta phải biết sử ta”. Tuy nhiên một vấn đề đặt ra cho ngành
    Giáo dục là: Làm thế nào để chất lượng dạy và học môn Lịch sử trong trường
    phổ thông tương xứng với tầm vóc và sứ mệnh cao cả của nó?
    Sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo của Việt Nam hiện nay phát triển trong bối
    cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đạt được những tiến bộ phi thường
    và thành tựu kì diệu chưa từng thấy trên tất cả các lĩnh vực. Cách mạng khoa
    học – công nghệ đã đưa các dân tộc ngày càng tiến lại gần nhau trong xu thế toàn
    cầu hóa. Toàn cầu hóa đặt ra cho các quốc gia những đòi hỏi phải tiến hành cải
    cách kinh tế, xã hội, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để thích nghi và
    phát triển. Vì vậy ở nhiều quốc gia, Giáo dục được đặc biệt coi trọng vì sản
    phẩm của Giáo dục là con người mà con người là chìa khóa, là nhân tố quyết
    định hàng đầu sự phát triển đất nước.
    Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần tập trung đào tạo thế hệ công dân toàn
    cầu vừa giỏi về chuyên môn, có khả năng thích ứng cao vừa tràn đầy khát vọng
    phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đó chính là nguồn lực nội sinh, là
    năng lượng tiềm tàng tạo thành sức mạnh vĩ đại của dân tộc trong thời kỳ mới.
    Đó cũng là thiên chức, là sứ mệnh to lớn, vinh quang của ngành Giáo dục và
    Đào tạo. Tuy vậy, trong thời gian qua, bên cạnh những cống hiến to lớn, ngành
    Giáo dục nước nhà cũng tồn tại nhiều hạn chế khi việc dạy học, kiểm tra và đánh
    giá còn nặng về truyền tải nội dung, đánh giá kiến thức mà chưa tập trung nhiều
    đến việc phát triển phẩm chất và năng lực của người học.
    Đây thực sự là một thách thức lớn, một rào cản đối với việc hội nhập quốc
    tế của Việt Nam trong hiện tại và tương lai bởi một trong những yêu cầu để có
    thể thích nghi với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là việc nâng cao nguồn lực
    con người nhằm đáp ứng được các yêu cầu về kiến thức và kỹ năng liên tục thay
    đổi trong môi trường lao động mới. Vì vậy sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo của
    nước ta cũng đứng trước sứ mệnh to lớn là chuẩn bị đội ngũ nhân lực nhằm đáp
    ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Điều đó đồng nghĩa với việc nước ta phải
    chuyển từ một nền Giáo dục nặng về trang bị kiến thức, kỹ năng cho người học
    sang một nền giáo dục giúp phát triển phẩm chất, năng lực, thúc đẩy đổi mới và
    sáng tạo cho người học để thích nghi với dòng chảy của các mô hình học tập
    4
    mới cùng sự phát triển của khoa học công nghệ.
    Mặt khác, do đặc điểm tâm sinh lý cùng thể chất, khả năng, sở trường và
    nhu cầu học tập, định hướng nghề nghiệp khác nhau giữa các học sinh nên việc
    dạy học, kiểm tra, đánh giá cần đảm bảo sự phân hóa và có lộ trình phù hợp đối
    với từng đối tượng người học. Trong khi đó, việc dạy học và cách thức kiểm tra
    đánh giá trong chương trình giáo dục phổ thông hiện hành chưa thực sự đáp ứng
    được yêu cầu này. Đây cũng là một thực tế đặt ra cấp thiết cần có thay đổi một
    cách phù hợp.
    Nhận thức được tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học,
    kiểm tra đánh giá, Đảng và Nhà nước ta đã và đang ra sức huy động mọi nguồn
    lực để thực hiện. Tuy nhiên để sự nghiệp đổi mới Giáo dục thắng lợi thì yếu tố
    then chốt là đội ngũ nhà giáo bởi họ là kiến trúc sư của công trình Giáo dục, nếu
    chương trình thay đổi mà người dạy không thay đổi thì cũng không thể thành
    công.
    Một trong những môn học thuộc chương trình giáo dục phổ thông hiện
    hành và chương trình giáo dục phổ thông 2018 là Lịch sử. Chương trình môn
    Lịch sử góp phần giáo dục tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, các giá trị truyền
    thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại, các phẩm chất, năng lực
    của người công dân Việt Nam, công dân toàn cầu phù hợp với xu thế phát triển
    của thời đại; giúp học sinh tiếp cận và nhận thức rõ vai trò, đặc điểm của khoa
    học lịch sử cũng như sự kết nối giữa sử học với các lĩnh vực khoa học và ngành
    nghề khác, tạo cơ sở để học sinh định hướng nghề nghiệp trong tương lai.
    Trường THPT Ngô Quyền được thành lập từ năm 1971. Song, do nhiều
    nguyên nhân, đặc biệt là tuyển sinh đầu vào thấp mà trong thời gian dài chất
    lượng giáo dục của nhà trường chưa được cao như kì vọng. Tuy nhiên trong mấy
    năm học trở lại đây, bằng niềm đam mê nghề nghiệp, sức thanh xuân của tuổi trẻ
    cùng với khát vọng vươn lên, những giáo viên trẻ như chúng tôi đã cống hiến
    hết mình vì sự nghiệp trồng người và đã gặt hái được trái ngọt xứng đáng. Đó là
    động lực để chúng tôi tiếp tục lao động sáng tạo trên con đường ươm mầm tri
    thức cho các thế hệ học trò.
    Trường THPT Giao Thủy được thành lập từ năm 1965. Qua hơn nửa thế kỉ
    xây dựng và trưởng thành, THPT Giao Thủy đã trở thành một trong những đơn
    vị dẫn đầu ngành Giáo dục và Đào tạo của tỉnh nhà. Cùng với sự phát triển của
    đất nước, nhà trường cũng được đầu tư nhiều hơn về cơ sở vật chất, chất lượng
    đội ngũ được nâng cao. Tuy nhiên, đứng trước sự thay đổi nhanh chóng của tình
    hình kinh tế, xã hội và những thách thức mới đặt ra cho ngành Giáo dục, tập thể
    cán bộ, giáo viên của nhà trường cần không ngừng tìm tòi, sáng tạo để phát huy
    truyền thống dạy tốt – học tốt của nhà trường.
    Chúng tôi là những giáo viên Lịch sử của trường THPT Ngô Quyền và
    THPT Giao Thủy, có thời gian công tác trên 10 năm. Tuy ở hai ngôi trường có
    nhiều điểm khác biệt về: địa bàn, môi trường, điều kiện … nhưng chúng tôi gặp
    nhau ở niềm đam mê, tự trọng nghề nghiệp, sống nhân văn và dốc lòng vì sự
    5
    tiến bộ của học sinh. Qua thời gian công tác trong ngành giáo dục, từ những
    người xa lạ, chúng tôi đã sát cánh, đoàn kết, hợp tác chặt chẽ trong nhóm nhà
    giáo giúp nhau tiến bộ, cùng nâng nhau xây dựng ngôi trường hạnh phúc của
    mình. Đứng trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới Giáo dục, chúng tôi đã trăn
    trở, chủ động, tích cực tự học để nâng cao trình độ chuyên môn, tìm ra các giải
    pháp nhằm thực hiện thắng lợi chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử
    năm 2022.
    Lịch sử là môn học được nhiều người đánh giá là “khó-khổ-khô”, điểm thi
    môn Lịch sử trong các kì thi đánh giá diện rộng chưa được cao như kì vọng. Vì
    vậy khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông năm 2022 chắc chắn chúng
    tôi sẽ gặp không ít thách thức. Với phương châm biến khó khăn thành cơ hội,
    biến thách thức thành thời cơ, muốn đến ngày mai tương sáng, chúng tôi bắt đầu
    từ hôm nay. Bởi thế chúng tôi đã chủ động tìm tòi, sáng tạo để xây dựng nên bộ
    công cụ kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học
    sinh cho một số chủ đề tương đồng giữa chương trình Lịch sử lớp 10 năm 2006
    và chương trình môn Lịch sử năm 2022. Bộ công cụ được xây dựng cho các chủ
    đề có nội dung tương đồng giữa chương trình giáo dục môn Lịch sử lớp 10 năm
    2006 và chương trình giáo dục môn Lịch sử bậc THPT năm 2022 và chúng tôi
    chủ động xây dựng thêm các công cụ kiểm tra, đánh giá cho một số chủ đề mới
    và khó của chương trình Lịch sử mới nên vừa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn vừa
    là bước chuẩn bị có hiệu quả bền vững cho tương lai.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP

    1. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến
      a. Hiện trạng trước khi áp dụng giải pháp mới
      Việc kiểm tra đánh giá học sinh thiên về kiến thức và kĩ năng nên các công
      cụ kiểm tra đánh giá chủ yếu là câu hỏi trắc nghiệm và tự luận. Nội dung kiểm
      tra là tái hiện kiến thức đã học. Việc đánh giá học sinh chỉ do giáo viên thực
      hiện, chưa có sự tham gia của các lực lượng khác. Học sinh được đánh giá thông
      qua điểm số. Trong quá trình đánh giá giáo viên luôn so sánh các học sinh với
      nhau.
      b. Phân tích ưu điểm, nhược điểm:
      Ưu điểm:
      Việc dạy học Lịch sử của nhà trường trong nhiều năm qua đạt chất lượng
      khá cao so với mặt bằng chung của tỉnh. Nhiều học sinh của nhà trường đạt
      thành tích xuất sắc trong các kì thi chọn HSG của tỉnh và thi đỗ vào các trường
      Đại học danh tiếng trong cả nước.
      Nhược điểm:
    • Việc kiểm tra đánh giá học sinh chủ yếu là về nội dung kiến thức và một
      số kĩ năng cơ bản vì vậy học sinh chủ yếu học thuộc kiến thức.
    • Chưa đánh giá được sự sáng tạo của học sinh, chưa khuyến khích học sinh
      phát triển tư duy độc lập theo cách nghĩ riêng.
      6
    • Chưa kết nối có hiệu quả giữa học và hành, nhất là việc vận dụng kiến
      thức lịch sử để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống, vì vậy học sinh
      chưa nhận thức hết được tầm quan trọng của việc học Lịch sử thậm chí chán học
      do phải học thuộc nhiều mà không có kết quả cao.
    • Việc đánh giá học sinh chưa được thực hiện theo một quá trình thường
      xuyên trên lớp, chưa đa dạng về công cụ mà chủ yếu dựa vào các bài kiểm tra
      với những câu hỏi thuộc hai hình thức trắc nghiệm và tự luận. Điểm số là thước
      đo và cơ sở duy nhất để đánh giá và so sánh người học với nhau. Việc đánh giá
      đều do giáo viên thực hiện theo quy định chung, học sinh nếu có tham gia đánh
      giá lẫn nhau và tự đánh giá thì đa số mang tính hình thức và chỉ để tham khảo.
    • Hoạt động kiểm tra đánh giá diễn ra tại lớp học hoặc ở nhà song đều
      mang tính cá nhân là chính, hầu như không có sự tương tác đa chiều giữa các
      học sinh, giữa học sinh với giáo viên và giữa học sinh với cộng đồng xã hội.
    • Sản phẩm để đánh giá là các câu trả lời đóng hoặc mở nhưng đều theo đáp
      án của người dạy.
    • Việc kiểm tra, đánh giá còn gây nhiều áp lực cho người học.
    • Công cụ kiểm tra chưa đa dạng, chưa tạo động lực thúc đẩy học sinh học
      tập.
    • Học sinh chỉ được đánh giá qua điểm số của các bài kiểm tra, chưa đánh
      giá học sinh theo một quá trình, toàn diện và từng nấc thang tiến bộ.
      Kết luận: Việc kiểm tra đánh giá như trên đã diễn ra nhiều năm, nó có tác
      dụng nhất định trong việc thực hiện mục tiêu của quá trình dạy học. Tuy nhiên,
      những hạn chế trên cho thấy việc kiểm tra đánh giá như vậy chưa phù hợp với
      yêu cầu của sự nghiệp đổi mới Giáo dục, chưa tiếp cận được với xu hướng phát
      triển của nền Giáo dục ở các nước tiên tiến, tức là chưa bắt kịp với xu thế của
      thời đại. Trong khi đó, theo lộ trình, từ năm học 2022 – 2023, chương trình Giáo
      dục 2018 đã bắt đầu triển khai thực hiện ở bậc THPT. Thực tế trên cho thấy việc
      thay đổi từ tư duy đến hành động thực tiễn của giáo viên trong quá trình kiểm tra
      đánh giá học sinh không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là một tất yếu. Điều đó
      đồng nghĩa với việc tìm ra giải pháp mới để phát huy ưu điểm, khắc phục hạn
      chế của kiểm tra đánh giá hiện tại là một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn cao. Đây
      cũng là sự chuẩn bị quan trọng, đảm bảo cho sự thành công của chương trình
      Giáo dục 2018.
    1. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
      2.1. Vấn đề cần giải quyết
    • Xây dựng được hệ thống đa dạng các công cụ kiểm tra đánh giá theo
      hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh, chú trọng việc vận dụng kiến
      thức Lịch sử để giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tiễn và vì sự tiến bộ của
      người học, vì một ngôi trường hạnh phúc.
    • Lựa chọn được những chủ đề vừa là nội dung cơ bản trong chương trình
      lớp 12 hiện hành nhằm giải quyết yêu cầu thực tiễn vừa là nội dung cơ bản của
      7
      chương trình giáo dục phổ thông 2018 để chuẩn bị cho việc dạy học chương
      trình mới.
      2.2. Tính mới, sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ
    • Công cụ kiểm tra, đánh giá chủ yếu chuyển sang hỏi HS làm được gì sau
      khi học kiến thức.
    • Khai thác tư liệu ngoài sách giáo khoa
    • Bám sát yêu cầu cần đạt và nâng cao cho HS khá giỏi
    • Sử dụng nhiều kênh thông tin, tư liệu khác nhau
    • Các công cụ kiểm tra đánh giá đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung.
    • Kết hợp việc kiểm tra đánh giá kiến thức với việc vận dụng kiến thức để
      giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống, các nhiệm vụ học tập.
    • Việc kiểm tra đánh giá diễn ra trong suốt quá trình học, vì sự tiến bộ của
      người học.
    • Sản phẩm để đánh giá đa dạng.
    • Khuyến khích sự độc lập, sáng tạo trong tư duy.
    • Phân hóa, phù hợp với đối tượng.
    • Không chú trọng quá vào điểm số, không so sánh học sinh này với học
      sinh khác.
    • Sử dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong kiểm tra đánh giá.
    • Không gây áp lực cho học sinh.
    • Là thước đo chính xác để điều chỉnh quá trình dạy học.
    • Tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình kiểm tra, đánh giá.
    • Các chủ đề được lựa chọn có độ tương đồng về nội dung trong cả chương
      trình giáo dục môn Lịch sử hiện hành và chương trình giáo dục môn Lịch sử
      2022 nên vừa mang tính thời sự vừa mang tính ứng dụng cao trong tương lai.
    • Việc đánh giá được tích hợp vào trong quá trình dạy học, giáo dục, tức là
      chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy học, giáo
      dục sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, giáo dục, xem đánh giá
      như là một phương pháp dạy học hiệu quả.
    • Thực hiện đánh giá đa chiều (GV đánh giá kết hợp với HS tự đánh giá,
      HS đánh giá chéo).
    • Kết hợp đánh giá bằng nhận xét và điểm số, chú trọng nhận xét sự tiến bộ
      về thái độ, hành vi, kết quả thực hiện các nhiệm vụ học tập.
      2.3. Cách thức thực hiện, các bước và điều kiện triển khai của giải pháp
      mới
      2.3.1. Cách thức thực hiện
    • Xác định mục tiêu, nội dung, xây dựng kế hoạch thực hiện giải pháp.
    • Phân tích bối cảnh, căn cứ vào thực tiễn dạy học của bản thân và đồng
      nghiệp ở nơi công tác, các cơ sở giáo dục khác để rút ra hiện trạng chung và tìm
      giải pháp khắc phục hạn chế.
    • Căn cứ vào định hướng phát triển Giáo dục của Đảng và nhà nước, chỉ
      đạo của các cấp, các ngành về Giáo dục.
    • Thu thập, phân tích, xử lý tài liệu, nhất là tài liệu của Bộ Giáo dục và Đào
      tạo, tài liệu của các trường Đại học Sư phạm ban hành.
      8
    • Tham vấn các chuyên gia giáo dục, đồng nghiệp ở nhiều cơ sở Giáo dục
      để hoàn thiện sản phẩm.
    • Đề xuất giải pháp thực hiện.
    • Thực nghiệm sư phạm ở nhiều cơ sở giáo dục khác nhau nhằm khẳng
      định hiệu quả và khả năng triển khai của giải pháp.
    • Đánh giá và rút kinh nghiệm bước đầu quá trình thực hiện giải pháp.
      2.3.2. Các bước triển khai
      2.3.2.1. Nhận thức đúng về kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học
      Theo từ điển Tiếng Việt:
      Kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá nhận xét”.
      Trong giáo dục, “kiểm tra là hoạt động đo lường kết quả học tập/giáo dục
      theo bộ công cụ đã chuẩn bị trước với mục đích đưa ra các kết luận, khuyến nghị
      về một mặt nào đó của quá trình dạy học/giáo dục tại một thời điểm cụ thể để
      điều chỉnh nhằm đạt mục tiêu giáo dục”. (Tài liệu bồi dưỡng GVTHPT cốt cán
      của Bộ Giáo dục và Đào tạo).
      Đánh giá “là nhận định giá trị”.
      Trong giáo dục, “đánh giá được hiểu là cách thức giáo viên thu thập và sử
      dụng thông tin trong lớp học của mình nhằm đưa ra phán xét, nhận định, quyết
      định để điều chỉnh hoạt động dạy và giúp HS học tập tiến bộ”. (Tài liệu bồi
      dưỡng GVTHPT cốt cán của Bộ Giáo dục và Đào tạo).
      Như vậy kiểm tra đánh giá là một hoạt động của quá trình dạy học, trong
      đó giáo viên hoặc chủ thể quản lí giáo dục sử dụng các công cụ nhằm xem xét
      tình hình thực tế, để đo, xác định mức độ đạt được về phẩm chất, năng lực của
      người học trong quá trình dạy và học. Kiểm tra và đánh giá có mối liên hệ mật
      thiết với nhau. Trong mối liên hệ đó kiểm tra là cơ sở, căn cứ để đánh giá. Muốn
      đánh giá chính xác thì khâu kiểm tra giữ vai trò quyết định.
      2.3.2.2. Vai trò của kiểm tra đánh giá trong giáo dục
      Mặc dù với những mục đích khác nhau, nhưng các hoạt động kiểm tra đánh
      giá trong giáo dục đều thực hiện bốn chức năng cơ bản là: định hướng, tạo động
      lực, phân loại và cải tiến dự báo.
      2.3.2.3. Nguyên tắc khi thực hiện kiểm tra đánh giá trong giáo dục
    • Đảm bảo tính giá trị: phải đo lường chính xác mức độ phát triển năng lực
      người học (đo lường các kĩ năng thành phần, chỉ số hành vi theo chuẩn đầu ra).
    • Đảm bảo độ tin cậy: kết quả đánh giá người học ổn định, chính xác,
      không bị phụ thuộc vào người đánh giá, những nhiệm vụ ở các lĩnh vực học tập
      khác nhau. Kết quả đánh giá phải thống nhất khi được lặp đi lặp lại nhiều lần.
    • Đảm bảo tính linh hoạt: thực hiện đa dạng các hình thức, phương pháp
      đánh giá để người học có cơ hội thể hiện tốt nhất năng lực của họ (phụ thuộc
      vào nhịp độ, thời điểm họ đáp ứng các yêu cầu chuẩn đầu ra của năng lực).
      9
    • Đảm bảo tính công bằng: người đánh giá và người được đánh giá đều hiểu
      chuẩn, tiêu chí, hành vi đánh giá như nhau; công cụ đánh giá không có sự thiên
      vị cho giới tính, dân tộc, vùng miền, đối tượng,… cách phân tích, xử lí kết quả
      chuẩn hóa để không bị ảnh hưởng bởi các mối quan hệ cá nhân.
    • Đảm bảo tính hệ thống: kết quả đánh giá dự đoán được sử dụng để xác
      nhận vùng phát triển hiện có của HS, từ đó lập kế hoạch cho những can thiệp sư
      phạm thích hợp; kết quả đánh giá quá trình được sử dụng để điều chỉnh hoạt
      động dạy và học theo hướng chuyển sang vùng phát triển gần của mỗi HS; kết
      quả đánh giá tổng kết được sử dụng để xác nhận mức độ phát triển năng lực của
      HS và lập kế hoạch can thiệp sư phạm cho giai đoạn giáo dục tiếp theo.
    • Đảm bảo tính toàn diện: kết quả đánh giá phải phản ánh đầy đủ sự phát
      triển của các thành tố và chỉ số hành vi của năng lực được đo lường.
    • Đảm bảo tính phát triển: đảm bảo đánh giá được sự tiến bộ so với chính
      bản thân HS về năng lực. Qua đó phát triển khả năng chịu trách nhiệm với việc
      học tập và giám sát sự tiến bộ của bản thân.
    • Đảm bảo đánh giá trong bối cảnh thực tiễn: công cụ đánh giá cần được
      thực hiện trong bối cảnh thực (cá nhân, trường lớp, dân cư, khoa học) nhằm
      phản ảnh đúng năng lực của người học khi thực hành trong môi trường thực tế.
      Để chứng minh người học có phẩm chất và năng lực ở mức độ nào đó, phải tạo
      cơ hội để họ được giải quyết vấn đề trong tình huống, bối cảnh mang tính thực
      tiễn.
    • Đảm bảo phù hợp với đặc thù môn học: mỗi môn học có những yêu cầu
      riêng về năng lực đặc thù cần hình thành cho HS, vì vậy, việc KTĐG phải đảm
      bảo tính đặc thù môn học nhằm định hướng cho GV lựa chọn, sử dụng phương
      pháp, công cụ đánh giá phù hợp với mục tiêu và yêu cầu cần đạt của môn học.
      2.3.2.4. Những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của học sinh trong quá
      trình dạy học môn Lịch sử ở trường THPT.
      Phẩm chất: là những tính tốt thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử của con
      người; cùng với năng lực tạo nên nhân cách con người.
      Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn
      có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các
      kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý
      chí,… thực hiện thành công một loại hoạt động nhất

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Sử dụng công nghệ thông tin và học liệu số trong giảng dạy để nâng cao chất lượng hiệu quả bộ môn lịch sử cấp THPT

    SKKN Sử dụng công nghệ thông tin và học liệu số trong giảng dạy để nâng cao chất lượng hiệu quả bộ môn lịch sử cấp THPT

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    . ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN

    1. Lí do chọn đề tài
      Môn Lịch sử là một môn học có vai trò quan trọng góp phần hình thành những
      phẩm chất và năng lực học sinh. Môn Lịch sử giúp học sinh nhận thức được giá trị khoa
      học và giá trị thực tiễn của sử học trong đời sống xã hội hiện đại, phát triển cho HS tư
      duy lịch sử, tư duy hệ thống, tư duy phản biện, kĩ năng khai thác và sử dụng các nguồn
      sử liệu. Ngoài những năng lực chung như : giao tiếp và hợp tác,tự chủ và tự học, giải
      quyết vấn đề và sáng tạo , chương trình môn Lịch sử góp phần hình thành cho học sinh
      những thành phần năng lực đặc thù sau:
      Tìm hiểu lịch sử: Học sinh bước đầu nhận diện được các loại hình tư liệu lịch sử;
      hiểu được nội dung, khai thác và sử dụng được tư liệu lịch sử trong quá trình học tập.
      Tái hiện và trình bày được dưới hình thức nói hoặc viết diễn trình của các sự kiện, nhân
      vật, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp; xác định được các sự kiện lịch sử trong
      không gian và thời gian cụ thể.
      Nhận thức và tư duy lịch sử: Học sinh giải thích được nguồn gốc, sự vận động của
      các sự kiện lịch sử từ đơn giản đến phức tạp; chỉ ra được quá trình phát triển của lịch
      sử theo lịch đại và đồng đại; so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa các sự kiện lịch
      sử, lí giải được mối quan hệ nhân quả trong tiến trình lịch sử. Đưa ra được những ý
      kiến nhận xét, đánh giá của cá nhân về các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử trên cơ
      sở nhận thức và tư duy lịch sử; hiểu được sự tiếp nối và thay đổi của lịch sử; biết suy
      nghĩ theo những chiều hướng khác nhau khi xem xét, đánh giá, hay đi tìm câu trả lời
      về một sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử.
      Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học: Học sinh bước đầu có thể rút ra được bài học
      lịch sử và vận dụng được kiến thức lịch sử để lí giải những vấn đề của thực tiễn cuộc
      sống; trên nền tảng đó, có khả năng tự tìm hiểu những vấn đề lịch sử, phát triển năng
      lực sáng tạo, có khả năng tiếp cận và xử lí thông tin từ những nguồn khác nhau, có ý
      thức và năng lực tự học lịch sử suốt đời.
      2
      Môn Lịch sử được coi là “cô giáo của cuộc sống” bởi học sinh học tập Lịch sử là để
      học tất cả những gì đã diễn ra trong quá khử như bản chất vốn có của nó. Học sinh học
      tập Lịch sử là để nhìn về quá khứ mà rút ra những bài học cho hiện tại và tương lai.
      Những sự việc xảy ra trong quá khứ của Lịch sử dân tộc và xảy ra ở nhiều quốc gia
      trên thế giới sẽ trở nên cứng nhắc và khiên cưỡng, khó hình dung nếu như giáo viên
      lịch sử không biết khai thác và sử dụng các tư liệu lịch sử. Cách tốt nhất chính là biết
      khai thác và sử dụng tư liệu bằng công nghệ thông tin trong quá trình giảng dạy.
      Môn Lịch sử từ xưa đến nay luôn bị coi là một môn học khó và khô khan cũng chính
      bởi nhiều lí do khác nhau: từ phiá giáo viên dạy chưa biết đổi mới về phương pháp dạy
      còn nặng về truyền thụ theo lối “thầy đọc, trò chép”, hoặc nặng về ngày tháng năm xảy
      ra sự kiện, ít dùng tới hình ảnh trực qua sinh động khiến học sinh thấy nhàm chán, chán
      học.
      Tuy nhiên, mỗi một dân tộc hay mỗi một quốc gia muốn phát triển lại không thể trân
      trọng quá khứ và nhìn vào quá khứ của những lớp người đi trước để rút ra quy luật của
      sự sinh tồn. Có lẽ chính vì lẽ đó mà hiện nay Bộ giáo dục đào tạo đưa lịch sử trở thành
      một môn học bắt buộc trong các nhà trường THPT.
      Ngày nay với sự bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ thì công nghệ thông tin
      là một phương tiện hữu hiệu và không thể thiếu trong quá trình dạy học trong tất cả các
      nhà trường từ tiểu học cho đến cấp THCS, THPT, và đại học. Công nghệ thông tin
      không chỉ giúp cho môn Lịch sử khám phá “Bầu trời tri thức” mà còn giúp ích rất nhiều
      cho giáo viên trong quá trình giảng dạy, giúp học sinh yêu thích hơn bộ môn Lịch sử,
      xóa tan cảm giác cho rằng Lịch sử là môn học khô khan cứng nhắc
      Việc ứng dụng CNTT và học liệu số trong dạy học, giáo dục có một số lợi ích sau
      Dạy học bằng phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin thể hiện nhiều ưu điểm vượt
      trội, bỏ xa phương pháp giáo dục truyền thống “thầy đọc trò chép”. Một số ưu điểm có
      thể kể đến như:
      Tối ưu hóa các bài giảng bằng các chương trình học được lập trình sẵn, kích thích đa
      giác quan, tạo sự hứng thú cho học viên,tăng khả năng tư duy, tưởng tượng, thúc đẩy
      tính chủ động cho các em học sinh
      Hạn chế lối giảng dạy “thầy ghi trò chép”, tạo ra quá trình tương tác qua lại giữa người
      dạy và người học. Học sinh có thể liên lạc, tương tác và hỗ trợ học tập trực tuyến thông
      3
      qua mạng xã hội và Internet,dễ dàng tiếp cận với kiến thức mới, linh hoạt hơn trong
      quá trình nghiên cứu, tìm tài liệu,khơi gợi hứng thú, trí tò mò và khả năng tự giác học
      tập.Kích thích sự phát triển đa giác quan của học sinh bằng các chương trình học được
      lập trình sẵn trên máy tính, với nhiều phương tiện như: hình ảnh, video, âm thanh, biểu
      đồ minh họa,…
      Công văn 4096/BGDĐT – CNTT V/v hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ ứng dụng CNTT
      và thống kê giáo dục năm học 2021 – 2022 ngày 20 tháng 9 năm 2021, BGDĐT nhấn
      mạnh : “Ứng dụng CNTT và chuyển đổi số trong đổi mới nội dung, phương pháp dạy
      học và kiểm tra đánh giá”.Thực hiện theo sự chỉ đạo chung của Bộ giáo dục đào tạo
      nhằm nâng cao chất lượng dạy và học theo đúng mục tiêu của nghành giáo dục đào tạo
      đề ra, giáo viên dạy các môn học nói chung và dạy học nói riêng cần biết sử dụng Công
      nghệ thông tin vào bài giảng, như vậy bài giảng mới đem lại hiệu quả cao hơn.
      Theo thông tư mới nhất , thông tư số 13/2022/TT-BGDĐT ngày 3 tháng 8 năm
      2022, môn Lịch sử được quyết định ban hành trở thành môn học bắt buộc trong các
      nhà trường THPT với thời lượng 52 tiết, điều đó khẳng định về vai trò và sứ mệnh to
      lớn của bộ môn Lịch sử trong việc hình thành nhân cách và phẩm chất, năng lực của
      học sinh trong các nhà trường nói chung và trường THPT nói riêng.
      Xuất phát từ nhận thức về vai trò quan trọng của bộ môn Lịch sử trong các nhà trường
      phổ thông hiện nay và tình hình thực tiễn giảng dạy bộ môn Lịch sử những năm qua,
      4
      tôi mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
      THÔNG TIN VÀ HỌC LIỆU SỐ TRONG GIẢNG DẠY ĐỂ NÂNG CAO CHẤT
      LƯỢNG MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT .
      Tôi cho rằng đây là một đề tài sáng kiến kinh nghiệm có tính thực tiễn cao, có thể được
      áp dụng hiệu quả trong quá trình giảng dạy môn Lịch sử ở các tỉnh thành trên cả nước
    2. Mục đích của sáng kiến
    • Đánh giá thực trạng việc sử dụng công nghệ thông tin dạy học môn Lịch sử hiện nay
      ở các nhà trường nói chung và Trường THPT C Hải Hậu nói riêng.
    • Nêu ra một số giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin đã được thực hiện trong
      giảng dạy môn Lịch sử ở trường THPT C Hải Hậu nhằm nâng cao chất lượng giảng
      dạy và học tập môn Lịch sử trong các nhà trường cấp THPT hiện nay.
    • Chia sẻ với đồng nghiệp về một số giải pháp sử dụng công nghệ thông tin ở một
      số bài trong chương trình giảng dạy môn Lịch sử cấp THPT
    1. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
      -Đưa ra một số giải pháp kinh nghiệm về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình
      giảng dạy môn Lịch sử nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn Lịch sử ở trường
      THPT theo tinh thần đổi mới chương trình GDPT 2018.
    • Phát triển cho học sinh các phẩm chất, năng lực môn Lịch sử trong chương trình Lịch sử ở
      trường THPT thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin.
    1. Đóng góp của sáng kiến
      Để góp phần đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp giảng dạy môn Lịch
      sử nói riêng ở trường THPT, sáng kiến “ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ
      HỌC LIỆU SỐ TRONG GIẢNG DẠY ĐỂ NÂNG CAO CHÂT LƯỢNG MÔN
      LỊCH SỬ CẤP THPT” là một đề tài SKKN có tính thực tiễn cao, có thể được áp dụng
      hiệu quả trong quá trình giảng dạy môn Lịch sử ở các tỉnh thành trên cả nước, xóa tan
      tâm lý cho rằng Lịch sử là môn học khô khan cứng nhắc, giúp học sinh yêu thích và
      hứng thú hơn.
      II: GIẢI PHÁP
    2. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến.
      5
      Thuận lợi: Trong các năm học gần đây , tình trạng dạy học môn Lịch sử có sự chuyển
      biến, số lượng học sinh yêu thích và lựa chọn tổ hợp KHXH (Khoa học xã học) ngày
      càng tăng. Năm học 2021-2022 trường có 4/10 lớp học sinh khối 12 theo tổ hợp KHXH.
      Năm học 2022-2023 nhà trường có 5/10 lớp 12 theo tổ hợp KHXH.
      Đối với phương pháp giảng dạy truyền thống, học sinh chỉ được học qua sách vở và
      kiến thức mà giáo viên truyền tải. Khi ứng dụng công nghệ thông tin, việc học của học
      sinh sẽ trở nên chủ động hơn khi các em có thể tự tìm kiếm tư liệu kiến thức cho mình.
      Việc kết hợp giữa giảng dạy truyền thống và ứng dụng công nghệ thông tin tạo ra môi
      trường học tập có tính tương tác cao, tăng hiệu quả truyền tải kiến thức, nhờ đó học
      sinh sẽ tiến bộ rõ rệt, nâng cao chất lượng về phẩm chất và năng lực học sinh, bởi vì
      sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học có một số đặc điểm sau:
    • Tính hiệu quả: tương xứng với chi phí đầu tư ban đầu, việc ứng dụng CNTT giúp quá
      trình dạy học, giáo dục trở nên thuận tiện hơn, hướng đến hiệu quả mong đợi, lâu dài.
      Học sinh có thể chủ động tìm kiếm, thu thập, xử lí dữ liệu để hoàn thành các nhiệm vụ
      học tập.
    • Tính thông minh: không chỉ hỗ trợ GV, HS tìm kiếm, xử lí thông tin, việc ứng dụng
      CNTT còn cho phép tạo ra các sản phẩm hỗ trợ, thay thế các mô hình động, các thí
      nghiệm ảo, các chuyến du hành khám phá ảo mà việc thực hiện trực tiếp có nhiều khó
      khăn. Các sản phẩm công nghệ mới không ngừng được cải tiến, cập nhật, dễ khai thác
      hơn, nhiều chức năng hơn. Từ đó, đặc tính này đáp ứng nhu cầu hiện tại, định hình xu
      hướng phát triển về mục tiêu, nội dung, hình thức, cách thức tổ chức các hoạt động dạy
      học, giáo dục ở tương lai để đáp ứng nhu cầu phát triển không ngừng của con người.
    • Tính đa phương tiện: những thiết bị công nghệ khai thác các phần mềm để trình diễn
      các dữ liệu và thông tin, sử dụng đồng thời các hình thức chữ viết, âm thanh, hình ảnh
      qua hệ thống máy vi tính một cách tích hợp có thể tạo ra khả năng tương tác giữa người
      sử dụng và hệ thống điều hành thiết bị, kích thích và tạo hứng thú nhận thức của HS
      cũng như hỗ trợ HS tích cực khám phá và thực hành.
    • Tính trực quan: thiết bị công nghệ được sử dụng nhằm hỗ trợ thu, phát thông tin, tổ
      chức các hoạt động dạy học, giáo dục. Tiếp xúc một cách trực quan mô phỏng một phần
      hay toàn phần thực tiễn, HS có thể lĩnh hội được chân thật, sống động các biểu tượng,
      6
      định hướng thực hành dựa trên khả năng làm chủ cấu trúc, thực hiện các thao tác, qui
      trình cơ bản.
      Từ việc quan sát các hình ảnh lịch sử, các video trực quan sinh động, chân thực,
      học sinh sẽ không chỉ khắc sâu, nhớ lâu kiến thức mà còn có thể giúp học sinh phát
      triển kĩ năng quan sát khai thác hình ảnh một cách khách quan hình thành các phẩm
      chất trung thực, chăm chỉ, trách nhiệm, biết trân trọng các giá trị lịch sử của nhân loại.
      Khó khăn: Tuy nhiên, trong nhà trường THPT C Hải Hậu nói riêng và các trường
      THPT nói chung vẫn tồn tại tình trạng nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc đổi
      mới phương pháp, kĩ thuật dạy học, chưa chú trọng đến việc phát triển phẩm chất và
      năng lực học sinh, còn nặng về dạy học theo lối truyền thống, khiến giờ học Lịch sử trở
      nên khô khan cứng nhắc, kém hứng thú đối với học sinh. Đặc biệt là việc ứng dụng
      Công nghệ thông tin vào dạy các môn học và dạy lịch sử chưa nhiều. Giáo viên chỉ
      mới sử dụng công nghệ thông tin trong các tiết thao giảng.
      Một số giáo viên chưa chịu khó tự học, tự tìm hiểu để thực hiện việc thao tác xây
      dựng các giáo án điện tử và tìm hiểu kiến thức trên mạng Internet còn hạn chế.
      Cơ sở vật chất , phương tiện dạy học chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương
      pháp giảng dạy và phương pháp kiểm tra đánh giá, thiếu phòng dạy học bằng Công
      nghệ thông tin gây nên sự khó khăn cho giáo viên.
      Về phía học sinh:
      Đa số các em học Lịch sử còn là do yêu cầu bắt buộc của việc thi tốt nghiệp, thực
      sự bản thân chưa có sự yêu thích đối với bộ môn, nhiều học sinh có tư tưởng học một
      cách miễn cưỡng do vậy học sinh chưa phát huy được những phẩm chất và năng lực
      của bộ môn . Ví dụ như: Năng lực tìm tòi và khám phá Lịch sử; Năng lực nhận thức và
      tư duy lịch sử; Năng lực vận dụng kiến thức Lịch sử vào thực tiễn…
      Do vậy, thông qua bộ môn Lịch sử, học sinh chưa có định hướng lựa chọn nghề
      nghiệp, trân trọng những di sản lịch sử, văn hóa của đất nước, khu vực và thế giới và
      cũng chưa thể hiện được những phẩm chất và năng lực của bản thân. Vậy làm thế nào
      để trong quá trình giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường THPT, thầy cô giáo có thể khơi
      dậy được ngọn lửa đam mê, phát triển được cao nhất phẩm chất và năng lực của học
      sinh và chất lượng của bộ môn ?
    1. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
      7
      2.1. Ứng dụng công nghệ thông tin và học liệu số để thiết kế bài giảng điện tử
      2.1.1. Mục đích sử dụng
      Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy
      học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Hiện nay,
      việc trang bị các phương tiện dạy học mới cho các trường phổ thông từng bước được
      tăng cường. Tuy nhiên các phương tiện dạy học tự làm của giáo viên luôn có ý nghĩa
      quan trọng, cần được phát huy. Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung
      dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại, là công cụ hỗ trợ đắc lực
      cho giáo viên trong các giờ lên lớp.
      Học liệu số là tập hợp các phương tiện điện tử phục vụ dạy và học, gồm: giáo
      trình điện tử, sách giáo khoa (SGK) điện tử, tài liệu tham khảo điện tử, bài kiểm tra
      đánh giá điện tử, bản trình chiếu, bảng dữ liệu, các tệp âm thanh, hình ảnh, video, bài
      giảng điện tử, phần mềm dạy học, thí nghiệm mô phỏng và các học liệu được số hóa
      khác. Những học liệu này được số hóa theo kiến trúc định dạng và kịch bản nhất định,
      được lưu trữ trên các thiết bị công nghệ, điện tử như CD, USB, máy tính, mạng máy
      tính nhằm phục vụ cho việc dạy và học. Sử dụng học liệu số sẽ mang lại các hiệu quả
      sau:
    • Tính đa dạng: học liệu số tồn tại dưới nhiều dạng thức khác nhau như phần mềm máy
      tính, văn bản (text), bảng dữ liệu, âm thanh, hình ảnh, video, bài trình chiếu….
    • Tính động: nhờ khả năng phóng to, thu nhỏ, thay đổi màu sắc, thay đổi hướng, cách
      di chuyển hay xuất hiện, nhiều học liệu số tạo hứng thú trong dạy học, giáo dục, phù
      hợp với hoạt động nhận thức, khám phá và vận dụng trong quá trình tổ chức hoạt động
      học. Việc tìm kiếm thông tin trên các sách, tài liệu điện tử được thực hiện dễ dàng hơn,
      nhanh chóng với các siêu liên kết, các tính năng của phần mềm. Tính động của học liệu
      số còn thể hiện ở khả năng lưu trữ, chuyển đổi giữa các dạng thức khác nhau, các hình
      thức khác nhau tùy theo ý tưởng dạy học, giáo dục và những điều kiện vận dụng cụ thể.
      Ngoài ra, tính động còn cho phép sử dụng học liệu số một cách linh hoạt và hướng đến
      sự tương tác một cách chủ động giữa người học và học liệu số cũng như giữa người học
      và người dạy.
    • Tính cập nhật: nhờ khai thác ưu điểm tức thời và tốc độ của CNTT, việc phát hành,
      cập nhật nguồn học liệu số thường thuận tiện hơn, nhanh chóng hơn, khó bị giới hạn

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập thông qua tổ chức dạy học theo chủ đề Lịch sử Việt Nam 1945 1954 Lớp 12 chương trình cơ bản

    SKKN Phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập thông qua tổ chức dạy học theo chủ đề Lịch sử Việt Nam 1945 1954 Lớp 12 chương trình cơ bản

    . ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Lịch sử (LS) là môn học có vai trò, tác động to lớn trong việc giáo dục thế
    hệ trẻ những phẩm chất, nhân cách của một con người phát triển toàn diện. Các
    nhà sử học cổ đại đã khẳng định “Lịch sử là cô giáo của cuộc sống”, “Lịch sử
    là bó đuốc soi đường đi đến tương lai” [32, tr.95]. Nhà văn dân chủ Nga thế kỉ
    XIX, Tsecnưsépxki đã từng viết: “Có thể không biết, không cảm thấy say mê
    học Toán, tiếng Hilạp hoặc chữ Latinh, Hóa học, có thể không biết hàng nghìn
    môn học khác, nhưng dù sao đã là người có giáo dục mà không yêu thích LS thì
    chỉ có thể là một con người không phát triển đầy đủ trí tuệ” [39, tr.72].
    Tuy nhiên, có một thực trạng đáng buồn hiện nay phần lớn học sinh (HS)
    không thích tìm hiểu về lịch sử dân tộc (LSDT), ngày càng nhiều em cho rằng
    học Sử chỉ là thuộc lòng mất nhiều thời gian, coi đó là môn học của các sự kiện
    ghi nhớ khô khan, nhàm chán. Sự phát triển nhanh chóng của xã hội hiện đại với
    xu thế hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng mạnh mẽ, những tác động của cơ
    chế thị trường, lối sống thực dụng… đã dẫn đến một bộ phận không nhỏ phụ
    huynh, HS không coi trọng môn học LS, lựa chọn môn học, ngành học nào có
    thu nhập cao. Điều này được thể hiện rõ trong quá trình dạy học môn học LS ở
    các nhà trường và nhất là qua kì thi tốt nghiệp Trung học phổ thông (THPT) để
    đăng kí xét tuyển vào các trường Cao đẳng và Đại học. Các nhà giáo dục đã đi
    tìm nguyên nhân, xác định các giải pháp giúp HS yêu thích môn học LS, trong
    đó đặc biệt nhấn mạnh đến việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) của thầy

    • trò theo hướng phát triển năng lực của các em.
      Đổi mới PPDH được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
      cải cách giáo dục sau 2015 ở Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW
      ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện
      giáo dục và đào tạo“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
      hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
      thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
      máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
      2
      người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực chuyển
      từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt
      động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
      thông tin và truyền thông trong dạy và học”[2].
      Thực hiện chủ trương trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức triển khai
      tập huấn đổi mới cách dạy học theo chủ đề/chuyên đề cho giáo viên (GV) toàn
      quốc từ năm học 2014-2015 nhằm giúp họ nhận thức và thực hiện tốt hơn việc
      đổi mới để từng bước nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Dạy học theo chủ đề
      có nhiều điểm mới so với cách dạy truyền thống: các nhiệm vụ học tập được
      giao cho HS, các em chủ động tìm hướng giải quyết vấn đề; kiến thức không
      vụn vặt, riêng lẻ mà được tổ chức lại thành hệ thống, có quan hệ chặt chẽ; HS
      sau phần học không chỉ là hiểu, biết, vận dụng mà còn biết phân tích, tổng hợp,
      đánh giá.
      Thực tế việc vận dụng dạy học theo chủ đề hiện nay ở trường phổ thông
      còn nhiều bất cập, hiệu quả chưa cao. Một số GV chưa nhận thức đúng tầm quan
      trọng của việc triển khai bài học theo chủ đề để phát huy vai trò tích cực, chủ
      động, sáng tạo của HS, nên chưa thật sự quan tâm tổ chức dạy học theo chủ đề
      trong các giờ học LS. Phần lớn việc dạy học đã có những đổi mới tích cực
      nhưng vẫn còn có những hạn chế. Tình trạng dạy học theo kiểu tóm tắt sách giáo
      khoa (SGK), nặng về truyền thụ kiến thức vẫn còn khá phổ biến. HS thụ động và
      phụ thuộc nhiều vào GV trong quá trình tiếp nhận kiến thức. Nếu có thực hiện
      dạy học theo chủ đề thì GV vẫn chủ yếu sử dụng một số PPDH như vấn đáp,
      thuyết trình, thảo luận nhóm… chưa vận dụng nhiều các PPDH hiện đại vào
      trong giờ học LS. Vì vậy, việc tổ chức dạy học theo chủ đề chưa thực sự phát
      huy được vai trò vốn có của nó. Cho nên HS cảm thấy giờ học LS còn nặng nề,
      nhàm chán, nhiều em không hứng thú với bộ môn LS, làm cho chất lượng dạy
      học bộ môn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.
      Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến 1954, lớp 12 THPT giữ một vị trí quan
      trọng trong tiến trình phát triển của dân tộc. Đó là lịch sử của cuộc đấu tranh
      kiên cường của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng để giữ vững nền độc lập.
      3
      Đó là lịch sử của nghệ thuật giành, xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ
      nhân dân của Đảng ta, là lịch sử của công cuộc kháng chiến và kiến quốc…
      Chặng đường lịch sử đó đã in đậm bao chiến công oanh liệt của dân tộc cũng
      như đã để lại biết bao bài học quý báu cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
      Quốc hiện nay.
      Xuất phát từ yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra,
      đánh giá theo định hướng phát triển năng lực, từ thực tiễn giảng dạy ở trường
      THPT, chúng tôi đã nghiên cứu và lựa chọn đề tài PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC
      CỦA HỌC SINH TRONG HỌC TẬP THÔNG QUA TỔ CHỨC DẠY HỌC
      THEO CHỦ ĐỀ “LỊCH SỬ VIỆT NAM 1945 – 1954” – LỚP 12 CHƯƠNG
      TRÌNH CƠ BẢN làm báo cáo sáng kiến.
      II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
      Thực trạng dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay đang tồn tại nhiều vấn
      đề có những mặt tích cực và cũng có những mặt tiêu cực.
      Về phía giáo viên, về cơ bản giáo viên giảng dạy môn lịch sử ở trường
      THPT đều có kiến thức chuyên môn đạt chuẩn, nhận thức đúng đắn về vai trò
      của bộ môn trong trường THPT, đã có xu hướng đổi mới phương pháp dạy học
      sao cho thu hút hấp dẫn và thực tế hơn. Các cấp quản lý có quan tâm và chỉ đạo
      thường xuyên việc dạy và học bộ môn. Học sinh học bộ môn lịch sử đã có phần
      yêu thích hơn, hứng thú hơn và có kết quả học tập tốt hơn. Chương trình học tập
      phù hợp, sách giáo khoa được biên soạn tương đối quy củ có hệ thống, hình ảnh
      đẹp hơn in ấn sinh động hơn.
      Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề hạn chế như việc dạy học lịch sử vẫn
      hướng tới việc cung cấp các sự kiện lịch sử có sẵn trong sách giáo khoa, bài
      giảng của giáo viên chủ yếu hướng tới việc giúp học sinh ghi nhớ kiến thức mà
      chưa chú ý tới phát triển tư duy, năng lực cho học sinh. Việc đổi mới phương
      pháp dạy học tuy được đặt ra, được quan tâm, giáo viên nhận thức được tầm
      quan trọng nhưng tiến hành lại chưa được thực sự hiệu quả. Học sinh chưa thực
      sự hứng thú đối với môn học, kết quả thi môn lịch sử thi THPT quốc gia vẫn còn
      4
      thấp so với các môn khác … Trong thực tế cuộc sống, học sinh ít hiểu biết về
      lịch sử dân tộc, lịch sử địa phương dẫn tới thái độ, nhận thức chưa đúng đắn, dễ
      bị lung lay bởi các tác động từ bên ngoài.
      Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này thì rất nhiều. Song với tư cách của
      người dạy học, chúng ta cần nhìn nhận một cách thẳng thắn và nghiêm túc vào
      những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía người dạy như chậm đổi mới
      phương pháp dạy học. Nhiều giáo viên vẫn chọn phương pháp thuyết trình, tư
      duy dạy học theo lối cũ, lấy người dạy làm trung tâm truyền đạt kiến thức một
      chiều, sơ cứng. Môn học lịch sử vốn là một môn học hấp dẫn vì nó chính là thực
      tế đời sống. nhưng đã bị kinh viện hóa, biến thành một môn học với các con số,
      sự kiện “chết cứng”. Chính những điều này đã khiến việc giảng dạy môn học trở
      nên kém hiểu quả. Giáo viên đôi khi quá chú tâm tới việc truyền đạt kiến thức
      mà quên đi nhiệm vụ bồi đắp những nhận thức, tình cảm đúng đắn cho cho học
      sinh trước quá khứ, hiện tai và tương lai.
      Ngoài ra cũng có những nguyên nhân khách quan như những quan niệm
      chưa đúng về bộ môn từ các cấp quản lý, từ xã hội, tới cha mẹ học sinh và cả
      học sinh coi đây là một môn phụ, ít tính ứng dụng vào đời sống và gắn liền việc
      học tập với mục đích thi cử nên không coi trọng bộ môn. Từ đó dẫn tới thái độ
      dạy và học chưa phù hợp hạn chế phần nào việc tiếp thu, tìm hiểu các kiến thức
      bộ môn cũng như lòng yêu thích say mê đối với môn học. Cũng không thể
      không nhắc tới nền kinh tế thị trường, xã hội phát triển với nhiều mặt tác động
      không nhỏ tới tâm lý của giáo viên và học sinh từ đó không còn coi trọng môn
      lịch sử một cách đúng mức.
      Tiếp theo, có thể kể tới khung chương trình còn nặng nề nội dung kiến thức
      nhiều mà thời gian dạy và học lại ít khiến giáo viên đổi khi chưa dám mạnh dạn
      đổi mới, sử dụng phương pháp truyền thống cho an toàn, cho đảm bảo tiến độ
      chương trình. Cơ sở vật chất cũng chưa đảm bảo cho việc tiến hành dạy học
      môn lịch sử một cách thuận tiện và sinh động hơn.
      Riêng về vấn đề xây dựng bài tập lịch sử tự luận hay trắc nghiệm khách
      theo hướng phát triển năng lực người học, đại đa số thầy, cô dạy lịch sử ở các
      5
      trường THPT đều thấy được tầm quan trọng của việc sử dụng bài tập lịch sử
      trong quá trình giảng dạy do đó các thầy, cô đã thiết kế và sử dụng bài tập trong
      dạy học. Tuy nhiên, do gặp phải nhiều khó khăn như chương trình quy định số
      giờ làm bài tập ít, lượng kiến thức trên lớp nhiều không đủ để học sinh có thời
      gian làm bài tập… do vậy mà mức độ sử dụng bài tập của thầy, cô còn hạn chế,
      lượng bài tập chưa phù hợp, mức độ bài tập chưa đáp ứng đúng mục tiêu bài
      dạy, các bài tập chưa phong phú đa dạng bám sát năng lực học sinh.
      Mặt khác mục đích sử dụng bài tập của thầy, cô chủ yếu là dùng để củng cố
      bài học hoặc kiểm tra. Việc sử dụng bài tập để dạy kiến thức mới, để phát triển
      các năng lực cho học sinh chưa được chú trọng.
      Về phía học sinh, học sinh ở các trường THPT đều thích được làm bài tập
      lịch sử, các em đều có nhận thức đúng về vai trò của bài tập trong quá trình học
      lịch sử. Bài tập mà các em thích được sử dụng chủ yếu là bài tập trắc nghiệm và
      bài tập nhận thức. Tuy nhiên kĩ năng làm bài của các em còn kém, chưa đầu tư
      nhiều công sức và thời gian cho bài tập. Nhiều học sinh còn khó khăn, lúng túng
      khi giải quyết bài tập nhất là các bài tập thực hành bộ môn như vẽ biểu đồ, bản
      đồ, sơ đồ… Nhận thức của các em về việc làm bài tập để phát triển các năng lực
      chưa được rõ ràng, đầy đủ.
      Với các nguyên nhân như vậy thì kết quả học tập và giảng dạy môn lịch sử
      chưa đạt yêu cầu là điều hoàn toàn có thể lí giải được. Từ đó, càng đặt ra vấn đề
      : mỗi người dạy cần thay đổi một cách tích cực, hướng tới việc nâng cao chất
      lượng giảng dạy, đồng thời giúp học sinh phát huy những năng lực của bản thân
      ứng dụng vào thực tế hoạt động xã hội sau này.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
      2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TỔ CHỨC DẠY
      HỌC LỊCH SỬ THEO CHỦ ĐỀ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
      THÔNG
      2.1.1. Cơ sở lý luận
      2.1.1.1. Cơ sở xuất phát
    • Mục tiêu đổi mới giáo dục và đào tạo
      6
      Luật giáo dục Việt Nam năm 2005 (sửa đổi 2009) đã xác định rõ mục tiêu
      chung của giáo dục là“đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
      đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc
      lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất
      và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
      Tổ quốc” [20, tr.8]. Trên cơ sở mục tiêu chung, mục tiêu giáo dục THPT được
      xác định là: “Giáo dục phổ thông nhằm giúp HS củng cố và phát triển những kết
      quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết
      thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá
      nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp,
      học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động” [20, tr.14]. Mục tiêu giáo dục môn
      học LS ở trường phổ thông được cụ thể hóa “nhằm giúp cho HS có được những
      kiến thức cơ bản, cần thiết về LSDT và LS thế giới, góp phần hình thành ở HS
      quan điểm chung một cách khoa học, biện chứng; giáo dục lòng yêu quê hương,
      đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy,
      hành động, thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội” [57, tr. 68].
      Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương
      Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ việc đổi mới
      chương trình giáo dục sau 2015 phải chuyển từ định hướng nội dung sang định
      hướng phát triển năng lực. Từ chỗ chỉ quan tâm đến việc HS học được cái gì đến
      cần phải quan tâm xem HS vận dụng được cái gì qua việc học, thực hiện mục
      tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học, chú trọng năng lực thực hành vào
      thực tiễn. Trong công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện, giáo dục Việt Nam
      đang hướng tới những nguyên tắc chung của giáo dục thế kỉ XXI là học để học
      cách học, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mìn

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Vận dụng thuyết đa trí thông minh trong dạy học Lịch sử thế giới Chương trình Lịch sử lớp 10 nhằm phát triển năng lực cho học sinh THPT

    SKKN Vận dụng thuyết đa trí thông minh trong dạy học Lịch sử thế giới Chương trình Lịch sử lớp 10 nhằm phát triển năng lực cho học sinh THPT

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Hiện nay, chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực đã trở thành
    xu hướng giáo dục quốc tế. Nhiều nước trên thế giới đã có sự thay đổi mạnh mẽ
    theo hướng chuyển từ dạy học truyền thụ kiến thức sang dạy học phát triển năng
    lực của người học. Ở Việt Nam, Nghị quyết số 29 – NQ/TW ngày 04/11/2013 của
    Hội nghị Trung ương 8 khóa XI và Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014
    của Quốc hội cũng đã yêu cầu phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
    để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nền kinh tế thị trường theo
    định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Bối cảnh đó đòi hỏi giáo dục
    phải đào tạo những con người phát triển toàn diện phù hợp với sự nghiệp công
    nghiệp hóa hiện đại hóa, biết nắm bắt cơ hội trong thời đại mới. Nhà trường là môi
    trường phải đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Mỗi môn học ở nhà trường với đặc
    trưng của từng bộ môn, đều phải góp phần giáo dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ, trong
    đó có sự đóng góp của môn Lịch sử. Tất cả những gì đã diễn ra trong quá khứ –
    những con người thật, sự việc thật trong lịch sử, nhất là lịch sử dân tộc có ý nghĩa
    quan trọng, là tấm gương phản chiếu có tác dụng giáo dục thế hệ trẻ sâu sắc.
    Bộ môn Lịch sử có ưu thế trong việc góp phần đào tạo thế hệ trẻ theo mục
    tiêu giáo dục của Đảng, nhà nước và nhân dân ta – những con người có lí tưởng
    cách mạng đồng thời là những con người Việt Nam của thế kỉ XXI. Chính vì thế,
    giáo dục lịch sử được coi trọng. Thế nhưng trong những năm gần đây, dưới tác
    động của nền kinh tế thị trường, tác động của bối cảnh xã hội hiện đại, vai trò, vị
    thế của các môn khoa học xã hội trong nhà trường nói chung, môn Lịch sử nói
    riêng chưa được đánh giá đúng vai trò và nhiệm vụ của nó trong công tác “dạy
    chữ, dạy người” mà môn học có ưu thế.
    Những năm gần đây, việc dạy học Lịch sử ở nhà trường phổ thông có những
    bước tiến đáng kể về nội dung, nhận thức và phương pháp dạy học nhưng vẫn chưa
    đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Điều này đã làm cho các nhà khoa học, nhà giáo dục
    lịch sử, nhà giáo ở trường phổ thông và toàn xã hội phải lo lắng. Qua các kỳ thi
    Trung học phổ thông quốc gia (THPT QG), dư luận, báo chí quan tâm nhiều hơn
    đến kết quả của bộ môn Lịch sử, về sự giảm sút số lượng thí sinh tham gia, chất
    lượng của môn học này. Việc đánh giá đúng thực trạng dạy – học môn Lịch sử hiện
    nay và tìm ra nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó, sẽ góp phần đề xuất những giải
    pháp khắc phục tình trạng nêu trên.
    Dạy học Lịch sử ở trường phổ thông cũng giống như dạy – học các môn khoa
    học khác trong hệ thống giáo dục quốc gia được phân bố thời lượng theo qui định
    của Bộ Giáo dục và Đào tạo; sách giáo khoa, tài liệu tham khảo giảng dạy và học
    tập cũng được đầu tư, cung cấp đầy đủ và phong phú hơn so với trước đây. Bên
    2
    cạnh đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT), Sở GD&ĐT đã rất chú trọng đến
    công tác tập huấn, triển khai trang bị những kỹ năng cho giáo viên (GV): Việc đổi
    mới phương pháp dạy và học, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, thực
    hiện chuẩn kiến thức kỹ năng, đổi mới tư duy trong kiểm tra đánh giá học sinh
    (HS), kiểm tra đánh giá theo ma trận đề; giảng dạy theo hướng tích hợp về giáo
    dục tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tích hợp giáo dục môi trường,
    phòng chống tham nhũng; xây dựng hệ thống các tài liệu dạy học như: tài liệu
    giảng dạy phục vụ nội bộ, hệ thống hoá hiến thức, ngân hàng đề kiểm tra đáng giá,
    ngân hàng câu hỏi đăng trên website Sở GD&ĐT và các đơn vị trường học; các
    giải pháp sinh hoạt chuyên môn như: sinh hoạt chuyên môn theo cụm, theo trường,
    trên trường học kết nối, …. Ngoài ra, người GV cũng đã cố gắng sử dụng và kết
    hợp nhiều phương pháp dạy học tích cực như dạy học nêu vấn đề, dạy học dự án,
    …Tất cả những giải pháp này góp phần làm biến chuyển công tác dạy học Lịch sử
    trong nhà trường, công tác giảng dạy và học tập của bộ môn Lịch sử bắt đầu có sự
    thay đổi tích cực hơn trước.
    Tuy nhiên, cũng có nhiều người bày tỏ sự lo lắng, trăn trở khi nhìn vào thực
    trạng dạy và học bộ môn Lịch sử trong các nhà trường hiện nay. Không khó để
    nhận ra, đang có những tiết học Lịch sử trở thành giờ “học sách giáo khoa”, khô
    khan, nặng về trình bày sự kiện; nhiều HS thiếu hoặc nhầm lẫn các kiến thức cơ
    bản; nhiều em không chọn Lịch sử là môn thi xét tuyển đại học; chất lượng kì thi
    Tốt nghiệp trung học phổ thông môn Lịch sử có điểm trung bình thấp hơn so với
    các bộ môn khác… Nhiều GV bày tỏ, họ đang bị “mắc kẹt” giữa một bên là lượng
    kiến thức khổng lồ với một bên là khoảng thời gian hạn hẹp trên lớp. Kết quả là
    HS phải chịu tiếp nhận 1 mô hình giáo dục khô cứng theo kiểu “1 cỡ cho vừa tất
    cả”- mọi HS cùng học theo 1 cách, kiểm tra theo cùng 1 kiểu bài và phân loại,
    đánh giá theo cùng 1 tiêu chuẩn nhất định. Và cứ như vậy thì sẽ thật bất công “nếu
    bạn đánh giá một con cá bằng khả năng leo cây thì cả đời nó phải sống với niềm tin
    rằng, nó là kẻ ngu ngốc” (Albert Einstein). Đã đến lúc, chúng ta cần tìm kiếm, áp
    dụng những ý tưởng giáo dục mới, thổi hồn vào bộ môn Lịch sử (LS) để mỗi HS
    không chỉ được tìm thấy niềm vui, hạnh phúc trong học tập, phát huy sở thích, thế
    mạnh của bản thân mà qua đó còn khơi dậy niềm đam mê với Lịch sử, góp phần
    định hướng nghề nghiệp trong tương lai. Giáo dục sẽ chỉ thực sự thành công nếu
    có thể để mỗi cá nhân phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mình,
    đồng thời có cơ hội thay đổi và khắc phục những thiếu sót. Điều quan trọng là
    “đánh thức” những năng lực, trí thông minh của HS như thế nào?
    Dạy học là một trong những việc khó thực hiện nhất vì tất cả chỉ liên quan
    đến việc xử lý trí óc của con người. Tâm trí con người tiếp nhận thông tin theo
    nhiều cách khác nhau tùy theo nền tảng và kinh nghiệm khác nhau. Từ đây, tầm
    3
    quan trọng của việc nghiên cứu các loại trí thông minh khác nhau mà con người
    tiếp nhận, giải mã, hiểu, áp dụng và phân tích thông tin. Để thành công trong việc
    giảng dạy, một GV phải nâng cao khả năng của họ để giải quyết mọi suy nghĩ của
    HS khi họ có thể khác nhau. “Thuyết đa trí thông minh” (TĐTTM) của Howard
    Gadner chỉ ra rằng, trong mỗi cá nhân đều tồn tại 8 loại hình trí thông minh, tồn tại
    ở những mức độ cao thấp khác nhau, có những trí thông minh nổi bật, phát triển
    với người này nhưng lại không phát triển đối với người khác và hoàn toàn có thể
    phát triển qua giáo dục (GD) để mỗi người đều trở thành một người thực sự tài
    năng với trí thông minh nổi bật của mình. Vì vậy, “Thuyết đa trí thông minh” như
    một gợi ý để GV tìm tòi, lựa chọn, sáng tạo ra các phương pháp dạy học (PPDH)
    hiệu quả trong quá trình dạy học (DH).
    Từ những vấn đề lí luận và thực tiễn trên, tôi cho rằng, cùng với các phương
    pháp dạy học tích cực khác, việc vận dụng thuyết đa trí thông minh trong dạy học
    Lịch sử là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học
    bộ môn Lịch sử. Góp phần làm cho thế hệ trẻ hôm nay trong hành trang tri thức
    khoa học được trang bị đầy đủ tri thức, phương pháp học tập thông minh về lịch
    sử. Với lí do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Vận dụng thuyết đa trí thông minh
    trong dạy học Lịch sử thế giới (chương trình Lịch sử lớp 10) nhằm phát triển
    năng lực cho HS THPT” làm đề tài cho Sáng kiến kinh nghiệm dự thi của mình.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    II.1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    II.1.1. Cơ sở lí luận
    Trên thế giới hiện nay, nhiều lý thuyết có tính ứng dụng cao trong giáo dục như
    Thuyết kiến tạo, Thuyết hành vi, Thuyết nhận thức, Thuyết liên kết, Linh hoạt nhận
    thức, Học theo tình huống, Cộng đồng thực hành, Học khám phá và Thuyết đa trí
    thông minh. Mỗi lý thuyết đều có ưu nhược điểm, phù hợp với nhiều bối cảnh giáo
    dục khác nhau. Trong số đó, lý thuyết đa trí thông minh cho thấy sự phù hợp trong
    mô hình lớp học. Học thuyết về Đa trí thông minh trong giáo dục đã được một số
    nhà nghiên cứu trên thế giới và trong nước tiếp cận. Trên thế giới, người khai sinh ra
    thuyết đa trí thông minh là nhà nghiên cứu Howard Gardner khi ông xuất bản cuốn
    sách có tựa đề “Khung trí thông minh: Thuyết đa trí thông minh” vào năm 1983.
    TĐTTM thừa nhận nhiều thành phần của trí thông minh trong một hoặc nhiều năng
    lực của con người, cụ thể bao gồm 8 loại trí thông minh và mỗi loại trí thông minh
    tương ứng với đặc điểm và phù hợp với những ngành nghề nhất định trong xã hội.
    Cụ thể:
    Thứ nhất, trí thông minh ngôn ngữ. Theo Howard Gardner, đó là “khả năng
    phân tích thông tin và tạo ra các sản phẩm sử dụng ngôn ngữ nói và viết như lời
    4
    nói, sách và bản ghi nhớ”1
    . Với thế mạnh về ngôn ngữ, môn Lịch sử có lợi thế
    trong việc sử dụng thế mạnh ngôn ngữ để việc đọc, viết, kể chuyện, ghi nhớ từ
    khóa và có xu hướng học tốt nhất thông qua đọc sách, nghe giảng, tiếp cận tư liệu
    và tài liệu tham khảo, tranh luận và thảo luận… Đây cũng là loại hình trí thông
    minh mà nhiều người sở hữu nhất. Có nhiều PPDH để vận dụng trí thông minh
    ngôn ngữ trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông như: trình bày miệng (tường
    thuật, miêu tả, nêu đặc điểm, giải thích), hùng biện, tiếp cận tư liệu và tài liệu tham
    khảo, trò chơi ô chữ, kể chuyện, viết nhật ký, động não, …
    Thứ hai, trí thông minh logic-toán học. Theo Howard Gardner, logic toán học
    là “khả năng phát triển các phương trình và chứng minh, tính toán và giải quyết các
    vấn đề trừu tượng”2
    . Nó bao gồm khả năng phân tích và suy luận vấn đề một cách
    logic. Người có trí thông minh này có khả năng phát hiện, suy luận trình tự,
    nguyên nhân và tư duy logic tốt, nhạy bén với các mối quan hệ và sơ đồ logic …
    Trên thực tế, trong quá trình dạy học, có rất nhiều những phương pháp để vận dụng
    trí thông minh logic – toán học, khơi gợi và phát triển tư duy của HS một cách có
    hiệu quả. Có thể kể tới một vài phương pháp như: lập sơ đồ tư duy, trò chơi điền
    lược đồ trống, dạy học nêu vấn đề, tranh biện, …
    Thứ ba, trí thông minh âm nhạc. Theo Howard Gardner, âm nhạc thông minh
    cùng với trí thông minh ngôn ngữ, là khả năng tạo ra, ghi nhớ và tạo ra ý nghĩa của
    các mẫu âm thanh khác nhau, hoặc khả năng tạo ra và đánh giá cao độ nhịp điệu và
    âm sắc; đánh giá cao các hình thức biểu đạt âm nhạc. Những người có trí thông
    minh này có xu hướng học hỏi qua các giai điệu âm nhạc, thích chơi nhạc cụ, ca
    hát, truyền cảm hứng và đọc các tác phẩm. Ở mô hình lớp học, trong dạy học Lịch
    sử, thông qua các bài hát, lời bài hát có liên quan, các làn điệu về Chủ tịch Hồ Chí
    Minh, các vị lãnh tụ cách mạng, các anh hùng dân tộc, các bộ phim Lịch sử … sẽ
    phát huy thế mạnh này, đây cũng là biện pháp kích thích thính giác, cảm xúc của
    người học, giảm tính hàn lâm, giờ học sẽ trở nên có điểm nhấn, hào hứng hơn.
    Thứ tư, trí thông minh cơ thể. Loại trí thông minh này bao gồm các kỹ năng
    cơ thể đặc biệt như phối hợp vận động, giữ thăng bằng, khéo léo, linh hoạt và mềm
    dẻo. Người có trí thông minh này có khuynh hướng học tập thông qua vận động và
    sử dụng động tác, thích hoạt động thể chất, chơi thể thao,… Những người mạnh về
    trí thông minh này yêu thích thực hành và vận động. Trong quá trình dạy học LS,
    rất nhiều PPDH có thể vận dụng trí thông minh này để đem lại hiệu quả như sân
    khấu hóa, đóng vai, sử dụng ngôn ngữ cơ thể, dạy học trải nghiệm sáng tạo, dựng
    phim ngắn, video…
    1 Trần Văn Trung, Tăng cường tổ chức hoạt động nhóm theo hướng tiếp cận Lý thuyết đa thông minh, Tạp chí Khoa
    học Giáo dục, số 138, tr.28-30, Hà Nội.
    2 Trần Văn Trung, Lê Thị Tuyết Hạnh, 2017, Ứng dụng Lý thuyết Đa trí thông minh trong dạy học nhằm phát triển
    các năng lực cần thiết cho học sinh phổ thông ở Việt Nam, Tạp chí Giáo dục, Số. 420, Hà Nội, tr.18.
    5
    Thứ năm, trí thông minh không gian: Đó là khả năng liên tưởng đến tư duy
    trực quan, hình ảnh, khả năng nhận thức, biến đổi và khả năng tái tạo các góc độ
    khác nhau của thế giới không gian trực quan. Những người có khả năng về trí
    thông minh không gian thường rất giỏi hình dung và tưởng tượng, có khả năng tự
    định hướng một cách thích hợp trong một không gian. Để vận dụng trí thông minh
    không gian trong dạy học Lịch sử nhằm tác động tới dạng trí thông minh này của
    HS, thay vì yêu cầu HS tìm hiểu nội dung chương trình học, GV có thể tổ chức
    nhóm, thiết kế bài vẽ hoặc nhận diện tranh theo chủ đề và thuyết minh ý tưởng về
    sản phẩm của nhóm thông qua các phương pháp như sử dụng đồ dùng trực quan,
    thiết kế poster, lập sơ đồ tư duy…
    Thứ sáu, trí thông minh nội tâm: Là khả năng hiểu rõ bản thân và hành động
    phù hợp trên cơ sở hiểu biết của bản thân. Những người có trí thông minh này có
    xu hướng học tập thông qua cảm xúc, tình cảm, kiểm soát và kiểm soát tốt việc học
    của họ, hiểu được suy nghĩ của họ và có thể hiểu được cảm xúc và tình cảm. cảm
    xúc của người khác … Để vận dụng trí thông minh nội tâm trong dạy học LS, có
    thể sử dụng các phương pháp phát huy tính tư duy độc lập của mỗi cá nhân như:
    suy ngẫm trong một phút, tạo các liên kết cá nhân, các hoạt động đặt mục đích, kỹ
    thuật KWLH, …
    Thứ bảy, trí thông minh tương tác cá nhân (trí thông minh giao tiếp): Là khả
    năng hiểu và làm việc với người khác, đặc biệt là khả năng cảm nhận và chia sẻ dễ
    dàng với tâm trạng, tính cách, ý định. và mong muốn của người khác. Những
    người sở hữu trí thông minh này có xu hướng học hỏi thông qua việc sử dụng các
    kỹ năng xã hội, giao tiếp, hợp tác làm việc với người khác, thích gặp gỡ và trò
    chuyện, có khả năng nắm bắt tâm lý của các thành viên trong nhóm học tập. Vận
    dụng trí thông minh giao tiếp trong dạy học LS đã được nhiều GV thực hiện.
    Phương pháp dễ nhận thấy nhất đó chính là các hình thức hoạt động nhóm; tuy
    nhiên, mức độ hiệu quả trong vận dụng trí thông minh tương tác cá nhân ra sao phụ
    thuộc vào cách thức tổ chức hoạt động nhóm và yêu cầu nhiệm vụ của GV. Không
    chỉ có hoạt động nhóm, nhiều PPDH khác cũng có khả năng vận dụng tốt loại hình
    trí thông minh này như: tranh biện, thuyết trình, vấn đáp, trò chơi hiểu ý đồng đội,
    làm phóng sự, …
    Thứ tám, trí thông minh về tự nhiên: Là khả năng nhận biết và phân loại các
    loại động thực vật trong môi trường của chúng ta. Loại trí thông minh này cũng rất
    nhạy cảm với các hiện tượng thay đổi của tự nhiên. Người có trí thông minh thiên
    bẩm luôn thích hòa mình với thiên nhiên, thích chăm sóc, trồng trọt, khám phá
    thiên nhiên, tìm hiểu các loài sinh vật. Những người này thích đi picnic, cắm trại,
    leo núi, khám phá thế giới. Vận dụng trí thông minh tự nhiên học trong dạy học
    6
    LS, có thể sử dụng các hình thức dạy học ngoài trời, trải nghiệm, dự án, tham quan
    học tập, …sẽ đem lại hiệu quả cao cho quá trình lĩnh hội kiến thức lịch sử của HS.
    Theo quan điểm của nhà giáo dục, mỗi trí thông minh phải dẫn đến một trong
    những kỹ năng giải quyết vấn đề, cho phép người học giải quyết các vấn đề gặp
    phải và tạo ra kết quả, đồng thời mang lại những điều hữu ích và đáng kể. TĐTTM
    đã cho thấy sự phù hợp của mình khi khẳng định rằng trí thông minh của người
    học không phải là bất biến, được di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác mà có thể
    cải thiện khả năng giao tiếp, thông qua giáo dục. Mỗi loại trí thông minh nếu được
    chăm sóc và phát triển đúng cách sẽ là tiền đề tạo nên sự đa dạng của mỗi cá nhân.
    Thuyết đa trí thông minh cung cấp cho GV những cơ sở về mặt lí luận để
    đánh giá sự phát triển trí thông minh của HS, từ đó lựa chọn, tìm tòi hoặc sáng tạo
    ra những PPDH tác động được tới các dạng trí thông minh của HS một cách toàn
    diện nhất. Trên cơ sở, đó GV linh hoạt vận dụng các phương pháp để HS có cơ hội
    sử dụng thế mạnh của mình trong chủ động phát triển năng lực bản thân cũng như
    có thể rèn luyện những trí thông minh mình còn hạn chế. Sở dĩ có sự trùng lặp một
    vài phương pháp khi vận dụng mỗi loại trí thông minh trong dạy học, bởi thuyết đa
    trí thông minh khẳng định: các dạng trí thông minh luôn tồn tại đồng thời và tương
    tác với nhau bằng nhiều cách. Trên thực tế, mỗi phương pháp đều là sự tổng hòa
    của việc vận dụng một vài dạng trí thông minh. Tuy nhiên, mức độ vận dụng của
    mỗi dạng trí thông minh có tác dụng đậm nhạt khác nhau là do yêu cầu và cách
    thức tổ chức dạy học của GV trong giờ học.
    Từ việc nghiên cứu bước đầu, tôi nhận thấy: thuyết đa trí thông minh hướng
    đến việc dạy học đa dạng. Vì giữa các HS có sự khác biệt về thiên hướng trí thông
    minh như thế nên GV cần ứng dụng nhiều chiến lược dạy học khác nhau đối với
    các em. Ngày nào GV còn di chuyển được từ dạng trí thông minh này sang dạng trí
    thông minh khác thì mọi HS đến một lúc nào đó trong tiết học hay hàng ngày đều
    sẽ có cơ may được học với một hoặc nhiều trí thông minh nổi trội nhất của mình.
    II.1.2. Năng lực và phát triển năng lực HS trong dạy học Lịch sử
    II.1.2.1. Định nghĩa năng lực
    Trên thế giới, trong các nghiên cứu về năng lực, nhiều tác giả đã định nghĩa
    năng lực ở các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, có thể định nghĩa năng lực theo ba
    xu hướng: Thứ nhất là các tác giả đã định nghĩa năng lực là một phẩm chất của
    nhân cách. Theo những quan điểm này, năng lực là khả năng bên trong (phẩm chất
    tâm lý và sinh lý) của mỗi con người để đạt được một hoạt động nhất định.
    Nhóm thứ hai dựa vào thành phần cấu trúc của năng lực để xác định năng
    lực. Tất cả các định nghĩa trong nhóm này đều xác nhận rằng năng lực bao gồm
    các kỹ năng. Kỹ năng thể hiện khả năng thực hiện các hành động nhận thức hoặc
    7
    hành vi một cách thành thạo, chính xác và thích ứng với các điều kiện có thể thay
    đổi, trong khi năng lực có nghĩa là một hệ thống các hành động phức tạp, bao gồm
    năng lực và các thành phần phi nhận thức (thái độ, cảm xúc, động cơ, giá trị và đạo
    đức).
    Nhóm thứ ba xác định năng lực dựa trên nguồn gốc của năng lực. Tất cả các
    định nghĩa của nhóm này khẳng định rằng năng lực được hình thành từ các hoạt
    động và thông qua hoạt động, năng lực có thể được hình thành và phát triển.
    Theo dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của Bộ Giáo dục và
    Đào tạo Việt Nam (2017): “Năng lực là thuộc tính của cá nhân được hình thành,
    phát triển bởi phẩm chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người
    tổng hợp kiến thức, kỹ năng và các các thuộc tính của cá nhân như hứng thú, niềm
    tin, ý chí,… để thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả
    mong muốn trong những điều kiện cụ thể”.
    Chương trình giáo dục phổ thông hình thành và phát triển cho HS các năng
    lực cốt lõi sau:

    • Các năng lực chung được hình thành và phát triển bởi tất cả các môn học và
      hoạt động giáo dục như năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác,
      năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo;
    • Năng lực nghề nghiệp: Năng lực nghề nghiệp được hình thành và phát triển
      chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định như năng lực
      ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khám phá tự nhiên và xã hội, năng lực công
      nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất.
      II.1.2.2. Phát triển năng lực HS trong dạy học Lịch sử
      Bộ môn Lịch sử trong Chương trình giáo dục phổ thông đang được điều
      chỉnh, xây dựng theo định hướng phát triển năng lực (Chương trình GD phổ thông
      mới). Vì vậy, phương pháp dạy học chủ đạo là tích cực hoá hoạt động của người
      học. Phương pháp dạy học tích cực chú trọng tổ chức cho HS thực hiện các hoạt
      động học tập gắn với những tình huống của cuộc sống; gắn hoạt động trí thông
      minh với hoạt động thực hành, thực tiễn; tăng cường tự học, làm việc trong nhóm
      nhằm phát triển các phẩm chất chủ yếu, các năng lực chung và năng lực lịch sử cho
      HS. Với đặc trưng riêng của môn học, môn Lịch sử góp phần phát triển năng lực
      lịch sử, thành phần năng lực được xác định gồm:
    • Năng lực tìm hiểu lịch sử, được thể hiện qua việc:
    • Nhận diện và sử dụng tư liệu lịch sử: phân biệt được các loại hình tư liệu
      lịch sử, hiểu được nội dung, khai thác và sử dụng được tư liệu lịch sử trong quá
      trình học tập.

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Tạo lớp học ảo học xuyên biên giới để tăng cường khả năng nghe nói bằng hình thức giao lưu với học sinh, sinh viên Mỹ góp phần nâng cao hiệu quả giao tiếp của học sinh

    SKKN Tạo lớp học ảo học xuyên biên giới để tăng cường khả năng nghe nói bằng hình thức giao lưu với học sinh, sinh viên Mỹ góp phần nâng cao hiệu quả giao tiếp của học sinh

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện này, Tiếng Anh được coi là một trong những chìa
    khóa quan trọng giúp con người tiếp cận được thông tin, trau dồi kiến thức và hội nhập với
    xã hội. Chính vì vậy việc đẩy mạnh phòng trào dạy và học tiếng anh ngày càng mạnh mẽ
    ở Việt Nam. Trong việc học tiếng anh việc làm chủ và tự tin nói là yếu tố rất quan trọng
    với người học Tiếng Anh. Tuy nhiên nhiều học sinh ngày nay chỉ quen học từ vựng và ngữ
    pháp để làm tốt trong các bài thi và kiểm tra, chưa được thực hành nói và tâm lí cũng ngại
    nói. Nhiều học sinh khi đứng trước một câu hỏi hay chủ đề nói nào đó lúng túng không
    biết bắt đầu từ đâu và sẽ giao tiếp nói chuyện như thế nào hoặc nhiều học sinh có sử dụng
    Tiếng Anh nhưng còn thiếu tự tin, không đúng nội dung hay nói rất đơn giản.
    Là một giáo viên tiếng Anh cũng không ít lần tôi hỏi học sinh về một vấn đề đã học
    muốn học sinh chia sẻ ý kiến hay quan điểm nhưng nhiều học sinh khi được hỏi cứ lặng
    im và không biết giao tiếp gì. Nhiều học sinh sau 10, 11 năm học hay thậm chí 12 năm học
    tiếng anh vẫn không thể tự tin nói những điều cơ bản trong giao tiếp gì. Hơn thế nữa, việc
    tăng cường cải thiện còn khá là hạn chế và không hẳn bạn học sinh nào cũng có điều kiện
    được tiếp xúc và nói chuyện với người bản xứ để trau dồi khả năng nói tiếng Anh. Trong
    thời gian đại dịch, học sinh và giáo viên đã phải không ngừng học hỏi và làm quen với các
    công cụ dạy học trực tuyến như Zoom, Microsoft Teams, Google Meets… Và nhờ có sự
    kết nối với cô Quỳnh Giao- giảng viên Trường Y David Geffen của đại học California và
    bạn Phan Lê – cựu học sinh, kĩ sư công nghệ thông tin tại SUSE, tôi cũng như học sinh
    trường Mỹ Lộc và một số trường đã có cơ hội tham gia vào lớp học ảo, xuyên biên giới
    với các bạn học sinh sinh viên Mỹ thông qua nền tảng học trực tuyến Zoom vào trưa chủ
    nhật hàng tuần. Trên cơ sở tổ chức các hoạt động học tập kết nối giao lưu, tôi tích lũy được
    rất nhiều kinh nghiệm và kiến thức bổ ích và thông qua sáng kiến này tôi muốn lan tỏa đến
    cho nhiều học sinh và các bạn đồng nghiệp về lớp học ảo trực tuyến này.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến

    1.1.Thực trạng về giao tiếp và sử dụng Tiếng Anh trong các lớp học ảo, lớp
    học xuyên biên giới hiện nay ở Việt Nam.

    2
    Đứng trước yêu cầu môn học hay nghề nghiệp, nhiều học sinh hiện nay đã tìm tòi,
    học hỏi theo nhiều cách khác nhau để cải thiện khả năng giao tiếp sử dụng Tiếng Anh thay
    vì chỉ chú trọng vào từ vựng và ngữ pháp. Trong nhiều cách tiếp cận để cải thiện khả năng
    nói và giao tiếp Tiếng Anh thì những lớp học ảo, lớp học xuyên biên giới với các thầy cô
    hay người nói tiếng Anh bản xứ ngày càng phổ biến vì tính tiện lợi và linh hoạt học mọi
    lúc, mọi nơi. Rất nhiều bạn học sinh trên khắp Việt Nam sử dụng các thiết bị số như ứng
    dụng Zoom, Google Hangouts, Skype để giao tiếp dưới sự kết nối của một số trung tâm và
    tổ chức giáo dục như TOPICA hay Cambly. Ngoài ra còn có các thầy cô giáo Việt Nam đã
    liên hệ kết nối được qua những dự án học xuyên biên giới của cô Hà Ánh Phượng – Phú
    Thọ. Với các lớp học của các trung tâm như TOPICA hay Cambly, học sinh được tương
    tác 24/7 nhưng học sinh phải trả phí để tham gia. Còn lớp học của cô Hà Ánh Phượng, học
    sinh có thể giao lưu kết nối với nhiều học sinh và giáo viên của nhiều nước trên thế giới
    miễn phí nhưng học sinh không thể tương tác 24/7 và là kết nối cả lớp khá đông nên chưa
    cá nhân hóa nhiều bạn vẫn chưa có cơ hội được giao tiếp và thực hành nhiều. Do vậy, với
    nhu cầu và điều kiện của nhiều học sinh thì việc giao tiếp và sử dụng Tiếng Anh với người
    bản xứ vẫn còn nhiều hạn chế. Thực sự rất cần những lớp học xuyên biên giới miễn phí
    với người nói Tiếng Anh bản xứ để học sinh có thể tham gia nhằm cải thiện năng lực ngoại
    ngữ để đáp ứng nhu cầu càng cao của giáo dục và nghề nghiệp.

    1.2.Thực trạng về giao tiếp và sử dụng Tiếng Anh trong các lớp học ảo, lớp
    học xuyên biên giới của học sinh trường THPT Mỹ Lộc.

    Cùng với các trường trong tỉnh, trường THPT Mỹ Lộc đã và đang đồng loạt áp dụng
    giảng dạy sách Tiếng Anh thí điểm hệ 10 năm cho học sinh cả ba khối 10, 11 và 12. Đây
    là chương trình mới, nhằm trang bị cho học sinh đầy đủ bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết,
    phát triển toàn diện cho người học ngoại ngữ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã
    hội. Tuy nhiên để dạy đều cả bốn kỹ năng cho học sinh không phải là dễ vì nhiều em học
    sinh vẫn còn quen với cách học cũ, chỉ chú trọng đọc viết ngữ pháp mà chưa rèn luyện
    nhiều về nghe nói, đặc biệt là kĩ năng nói. Nhiều em học sinh học hết 12 năm học không
    thể nói về những chủ đề thân thuộc nhất như giới thiệu về gia đình, nghề nghiệp tương lai,
    giấc mơ, sở thích của mình. Nguyên nhân của tình trạng rất đáng báo động trên một phần
    là do công tác đánh giá học sinh vẫn dựa trên các kì thi với những bài kiểm tra về đọc, nghe
    và viết. Các bài kiểm tra riêng về nói hầu như là không có hoặc có rất ít nên cả giáo viên
    và học sinh còn chưa chú trọng vào việc rèn luyện kĩ năng này. Tại trường THPT Mỹ Lộc,
    3
    nhiều học sinh cũng vẫn chỉ học từ vựng và ngữ pháp, số lượng các bạn chú trọng phát
    triển kĩ năng nghe nói không nhiều. Ngoài ra, phần đông học sinh của trường đến từ vùng
    nông thông nên chưa có điều kiện tiếp cận với những khóa học trực tiếp hay trực tuyến với
    người bản xứ. Ở trường THPT Mỹ Lộc học sinh có cơ hội được học và tiếp xúc với người
    bản xứ duy nhất qua học Tiếng Anh với người nước ngoài. Trong thời lượng 45 phút và
    lớp học khá đông thì nhiều bạn học sinh vẫn còn e dè và chưa có cơ hội cải thiện khả năng
    nói Tiếng Anh nhiều. Ngoài ra, cũng có một bộ phận học sinh có điều kiện được tiếp xúc
    và học trong các trung tâm tuy nhiên số lượng rất ít. Ngày nay khi xã hội càng phát triển
    và hội nhập sâu rộng hơn thì nhu cầu sử dụng Tiếng Anh càng cao. Bạn sẽ làm gì khi bạn
    chỉ biết viết hay biết ý nghĩa nội dung mà không thể nói để truyền tải thông điệp. Với tư
    cách là một giáo viên Tiếng Anh đứng trước thực trạng này tôi thấy mình cần phải làm gì
    đó để giúp cho các bạn học sinh trường tôi và nếu có cơ hội sẽ giúp thêm các bạn học sinh
    của trường khác. Và tôi đã có cơ hội gặp và tiếp xúc với cô Phạm Quỳnh Giao – giảng viên
    trường đại học Y – David Geffen ở UCLA và một bạn cựu học sinh trường THPT Mỹ Lộc
    – Lê Phan – kĩ sư phần mềm ở SUSE. Là hai người đang sinh sống trên một đất nước phát
    triển, sử dụng rất nhiều các thiết bị số, tham gia những lớp học, khóa học xuyên biên giới
    thì cô Quỳnh và bạn Phan rất muốn tổ chức ra các lớp học ảo để học xuyên biên giới để
    giúp đỡ các bạn học sinh Mỹ Lộc nói riêng và Việt Nam nói chung. Chính vì lí do đó chúng
    tôi đã cùng nhau lên kế hoạch tổ chức để giúp các bạn học sinh, sinh viên Việt Nam có cơ
    hội giao lưu học hỏi, tự tin hơn cải thiện dần khả năng nói Tiếng Anh.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
    2.1. Một số khái niệm
    2.1.1. Lớp học ảo
    Một lớp học ảo là một môi trường dạy và học nơi người tham gia có thể tương tác,
    giao tiếp, xem và thảo luận về các bài thuyết trình, và tham gia với tài nguyên học tập trong
    khi làm việc theo nhóm, tất cả trong một môi trường trực tuyến. Môi trường thường là
    thông qua một ứng dụng hội nghị truyền hình cho phép nhiều người dùng được kết nối
    cùng lúc thông qua Internet, cho phép người dùng từ hầu như bất cứ nơi nào để tham gia.
    Một lớp học ảo cho phép học sinh tiếp cận với các giáo viên chất lượng ở bất kỳ đâu miễn
    là cả hai đều có kết nối internet đáng tin cậy. Điều này có thể phá vỡ hầu hết các rào cản
    phổ biến đối với việc học đồng bộ: chi phí, khoảng cách và thời gian.
    • Khả năng hội nghị truyền hình (để giáo viên và học sinh có thể nhìn thấy nhau)
    4
    • Hội nghị âm thanh (để những người tham gia có thể nghe thấy nhau)
    • Trò chuyện văn bản trong thời gian thực
    • Bảng trắng trực tuyến tương tác (để người dùng có thể tương tác trên cùng một trang
    trực tuyến).
    • Thư viện tài liệu học tập (cần thiết để cung cấp các bài học có cấu trúc hơn)
    • Các công cụ và điều khiển dành cho giáo viên (giống như trong một lớp học vật lý)
    2.1.2. Học xuyên biên giới
    Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự phát triển bùng nổ của mạng và các công nghệ mới
    thì việc cộng tác học online ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Theo Lindsay (2016), học
    xuyên biên giới, hợp tác toàn cầu đề cập đến việc những nhà giáo dục, học sinh, lớp học,
    trường học và các môi trường giáo dục khác ở các nơi phân tán sử dụng công nghệ để học,
    làm việc với nhau trao đổi vì mục tiêu chung cụ thể nào đó cùng nhau tạo ra những kiến
    thức mới, tăng sự hiểu biết về văn hóa, tư duy phê phán, phản biện, năng lực cá nhân và
    năng lực xã hội. Không còn giới hạn trong không gian của lớp học truyền thống, người học
    có thể sử dụng các phần mềm như Zoom, Google Meet, Skype…tham gia các vào việc học
    xuyên biên giới này.
    2.2. Tổ chức lớp học
    Để hình thành lớp học và triển khai các hoạt động lớp học, chúng tôi trong ban cố
    vấn gồm có ba thành viên: Cô Phạm Quỳnh Giao – giảng viên trường đại học Y – David
    Geffen ở UCLA, cựu học sinh trường THPT Mỹ Lộc – Lê Phan – kĩ sư phần mềm ở SUSE
    và tôi Trần Thị Yến – giáo viên trường THPT Mỹ Lộc đã họp bàn và lên kế hoạch triển
    khai lớp học qua Zoom. Dưới đây là nội dung chi tiết các công việc chúng tôi triển khai để
    hình thành lớp học:
    2.2.1. Mục đích chung
    – Tạo không khí và môi trường giao lưu giao tiếp tiếng Anh cho học sinh Việt Nam
    với học sinh, sinh viên Mỹ.
    – Nâng cao khả năng nghe nói cho học sinh, tăng cường giao tiếp tự tin cho học sinh
    – Hình thành phát triển cho học sinh năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề, sáng tạo,
    năng lực hợp tác và năng lực sử dụng công nghệ thông tin
    – Bồi đắp thêm tình yêu sự say mê với tiếng Anh
    2.2.2. Phân công công việc
    5

    SttNội dungNgười phụ trách
    1Tuyển các bạn tình nguyện viên bên
    Mỹ và quản lý
    Cô Quỳnh Giao
    2Thiết kế websiteLê Phan
    3Tuyển học sinh bên Việt Nam và quản
    lý các vấn đề chung bên Việt Nam
    Trần Yến
    4Gửi mail và thông báo lịch học nội
    dung học
    Vanessa Tran, Michael
    Truong, Spencer Tran,
    Calvin Nguyen

    Ban cố vấn
    6
    Ban giám đốc điều hành
    Một số các bạn học sinh Mỹ tham gia chương trình
    2.2.3. Kinh phí hoạt động
    Kêu gọi ủng hộ từ các hoạt động của các bạn sinh viên và các nhà hảo tâm bên Mỹ.
    2.2.4. Thời gian học
    7
    Do có sự điều chỉnh giờ bên Mỹ vào mùa hè và mùa đông nên thời gian học của chương
    trình có sự khác biệt giữa mùa đông và mùa hè:
    – 10h30 – 11h30 sáng – mùa hè
    – 11h – 12h sáng – mùa đông
    2.2.5. Tuyển học sinh
    Để tuyển được các bạn học sinh tham gia vào chương trình, ban tổ chức chương trình
    đã truyền thông theo một số cách sau:
    – Thứ nhất, là thành viên trong ban tổ chức chịu trách nhiệm tuyển quản lý các bạn
    học sinh bên Việt Nam, tôi đã trực tiếp nhờ nhà trường tuyên truyền trước trường
    và gửi link google forms cho các bạn học sinh đăng kí.
    – Thứ hai, nhờ sự phát triển bùng nổ của công nghệ số mà tôi có thể sự dụng các ứng
    dụng của công nghệ số để tuyên truyền và lan toả cho các bạn học sinh ở một số
    tỉnh như Ninh Bình, Phú Thọ hay một số huyện quanh tỉnh. Tôi đã đăng bài trên
    facebook để giới thiệu về chương trình gửi link google forms cho các bạn học sinh
    8
    đăng kí. Và ngoài ra chúng tôi cũng có trang web riêng để tải nội dung học cũng
    như giới thiệu về chương trình.
    – Thứ ba, chương trình cũng có sự giới thiệu của chính các bạn học sinh đã tham gia
    từ chương trình chính các bạn học sinh đã chia sẻ và giới thiệu về chương trình cho
    các bạn của mình.
    2.2.6. Sắp xếp học sinh vào phòng học.
    Sau khi các bạn học sinh đăng kí qua google forms, chúng tôi sẽ tổng hợp và dựa
    vào phiếu để xếp học sinh tham gia vào các phòng nhỏ theo khả năng để các bạn kém hơn
    không bị tự ti hay không dám nói nếu cùng phòng với bạn giỏi hơn quá nhiều. Trong phiếu
    đăng kí của chúng tôi, chúng tôi có để mục các bạn tự đánh giá về khả năng ngoại ngữ của
    mình. Ngoài ra, các bạn học sinh có thể tham gia rồi tự đánh giá và trình bày nguyện vọng
    nếu muốn chuyển phòng khác.
    9
    2.2.7. Quyền lợi khi tham gia vào các lớp học trực tuyến
    – Học sinh từng bước hình thành và nâng cao năng lực giao tiếp và hợp tác trong môi
    trường số. Học sinh sử dụng thành thạo các chứng năng của phòng họp trực tuyến để
    hỗ trợ và giúp đỡ nhau trong học tập.
    – Được đảm bảo an toàn kỹ thuật số cho các học viên khi tham gia, có duyệt vào phòng,
    chỉ có người chủ trì, hoặc đồng chủ trì mới có quyền quay nên học sinh không sợ bị
    chia sẻ thông tin, hình ảnh cá nhân khi chưa được cho phép. Đảm bảo dữ liệu cá nhân,
    quyền riêng tư, bảo vệ thể chất tâm lý cho các học sinh tham gia.
    – Học sinh có thêm những hiểu biết, thêm tự tin và hoàn thiện hơn khả năng giao tiếp của
    mình.
    2.2.8. Yêu cầu và hình thức tổ chức dạy học trực tuyến qua Zoom
    – Dựa vào tính năng của lớp học trực tuyến trên Zoom: từ phòng lớn có thẻ chia thành
    các phòng nhỏ (3-4 học sinh người Mỹ và Việt Nam), để chia học sinh về các nhóm có
    sự phù hợp về trình độ, lứa tuổi chủ để
    – GV và cộng tác viên theo dõi và tương tác với các phòng nhỏ, kịp thời xử lý các vấn đề
    phát sinh để đảm bảo an ninh, an toàn số cho học viên; đồng thời để ra các nguyên tắc
    khi tham gia các lớp học trực tuyến:
    + Thực hiện buổi học theo đúng chủ đề đã đề ra
    + Không có hành vi xâm phạm đời tư của học viên tham gia học tập. Không chụp ảnh
    màn hình và chia sẻ hình ảnh cá nhân của học sinh, ban cố vấn hay bất kì ai trong chương
    trình lên các trang mạng xã hội mà chưa được cho phép của cá nhân đó.
    + Phải bật cam và mic trong suốt quá trình học
    + Không ăn hay làm việc riêng trong quá trình học
    10
    + Khi có việc cần rời phòng học phải thông báo lại cho các bạn học sinh Mỹ hoặc ban
    cố vấn ở phòng họp chính.
    2.3. Nội dung học
    Chủ yếu là các hoạt động thảo luận để học sinh có thể trao đổi kiến thức và kinh nghiệm
    với nhau. Đan xen vào đó sau một khoảng thời gian chúng tôi cũng tổ chức các cuộc thi và
    có những phần thưởng hấp dẫn để động viên khích lệ sự hăng say đam mê của các em học
    sinh.
    2.3.1. Hoạt động hàng tuần
    Mục tiêu:
    Hàng tuần để rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh chúng tôi sẽ chọn chủ đề và triển
    khai cho học sinh. Học sinh Mỹ và Việt Nam cùng nhau chia sẻ những kiến thức, thảo luận
    và trao đổi chia sẻ với nhau những điều bổ ích.
    Kế hoạch hoạt động:
    Chúng tôi sẽ gửi mail hàng tuần những gợi ý cho học sinh chuẩn bị trước hoặc đăng
    lên trang web của chương trình. Qua hơn 1 năm tổ chức thì chúng tôi đã triển khai được
    những nội dung sau với học sinh. Ban đầu chúng tôi tổ chức thảo luận các chủ điểm đã
    được chọn lọc trong chương trình 10, 11 của học sinh Việt Nam như generation gap, sports
    and music, celebrations and holidays in Vietnam and in the USA, global warming,
    relationship, staying healthy, technology. Dưới đây là các chủ đề mà chúng tôi đã triển
    khai được:

    STTChủ đềNgày thảo luận
    1Introductions30/01/2021
    2Tet06/02/2021
    3Sports and music20/02/2021
    4Gender equality and Generation gap13/03/2021
    5Becoming independent20/03/2021
    6Relationships27/03/2021
    7Healthy living03/04/2021
    8Technology10/04/2021
    9Problem solving/ Simulating situations at the airport17/04/2021
    10Food24/04/2021

    11

    11Violence01/05/2021
    12Dream08/05/2021
    13Covid-1915/05/2021
    14Sports, Fitness, Nutrition22/05/2021
    15Teach me29/05/2021
    16Study methods05/06/2021
    17Stories12/06/2021
    18Childhood and Family19/06/2021
    19Fashion26/06/2021
    20Social Norms and Customs10/07/2021
    21Crime17/07/2021
    22Games24/07/2021
    23Words of expression04/09/2021
    24Fitness and Musculoskeletal injuries11/09/2021
    25Famous people2/10/2021
    26Holidays and festivals9/10/2021
    27Teen’s stress and pressure16/10/2021
    28Animals23/10/2021
    29Halloween30/10/2021
    30Future plans6/11/2021
    31Online learning13/11/2021
    32Thanksgiving20/11/2021
    33Friendship4/12/2021
    34Beauty standard11/12/2021
    35Goals for the New Year8/1/2022
    36Marriage15/1/2022
    37Pets22/1/2022
    38Valentine’s Day12/2/2022

    Trong thời gian gần đây, ban tổ chức của chương trình được biết học sinh Việt Nam
    giờ đang chuẩn bị và thi ielts khá nhiều nên chúng tôi mong muốn sẽ chung tay cùng các
    bạn học sinh chuẩn bị thật tốt cho bài thi nói trong ielts. Trong thời gian tới hàng tuần
    12
    chúng tôi sẽ bám sát vào dạng bài thi ielts để hỗ trợ ôn luyện cùng các bạn học sinh Việt
    Nam chuẩn bị cho kì thi ielts. Dưới đây là 1 số chủ đề chúng tôi đã triển khai:

    STTChủ đềNgày thảo luận
    1Personal questions in ielts17/07/2022
    2Transportation23/07/2022
    3Music30/7/2022
    4Movies6/08/2022
    5Tardiness14/08/2022
    6Housework21/8/2022
    7Clothes28/8/2022
    8Newspapers and magazines4/9/2022
    9Sports18/9/2022

    Một số hình ảnh của các buổi học
    Phòng chia theo nhóm và có điểm danh mỗi buổi để thưởng chuyên cần
    13
    Giới thiệu về trước mỗi buổi thảo luận
    Đánh giá hoạt động:
    14
    Tôi đã tiến hành khảo sát trong các bạn học sinh và đa phần học sinh thích hoạt
    động thảo luận vì các chủ đề thảo luận khá đa dạng và hữu ích giúp các bạn có thêm
    những kiến thức mới hay và bổ ích.
    2.3.2. Hoạt động theo quý (Các cuộc thi)
    Mục tiêu:
    Sau một thời gian. chúng tôi có tổ chức các trò chơi như vòng đua câu đố, thi thuyết
    trình để tạo sự mới mẻ hứng thú cho các học sinh tham gia. Thay vì tuần nào cũng thảo
    luận các chủ đề chúng tôi muốn đan xen có các cuộc thi hoạt động để học sinh thử sức
    mình, học them những điều mới, tạo không khí vui tươi, gắn kết với chương trình.
    Kế hoạch hoạt động:
    – Vòng thi câu đố (Jeopardy Competition)
    Hai đội sẽ thi trả lời câu hỏi để loại và vào vòng trong. Lần đầu tiên sẽ ngẫu nhiên
    chọn 1 đội lựa chọn câu hỏi. Mỗi câu hỏi có số điểm tương ứng và người dẫn sẽ đọc câu
    hỏi. Sau khi đọc xong hai đội mới được giơ tay trả lời, ai giơ tay trước phạm luật đội còn
    lại sẽ được quyền trả lời. Bấm phím chức năng trong Zoom để giơ tay. Trả lời đúng nhận
    số điểm tương ứng trả lời sai bị trừ điểm. Cuối cùng ai có nhiều điểm nhất sẽ thắng và vào
    vòng trong. Sau các vòng loại bán kết và chung kết sẽ tìm ra đội thắng chung cuộc. Chúng
    tôi có tất cả 8 đội chơi như sau:

    Đội chơiThành viên
    1Angela Tran
    Emma
    Trần Thị Phương Linh

    15

    Trần Hoàng Linh
    Trần Quang Huy
    2Vanessa
    Viviana
    Nguyễn Thảo Chi
    Vũ Đăng Hưng
    3Calvin Nguyen
    Anthony
    Đào Thị Thu Trang
    Trần Phúc An
    Ngô Trần Nhật Minh
    Lê Thị Hồng Nhật
    4Chloe
    Marco
    Nguyễn Tất Đạt
    Nguyễn Trần Tú Linh
    Nguyễn Quỳnh Anh
    6Shannon
    CJ
    Trần Châu Anh
    Nguyễn Thị Hồng Nhung
    7Spencer
    Scott
    Anthony
    Laura
    Đinh Mai Anh
    Trần Thị Thu Phương
    Trần Việt Nhật
    Mai Phương Linh
    8Jackie
    Nicolas
    Charles

    16

    Nguyễn Thọ Anh
    Phùng Kiều Hà Phương
    Trần Thị Minh Ngọc
    Bùi Tuấn Anh
    9Joeffrry
    Krystal
    Nguyễn Nhật Quang
    Nguyễn Thị Quỳnh Lê
    Nguyễn Bảo Trang
    Nguyễn Phạm Như Quỳnh

    Cuộc đua câu đố
    17
    Kết quả cuộc thi vòng đua câu đố
    Chứng chỉ của cuộc thi
    – Cuộc thi thuyết trình
    18
    Học sinh sẽ tự chọn một chủ đề thuyết trình dưới 10 phút và chuẩn bị với sự góp ý hỗ
    trợ của các bạn học sinh sinh viên Mỹ. Học sinh có thể chọn quay video thuyết trình và
    nộp lại cho ban tổ chức hoặc thuyết trình trực tiếp sau đó các bạn học sinh Mỹ cùng phòng
    sẽ mượn quyền làm chủ trong zoom để ghi lại phần thuyết trình để gửi ban giám khảo đánh
    giá và chọn ra 6 bài xuất sắc nhất. Trong cuộc thi này chúng tôi chia học sinh thành 2 trình
    độ – giỏi và khá để các bạn thi với nhau cho đỡ bị lệch về trình độ và để các bạn học sinh
    đỡ mất tự tin khi thi với nhau. Dưới đây là các bài thuyết trình mà học sinh đã đăng kí và
    trình bày:

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Tăng cường kỹ năng nói cho học sinh ở trường THPT theo định hướng bài kiểm tra năng lực tiếng Anh quốc tế IELTS

    SKKN Tăng cường kỹ năng nói cho học sinh ở trường THPT theo định hướng bài kiểm tra năng lực tiếng Anh quốc tế IELTS

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Nhận thức được vai trò của môn tiếng Anh và việc dạy học môn tiếng
    Anh ở các trường THPT hiện nay
    Tiếng Anh là môn học bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông từ
    lớp 3 đến lớp 12. Là một trong những môn học công cụ ở trường phổ thông,
    môn Tiếng Anh không chỉ giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực giao
    tiếp bằng tiếng Anh mà còn góp phần hình thành và phát triển các năng lực
    chung, để sống và làm việc hiệu quả hơn, để học tập tốt các môn học khác cũng
    như để học suốt đời. Môn Tiếng Anh cung cấp cho học sinh một công cụ giao
    tiếp quốc tế quan trọng, giúp các em trao đổi thông tin, tri thức khoa học và kỹ
    thuật tiên tiến, tìm hiểu các nền văn hoá, qua đó góp phần tạo dựng sự hiểu biết
    giữa các dân tộc, hình thành ý thức công dân toàn cầu, góp phần vào việc phát
    triển phẩm chất và năng lực cá nhân. Thông qua việc học Tiếng Anh và tìm hiểu
    các nền văn hóa khác nhau, học sinh có thể hiểu rõ hơn, thêm yêu ngôn ngữ và
    nền văn hóa của dân tộc mình.
    Với tư cách là môn học bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông,
    môn Tiếng Anh còn liên quan trực tiếp và có tác động qua lại với nhiều môn
    học/nội dung giáo dục khác như Ngữ văn/Tiếng Việt, Tự nhiên và xã hội, Lịch
    sử và Địa lí, Nghệ thuật, Giáo dục thể chất, Tin học, Hoạt động trải nghiệm.
    Tiếng Anh còn là công cụ để dạy và học các môn học khác, đặc biệt là môn
    Toán và các môn khoa học tự nhiên.
    Trong một thế giới ngày càng “phẳng” trước sự chuyển dịch tư duy trong
    lĩnh vực hợp tác – hội nhập theo hiệp định TPP (Hiệp định đối tác xuyên Thái
    Bình Dương) và Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) sẽ mở ra một khu vực mới
    về hợp tác kinh tế và thúc đẩy tự do giao thương giữa các nước trên toàn thế
    giới, thì ngoại ngữ ngày càng trở nên quan trọng. Chính vì lẽ đó các thách thức
    của hội nhập quốc tế đối với khu vực Đông Nam Á trong đó có Việt Nam chính
    là việc giao tiếp. Trước xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, Tiếng Anh được xem là
    ngôn ngữ sử dụng phổ biến nhất thế giới khi mà có gần 60 quốc gia sử dụng
    tiếng Anh là ngôn ngữ chính, bên cạnh tiếng mẹ đẻ và gần 100 quốc gia sử dụng
    tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai. Vì vậy, ngoại ngữ này có vai trò rất quan trọng
    trong thời kỳ hội nhập toàn cầu hóa hiện nay. Mối quan hệ của con người cũng
    như sự hợp tác, đầu tư trong bất kỳ lĩnh vực nào từ kinh doanh, thương mại, giao
    2
    thông, công nghệ, truyền thông, du lịch…đến những cơ hội trong học tập, làm
    việc, mở rộng các mối quan hệ để hợp tác đều không chỉ bó hẹp ở Việt Nam mà
    còn mở rộng ra các nước khác trên thế giới. Tiếng Anh chính là một trong
    những công cụ hữu hiệu, đóng vai trò to lớn trong việc giúp bạn bè năm châu
    hiểu được tiếng nói của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
    Với việc hội nhập quốc tế, tiếng Anh không còn là yếu tố “cộng điểm” mà là tiêu
    chí quan tâm hàng đầu của cộng đồng, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong
    thành công của nhiều cá nhân và doanh nghiệp.
    Mục tiêu cơ bản của Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Anh là
    giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực giao tiếp thông qua rèn luyện các
    kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và các kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ
    pháp). Các kỹ năng giao tiếp và kiến thức ngôn ngữ được xây dựng trên cơ sở
    các đơn vị năng lực giao tiếp cụ thể, trong các chủ điểm và chủ đề phù hợp với
    nhu cầu và khả năng của học sinh phổ thông nhằm giúp các em đạt được các yêu
    cầu quy định trong Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam (ban
    hành theo Thông tư số 01/2014/TT-BGDĐT ngày 24 tháng 01 năm
    2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
    Ở cấp trung học phổ thông, việc dạy học Tiếng Anh giúp học sinh phát
    triển năng lực giao tiếp bằng tiếng Anh dựa trên nền tảng chương trình Tiếng
    Anh các cấp tiểu học và trung học cơ sở, trang bị cho học sinh kỹ năng học tập
    suốt đời để không ngừng học tập và phát triển năng lực làm việc trong tương lai.
    Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Anh giúp học sinh phát triển các
    kỹ năng và năng lực cần thiết để trở thành người học độc lập, tận dụng các cơ
    hội từ giáo dục chính quy và không chính quy để đáp ứng nhu cầu học tập cá
    nhân. Cùng với việc giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực tự đánh giá
    những kiến thức và kỹ năng của bản thân để định hướng phát triển trong tương
    lai, Chương trình cần trang bị cho học sinh nền tảng vững chắc để hình thành và
    phát triển các kỹ năng học tập độc lập, học tập suốt đời, qua đó định hướng nghề
    nghiệp trong tương lai để các em có thể đóng góp vào sự phát triển của đất nước
    trong suốt cuộc đời của mình.
    Chương trình của các cấp quản lý được kỳ vọng cao nhưng thực tế việc dạy
    và học tại các cơ sở đào tạo đặc biệt tại các trường THPT chưa được như kỳ vọng.
    Bên cạnh một số ít các trường đã chú trọng đến phát huy năng lực phẩm chất
    người học, đổi mới phương pháp tăng cường kỹ năng nghe, nói, đọc, viết thì còn
    3
    có rất nhiều trường đứng trước nguy cơ giáo viên thiếu và yếu. Học ở trường, giáo
    viên giảng dạy chỉ chú trọng ngữ pháp, từ vựng và thi viết. Học sinh gần như
    không được thực hành nghe, nói, thảo luận, học sinh không có điều kiện luyện tập
    kỹ năng như nghe, nói vì không có phòng thực hành. Chương trình học quá nặng
    về ngữ pháp, biến các học sinh thành “cuốn ngữ pháp biết đi”.
    Một thực trạng đáng lưu tâm là hình thức thi cử, kiểm tra phần lớn dựa
    vào đọc, viết, để thực hiện một bài kiểm tra nói chiếm nhiều thời gian trong khi
    thời lượng chương trình khá eo hẹp, đội ngũ giáo viên còn mỏng cùng với kiêm
    nhiệm quá nhiều công việc một lúc khiến cho việc dạy thực hành nghe nói, việc
    kiểm tra đánh giá kỹ năng nghe nói chưa được thực hiện đúng như kỳ vọng. Một
    rào cản nữa cần được phá bỏ nếu muốn nâng cao chất lượng dạy và học tiếng
    Anh chính là năng lực và thái độ của một bộ phận giáo viên đối với kỹ năng
    thực hành tiếng Anh. Một số giáo viên có tâm lý thích dạy ngữ pháp hơn vì có
    sẵn tài liệu, học liệu hơn, họ ngại dạy các kỹ năng thực hành vì do năng lực nghe
    nói của họ có thể còn chưa thực sự xuất sắc.
    Chính vì vậy các nhà trường cần phải nhận thức rõ ràng rằng: giáo viên
    cần được xem là quan trọng nhất, mang tính đột phá trong việc tạo ra môi trường
    dạy và học ngoại ngữ sinh động trong nhà trường. Muốn đổi mới phương pháp,
    muốn nâng cao năng lực, bồi dưỡng phẩm chất cho học sinh, muốn chú trọng
    đọc, viết, hay muốn chú trọng nghe nói đều từ chính giáo viên. Khi đã có giáo
    viên tốt, chương trình – sách giáo khoa đã được cải tiến, thầy cô cần giúp học
    sinh vượt qua nỗi sợ tiếng Anh, giúp các em bỏ qua tâm lý sợ sai, xấu hổ khiến
    nhiều em không dám nói, chỉ thích làm bài tập ngữ pháp.
    Từ những phân tích đó, có thể khẳng định rằng nhà trường chỉ có thể tạo ra môi
    trường dạy và học tiếng Anh năng động khi kết hợp được các yếu tố: Giáo viên
    giỏi, nội dung giảng dạy tiên tiến, ưu tiên thực hành và cơ sở vật chất đảm bảo.
    2. Một số bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh quốc tế
    Bài thi Tiếng Anh TOEIC (Test of English for International
    Communication) là bài kiểm tra trình độ giao tiếp tiếng Anh giao tiếp quốc tế.
    Chứng chỉ TOEIC có giá trị 2 năm. Bằng ngoại ngữ này thích hợp cho người
    muốn làm việc trong môi trường quốc tế hoặc sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp
    hàng ngày. Đề thi tiếng Anh TOEIC sẽ được chia thành 4 phần: nghe, nói, đọc,
    viết. Trên thực tế, phần thi nghe, đọc là phổ biến nhất và được nhiều thí sinh
    4
    đăng ký. Kỳ thi TOEIC sẽ diễn ra trong vòng 2 tiếng bao gồm 200 câu hỏi trắc
    nghiệm cho hai phần.
    Bài thi Tiếng Anh TOEFL (Test Of English as a Foreign Language) là bài thi
    đánh giá trình độ tiếng Anh của bạn trong môi trường học thuật, cụ thể là ở các
    nước nói tiếng Anh Mỹ. Chứng chỉ TOEFL thích hợp cho những người dùng
    tiếng Anh phục vụ mục đích học tập nghiên cứu và mang tính hàn lâm.
    Tương tự như các loại chứng chỉ Tiếng Anh khác, bằng TOEFL có thời hạn 2
    năm. Bài thi tiếng Anh TOEFL kéo dài trong vòng 4 tiếng và yêu cầu thí sinh
    phải thành thạo kỹ năng nghe, nói đọc, viết. Thí sinh có thể tham gia thi kì thi
    qua hình thức online (TOEFL iBT) và offline (TOEFL CBT, TOEFL PBT).
    Bài thi Tiếng Anh Cambridge ESOL được nhiều trường Đại học và Cao
    đẳng sử dụng. Bằng tiếng Anh này có thể phục vụ cho việc học, công việc hoặc
    định cư ở nước ngoài. Đây là loại chứng chỉ tiếng anh có giá trị vĩnh viễn, thí
    sinh chỉ cần tham gia thi một lần là có thể sử dụng chứng chỉ cả đời.
    Bài thi Tiếng Anh CEFR ( Common European Framework of Reference
    for Languages ) hay còn gọi là Khung tham chiếu trình độ ngôn ngữ chung của
    Châu u. Đây là bài thi quốc tế được sử dụng để đánh giá trình độ ngôn ngữ.
    Bài thi Tiếng Anh IELTS, trong số các chứng chỉ tiếng Anh thì IELTS là chứng
    chỉ Tiếng Anh phổ biến hàng đầu. IELTS (International English Language
    Testing System) là hệ thống bài kiểm tra về mức độ sử dụng thành thạo tiếng
    Anh. Academic(học thuật) và General training module (đào tạo chung) là hai
    hình thức của bài thi IELTS mà thí sinh có thể lựa chọn. Loại hình Academic sẽ
    phù hợp với những người muốn học ở các học viện, trường đại học hoặc các
    hình thức đào tạo sau bậc đại học. Trong khi đó, General training module sẽ
    dành cho những học sinh mong muốn học nghề, tìm việc hoặc di cư sang nước
    ngoài. Chứng chỉ IELTS sẽ có thời hạn sử dụng trong vòng 2 năm. Đề thi
    IELTS sẽ bao gồm 4 kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết. Thí sẽ thi chung phần thi
    nghe và nói, trong khi phần thi đọc và viết sẽ tùy thuộc vào hình thức thi mà thi
    sinh lựa chọn là Academic hay General.
    3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi thời gian áp dụng đề tài
    – Đối tượng nghiên cứu: Là học sinh lớp 11A6, trong đó tôi chia lớp thành
    2 nhóm nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng.
    – Thời gian thực hiện: Trong năm học 2021-2022
    5
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Hiện trạng trước khi áp dụng sáng kiến
    1.1.1 Thực trạng dạy và học tiếng Anh tại trường THPT Trần Hưng Đạo
    Là một trường nằm ngay giữa trung tâm thành phố Nam Định, với đội ngũ
    giáo viên đạt chuẩn, 100% giáo viên đều có chứng chỉ C1, 40% giáo viên đã đạt
    trình độ Thạc sĩ, học sinh đầu vào có điểm thi tiếng Anh khá cao, chính vì vậy
    trường THPT Trần Hưng Đạo có kết quả giảng dạy tiếng Anh tương đối khả
    quan, kết quả các kỳ khảo sát thường nằm trong danh sách các trường có kết quả
    cao của tỉnh Nam Định.
    Nhà trường và tổ bộ môn luôn thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của cấp
    trên, nhà trường luôn quan tâm đến bồi dưỡng đội ngũ giáo viên tiếng Anh, tính
    đến năm học 2019-2020 có 9/10 giáo viên được tham gia các lớp bồi dưỡng
    năng lực do Hội đồng Anh giảng dạy, tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư
    phạm, phương pháp giảng dạy do Sở Giáo dục tổ chức. Tổ bộ môn luôn đi đầu
    trong các hoạt động chuyên môn của nhà trường, luôn sát sao với các hoạt động
    chỉ đạo chuyên môn như tham gia tích cực và đạt kết quả cao trong các lượt sinh
    hoạt chuyên môn của Cụm trường, thực hiện sinh hoạt chuyên môn theo hướng
    nghiên cứu bài học thiết thực và hiệu quả, thăm lớp, dự giờ thường xuyên,
    nghiêm túc, xây dựng ngân hàng câu hỏi cho các kỳ kiểm tra theo đúng ma trận
    và bản đặc tả, từ đó giúp giáo viên và học sinh có định hướng rõ ràng trong quá
    trình dạy và học. Sau các kỳ kiểm tra hoặc khi tham khảo được đề kiểm tra khảo
    sát của các đơn vị bạn, tổ chuyên môn thường họp rút kinh nghiệm về đề kiểm
    tra, từ đó từng giáo viên trong tổ tiếp cận với cách ra đề chuẩn, để giúp giáo viên
    hiểu rõ yêu cầu của từng đề, giúp giáo viên và học sinh có mục tiêu rõ ràng
    trong quá trình lên lớp.
    Ngoài ra, được sự quan tâm chỉ đạo của cấp trên, nhà trường, tổ bộ môn
    cũng rất chú trọng đến các hoạt động khác nhằm nâng cao chất lượng học và dạy
    tiếng Anh trong nhà trường. Nhà trường phối hợp với trung tâm ngoại ngữ
    Sydney tổ chức dạy tiếng Anh nghe nói với người bản ngữ để nâng cao kỹ năng
    giao tiếp tiếng Anh cho học sinh. Từ năm học 2021 -2022, nhà trường cùng tổ
    bộ môn tuyên truyền, vận động tích cực để phụ huynh và học sinh tham gia vào
    kỳ thi IELTS do Sở Giáo dục và đào tạo đồng tổ chức đạt số lượng và chất
    lượng tốt.
    6
    Mỗi giáo viên trong tổ đều nỗ lực, phấn đấu trong việc nâng cao chuyên
    môn, giảng dạy theo đúng chuẩn kiến thức kỹ năng. Các giáo viên tham gia các
    khóa học, các đợt Hội thảo (bắt buộc và tự nguyện) tích cực, đều đặn nhằm bồi
    dưỡng chuyên môn, nâng cao nghiệp vụ. Trong từng giờ lên lớp, từng hoạt động
    chuyên môn, giáo viên dành nhiều cố gắng trong việc vận dụng phương pháp
    giảng dạy theo hướng tích cực hóa các hoạt động của học sinh, rèn luyện kỹ
    năng ngôn ngữ cho người học.
    Cha mẹ học sinh và học sinh cũng rất quan tâm đến việc học tiếng Anh và
    đầu tư tương đối nhiều cho con em học tiếng Anh, đặc biệt rất quan tâm đến các
    kỳ thi, bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh quốc tế.
    Tuy vậy, cũng cần nhận thấy việc dạy và học hiện đang thiên nhiều hơn
    đến việc “luyện thi”, chú trọng đến các bài thi ngữ pháp trên giấy thay vì chú
    trọng đến các kỹ năng, đặc biệt kỹ năng nói – trong quá trình giảng dạy các kỹ
    năng, giáo viên tuy có nhiều cố gắng trong việc vận dụng phương pháp giảng
    dạy theo hướng tích cực hóa các hoạt động của học sinh, nhưng giáo viên chỉ có
    thể áp dụng được đối với một số bài, một số tiết và một số bộ phận học sinh.
    Nguyên nhân một phần là do sĩ số học sinh đông trong một lớp, một phần do
    một số giáo viên còn chưa chịu khó đầu tư vào các tiết dạy, chưa quan tâm tìm
    tòi những phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh nên chất
    lượng, hiệu quả dạy học cho một số kỹ năng chưa thật sự như mong muốn.
    Các đối tượng học sinh yếu kém cần được quan tâm nhiều hơn để tạo điều kiện
    cho các em vươn lên. Có nhiều giáo viên trẻ song các thầy, cô còn chưa có nhiều
    kinh nghiệm giảng dạy, cần ý thức học hỏi trau dồi kiến thức cao hơn.
    1.1.2. Thực trạng dạy và theo định hướng IELTS tại THPT Trần Hưng Đạo
    Khi Bộ Giáo dục và đào tạo quy định miễn thi môn ngoại ngữ cho những
    thí sinh có chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế (có thể trùng hoặc khác với môn ngoại
    ngữ đang học ở trường phổ thông), khi đạt mức điểm tối thiểu do Bộ Giáo dục
    và đào tạo quy định và một số trường Đại học sử dụng chứng chỉ IELTS là một
    trong những tiêu chí xét tuyển sinh thì xu hướng dạy và học và thi chứng chỉ
    IELTS không chỉ phát triển tại trường THPT Trần Hưng Đạo mà ở tất cả các cở
    sở giáo dục trên phạm vi cả nước. Cha mẹ học sinh nhanh chóng đưa con em
    mình tới các trung tâm và thậm chí sang tới các tỉnh có mặt bằng tiếng Anh tốt
    để luyện thi IELTS
    7
    Đứng trước xu thế trên giáo viên tiếng Anh tại nhà trường đã chủ động tự
    học, tự nghiên cứu, tham gia các lớp học IELTS có phí cũng như miễn phí bằng
    cả hình thưc trực tuyến và trực tiếp nhằm nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức
    chuẩn bị tâm thế cùng học sinh trong lộ trình chinh phục các bài thi.
    Tuy nhiên, để dạy song hành cùng chương trình giáo dục hiện hành là
    điều khó khăn với cả giáo viên và học sinh, đặc biệt là kỹ năng nói. Các tiết học
    kỹ năng nói thường không được dành nhiều thời gian vì các kỳ kiểm tra khảo sát
    thường không bao gồm kỹ năng nói. Các tiết dạy kỹ năng nói chỉ nằm trong nội
    dung sách giáo khoa, không có tính liên thông kết nối với các bài kiểm tra năng
    lực tiếng Anh quốc tế. Dạy và học nói theo định hướng bài kiểm tra IELTS còn
    ít được thực hiện hơn vì thời lượng eo hẹp, phần kỹ năng nói trong sách giáo
    khoa nhiều nội dung chưa trùng khớp với nội dung bài thi IELTS, quan trọng
    hơn cả là thái độ, tâm thế của giáo viên chưa thực sự sẵn sàng cho việc dạy các
    kỹ năng theo định hướng bài thi kiểm tra năng lực quốc tế và cha mẹ học sinh
    còn hoài nghi chất lượng giảng dạy theo đinh hướng bài thi IELTS giữa thầy cô
    trong nhà trường và các trung tâm và cơ sở giáo dục ngoài nhà trường.
    1.2. Ưu điểm, nhược điểm của giái pháp cũ
    – Ưu điểm: tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức của người dạy và người
    học. Người dạy không cần mất thời gian biên soạn lại nội dung sách giáo khoa,
    sưu tầm tài liệu.
    – Nhược điểm: người học không được mở rộng kiến thức, không nắm
    được sự liên thông kết nối giữa chương trình học trong sách và các nội dung
    đồng tâm trong các bài kiểm tra năng lực quốc tế. Người học không được tiếp
    cận với các kiểu bài thi kiểm tra năng lực quốc tế, chưa đạt kết quả cao khi tham
    gia thi lấy chứng chỉ.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1. Mục đích nghiên cứu sáng kiến
    Đứng trước thực trạng đã trình bày một phần ở trên, tác giả sáng kiến thấy
    thực sự băn khoăn khi học sinh và cha mẹ học sinh rất tốn kém thời gian và tiền
    bạc để theo đuổi các khóa luyện thi, nhiều gia đình đã chi phí rất tốn kém cho
    con em mình nhưng thực sự chưa đạt kết quả như mong muốn còn nhà trường có
    đội ngũ chuyên môn tốt, nhiệt tình tâm huyết, cơ sở vật chất đầy đủ, các nội
    dung giảng dạy theo yêu cầu đã được soạn giảng khá chi tiết. Chính vì thế, sáng
    kiến này ra đời, nhằm giải quyết băn khoăn trên, nhằm bước đầu giúp giáo viên
    8
    định hình ra các hướng đi để cô trò cùng tiếp cận với bài thi năng lực quốc tế
    IELTS, nhằm giúp cha mẹ học sinh bớt phần chi phí cho con em mình, nhằm
    giúp tạo niềm tin cho cha mẹ học sinh và học sinh có niềm tin sâu sắc vào các
    thầy cô mình trong lĩnh vực chinh phục bài thi IELTS.
    2.2. Ưu nhược điểm của sáng kiến
    – Ưu điểm: Sáng kiến có tính hoàn toàn mới, cải tiến so với giải pháp cũ
    và hiệu quả rất cao, tất cả các giáo viên và học sinh trước đây thấy rất nan giải
    cho khi lên kế hoạch cho việc dạy và học theo hướng tiếp cận các bài kiểm tra
    năng lực tiếng Anh quốc tế, đặc biệt là bài thi IELTS, sau khi sáng kiến ra đời,
    như một kênh để giúp người dạy và người học tháo gỡ khó khăn. Sáng kiến có
    tính khả thi cao vì đơn giản khi áp dụng, không cần chi phí nhiều, không cần sự
    can thiệp sâu của các cơ quan cấp trên, chỉ cần giáo vên và học sinh có định
    hướng. Sáng kiến đã được áp dụng tại trường THPT Trần Hưng Đạo và một số
    trường THPT khác và được phản hồi rất tốt.
    – Nhược điểm: Vì thời gian áp dụng sáng kiến còn chưa nhiều nên các tài
    liệu bổ trợ còn chưa thật sự đa dạng.
    2.3. Nội dung sáng kiến
    2.3.1. Các khái niệm trong sáng kiến
    a) Tăng cường
    Theo từ điển Tiếng Việt tăng cường có nghĩa là “làm cho mạnh thêm, làm
    cho nhiều thêm”. Cần hiểu rộng ra là căn cứ trên nền tảng đã có sẵn, tăng cường
    là làm nhiều hơn về số lượng, mạnh hơn về cường độ, lớn hơn trọng lượng. Khi
    người học mới chỉ có kiến thức ở mức độ thấp, người dạy sẽ áp dụng các giải
    pháp để nâng cao kiến thức. Cụ thể trong sáng kiến này, khi học sinh mới chỉ
    nói tiếng Anh được ở mức độ thấp, giáo viên sẽ áp dụng các giải pháp để giúp
    học sinh nâng nói tốt hơn, đạt trình độ cao hơn, đặc biệt đáp ứng các tiêu chí của
    một bài thi quốc tế.
    b) Kỹ năng nói
    Trong giao tiếp thì NOI là quan trọng nhất, nếu không NOI được thì việc
    giao tiếp sẽ cực kỳ khó khăn. NOI là một trong những kỹ năng nền tảng đầu tiên
    trước khi muốn học tiếng Anh giao tiếp.
    Trong môi trường giảng dạy tiếng Anh có ít nhất năm cấp độ nói mà người học
    trải qua. Người viết sáng kiến sau khi nghiên cứu thì thấy có các cấp độ sau: cấp
    độ một là “imitative” – có nghĩa là “bắt chước”, ở cấp độ này học sinh mới dừng
    9
    ở bắt chước đọc các từ, cụm từ mà giáo viên cung cấp. Học sinh có thể chưa
    hiểu hết các từ mà đơn giản chỉ là nhắc từ theo giáo viên. Cấp độ hai là
    “intensive”– có nghĩa là “tăng cường”. Ở cấp độ này học sinh có thể nói lại được
    câu dài hơn (đọc một bài hội thoại sẵn có) hoặc trả lời rất ngắn những câu hỏi
    sẵn có như “Yes”, “No”. Cấp độ ba là “responsive” – “đáp lại”, “phản hồi”, ở
    cấp độ này, mức độ cũng không khác nhiều so với cấp độ ba, người học nói sẽ
    bổ sung thêm một lượng ít từ trong câu trả lời ngắn hoặc từ hội thoại mẫu, dựng
    nên hội thoại tương tự để nói theo nhưng trong ngữ cảnh rất đơn giản. Cấp độ
    tiếp theo là “interactive”- “tương tác, tác động”. Không chỉ dừng ở những câu
    trả lời rất ngắn hay bắt chước nói theo nhưng đoạn hội thoại mẫu, trong giai
    đoạn này, người học nói tiếng Anh đã diễn đạt được trọn vẹn ý nghĩ, suy nghĩ
    của cá nhân với các cụm từ, các tiếng lóng, sự tỉnh lược… để diễn đạt ý theo chủ
    đề. Giai đoạn này phức tạp hơn, đòi hỏi sự sử dụng ngôn ngữ ở mức độ cao hơn
    rất nhiều so với ba giai đoạn trên. Cấp độ cuối cùng và phức tạp nhất là
    “extensive” có nghĩa là “mở rộng, có phạm vi lớn”. Cấp độ này thường thể hiện
    trong các bài thuyết trình, phát biểu, kể chuyện, diễn văn, …Cấp độ này đòi hỏi
    sự sử dụng ngôn ngữ thành thạo, sự chuẩn bị kỹ kỹ lưỡng khi nói và cả vốn kiến
    thức nền bổ trợ. Trên đây là năm cấp độ từ đơn giản đến phức tạp, từ khó đến dễ
    khi người học nói nói chung và nói trong lớp học tiếng Anh nói riêng. Trong các
    bài thi nói tại trường THPT và bài kiểm tra năng lực tiếng Anh IELTS thì yêu
    cầu cần đạt ở mức độ bốn và mức độ năm. Ở hai mức độ cao nhất trong giao
    tiếp, chính vì vậy giáo viên cần hiểu rõ các cấp độ, hiểu rõ học sinh mình đang ở
    cấp độ nào để bồi dưỡng, tăng cường, để có các hỗ trợ phù hợp giúp các em đạt
    mục tiêu.
    Bên cạnh việc quan tâm tới các cấp độ trong quá trình giảng dạy, giáo
    viên cũng cần quan tâm đến các tiêu chí cần đạt trong quá trình dạy và học nói.
    Tiêu chí thứ nhất là độ trôi chảy (FLUENCE). “Độ trôi chảy không chỉ là không
    ngắc ngứ, không trúc trắc khi tạo âm mà còn là khi người nói cảm thấy thực sự
    tự tin và thoải mái khi nói ”. Có thể người nói nói cả một câu dài, nói cả một bài
    dài không vấp váp, nhưng nếu không có sự thoải mái, tự tin thì đó chưa hẳn là
    trôi chảy. Người nghe chờ đợi được nghe ngôn ngữ thực từ một người tự tin giao
    tiếp, thoải mái khi nói tiếng Anh. Tiêu chí người viết muốn đề cập tiếp theo là từ
    vựng (VOCABULARY). Lượng từ vựng phong phú, đa dạng theo chủ đề sẽ
    được đánh giá cao, tất nhiên có lượng từ vựng phong phú nhưng dùng đúng ngữ
    10
    cảnh và điều vô cùng đáng lưu tâm. Do người học có thói quen dịch từ tiếng mẹ
    đẻ sang ngôn ngữ đích nên việc sử dụng từ sai ngữ cảnh có thể gây hiểu nhầm,
    từ đó giảm mức độ truyền tải thông tin tới người nghe. Tiêu chí thứ ba là ngữ
    pháp (GRAMMAR). Khi nói nhiều thời điểm người nói quá tư duy đến cách sử
    dụng từ vựng, mặc dù rất giỏi về lý thuyết ngữ pháp nhưng khi tạo âm người nói
    lại quên cách dùng thì, chỉ dùng được các câu đơn hay không thể sử dụng linh
    hoạt các loại mệnh đề. Tiêu chí tiếp theo là phát âm (PRONUNCIATION). đây
    là yếu tố quan trọng nhất nhì trong nói đặc biệt trong bài thi IELTS Speaking, vì
    nó để lại ấn tượng đầu tiên của giám khảo về người thi. Tiêu chí này sẽ được
    đánh giá dựa trên: các nguyên âm (vowel) và phụ âm (consonant) được phát âm
    một cách chính xác; nhấn đúng trọng âm (stress); có ngữ điệu (intonation), nhịp
    điệu (rhymth) lên xuống phù hợp. Không nói quá chậm hay quá nhanh, đồng
    thời phải ngắt giọng đúng chỗ.
    Căn cứ vào các cấp độ nói, các tiêu chí nói mà người dạy sẽ định hướng,
    bổ sung, hỗ trợ người học nhằm đạt hiệu quả trong qua trình giảng dạy và kết
    quả cao trong quá trình làm các bài thi.
    c) Bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh quốc tế (IELTS)
    Đặc điểm của bài thi năng lực tiếng Anh quốc tế (IELTS)
    IELTS là viết tắt của International English Language Testing System.
    IELTS kiểm tra mức độ thông thạo ngôn ngữ tiếng Anh phổ biến nhất trên thế
    giới được chấp nhận cho mục đích làm việc, học tập và di trú. Bài thi IELTS
    được chia làm 2 loại: “Academic” – IELTS học thuật (dành cho ai muốn đăng kí
    học tại các trường đại học, học viên hoặc các chương trình đào tạo sau đại học)
    và “General training module” – IELTS tổng quát ( loại hình dành cho ai
    muốn học nghề, xin việc hay định cư tại các quốc gia nói tiếng Anh). Một bài thi
    IELTS gồm 4 phần: “IELTS Listening” – kiểm tra kỹ năng nghe: 40 phút;
    IELTS Speaking: kiểm tra kỹ năng nói: 10-11 phút; IELTS Reading, kiểm tra
    kỹ năng đọc: 60 phút; IELTS Writing: kiểm tra kỹ năng viết: 60 phút
    Những điều cần biết về IELTS Speaking
    Vì khuôn khổ sáng kiến nghiên cứu nội dung kỹ năng nói nên người viết sẽ
    đi sâu hơn vào kỹ năng nói để giáo viên và học sinh hiểu rõ hơn về kỹ năng này.
    Thi nói “IELTS Speaking” là bài thi mặt đối mặt trực tiếp với người chấm
    thi. Cho dù học sinh có thi IELTS trên máy thì phần thi nói vẫn được thực hiện
    tương tự. Thi nói “IELTS Speaking” trong IELTS chỉ được thực hiện 1 lần cho 1
    11
    người thi. Mỗi bài thi nói “IELTS Speaking” đều được thu âm để thí sinh có thể
    yêu cầu chấm lại điểm (nếu cần). Người chấm thi cũng là người sẽ trực tiếp nói
    chuyện với thí sinh thi. Độ dài của phần thi nói “Speaking IELTS” từ 11 đến 14
    phút. Người chấm thi sẽ kiểm soát thời gian cũng như độ dài câu trả lời của thí
    sinh nên khi người chấm chuyển ý hay yêu cầu dừng lại thì thí sinh nên nghe
    theo. Nội dung bài thi IELTS Speaking bao gồm:
    • Phần 1:
    Thí sinh sẽ được hỏi những câu hỏi chung về bản thân và vài chủ đề
    tương tự như là gia đình, công việc, học tập và sở thích. Phần này kéo dài từ bốn
    đến năm phút. các câu hỏi đơn giản liên quan đến giao tiếp thông dụng, thường
    là về các vấn đề cá nhân như gia đình, công việc, việc học ở trường, sở thích cá
    nhân. Tránh đưa ra các câu trả lời ngắn gọn như “Yes, I do/No, I don’t”.
    • Phần 2:
    Thí sinh sẽ được trao một mẫu giấy yêu cầu nói về một chủ đề cụ thể. Thí
    sinh sẽ có một phút để chuẩn bị trước khi nói tối đa hai phút. Sau đó giám khảo sẽ
    hỏi một hoặc hai câu về chủ đề này để kết thúc phần thi. Ở phần thi này, các chủ
    đề đưa ra vẫn khá đơn giản, dễ hiểu; và sẽ liên quan trực tiếp tới những trải nghiệm
    trong cuộc sống. Tuy nhiên, điều quan trọng là người dự thi phải sắp xếp ý như thế
    nào để bài nói của mình có trật tự, rõ ràng và dễ hiểu. Vậy nên hãy trả lời những
    đầu câu hỏi như What/ Where/ When/ Why/ How to use/ How often.
    • Phần 3:
    Trong phần 3, thí sinh sẽ tham gia vào một cuộc bàn luận (discussion) với
    giám khảo về các chủ đề mang tính xã hội cao hơn và phức tạp hơn so với đề thi
    của các phần trước đó. Ở phần thi này, thí sinh cần thể hiện được các kĩ năng
    đưa ra quan điểm, dự đoán và nhận định về các sự kiện có thể xảy ra trong tương
    lai, nhận xét về các xu hướng và đưa ra giải pháp cho các vấn đề. Thí sinh nên
    sử dụng các cách diễn đạt ý kiến khác nhau trong phần này thay vì sử dụng “ I
    think…”. Người dự thi nên dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau như “ In my
    opinion,..”, “ It seems to me that…”, “It appears to me that”.
    Có 4 tiêu chí chấm điểm IELTS Speaking (tham khảo từ Hội đồng Anh)
    12
    Bảng 1: Tiêu chí chấm KN nói trong bài thi IELTS (tham khảo từ Hội đồng Anh)
    Một số chủ đề thường gặp trong phần kiểm tra kỹ năng nói IELTS
    • Phần 1:

    Chủ đềCâu hỏi thường hỏi
    WORKWhat is your job?
    Where do you work?
    Why did you choose that job?
    Is it a popular job in your country?
    Do you like your job?
    Do you get on well with your colleagues?
    What was your first day like?
    What responsibilities do you have at work?
    If you had the chance, would you change your job?
    Do you plan to continue with your job in the future?
    STUDYWhat do you study?
    Where do you study that?
    Why did you choose that subject?
    Is it a popular subject in your country?
    Do you like that subject?
    Do you get on with your colleagues?
    What was your first day like?
    What are the main aspects of your subject?

    13

    If you had the chance, would you change the subject?
    Do you plan to get a job in the same field as your
    subject?
    HOMETOWNWhere is your hometown?
    Do you like your hometown?
    Do you often visit your hometown?
    What is your hometown like?
    What is the oldest place in your hometown?
    What is there for a foreigner to see in your hometown?
    How could your hometown be improved?
    Has your hometown changed much since you were a
    child?
    Is there good public transportation in your hometown?
    Do you think your hometown is a good place to bring up
    children?
    HOMEWhere is your home?
    Do you live in a house or a flat?
    Who do you live with?
    Are there many rooms in your home?
    What is your favourite room?
    How are the walls decorated?
    What would you change about your home?
    Do you plan to live there in the future?
    What facilities are there near your home?
    What is your neighbourhood like?
    Do most people live in houses in your country?
    BIRTHDAYDo you enjoy your birthdays?
    Do you usually celebrate your birthday?
    What did you do on your last birthday?
    Can you remember a birthday you enjoyed as a child?
    Do most people celebrate their birthdays with a party in
    your country?
    Which birthdays are considered important in your
    country?

    14

    CHILDHOODDid you enjoy your childhood?
    What is your first memory of your childhood?
    Did you have a lot of friends when you were a child?
    What did you enjoy doing as a child?
    Do you think it is better for children to grow up in the
    city or in the countryside?
    DAILY
    ROUTINE
    When do you usually get up in the morning?
    Do you usually have the same routine every day?
    What is your daily routine?
    Do you ever change your routine?
    Is your routine the same today as it was when you were a
    child?
    Do you think it is important to have a daily routine?
    FAMILY &
    FRIEND
    Do you spend much time with your family?
    Who are you closest to in your family?
    Do you prefer spending time with your family or friends?
    Who is your best friend?
    Are you still friends with people from your childhood?
    Is family important in your country?
    HOBBIESDo you have a hobby?
    What equipment do you need for it?
    Do you think hobbies should be shared with other
    people?
    Did you have a hobby as a child?
    What hobbies are popular in your country?
    Why do you think people have hobbies?
    INTERNETHow often do you go online?
    What do you use the internet for?
    How do you get online?
    Do you have your own computer?
    What’s your favourite website?
    Do you think children should be allowed unsupervised
    access to the internet?

    Bảng 2: Một số chủ đề thường gặp trong phần kiểm tra kỹ năng nói IELTS (P1)
    15
    Phần 2:

    Chủ đềCâu hỏi thường hỏi
    CommunicationDescribe a piece of advice you recently received.
    Daily RoutineDescribe a time of the day you like.
    ExerciseDescribe an exercise you know.
    FamilyDescribe a member of your family you get on well with.
    HobbyDescribe an interesting hobby.
    InternetDescribe a useful website.
    LanguageDescribe a language you have learned.
    SportDescribe a sport you would like to learn.
    TravelDescribe a place you have recently visited.
    VocationDescribe a vocation you think is useful to society.

    Bảng 3: Một số chủ đề thường gặp trong phần kiểm tra kỹ năng nói IELTS (P2)
    Phần 3:

    Chủ đềCâu hỏi thường hỏi
    EDUCATIONWhat makes a good student?
    What role should the teacher have in the classroom?
    Do you think computers will one day replace teachers in
    the classroom?
    How has teaching changed in your country in the last
    few decades?
    What is the difference between the way children learn
    and the way adults learn?
    How can a teacher make lessons for children more
    interesting?
    FAMILYIs family important in your country?
    How has the size of the family changed in the last few
    decades in your country?
    How do you think the family will change in the future?
    What role do grandparents play in the family in your
    country?
    Who do you think should be responsible for the care of
    the elderly, the
    HEALTHHow can people improve their health?

    16

    Do elderly people do much exercise in your country?
    Do you think all illness can be prevented?
    Do you think there will be less illness in the future?
    Do you think health care should be free?
    What makes a good doctor?
    INTERNETDo most people have a computer at home in your
    country?
    Do you think all the information on the internet is true?
    How can people find reliable information on the
    internet?
    How has the internet changed the way we live?
    How has the internet changed the way we work?
    Do you think the internet is safe for children to use
    unsupervised?
    MEDIA & NEWSDo you believe everything you read in the newspapers?
    How do most people get their news in your country?
    How do you think people will get their news in the
    future?
    How has TV changed our lives?
    Do you think TV influences the way we think?
    Should children be allowed to watch a lot of TVs?
    Are all people on TV famous?
    Do you think famous people have a responsibility to act
    as role models
    NATUREWhat are the main environmental problems in your
    country?
    Why should people be concerned about the
    environment?
    How can people protect the environment?
    Do you think money should be spent on protecting
    animals?
    Do you think more should be done to protect natural
    beauty spots in your
    SOCIETYWhat social problems are there in your country?

    17

    What can be done to alleviate poverty?
    Are there any charities in your country?
    What is the difference between major crime and minor
    crime?
    Do you think all criminals should go to prison?
    Why do so many people move to live in cities?
    What problems does overpopulation cause?
    TRAVELWhy do some people prefer to travel abroad rather than
    in their own country?
    Do you think travelling to another country can change
    the way people think?
    WORKDo you think job satisfaction is more important than
    salary when choosing a job?
    What skills do you think are needed to get a good job
    these days?
    Do you think women should be able to do all the same
    jobs that men do?
    How has technology changed the way we work?
    What is the difference between white-collar and blue
    collar jobs?
    What jobs do you think are most valuable to society?

    Bảng 4: Một số chủ đề thường gặp trong phần kiểm tra kỹ năng nói IELTS (P3)
    Lợi ích của việc sở hữu chứng chỉ IELTS
    + Miễn thi tiếng Anh THPT và được tặng Giấy khen của Giám đốc Sở
    Giáo dục và đào tạo Nam Định.
    Kể từ năm 2019, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép quy đổi IELTS theo
    thang điểm 10 và miễn thi tốt nghiệp ngoại ngữ với học sinh có chứng chỉ
    IELTS 4.0. Quy định quy đổi điểm này được nhiều trường đại học áp dụng vào
    xét tuyển.
    Việc sở hữu IELTS >5.0 và điểm trung bình các năm THPT từ 8,5 trở lên năm
    2020-2021 đã mở ra cơ hội rất lớn vào những trường đại học Top đầu Việt Nam.
    Những học sinh trên địa bàn tỉnh Nam Định sẽ được Giám đốc Sở Sở
    Giáo dục và đào tạo Nam Định tặng Giấy khen khi các em thi và đạt chứng chỉ
    IELTS với mức điểm cao.
    18
    + Tìm học bổng du học
    IELTS là một trong những điều kiện bắt buộc giúp mở rộng cánh cửa du
    học. IELTS được coi là một trong những bài thi phổ biến nhất dành cho học sinh
    có ý định du học, định cư ở nước ngoài, ở một số quốc gia như Úc, Canada,
    New Zealand và Vương quốc Anh. Mức điểm IELTS là khác nhau đối với từng
    nước, từng ngành học, nhưng nếu không có chứng chỉ IELTS thì khó có thể
    hoàn thành hồ sơ du học.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

  • SKKN Nâng cao nhận thức về giới tính cho học sinh nữ trường THPT qua hình thức CONFESSION

    SKKN Nâng cao nhận thức về giới tính cho học sinh nữ trường THPT qua hình thức CONFESSION

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng,
    mang tính chiến lược của Đảng, Nhà nước. Chiều 28/4, Bộ Giáo dục-Đào tạo
    (GD-ĐT) chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Trung ương Đoàn tổ
    chức hội nghị triển khai thực hiện Quyết định số 1895/QĐ-TTg của Thủ tướng
    Chính phủ ban hành chương trình “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo
    đức, lối sống và khơi dậy khát vọng cống hiến cho thanh niên, thiếu niên và nhi
    đồng giai đoạn 2021-2030”. Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng
    Nghĩa, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Kim Sơn đồng chủ trì hội nghị.Bộ GD-ĐT
    cho biết, trong những năm qua, ngành giáo dục đã chỉ đạo tăng cường công tác
    “dạy người”, giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho thanh niên, học sinh,
    sinh viên trong các cơ sở giáo dục; tham mưu, trình cấp có thẩm quyền ban hành
    nhiều văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý đầy đủ để thực hiện
    công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng. Tuy
    nhiên, thời gian qua vẫn còn một bộ phận thanh thiếu niên có biểu hiện suy thoái,
    lệch lạc về phẩm chất đạo đức, lối sống như: sống thiếu lành mạnh, thiếu trách
    nhiệm với bản thân, gia đình, nhà trường.Đáng ngại nhất là tình trạng một bộ
    phậnhọc sinh thiếu hiểu biết về giới tính, có lối sống buông thả dẫn đến tình trạng
    nạo phá thai diễn ra nhiều. Vì vậy, giáo dục giới tính cho học sinh đang là vấn đề
    được xã hội rất quan tâm.
    Khi tìm hiểu sâu về nhận thức giới tính của thanh thiếu niên, người ta ví như
    đang bóc củ hành tây vậy, càng bóc ta lại càng đau lòng và cay mắt . Đặc biệt, sau
    khoảng hai năm gián đoạn bởi dịch Covid-19, “Báo cáo khảo sát hành vi sức khỏe
    học sinh toàn cầu tại Việt Nam năm 2019″ được Bộ Y tế và Tổ chức Y tế Thế giới
    (WHO) công bố mới đây đã đưa ra một con số giật mình.Theo đó, tỷ lệ quan hệ
    tình dục lần đầu trước 14 tuổi ở Việt Nam tăng gấp hai lần trong 6 năm qua (tính
    từ năm 2013 đến 2019). Một vấn đề thực tế không hề nhỏ. Điều đó cho thấy, lỗ
    hổng trong giáo dục giới tính cho học sinh-trẻ vị thành niên là không thể xem
    thường.
    Những con số biết nói đã phản ánh điều gì? Nó cho thấy những hậu quả cả
    về thể chất và tinh thần đối với học sinh-trẻ vị thành niên. Về sức khỏe thể chất,
    việc quan hệ tình dục quá sớm, khi mà cơ thể các em chưa phát triển hoàn thiện
    ảnh hưởng lớn đến sức khỏe sinh sản khi trưởng thành. Trong báo cáo lần này,
    WHO nhận định: Việc quan hệ tình dục trước 14 tuổi và không sử dụng bao cao
    su góp phần gây ra tình trạng mang thai ở tuổi vị thành niên và mang thai ngoài ý
    muốn cũng như tỷ lệ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục cao. Bộ Y tế
    cũng đã nhiều lần cảnh báo, tình trạng phá thai ở Việt Nam đang ở mức rất cao
    với 250.000-300.000 ca mỗi năm. Trong khi đó, khoa học đã chứng minh sức
    khỏe sinh sản, sức khỏe thể chất quyết định chất lượng giống nòi. Chỉ những người
    có thể chất tốt mới sinh ra một thế hệ khỏe mạnh, cường tráng về mọi mặt..
    Về sức khỏe tinh thần, độ tuổi vị thành niên có rất nhiều sự thay đổi về tâm
    sinh lý. Đây cũng là khởi điểm quan trọng để các em hình thành kỹ năng, tâm hồn
    chuẩn bị cho giai đoạn trưởng thành. Những sang chấn về tâm lý đều gây ra hệ
    lụy ghê gớm về sau. Việc quan hệ tình dục quá sớm dẫn đến mang thai ngoài ý
    muốn hay bị lạm dụng, xâm hại tình dục có thể để lại những ám ảnh trong cuộc
    đời.
    Thực trạng trên cho thấy, đang có lỗ hổng trong giáo dục giới tính hiện nay.
    Kết quả nghiên cứu đã đặt ra câu hỏi về sự cần thiết trong việc cải thiện giáo dục
    giới tính trong các nhà trường phổ thông ở Việt Nam. Còn đại diện WHO tại buổi
    công bố kết quả nghiên cứu đã khuyến cáo ngành giáo dục và ngành y tế cần xây
    dựng chương trình nâng cao sức khỏe cho học sinh, trong đó chú trọng về sức
    khỏe tâm thần, sức khỏe giới tính…
    Chúng ta dễ dàng nhận thấy những hạn chế trong việc giáo dục giới tính cho
    học sinh-vị thành niên hiện nay, nhất là những kiến thức về cơ thể con người, sức
    khỏe sinh sản, quan hệ nam nữ, chống lạm dụng tình dục… Hầu hết các ông bố,
    bà mẹ ít đề cập, giáo dục toàn diện cho con cái vấn đề sức khỏe giới tính trong gia
    đình. Một phần nguyên nhân là do sự thiếu quan tâm, xem nhẹ, nhưng phần lớn
    là do những rào cản về mặt tâm lý hoặc không có kiến thức, phương hướng để
    truyền tải những kiến thức đó.
    Nhiều phụ huynh thừa nhận, họ rất khó khăn mỗi khi phải nói với con cái về
    vấn đề sức khỏe sinh sản, vấn đề giới tính. Tại nhà trường, mặc dù đã có các môn
    học như Sinh học, Giáo dục công dân nhưng những kiến thức mới dừng lại ở lý
    thuyết, thậm chí nếu không giáo dục tới nơi tới chốn thì lại gây tò mò cho học
    sinh. Trong khi đó, mặt trái của sự tác động hằng giờ bởi internet, mạng xã hội,
    sách truyện, phim ảnh… khiến tâm hồn non nớt, thích khám phá của các em bị dẫn
    dắt đến sự lệch lạc.
    Các chuyên gia, nhà quản lý cho rằng, vấn đề quan trọng nhất là các em phải
    được rèn luyện về kỹ năng sống, phải chủ động tìm hiểu và được giáo dục, cung
    cấp những kiến thức đầy đủ về giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên từ cha
    mẹ, thầy cô và người thân. Người lớn phải chủ động chia sẻ, đồng thời luôn sâu
    sát, quan tâm để sớm nhận ra những thay đổi về tâm sinh lý của trẻ em nhằm kịp
    thời giải đáp, hướng dẫn. Chương trình giáo dục giới tính ở các nhà trường cần
    chủ động và sát thực tiễn hơn nữa. Một điều quan trọng khác là chính gia đình và
    nhà trường phải phối hợp chặt chẽ trong việc định hướng, quản lý con em để biết
    cách tiếp cận với internet, mạng xã hội một cách lành mạnh, tích cực. Chúng ta
    cũng phải nghiêm túc nhìn nhận tính chính đáng để vượt qua rào cản tâm lý, những
    quan niệm khá cứng nhắc đang khiến các bạn trẻ, nhất là vị thành niên khó khăn
    khi tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và tình dục, kế hoạch hóa gia
    đình…Và giữa “rừng thông tin” về giới tính tràn lan trên mạng xã hội thì việc “Vẽ
    đường cho hươu chạy đúng”- cung cấp kịp thời cho các em những kiến thức giới
    tính khoa học, phù hợp với lứa tuổi là điều thật sự rất cần thiết giúp cho các em
    có kiến thức vững vàng nhất để trưởng thành một cách an toàn.
    Đó cũng chính là lí do tôi chọn đề tài “Nâng cao nhận thức về giới tính cho
    học sinh nữ Trường Trung học phổ thông C Hải Hậu qua hình thức Confession”
    để nghiên cứu.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1 Thực trạng
    1.1.1 Nhận thức của nữ sinh Trường THPT C Hải Hậu về nội dung giáo
    dục giới tính.
    Kết quả điều tra về nhận thức của nữ sinh Trường THPT C Hải Hậu về nội
    dung giới tính được trình bày ở bảng 1.1.1

    Số
    TT
    Nội dung SKSSChungXét theo khối lớp
    Lớp 10Lớp
    11
    Lớp
    12
    1Cấu tạo và chức năng cơ quan
    sinh dục nam nữ
    f %417
    68,4%
    134
    62,9%
    138
    69,0%
    145
    73,6%
    2Giớif
    %
    81
    13,3%
    21
    9,9%
    31
    15,5%
    29
    14,7%
    3Giới tínhf
    %
    389
    63,8%
    129
    60,6%
    125
    62,5%
    135
    68,5%
    4Sự thụ thaif
    %
    328
    53,8%
    115
    54,0%
    104
    52,0%
    109
    55,3%
    5Kinh nguyệtf
    %
    344
    56,4%
    121
    56,8%
    110
    55,0%
    113
    57,4%
    6Tình bạnf
    %
    163
    26,7%
    51
    23,9%
    59
    29,5%
    53
    26,9%
    7Tình yêuf
    %
    293
    48,0%
    97
    45,5%
    95
    47,5%
    101
    51,3%
    8Hôn nhânf
    %
    254
    41,6%
    85
    39,9%
    82
    41,0%
    87
    44,2%
    9Tình dụcf
    %
    424
    69,5%
    135
    63,4%
    142
    71,0%
    147
    74,6%
    10Kế hoạch hóa gia đìnhf
    %
    347
    56,9%
    105
    49,3%
    119
    59,5%
    123
    62,4%
    11Chăm sóc phụ nữ khi mang
    thai
    f %365
    59,8%
    125
    58,7%
    121
    60,5%
    119
    60,4%
    12Các biện pháp tránh thaif
    %
    401
    65,7%
    132
    62,0%
    126
    63,0%
    143
    72,6%
    13Nạo hút thai an toànf
    %
    297
    48,7%
    91
    42,7%
    101
    50,5%
    105
    53,3%
    14Phòng tránh bệnh LTQĐTDf
    %
    424
    69,5%
    137
    64,3%
    141
    70,5%
    146
    74,1%
    15Chăm sóc sức khỏe vị thành
    niên
    f %416
    68,2%
    140
    65,7%
    136
    68,0%
    140
    71,1%
    16Bình đẳng giớif
    %
    87
    14,3%
    28
    13,1%
    28
    14,0%
    31
    15,7%
    17Vô sinhf
    %
    175
    28,7%
    52
    24,4%
    55
    27,5%
    68
    34,5%
    18HIV/AIDSf
    %
    248
    40,7%
    83
    39,0%
    84
    42,0%
    81
    41,1%
    19Mãn kinh khi tuổi giàf
    %
    142
    23,3%
    47
    22,1%
    45
    22,5%
    50
    25,4%

    Bảng 1.1.1 Nhận thức khái quát của nữ sinh Trường Trung học phổ thông C Hải
    Hậu về nội dung giới tính
    Qua bảng trên, dựa vào nội dung các môn học có đề cập đến việc giáo dục
    giới tính như môn sinh học, môn giáo dục công dân và môn ngữ văn cùng với các
    chương trình sinh hoạt ngoại khóa được tổ chức để giáo dục giới tính cho học sinh
    toàn trường, tôi nhận thấy nữ sinh toàn trường đã nhận thức nội dung giới tính
    bao gồm 19 vấn đề cơ bản được giới thiệu ở trên nhưng tỉ lệ các nội dung cụ thể
    mà các học sinh nữ nhận thức không đồng đều. Nữ sinh biết nhiều ở các vấn đề:
    tình dục, phòng tránh bệnh lây truyền qua đường tình dục, chăm sóc giới tính vị
    thành niên, nạo phá thai, chăm sóc phụ nữ khi mang thai; các biện pháp tránh thai;
    cấu tạo và chức năng cơ quan sinh dục nam nữ; sự thụ thai…và biết ít ở các nội
    dung: giới; bình đẳng giới; vô sinh; mãn kinh khi tuổi già. Điều đó cho thấy nữ
    sinh đã có nhận thức về nội dung giới tính nhưng biết một cách chưa đầy đủ. Kể
    cả vấn đề tình bạn, tình yêu trong nội dung giới tính qua điều tra cũng có tỉ lệ thấp.
    Nhận thức của học sinh nữ chỉ dừng lại 10/19 vấn đề có tỉ lệ từ 50% trở lên
    là vấn đề đáng suy nghĩ. Vì vậy, về vấn đề này đòi hỏi các lực lượng giáo dục
    cần có hướng tác động đến nữ sinh để nâng cao hơn nữa mức độ nhận thức của
    nữ sinh.
    1.1.2 Nhận thức của học sinh nữ trường THPT C Hải Hậu về vấn đề con
    đường lây nhiễm bệnh lây truyền qua đường tình dục
    Kết quả khảo sát về: “con đường lây truyền gây việc nhiễm bệnh qua đường
    tình dục?” được thể hiện ở bảng 1.1.2

    ChungXét theo khối lớp
    Lớp
    10
    Lớp
    11
    Lớp
    12
    Việc nhiễm bệnh qua
    đường tình dục cố thể
    lây truyền theo các
    con đường nào?
    1. Sinh hoạt tình
    dục
    f %513
    84,1%
    183
    85,9%
    169
    84,5%
    161
    81,7%
    2. Tiêm thuốcf
    %
    9
    1,5%
    1
    0,5%
    5
    2,5%
    3
    1,5%
    3. Truyền máuf
    %
    23
    3,8%
    6
    2,8%
    8
    4,0%
    9
    4,6%
    4. Truyền dịchf
    %
    19
    3,1%
    6
    2,8%
    5
    2,5%
    8
    4,1%
    5. Từ mẹ sang
    con
    f %10
    1,6%
    2
    0,9%
    2
    1,0%
    6
    3,0%
    6. Một số trường
    hợp đặc biệt
    f %36
    5,9%
    15
    7,0%
    11
    5,5%
    10
    5,1%

    Bảng 1.1.2 Nhận thức của nữ sinh Trường Trung học phổ thông C Hải Hậu
    về: “ Con đường lây truyền gây việc nhiễm bệnh qua đường tình dục?”
    Đa số nữ sinh đã có nhận thức về “nguyên nhân dẫn đến tình trạng nạo phá
    thai ở tuổi vị thành niên và thanh niên”, về “biện pháp hữu hiệu để giảm việc nạo
    phá thai ở tuổi vị thành niên và thanh niên”, về “con đường lây truyền gây nhiễm
    bệnh lây truyền cho qua đường tình dục”. Tuy nhiên nhận thức của học sinh nữ
    chưa chính xác về nguyên nhân “chủ yếu” dẫn đến tình trạng nạo phá thai ở tuổi
    vị thành niên và thanh niên.
    1.2 Nguyên nhân làm ảnh hưởng đến nhận thức của nữ sinh Trường
    THPT C Hải Hậu về giáo dục giới tính
    Bảng khảo sát những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến nhận thức về giới tính
    của nữ sinh

    Số
    TT
    Nguyên nhânLựa chọnSố lượng%
    1Việc ít được cung cấp thông tin
    về giới tính
    Không đồng
    ý
    8013,1%
    Phân vân579,3%
    Đồng ý38162,5%
    Rất đồng ý9215%
    2Việc nhận thức kém của bản
    thân học sinh về giới tính
    Không đồng
    ý
    528,5%
    Phân vân8814,4%
    Đồng ý38963,8%
    Rất đồng ý8113,3%
    3Việc thiếu thời gian tiếp cận và
    nguồn thông tin về vấn đề này
    Không đồng
    ý
    8413,8%
    Phân vân6911,3%
    Đồng ý39965,4%
    Rất đồng ý589,5%
    4Do không nhận được sự giáo
    dục vấn đề này từ các lớp dưới
    Không đồng
    ý
    20032,8%
    Phân vân7612,5%
    Đồng ý28045,9%

    Bảng 1.2: Những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến nhận thức về giới tính của nữ
    sinh
    Từ kết quả khảo sát trên, tôi chỉ ra và phân tích một số nguyên nhân cơ bản
    làm ảnh hưởng đến nhận thức về giới tính của nữ sinh như sau:Nguyên nhân
    làm ảnh hưởng đến nhận thức về giới tính của nữ sinh phần nhiều thuộc về nguyên
    nhân chủ quan như do việc nhận thức (kém) của chính học sinh nữ; việc ít được
    cung cấp thông tin; việc thiếu thời gian tiếp cận và nguồn thông tin về vấn đề giới
    tính. Các nguyên nhân khác như việc tác động xấu từ bên ngoài đến nữ sinh; việc
    không nhận được sự giáo dục từ các lớp dưới; việc không nhận được sự chỉ bảo
    và giáo dục từ phía gia đình tuy cũng có ảnh hưởng nhưng không nhiều. Điều đó
    đòi hỏi để nâng cao nhận thức về giới tính cho nữ sinh cần có những giải pháp
    phù hợp và nên chú trọng đến các nguyên nhân chủ quan từ bản thân học sinh.
    Như vậy: Qua khảo sát ở các nữ sinh về 6 nguyên nhân làm ảnh hưởng đến
    nhận thức giới tính, nhận thấy nguyên nhân “ít được cung cấp thông tin” về giới
    tính được cho là nguyên nhân cơ bản.Điều đó chứng tỏ để khắc phục hạn chế trong
    nhận thức giới tính cho nữ sinh, ngoài việc phát huy tính tích cực nhận thức của
    bản thân nữ sinh thì cần cung cấp thông tin cho nữ sinh từ nhiều nguồn khác
    nhau là rất quan trọng.Và một trong những biện pháp để cải thiện thực trạng đó,

    Rất đồng ý548,8%
    5Do không nhận được sự chỉ
    bảo và giáo dục của gia đình về
    vấn đề này
    Không đồng
    ý
    15926,1%
    Phân vân12620,7%
    Đồng ý28546,7%
    Rất đồng ý406,5%
    6Do tác động xấu từ bên ngoài
    đến học sinh
    Không đồng
    ý
    15926,1%
    Phân vân12520,5%
    Đồng ý26443,2%
    Rất đồng ý6210,1%

    tôi mạnh dạn đưa ra giải pháp: tạo một Confession – vừa cung cấp cho học sinh
    nữ những kiến thức giới tính khoa học, lành mạnh, vừa là nơi mà các em có thể
    giãi bày câu chuyện thầm kín của riêng mình một cách thoải mái nhất.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    Hiện nay, cũng có khá nhiều hình thức giáo dục giới tính trong và ngoài
    trường học, nhưng bản thân tôi nhận thấy nhiều hình thức còn mang tính lý thuyết,
    hình thức và nếu có làm thì “làm chưa tới”. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn áp dụng thử
    nghiệm đề tài nâng cao nhận thức giới tính của nữ sinh Trường trung học phổ
    thông C Hải Hậu thông qua hình thức Confession . Sau một thời gian áp dụng
    thực tế, tôi nhận thấy đây là một biện pháp dễ thực hiện và đạt hiệu quả cao.
    2.1 Confession là gì?
    Trong Tiếng Anh Confession có ý nghĩa là sự thú tội hoặc là lời thú nhận
    của một ai đó về cuộc sống của mình. Thông qua Confession, người thú tội sẽ bày
    tỏ nỗi lòng, câu chuyện khó nói của mình mà không phải lo sợ người khác
    biếtđược bản thân là chủ nhân của câu chuyện đó.
    Confession thường được chia sẻ công khai trên các mạng xã hội. Theo đó thì
    confession là gì và các diễn đàn/fanpage/hội nhóm confession là nơi để người
    dùng mạng xã hội có thể trút bầu tâm sự, thể hiện những tâm tư tình cảm, bộc
    bạch những tâm tư thầm kín của mình. Khi bạn tham gia vào một trang, một cộng
    đồng Confessions nếu muốn bày tỏ nỗi lòng, tâm sự của mình thì chỉ cần điền câu
    chuyện trong một biểu mẫu đã có sẵn, sau đó chờ admin duyệt và đăng tải thông
    tin. Vậy là câu chuyện của bạn đã rất dễ dàng được mọi người biết đến.
    Có lẽ yếu tố làm nên trào lưu Confession chính là sự bí mật và riêng tư. Theo đó
    thì những người quản trị – Admin Fanpage, hay các diễn đàn phần lớn đều không
    hề biết người gửi Confession và dĩ nhiên thông tin về người gửi cũng không được
    mọi người biết đến. Chính vì sự riêng tư và danh tính ẩn danh mà confession là gì
    lại càng được nhiều người biết đến và sử dụng hơn.
    Confession kết nối cộng đồng lại với nhau: Mỗi trang confession trên mạng xã
    hội đều thu hút được đông đảo người tham gia. Đây không chỉ là nơi để nói, chia
    sẻ những câu chuyện phiếm mà còn gửi đi những thông điệp tốt đẹp từ những câu
    chuyện mang lại. Theo đó thì những người tham gia sẽ cùng nhau chia sẻ, tâm sự,
    đồng cảm với câu chuyện mà người gửi confession gửi tới.Khi bạn viết ra những
    dòng tâm sự khó nói, dồn nén trong lòng, bạn đã có thể vơi bớt đi phiền muộn
    một phần. Không những vậy bạn còn nhận được những lời khuyên chân thành từ
    người tham gia để nhận ra được giá trị đích thực của cuộc sống mà có thể bạn
    đang bỏ lỡ.
    2.2 Hoạt động của confession:
    2.2.1 Tên confession: “ Tôi là ai?”
    2.2.2 Đường link :
    https://www.facebook.com/groups/1460872701052757
    2.2.3 Admin (quản trị viên) : gồm các thầy cô giáo trường THPT C Hải
    Hậu, cụ thể:
    – Cô Phạm Thị Thơm –giáo viên Ngữ văn
    – Cô Mai Thị Nhung – giáo viên Sinh học
    – Cô Phạm Thị Hằng _ giáo viên Địa lý – thành viên Ban tư vấn tâm lý
    trường THPT C Hải Hậu
    2.2.4 Nhiệm vụ của Admin:
    – Cung cấp những kiến thức giới tính cho học sinh.
    – Phê duyệt các bài viết của các em…
    – Phản hồi tương tác với học sinh một cách nhanh nhất theo định hướng tư
    vấn tâm lý, giải đáp những thắc mắc, băn khoăn của học sinh
    2.2.5 Nội dung và cách thứcthực hiện :
    2.2.5.1 Nộidung của Confession tôi sẽ chia làm 2 chuyên mục chính:
    – Chuyên mục 1: Nội dung giáo dục giới tính
    – Chuyên mục 2: Câu chuyện của tôi
    2.5.2.2 Cách thức thực hiện:
    – Hướng tới mục đích cung cấp những kiến thức giới tính chuẩn khoa học,
    phù hợp với học sinh nữ từ độ tuổi 15-18, tôi đã làm như sau: Các nội dung giới
    tính tôi phân chia thành các chủ đề với những nội dung cụ thể, mỗi tuần Admin
    đăng từ 1-2 bài viết ( ở các chủ đề khác nhau) và kèm theo video minh họa. Vì
    giới tính là vấn đề khá nhạy cảm, thế nên làm thế nào để cung cấp kiến thức cho
    các em vừa dễ hiểu, dễ nhớ mà không dung tục, gây phản cảm là điều rất quan
    trọng.
    -Đối với những thắc mắc, băn khoăn của các em, các thành viên trong Admin
    sẽ phản hồi tương tác tùy theo sự hiểu biết và lĩnh vực chuyên môn của mình.
    – Kế hoạch đăng bài cụ thể theo tuần, tháng như sau :
    Tháng 01/2022:
    Tuần 1: Chủ đề: An toàn cá nhân – Cách để bạn đối mặt với sự từ chối
    Chủ đề: Các bệnh lây nhiễm – HPV là gì?
    Tuần 2: Chủ đề:An toàn cá nhân – Tự làm tổn thương bản thân
    Chủ đề: Bản dạng giới – Tôi có hai người mẹ
    Tuần 3: Chủ đề: Tuổi dậy thì – Trinh tiết
    Chủ đề: An toàn cá nhân – Tin nhắn khiêu dâm
    Tháng 02/2022:
    Tuần 3: Chủ đề: Các bệnh lây nhiễm -STDs – bệnh lây nhiễm qua đường
    tình dục là gì?
    Chủ đề: An toàn cá nhân – Bạo hành trong tình yêu
    Tuần 4: Chủ đề: An toàn cá nhân – Lạm dụng tình dục có thể xảy ra với bất
    kì ai!
    Tháng 03/2022:
    Tuần 1: Chủ đề: An toàn cá nhân – Quan hệ tình dục an toàn và cách phòng
    tránh thai
    Chủ đề: Mối quan hệ lành mạnh – Tranh luận công bằng màhiệu quả
    Tuần 2: Chủ đề: Thai kì và sinh sản – Xuất tinh ngoài có ngăn ngừa sự mang
    thai?
    Tuần 3: Chủ đề: Thai kì và sinh sản – Em bé đến, ra từ đâu?
    Tuần 4: Chủ đề: An toàn cá nhân – Cách để bạn đối mặt với sự từ chối
    Tháng 04/2022:
    Tuần 1: Chủ đề: An toàn cá nhân – Mại dâm là gì?
    Tuần 2: Chủ đề: Thai kì và sinh sản – Thế nào là sự phá thai?
    Tuần 3: Chủ đề : An toàn cá nhân – An toàn trên mạng xã hội
    Chủ đề: Bản dạng giới – Định kiến giới tính
    Tuần 4: Chủ đề: An toàn cá nhân – Biệt đội chống lại bắt nạt
    Tháng 05/2022:
    Tuần 1: Chủ đề: Mối quan hệ lành mạnh – Tin nhắn khiêu dâm
    Tuần 2: Chủ đề: An toàn cá nhân – Quấy rối tình dục là gì?
    Tuần 3: Chủ đề: Mối quan hệ lành mạnh – Bạn có sẵn sàng để quan hệ tình
    dục?
    Tuần 4: Chủ đề: Thai kì và sinh sản – Liệu mình đã có thai?
    Tháng 06/2022:
    Tuần 1: Chủ đề:Mối quan hệ lành mạnh – Nụ hôn đầu và thể hiện tình cảm
    của bạn
    Tuần 2: Chủ đề: Các bệnh lây nhiễm – HIV – cách bảo vệ bản thân và mọi
    người
    Tuần 3: Chủ đề: Thai kì và sinh sản -Tránh thai cơ bản: Bao cao su, viên và
    miếng dán tránh thai
    Tuần 4: Chủ đề: An toàn cá nhân – Biệt đội chống lại bắt nạt
    Tháng 07/2022:
    Tuần 1: Chủ đề: An toàn cá nhân – Lỡ quan hệ tình dục không an toàn – phải
    làm gì?
    Tuần 2: Chủ đề: Tuổi dậy thì – Tại sao tớ không thích cơ thể mình?
    Tuần 3: Chủ đề: Bản dạng giới – Được là chính mình
    Tuần 4: Chủ đề: Thai kì và sinh sản – Thuốc tránh thai khẩn cấp là gì?
    Tháng 08/2022:
    Tuần 1: Chủ đề: Mối quan hệ lành mạnh – Trêu chọc: không chỉ là niềm vui
    vô hại
    Tuần 2: Chủ đề: Chăm sóc cơ thể tuổi dậy thì
    Tuần 3: Chủ đề: Tuổi dậy thì – Giải phẫu cơ thể: giới tính được chỉ định khi
    sinh ở nữ
    Tuần 4: Chủ đề: Tuổi dậy thì – “Núi đôi và những điều hơn thế nữa”
    Tháng 09/2022:
    Tuần 1: Chủ đề: An toàn cá nhân – Bảo mật thông tin với bác sĩ
    Chủ đề: Bản dạng giới – Bạn tôi là người chuyển giới
    Tuần 2: Chủ đề: Mối quan hệ lành mạnh –Điều đó chưa chắc là đã “đồng ý”!
    …….
    Cụ thể nội dung giáo dục giới tính được chia theo các chủ đề như sau:
    CHỦ ĐỀ :TUỔI DẬY THÌ
    1. CHĂM SÓC CƠ THỂ TUỔI DẬY THÌ
    https://giaoducgioitinhvietnam.com/2021/06/16/cham-soc-co-the-o-tuoiday-thi/
    Video này nói với giới trẻ về cách họ có thể chăm sóc cơ thể của mình
    trong tuổi dậy thì, thời điểm mà nội tiết tố thay đổi nhanh chóng, khiến họ trải
    qua một số thay đổi mới trong cơ thể mình như mùi cơ thể, mụn trứng cá và mọc
    tóc.
    Dành cho các bạn trẻ
    Trên thực tế, cơ thể bạn có thể bị nặng mùi bởi nhiều lí do khác nhau . Bạn
    có thể nhận thức rõ hơn về điều này khi cơ thể bạn bước qua tuổi dậy thì — những
    thay đổi xảy ra khi cơ thể bạn chuyển từ một đứa trẻ thành một thanh niên. Những
    thay đổi này bao gồm tăng sản xuất hormone, cơ thể tiết dầu và mọc lông trên cơ
    thể. Chính những thay đổi này có thể khiến một người có mùi nhiều hơn trước
    đây hoặc gặp nhiều thứ khác chẳng hạn như mụn trứng cá.
    Vì tất cả những ảnh hưởng mà những thay đổi này có thể gây ra đối với cơ
    thể, điều rất quan trọng là tạo và thực hành thói quen vệ sinh tốt, thậm chí nhiều
    hơn những gì bạn có thể có khi còn là trẻ con. Tắm rửa thường xuyên hoặc tắm
    rửa sạch sẽ, sử dụng chất khử mùi liên tục và đảm bảo mặc một bộ quần áo mới
    mỗi ngày có thể giúp bạn kiểm soát mùi hôi nồng nặc. Sử dụng nước hoa hoặc xịt
    toàn thân có thể là một cách tốt để thử mùi hương mới trên cơ thể. Chỉ cần đảm
    bảo chỉ sử dụng chúng sau khi bạn tắm và tránh bôi nhiều, vì quá nhiều có thể gây
    choáng ngợp cho người khác, ngay cả khi nó có mùi thơm.
    Nếu bạn bắt đầu có kinh nguyệt như một phần của quá trình dậy thì, hãy nhớ
    thay băng vệ sinh, tampon, cốc nguyệt san và / hoặc các sản phẩm kinh nguyệt
    khác kịp thời cũng rất quan trọng. Vệ sinh da mặt nhẹ nhàng hàng ngày, cùng với
    tập thể dục, uống nhiều nước sạch và tránh xa đồ ăn vặt (kẹo, nước ngọt / nước
    trái cây, khoai tây chiên, v.v.) có thể giúp giảm đau bụng kinh và giữ cho lỗ chân
    lông thông thoáng khỏi mụn. Điều đó nói lên rằng, có thể bạn vẫn cần đến sự trợ
    giúp của chuyên gia nếu mụn không biến mất dễ dàng. Đối với những trường hợp
    đặc biệt của mụn trứng cá, các chuyên gia chăm sóc da, chẳng hạn như bác sĩ da
    liễu, có thể kê đơn các loại kem hoặc phương pháp điều trị khác mạnh hơn phương
    pháp điều trị bạn tìm thấy ở hiệu thuốc.
    Tuổi dậy thì có thể tạo ra nhiều cảm giác khác nhau, bao gồm ngạc nhiên, sợ
    hãi, tò mò và khó chịu – thậm chí là lo lắng. Điều đó nói lên rằng, những thay đổi
    của tuổi dậy thì và cảm xúc về những thay đổi đó là rất bình thường, ngay cả khi
    chúng không phải lúc nào cũng cảm thấy tốt khi chúng xảy ra. Khi không chắc
    chắn về điều gì đó, hãy liên hệ với những người lớn tuổi hơn và bạn bè đáng tin
    cậy để được hỗ trợ và có các biện pháp để đảm bảo rằng bạn luôn cảm thấy tốt
    nhất.
    Những câu hỏi thường gặp
    Tại sao cơ thể con người lại có lông?
    Lông trên cơ thể là một phần phổ biến ở tuổi dậy thì đối với nhiều người,
    nếu không muốn nói là hầu hết mọi người. Ngoài trên đầu, lông trên cơ thể có thể
    mọc ở một số nơi khác, bao gồm mặt, ngực, cánh tay, chân, nách, vùng mu và bộ
    phận sinh dục. Đối với những người có lông trên cơ thể, nó có thể giúp giữ nhiệt
    độ cơ thể của một người ổn định và ngăn bụi, da chết và vi trùng xâm nhập và gây
    hại cho cơ thể. Tuy nhiên, một số người có thể chọn cắt hoặc cạo sạch lông trên
    cơ thể mà không gặp bất kỳ vấn đề lớn nào.
    Mụn trứng cá là gì? Ta phải trị mụn trứng cá như thế nào?
    Mụn trứng cá xảy ra khi một người có một số lượng đáng kể mụn. Mụn có
    thể là những nốt mụn nhỏ màu đỏ, những nốt mụn chứa đầy mủ (mụn đầu trắng)
    hoặc lỗ chân lông bị tắc do dầu đông đặc và da chết có bề mặt sẫm màu (mụn đầu
    đen). Mụn thường xuất hiện trên mặt, mặc dù nó cũng có thể xuất hiện trên cổ,
    ngực, lưng và thậm chí gần bẹn hoặc bộ phận sinh dục. Cơ thể tăng sản xuất dầu
    và thay đổi nội tiết tố ở tuổi dậy thì, đặc biệt là trong thời gian đầu của chu kỳ
    kinh nguyệt, có thể dẫn đến sự xuất hiện của mụn trứng cá. Có nhiều phương pháp
    điều trị khác nhau cho mụn trứng cá có thể được tìm thấy tại một hiệu thuốc thông
    thường. Ngoài ra, điều quan trọng là tránh chạm hoặc nặn mụn, vì làm như vậy sẽ
    làm tăng khả năng viêm và có thể gây sẹo trên da. Nếu mụn trứng cá đặc biệt gây
    phiền toái, các chuyên gia chăm sóc da, chẳng hạn như bác sĩ da liễu, có thể kê
    đơn các loại kem hoặc phương pháp điều trị khác mạnh hơn phương pháp điều trị
    bạn tìm thấy ở hiệu thuốc.
    Điều gì sẽ xảy ra nếu một người không thường xuyên tắm rửa?
    Tắm rửa là cách mọi người có thể loại bỏ mồ hôi, bụi bẩn và các chất tích tụ
    khác có thể tích tụ trong ngày một cách tốt nhất. Khi một người không tắm, mồ
    hôi và bụi bẩn cuối cùng sẽ tích tụ trên cơ thể và người đó sẽ có mùi hôi nồng nặc.
    Tắm thường xuyên sẽ hạn chế mùi cơ thể nặng. Tắm hàng ngày có thể không phù
    hợp với những người có làn da đặc biệt khô hoặc nhạy cảm hoặc có các tình trạng
    như mắc bệnh vẩy nến hoặc bệnh chàm. Một số nhà khoa học báo cáo rằng tắm
    quá nhiều có thể gây ra các vấn đề về da. Tuy nhiên, điều rất quan trọng là phải
    tìm được sự cân bằng phù hợp với nhu cầu của cơ thể.
    2. GIẢI PHẪU CƠ THỂ: GIỚI TÍNH ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH KHI SINH Ở
    NỮ
    https://giaoducgioitinhvietnam.com/2021/06/16/giai-phau-co-the-gioi-tinhduoc-chi-dinh-khi-sinh-o-nu/
    Video này giới thiệu các bộ phận bên ngoài và bên trong của giải phẫu sinh
    học nữ. Nó cũng xác định âm hộ, niệu đạo, âm đạo và hậu môn, xác định sự
    khác biệt giữa âm hộ và âm đạo. Video xác định buồng trứng và giải thích ngắn
    gọn quá trình bên trong của kinh nguyệt
    Dành cho các bạn trẻ
    Hầu hết mọi người đều có các bộ phận cơ thể giống nhau – đầu, tay, chân và
    bàn chân. Trong khi chúng ta hầu như giống nhau, chúng ta có các cơ quan sinh
    sản và tình dục khác nhau. Một người là nữ hoặc được chỉ định giới tính nữ khi
    sinh thường có những bộ phận này có thể nhìn thấy bên ngoài cơ thể: gò mu, môi
    trong và môi ngoài (hoặc môi âm hộ), âm vật, niệu đạo, cửa âm đạo và hậu môn.
    Những người có âm đạo cũng có nhiều cơ quan sinh sản bên trong, bao gồm
    buồng trứng, ống dẫn trứng hoặc tử cung, tử cung và âm đạo. Khi một người có
    âm đạo bước qua tuổi dậy thì, buồng trứng bắt đầu phóng những quả trứng nhỏ
    khoảng một tháng một lần. Khi một trong hai buồng trứng giải phóng trứng, nó sẽ
    đi xuống ống dẫn trứng hoặc vòi tử cung về phía tử cung. Mỗi tháng khi không
    có thai, tử cung sẽ bong lớp niêm mạc phụ và đẩy ra ngoài qua âm đạo. Đây là
    điều thường được gọi là “có kinh”.
    Điều quan trọng là phải chăm sóc sức khỏe tình dục của một người bằng cách
    biết cơ thể của bạn như thế nào khi khỏe mạnh và tìm kiếm sự chăm sóc y tế nếu
    có bất kỳ điều gì thay đổi theo cách cơ thể bạn hoạt động, ngoại hình hoặc mùi.
    Những câu hỏi thường gặp
    Kinh nguyệt là gì và tại sao con gái lại có kinh?
    Ở tuổi dậy thì, các bạn gái bắt đầu có kinh nguyệt. Kinh nguyệt là khi một
    lượng nhỏ máu và mô rời khỏi cơ thể qua âm đạo trong một vài ngày. Nó xảy ra
    khoảng một lần mỗi tháng và có thể kéo dài từ vài ngày đến một tuần. Một số cô
    gái bị chuột rút trong kỳ kinh nguyệt trong khi những người khác thì không. Các
    cô gái thường sử dụng băng vệ sinh, tampon hoặc cốc nguyệt san để kiểm soát
    lượng máu ra khỏi cơ thể trong kỳ kinh nguyệt.
    Khi bạn gái có kinh lần đầu, nó báo hiệu rằng cơ thể cô ấy đã bắt đầu rụng
    trứng. Sự rụng trứng xảy ra mỗi tháng một lần khi một loại hoocmon hoặc chất
    hóa học trong cơ thể báo hiệu buồng trứng của bạn gái giải phóng trứng hoặc
    noãn. Điều này có nghĩa là nếu một cô gái quan hệ tình dục không có biện pháp
    bảo vệ, cô ấy có thể mang thai. Hormone estrogen cũng được tiết ra để báo hiệu
    cho tử cung của bạn gái xây dựng lớp niêm mạc. Nếu sau khi quan hệ tình dục mà
    trứng được thụ tinh với tinh trùng thì trứng đã thụ tinh sẽ làm tổ trong niêm mạc
    và gây ra hiện tượng mang thai. Nếu trứng không được thụ tinh trong vòng 12 đến
    24 giờ sau khi trứng rụng, trứng sẽ chết và tan rã. Hai tuần sau, khi tử cung nhận
    thấy không có trứng được thụ tinh, lớp niêm mạc đã được xây dựng sẵn của tử
    cung sẽ được giải phóng hoặc rụng trong kỳ kinh nguyệt của bạn gái.
    3. NÚI ĐÔI” VÀ NHỮNG ĐIỀU HƠN THẾ NỮA
    https://giaoducgioitinhvietnam.com/2021/06/10/nui-doi-va-nhung-dieuhon-the-nua/
    Video này giải thích rằng tuyến yên tiết ra hormone khi bạn chuyển sang
    tuổi dậy thì, bao gồm định nghĩa về hormone, chồi vú và kinh nguyệt. Video nói
    về những thay đổi thể chất của tuổi dậy thì, chẳng hạn như sự phát triển của vú,
    mọc lông mu, những thay đổi về cách vệ sinh và mụn trứng cá. Video này
    khuyên các bạn trẻ nên giữ cho mình sạch sẽ, ăn uống lành mạnh và giảm căng
    thẳng quá mức bằng cách tập thể dục để hướng tới tuổi dậy thì. –
    Dành cho các bạn trẻ
    Nếu bạn ở độ tuổi từ 9 đến 14, có thể bạn đã bắt đầu bước vào tuổi dậy thì
    hoặc những thay đổi xảy ra khi cơ thể bạn chuyển từ một đứa trẻ thành một thanh
    niên nhưng cũng có thể điều đó khônt xảy ra. Dù thế nào đi nữa cũng đừng lo
    lắng. Tuổi dậy thì ở trẻ em gái có thể bắt đầu sớm nhất là 8 tuổi và muộn nhất là
    13 hoặc 14 tuổi, nhưng cuối cùng thì ai cũng trải qua nó thôi!
    Có thể các bạn đã từng nghe hay xem rất nhiều thông tin rằng “Bộ ngực càng
    lớn thì càng tốt” hay “Ngực to hơn thì quyến rũ hơn”. Video này sẽ phản bác lại
    tất cả những đồn đại đó! Kích thước của ngực chúng ta hưởng những đặc điểm di
    truyền từ bố mẹ. Và ngực cũng giống như các bộ phận khác trên cơ thể chúng ta
    có nhiều hình dạng và kích thước khác nhau. Bạn là bạn – đó chính là điều tuyệt
    vời và hấp dẫn nhất. Dù bạn lép hay to hay chẳng có ngực thì bạn vẫn là người
    duy nhất và đặc biệt nhất.
    4. TẠI SAO TỚ KHÔNG THÍCH CƠ THỂ MÌNH?
    https://giaoducgioitinhvietnam.com/2021/06/11/vi-sao-to-khong-thichngoai-hinh-cua-minh/
    Video này sẽ giúp các bạn định nghĩa và có cái nhìn toàn diện về sự thay
    đổi của cơ thể trên thực tế so với những gì truyền thông “vẽ ra”. Nó cho thấy
    rằng các chàng trai cũng có những lo lắng về thay đổi cơ thể và có “cả tá” những
    yếu tố tác động đến ngoại hình cơ thể
    Dành cho các bạn trẻ
    Trong quá trình dậy thì, cơ thể bạn sẽ trải qua rất nhiều thay đổi. Đôi lúc sự
    thay đổi choáng ngợp này sẽ khiến bạn luôn cảm thấy không hài lòng với hình
    ảnh của bản thân. Cảm nhận của bạn về cơ thể được gọi là hình ảnh cá nhân. Gia
    đình, bạn bè và những hình ảnh bạn xem trên TV, mạng xã hội và trong phim ảnh,
    tạp chí đều có khả năng ảnh hưởng đến cách bạn nhìn nhận cơ thể mình. Mọi
    người ở mọi giới tính đều có những cảm xúc tích cực hoặc tiêu cực về những khía
    cạnh khác nhau trên cơ thể mình. Tuy nhiên, bạn nên hiểu rằng rất nhiều hình ảnh
    chúng ta thấy trên mạng xã hội, TV và tạp chí đều không hề chân thực. Chúng
    được tạo ra thông qua các phần mềm máy tính như Photoshop để biến con người
    trở nên hoàn hảo và lý tưởng, nhưng không tồn tại ngoài đời thực. Chính vì vậy,
    bạn hãy luôn nhớ rằng tất cả chúng ta đều khác biệt, chính điều đó khiến ta trở
    nên độc đáo và duy nhất!
    5.TRINH TIẾT
    https://giaoducgioitinhvietnam.com/2021/06/09/elementor-1046/
    Video này cung cấp bối cảnh lịch sử về trinh tiết cũng như các định nghĩa
    khác nhau của mọi người về trinh tiết. Nó làm rõ rằng một số người có thể coi
    mình là trinh nữ nếu họ chưa quan hệ tình dục qua đường âm đạo nhưng đã tham
    gia vào các loại hoạt động tình dục khác, trong khi một số người chỉ tham gia
    vào một số loại hành vi tình dục nhất định, vì vậy họ có thể có định nghĩa khác.
    Video xác định định nghĩa màng trinh và xóa tan lầm tưởng về việc màng trinh
    bị hỏng có thể xác định ai đó còn trinh hay không. Nó cũng xác định sự kiêng
    cữ, liệt kê những lý do tại sao một người nào đó có thể tiếp tục kiêng khem,
    cũng như nhấn mạnh rằng quan hệ tình dục hoặc không quan hệ tình dục không
    khiến ai đó trở thành người tốt hay xấu.
    Dành cho các bạn trẻ
    Có lẽ bạn đã từng nghe từ “trinh nữ”, “trai tân” hoặc “trinh tiết”. Nhưng nó
    thực sự có nghĩa là gì? “Trinh nữ” hay “trai tân” có nghĩa là người chưa quan hệ
    tình dục. Nhưng nếu “trinh nữ”, “trai tân” được định nghĩa bằng việc một người
    đã quan hệ tình dục hay chưa, thì “quan hệ tình dục” là gì? Đối với một vài người,
    trinh nữ nghĩa là chưa từng quan hệ tình dục qua đường âm đạo. Một người nào
    đó có thể không bao giờ quan hệ tình dục qua đường âm đạo nhưng lại có những
    hành vi tình dục khác, như quan hệ tình dục bằng miệng. Điều này có khiến người
    đó trở thành trinh nữ không? Những người khác tin rằng một trinh nữ, trai tân là
    người không bao giờ bị thu hút bởi bất kì loại hành vi tình dục nào với một người
    khác. Mọi người có những ý kiến khác nhau về ý nghĩa của việc còn trinh, vì vậy
    phải nói chuyện với bạn về những hành vi tình dục mà họ đã thực hiện trong các
    mối quan hệ trước đây trước khi quan hệ tình dục với họ. Chỉ vì ai đó coi mình là
    trinh nữ hay trai tân, điều đó không có nghĩa là họ không thực hiện các hành vi có
    thể khiến họ có nguy cơ mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD).
    Trong quá khứ, người ta thực sự quan tâm đến việc một cô gái đã hay chưa
    quan hệ tình dục. Tình trạng là một trinh nữ – trinh tiết được coi là một phẩm chất
    tốt ở người phụ nữ. Mọi người cũng tin rằng bạn có thể biết một cô gái còn trinh
    hay không. Nhưng hiện tại chúng ta biết rằng không ai có thể biết rằng một cô gái
    còn trinh hay không chỉ bằng việc nhìn vào họ hoặc kiểm tra y tế. Lựa chọn thực
    hiện bất kì một hình thức quan hệ tình dục nào cũng là một quyết định quan trọng,
    bất kể giới tính của mỗi người.
    Điều quan trọng nhất không phải là một người còn hay không còn trinh,
    nhưng hãy chỉ lựa chọn quan hệ tình dục khi bạn đã thực sự sẵn sàng. Một số
    người chờ đợi cho đến khi họ tìm được bạn tình mà họ yêu thích. Một số khác chờ
    tới khi họ lớn hơn, có lẽ là cấp 3 hoặc đại học. Một số người biết rằng họ chưa
    sẵn sàng về mặt tinh thần để xử lý những hậu quả có thể xảy ra. Mọi người là khác
    nhau, và quyết định của mỗi người đều nên được quý trọng và trân trọng. Đã quan
    hệ tình dục hoặc chưa không làm bạn trở thành người tốt hay người xấu. Điều
    quan trọng là lựa chọn nào là tốt nhất và lành mạnh nhất cho bạn. Nói chuyện với
    cha mẹ, người chăm sóc hoặc người lớn mà bạn tin tưởng — như anh chị em lớn
    tuổi hơn hoặc dì — có thể giúp bạn tìm ra điều gì phù hợp với mình.
    Việc bạn luôn luôn thể hiện tình cảm và sự ủng hộ với học sinh của mình là
    rất quan trọng, cho dù học sinh của bạn có là gay, lesian, bisexual, asexual hoặc
    heterosexual. Nếu học trò tin bạn và chia sẻ cho bạn những thông tin về xu hướng
    tính dục của mình, đừng chia sẻ những thông tin này với bất kỳ ai mà không có
    sự đồng ý của các con. Hãy tôn trọng các con và quyết định công khai giới tính
    của con khi các con cảm thấy thoải mái và an toàn nhất.
    Chúng ta đã có những bước tiến lớn trên hành trình giành quyền bình đẳng
    cho cộng đồng gay, lesbian và bisexual ở Mỹ, nhưng sự kỳ thị đồng tính vẫn tiếp
    tục hiện hữu ở những cộng đồng, gia đình và trường học. Những bạn trẻ là lesbian,
    gay và bisexual có quyền được sống trong môi trường an toàn và chấp nhận xu
    hướng tính dục của họ. Họ có quyền được sống với bản chất của mình mà không
    cần phải lo sợ về kỳ thị, phân biệt và bạo lực. Các bạn gay, lesbian và bisexual
    cũng cần được tiếp nhận chế độ chăm sóc sức khỏe và giáo dục phù hợp. Và điều
    quan trọng nhất là họ cần được chấp nhận và quý trọng con người thật của họ.
    CHỦ ĐỀ: MỐI QUAN HỆ LÀNH MẠNH
    1. TRANH LUẬN CÔNG BẰNG MÀ HIỆU QUẢ
    https://giaoducgioitinhvietnam.com/2021/06/21/tranh-luan-cong-bang-mahieu-qua/
    Video đưa ra các cách để giải quyết mâu thuẫn và nhấn mạnh rằng giải quyết
    mâu thuẫn cần rất nhiều sự thực hành và nỗ lực từ tất cả mọi người liên quan.
    Những bước để giải quyết mâu thuẫn bao gồm: Xác định rõ những điểm không
    đồng tình là gì Giải thích về những cảm xúc của bạn và mâu thuẫn đó ảnh hưởng
    đến bạn như thế nào Lắng nghe những nhu cầu của người khác và cố gắng thấu
    hiểu quan điểm của họ Cùng nghĩ ra giải pháp để cả hai cùng thấy thoả mãn Dù
    đã được quyết định nhưng giải pháp vẫn không có tác dụng, hãy đưa ra một giải
    pháp khác. –
    Dành cho các bạn trẻ
    Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể thân hay đồng tình với nhau về mọi
    thứ. Một người có thể không đồng ý với người khác và có sự mâu thuẫn do họ
    không cùng quan điểm, niềm tin và những tham chiếu. Đôi khi cũng chỉ vì chúng
    ta không hiểu ý kiến của nhau. Một người có thể mâu thuẫn với bạn bè, một thành
    viên trong gia đình hay một người lớn khác trong cuộc sống hay cả với người yêu
    của mình. Tuy nhiên khi có mâu thuẫn xảy ra, chúng ta thường không giải quyết
    chúng theo một cách công bằng và thỏa đáng.
    Khi gặp mâu thuẫn, để mỗi người chia sẻ về suy nghĩ và cảm xúc của họ là
    vô cùng quan trọng. Điều đó có thể được thực hiện bằng cách nói về “tôi” như
    “Tôi cần…”, “Tôi muốn…”. Dù việc mỗi người chia sẻ về mong muốn và nhu
    cầu của mình là quan trọng nhưng mặt khác quan trọng nhất và đôi khi rất khó
    khăn đó là lắng nghe. Lắng nghe chân thành sẽ giúp chúng ta hiểu được những
    mong muốn và nhu cầu của người khác. Lắng nghe tích cực không chỉ là tập trung
    vào những gì người khác nói mà còn hỏi lại họ kỹ để chắc chắn mình hiểu đúng
    ý của họ. Khi mỗi người đã thực sự lắng nghe quan điểm của nhau, họ có thể cùng
    suy nghĩ cách giải quyết và tìm ra lựa chọn tốt nhất. Nếu giải pháp đó vẫn không
    được thực hiện, họ sẽ luôn nói chuyện lại với nhau để tiếp tục tìm kiếm giải pháp
    khác.
    Những câu hỏi thường gặp
    Thế nào là “giao tiếp tốt” trong một mối quan hệ?
    Giao tiếp là một phần quan trọng của một mối quan hệ lành mạnh. Giao tiếp
    tốt là khi bạn có thể thoải mái nói với người ấy bạn đang cảm thấy như thế nào,
    bạn cần gì, bạn tin vào điều gì và bạn muốn gì. Bạn sẽ nói chuyện với họ một cách
    cởi mở và chân thành nhất mà không sợ hãi sự phán xét hay những phản ứng tiêu
    cực, vô lý. Bạn cũng sẽ lắng nghe và thấu hiểu những cảm xúc, nhu cầu, niềm tin
    và khao khát của họ với sự tôn trọng mà bạn cũng muốn nhận lại từ họ.
    Sẽ mất một khoảng thời gian để làm quen, các bạn mới học được cách giao
    tiếp với nhau. Đó thường là một bài toán khó trong một mối quan hệ, nhưng cũng
    có thể là chất keo gắn kết mọi người bởi vì nó sẽ xây dựng mối quan hệ phát triển
    dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau.
    Mình cần làm gì để nói rõ cảm xúc của mình với bạn bè?
    Một người bạn là người quan tâm và mong muốn giúp đỡ bạn. Vậy nên, nếu
    bạn muốn nói gì với người bạn của mình, hãy nhớ rằng họ chỉ muốn những điều
    tốt nhất cho bạn ngay cả khi nói ra điều đó thật là khó. Để bắt đầu thảo luận, bạn
    có thể nói rằng bạn muốn nói về điều gì. Tìm một khoảng lặng nào đó để hai bạn
    cùng trò chuyện! Hay bạn có thể thực hành tự nói chuyện như nói với chính bản
    thân mình, viết lên giấy hoặc nói to thành tiếng. Bạn cũng có thể nói chuyện với
    người lớn bạn tin tưởng – người chia sẻ với bạn những trải nghiệm quý báu và
    đưa ra những lời khuyên cho bạn. Cuối cùng, một mối quan hệ tốt đẹp là khi thể
    hiện sự tôn trọng và hỗ trợ lẫn nhau dù có thể các bạn không phải lúc nào cùng
    đồng tình quan điểm.
    Làm thế nào để mình trở thành một người biết lắng nghe?
    Lắng nghe không phải chỉ là nghe những gì người khác nói. Để lắng nghe
    một cách tích cực, hãy hạn chế những sao nhãng. Hãy bỏ điện thoại xuống và
    đừng nhìn đi nơi khác khi người khác nói chuyện. Thay vì đánh giá hay nghĩ xem
    mình nên nói gì, hãy tập trung và những gì người khác đang nói. Bạn có thể sẽ
    muốn không chỉ nghe mà còn cảm nhận những cảm xúc bên trong của họ. Hãy để
    người đó biết rằng bạn đang cảm nhận được những suy nghĩ và tình cảm của họ!
    Điều đó sẽ khiến họ cảm nhận được sự giúp đỡ của bạn!
    2. BẠN CÓ SẴN SÀNG ĐỂ QUAN HỆ TÌNH DỤC?
    https://giaoducgioitinhvietnam.com/2021/06/15/ban-co-san-sang-de-quanhe-tinh-duc/
    Video cho bạn biết các dấu hiệu và triệu chứng mang thai cũng như bạn có
    thể mua que thử thai ở đâu. Nếu bạn nghĩ rằng mình đang mang thai, hãy nói
    chuyện với một người lớn mà bạn tin tưởng và đi khám tại các cơ sở y tế. Video
    cũng đưa ra ba lựa chọn khi mang thai mà không phán xét. Đó là nuôi con, tìm
    người nhận con nuôi và bỏ thai. Bạn hãy nhớ người duy nhất có thể lựa chọn
    cách tốt nhất chính là người đang mang thai.
    Dành cho các bạn trẻ
    Chỉ bạn mới biết khi nào bạn thực sự sẵn sàng quan hệ tình dục. Khi lớn lên,
    bạn sẽ hiểu rõ bạn đã sẵn sàng hay chưa sẵn sàng cho tình dục. Hãy trò chuyện
    với người lớn mà bạn tin tưởng. Điều đó sẽ giúp ích cho bạn nhiều đấy! Bạn cũng
    cần nói với đối tác của mình – một người mà quan tâm và tôn trọng bạn. Bạn nên
    nói về những gì đôi bên đều cảm thấy thoải mái về tình dục và các cách để tránh
    thai và ngăn ngừa các bệnh lây truyền qua đường tình dục (Sexually Transmitted
    Disease – STD).
    Những câu hỏi thường gặp
    Khi nào mọi người quan hệ tình dục lần đầu tiên?
    Hầu hết những người trẻ đợi đến khi 18 tuổi thì mới quan hệ tình dục. Có
    khoảng 39% học sinh trung học đã từng quan hệ tình dục và rất ít quan hệ tình
    dục trước khi học trung học. Mặc dù có vẻ như nhiều người ở độ tuổi của bạn
    đang quan hệ tình dục, nhưng việc đợi cho đến khi bạn lớn hơn và sẵn sàng là
    điều hoàn toàn bình thường
    Làm thế nào biết khi nào mình đã sẵn sàng cho tình dục?
    Quan hệ tình dục lần đầu tiên hoặc với người mới là một quyết định lớn và
    chỉ bạn mới có thể quyết định xem mình đã sẵn sàng hay chưa. Hãy cân nhắc về
    mối quan hệ của bạn với người ấy. Liệu bạn có quan tâm, tin tưởng và tôn trọng
    lẫn nhau hay không? Hãy đảm bảo rằng hai bạn đã trò chuyện về lý do tại sao bạn
    muốn quan hệ tình dục, cách nó có thể thay đổi mối quan hệ của bạn và các biện
    pháp để tránh thai và ngăn ngừa các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Nói
    chuyện với cha mẹ hoặc người lớn đáng tin cậy khác cũng sẽ rất tốt cho bạn. Nếu
    bạn không thực sự chắc chắn về cảm giác của mình hoặc nếu không thoải mái khi
    nói về tình dục, bạn có thể chưa sẵn sàng quan hệ tình dục.
    Điều gì sẽ xảy ra nếu mình đã quan hệ tình dục?
    Bạn luôn có quyền quyết định không quan hệ tình dục, ngay cả khi bạn đã
    làm điều đó. Nếu bạn không cảm thấy thoải mái hoặc nếu bạn không chắc chắn
    về việc tiếp tục quan hệ tình dục với bạn tình, bạn hoàn toàn có thể thay đổi quyết
    định, ngay cả khi đang ở giữa chừng. Một đối tác quan tâm, hỗ trợ sẽ tôn trọng
    quyết định của bạn.
    3. TRÊU CHỌC: KHÔNG CHỈ LÀ NIỀM VUI VÔ HẠI
    https://giaoducgioitinhvietnam.com/2021/06/20/treu-choc-khong-chi-laniem-vui-vo-hai/
    Video này làm sáng tỏ khi nào việc trêu chọc vượt quá ranh giới và trở
    thành bắt nạt hoặc quấy rối. Chẳng hạn như khi một người bị chú ý và những trò
    trêu chọc vẫn tiếp diễn kể cả khi người đó đã yêu cầu dừng lại, nếu nó dựa trên
    những thứ ngoài tầm kiểm soát của một người như chủng tộc, giới tính, hoặc xu
    hướng tính dục, hoặc nếu nó bao gồm việc chạm vào ai đó khi chưa có sự đồng
    ý. Video cũng mở rộng khái niệm về sự đồng ý khi hỏi ý kiến trước khi bạn
    chạm vào tóc hoặc ôm một ai đó. Video cũng chỉ ra những điều bạn cần làm nếu
    bạn hoặc bạn của mình bị quấy rối –
    Dành cho các bạn trẻ
    Trêu chọc thường được cho rằng chỉ là đùa giỡn và vô hại. Nhưng trêu chọc
    bằng lời nói hoặc thể chất không bao giờ là tốt đẹp và đồng thời cũng không phải
    là một cách hay để thể hiện với ai đó rằng bạn yêu quý họ. Một vài người có thể
    trêu chọc người khác để khiến bản thân trông có vẻ tốt hơn hoặc quyền lực hơn
    người khác. Một số khác lại trêu chọc chỉ vì người đó khác biệt những người còn
    lại. Dù lý do gì đi chăng nữa, việc trêu chọc có thể dễ dàng vượt quá ranh giới để
    trở thành bắt nạt và quấy rối nếu việc đó diễn ra lặp đi lặp lại. Chạm vào người
    khác mà không có sự cho phép của họ, trêu chọc bằng lời nói và bắt nạt không
    bao giờ là ổn cả.
    Nếu bạn bị bắt nạt hoặc quấy rối, hãy nói với một người lớn bạn tin tưởng.
    Nếu người đó không hành động gì, hãy tiếp tục nói với người khác cho đến khi
    bạn nhận được sự giúp đỡ.
    Những câu hỏi thường gặp
    Bạn của mình luôn chọc mình mỗi khi gặp nhau. Mình đã lườm khi bạn
    ấy làm vậy, nhưng bạn cười và mình nghĩ rằng bạn ấy thấy điều đó thật buồn
    cười. Nhưng thật sự phiền lắm. Mình phải làm như thế nào để dừng việc đó
    lại?
    Lần tới khi nhìn thấy bạn đó, bạn có thể nói những điều như: “Làm ơn đừng
    có chọc tớ. Tớ biết cậu thích làm vậy nhưng nó không hề vui đối với mình.” Giải
    thích với bạn ấy cảm giác của bạn khi bị trêu chọc. Một người bạn tốt sẽ tôn trọng
    mong muốn của bạn và ngừng bất cứ hành vi nào khiến bạn thất vọng và tổn
    thương. Nếu bạn đó vẫn tiếp tục trêu chọc bạn, mặc dù bạn đã yêu cầu dừng lại,
    điều đó là không tốt. Hãy nói với người lớn, bạn không nên tự giải quyết việc
    quấy rối hoặc bắt nạt.
    Nếu mình ôm ai đó hoặc đặt nickname cho bạn của mình, đó có phải là
    trêu chọc không?
    Bất cứ những gì bạn làm với người khác khi họ không mong muốn hoặc chào
    đón, đó có thể được coi là quấy rối hoặc trêu chọc. Nếu bạn làm vậy với một người
    và họ yêu cầu bạn dừng lại hoặc nói với bạn rằng họ không thích điều đó, hãy
    dừng lại ngay lập tức. Nếu bạn ấy trông có vẻ không thoải mái về những điều bạn
    làm hoặc nói ra, bạn có thể hỏi bạn ấy rằng “Điều đó khiến cậu không thoải mái
    đúng không?” Nếu có, hãy xin lỗi bạn ấy và chắc chắn rằng bạn sẽ không làm vậy.
    Đây là những cách bạn thể hiện sự tôn trọng với giới hạn và mong muốn của người
    khác.
    4. NỤ HÔN ĐẦU VÀ THỂ HIỆN TÌNH CẢM CỦA BẠN
    https://giaoducgioitinhvietnam.com/2021/06/15/nu-hon-dau-va-the-hientinh-cam-cua-ban/
    Video đưa ra những gợi ý cho các bạn trẻ chưa sẵn sàng cho nụ hôn đầu
    tiên. Bạn nên tự hỏi bản thân rằng mình có thực sự tin tưởng và thoải mái với
    người đó không. Sau đó, hãy xác nhận xem họ đồng ý hay không. Cũng hãy tự
    hỏi tại sao bạn lại muốn làm điều gì đó về mặt thể xác với họ để đảm bảo rằng
    bạn không cảm thấy bị áp lực trong tình cảm. Bạn cũng cần suy nghĩ xem bạn
    cảm thấy thoải mái với tình cảm nào và thảo luận mọi thứ với đối tác của mình.
    Không ai được ép buộc người khác phải hôn hoặc làm bất kỳ hành vi nào khác.
    Đừng quên trò chuyện với bạn bè, anh chị em hoặc người lớn mà bạn tin tưởng
    nhé! –
    Dành cho các bạn trẻ
    Bạn có thể thấy hơi sợ khi nghĩ về việc hôn hoặc thể hiện tình cảm với ai đó.
    Nhưng sự lo lắng này là hoàn toàn bình thường. Trước khi quyết định rằng mình
    đã sẵn sàng cho nụ hôn đầu tiên hay thậm chí là một cái ôm, hãy cân nhắc xem
    bạn có tin tưởng và cảm thấy an toàn khi ở bên người đó hay không. Hãy nghĩ
    xem tại sao bạn muốn làm những điều gì đó về mặt thể xác. Hay nó chỉ để phù
    hợp hay làm hài lòng người kia? Nếu đó là vì bạn thực sự muốn gần gũi hơn với
    người này và thể hiện tình cảm với họ, thì bạn có thể đã sẵn sàng cho đi nụ hôn
    đầu tiên đó. Trước khi bạn làm bất cứ điều gì, hãy tự hỏi mình câu hỏi này: Họ có
    đồng ý hôn, ôm hay nắm tay không? Cách duy nhất bạn có thể biết là nói chuyện
    với người kia và tìm hiểu xem cả hai cảm thấy thoải mái với điều gì.
    Có rất nhiều cách để thể hiện tình cảm, như hôn hoặc nắm tay. Tuy nhiên,
    khi bạn và một người khác chọn thể hiện tình cảm, bạn có thể lo lắng rằng mình
    thể hiện sai. Không ai sinh ra đã biết cách hôn hoặc chính xác khi nào để hỏi người
    khác xem bạn có thể nắm tay họ không. Nếu bạn tin tưởng và cảm thấy thoải mái
    với người mà bạn muốn thể hiện tình cảm, mọi thứ có thể khó xử lúc đầu nhưng
    bạn sẽ nói chuyện và cuối cùng, tìm ra điều gì phù hợp với nhau. Nếu bạn vẫn
    không chắc chắn về tất cả những điều này, hãy nói chuyện với anh chị em lớn tuổi
    hơn, cha mẹ hoặc một người lớn mà bạn tin tưởng.
    Những câu hỏi thường gặp
    Làm thế nào để mình biết được mình có thể hôn bạn ấy hay không?
    Thỉnh thoảng thật khó để biết được rằng bạn có thể hôn người mà bạn thích
    hay không? Cách duy nhất để biết chắc chắn là hỏi họ mỗi lần bạn muốn. Điều đó
    được gọi là yêu cầu sự đồng ý. Bình thường, có thể bạn nghĩ bạn biết họ muốn
    hôn hay thực hiện những hành vi tình dục khác khi nhìn vào cách họ hành động.
    Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng đồng ý mặc dù biểu hiện của họ là vậy.
    Nếu bạn ấy nói “Được” và mình có thể hôn bạn ấy, mình có thể chạm
    vào ngực hay vùng kín của bạn ấy không?
    Không phải bạn ấy đồng ý cho bạn hôn là bạn ấy sẽ đồng ý những hành vi
    tình dục khác. Có thể họ muốn đi xa hơn và tiến đến những hành vi quan hệ khác
    nhưng bạn vẫn phải hỏi họ. Bạn hãy nhớ luôn hỏi người kia trước khi thực hiện
    bất cứ hành động nào!
    5. ĐIỀU ĐÓ CHƯA CHẮC ĐÃ LÀ “ĐỒNG Ý”
    https://giaoducgioitinhvietnam.com/2021/06/18/dieu-do-chua-chac-da-ladong-y/
    Video này có một bài hát về sự “đồng ý”, đưa ra ví dụ về các tình huống
    mà sự “đồng ý” có thể không rõ ràng. Các tình huống có thể là cần hỏi nhưng họ
    đang ngủ hoặc không tỉnh táo, muốn làm “điều đó” nhưng người đó chưa nói gì
    và lần trước họ ”đồng ý” và ở bên người đó nhưng họ không nói gì. Tất cả
    những tình huống này không phải là sự “đồng ý
    Dành cho các bạn trẻ
    “Đồng ý tình dục” (Sự đồng thuận) là khi cả hai người đồng ý tham gia các
    hành vi tình dục. Họ có thể bày tỏ sự đồng ý của mình bằng cách nói: “Vâng, điều
    đó ổn với tôi.” Nếu họ không nói “không”, điều đó không có nghĩa là đã có sự
    đồng ý. Yêu cầu sự đồng ý và đồng ý cho bất kỳ hành vi tình dục nào là rất quan
    trọng. Bạn có quyền nói “không” với bất kỳ hành vi nào mà bạn không muốn tham
    gia vào bất kỳ lúc nào, vì bất kỳ lý do gì và đối tác của bạn phải tôn trọng quyết
    định của bạn. Đối tác của bạn cũng có quyền nói “không” với bất kỳ hành vi nào
    tại bất kỳ thời điểm nào, vì bất kỳ lý do gì và bạn phải tôn trọng quyết định của
    họ. Sự đồng ý phải được đưa ra một cách tự nguyện — nếu một người bị buộc
    phải đồng ý với bất kỳ loại hành vi nào thì đó không phải là sự đồng ý.
    Để một người đồng ý các hành vi tình dục, họ phải có khả năng đồng ý, có
    nghĩa là họ không bị ảnh hưởng bởi ma túy hoặc rượu và đủ tuổi hợp pháp để có
    thể đồng ý. Có sự đồng ý sẽ gây nhầm lẫn, vì vậy, nếu bạn không chắc chắn liệu
    một người có đồng ý hay không, bạn nên hỏi họ.
    Những câu hỏi thường gặp
    Làm thế nào để mình biết được mình có thể hôn bạn ấy hay không?
    Thỉnh thoảng thật khó để biết được rằng bạn có thể hôn người mà bạn thích
    hay không? Cách duy nhất để biết chắc chắn là hỏi họ mỗi lần bạn muốn. Điều đó
    được gọi là yêu cầu sự đồng ý. Bình thường, có thể bạn nghĩ bạn biết họ muốn
    hôn hay thực hiện những hành vi tình dục khác khi nhìn vào cách họ hành động.
    Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng đồng ý mặc dù biểu hiện của họ là vậy.
    Nếu bạn ấy nói “Được” và mình có thể hôn bạn ấy, mình có thể chạm
    vào ngực hay vùng kín của bạn ấy không?
    Không phải bạn ấy đồng ý cho bạn hôn là bạn ấy sẽ đồng ý những hành vi
    tình dục khác. Có thể họ muốn đi xa hơn và tiến đến những hành vi quan hệ khác
    nhưng bạn vẫn phải hỏi họ. Bạn hãy nhớ luôn hỏi người kia trước khi thực hiện
    bất cứ hành động nào!
    Một người đồng ý trong lúc họ uống rượu hay sử dụng thuốc kích thích
    có được coi là “đồng ý” thật không?
    Điều đó hơi bối rối nếu một người lại đồng ý vào đúng lúc này. Nhưng hãy
    nhớ là việc uống rượu hay dùng thuốc kích thích ảnh hưởng đến khả năng ra quyết
    định của họ, họ không thể đồng ý dù có nói “có” đi chăng nữa. Vì vậy, nếu bạn
    thực hiện những hành vi tình dục với một người đã uống rượu và dùng thuốc kích
    thích, điều đó được coi là “tấn công tình dục” kể cả khi người đó yêu cầu bạn
    trước.
    6. HÃY TÌM ĐẾN MỘT NGƯỜI LỚN MÀ BẠN TIN TƯỞNG!
    httpsgiaoducgioitinhvietnam.com20210615hay-tim-den-mot-nguoi-lon-maban-tin-tuong
    Video khuyến khích các bạn trẻ tìm một người lớn để nói chuyện về những
    tình huống có thể phát sinh trong quá trình trưởng thành. Một số bạn chọn nói
    chuyện với một người thân, một số bạn lại chọn nói với thầy cô hay bố mẹ của
    bạn bè mình. Một số người lớn có thể không phải là một người lắng nghe tốt. Họ
    không tin những bạn trẻ và cũng không nói cho bạn bạn cần nghĩ gì. Video
    khuyên những bạn trẻ tìm đến một người lớn đủ tôn trọng mình để lắng nghe
    không phán xét. Để kiểm tra xem người đó có thích hợp để nói chuyện cùng
    không, bạn có thể quan xét xem họ có hay đưa ra những lời khuyên tốt cho
    người khác không. –
    Dành cho các bạn trẻ
    Đôi khi, thật là ngại khi hỏi bố mẹ hay người lớn về tuổi dậy thì và chuyện
    “ấy”. Mặc dù cảm thấy không thể thoải mái được những bạn hãy nhớ họ cũng
    từng trải qua thời điểm đó. Bố mẹ hay người lớn mà bạn tin tưởng sẽ hỗ trợ bạn
    hết mình khi bạn bước vào tuổi dậy thì. Vậy nên bạn cần có ít nhất một người lớn
    mà bạn tin tưởng ở bên cạnh bạn và nói chuyện với bạn mỗi khi bạn cần.
    Hãy lựa chọn một ai đó là một người biết lắng nghe và không đánh giá bạn!
    Hãy lựa chọn một người mà sẽ hướng dẫn bạn làm những gì trong những lúc khó
    khăn hoặc một người mà sẽ cùng bạn giải tỏa suy nghĩ và cảm xúc! Nhìn vào một
    người mà bạn ngưỡng mộ – người mà bạn muốn khi lớn lên mình trở thành như
    vậy. Hãy tự hỏi bản thân: “Mình có tôn trọng họ không? Mình có tin tưởng vào
    họ? Hay họ sẽ làm mình sợ hãi? Liệu họ có tôn trọng và không phán xét mình
    không?” Những người lớn đáng tin cậy có thể là bố mẹ, ông bà, những người thân
    hay các thầy cô giáo. Ngay cả bố mẹ của bạn khác cũng có thể đưa ra những lời
    khuyên, trả lời những câu hỏi khó và chia sẻ quan điểm và niềm tin với bạn để
    giúp bạn có thể “lớn” hơn và trưởng thành. Bất kể là ai đi nữa, điều quan trọng là
    họ có thể giúp đỡ cho bạn.
    Những câu hỏi thường gặp
    Mình rất xấu hổ! Mình không thể nói với bố mẹ về những thứ đó. Mình
    phải làm gì đây?
    Bạn xấu hổ khi nói những chủ đề này với bố mẹ? Ở nhà bạn cũng chẳng có
    ai nói về dậy thì hay chuyện lớn lên? Điều đó bình thường mà! Nhưng bạn hãy
    nhớ rằng người lớn cũng đã từng trải qua những điều như bạn và họ có rất nhiều
    kinh nghiệm. Bạn có thể sẽ thấy ngạc nhiên vì bố mẹ thực tế sẽ rất cởi mở và
    muốn nói chuyện này với bạn.
    Nếu bạn vẫn chưa thể nói với bố mẹ, bạn hãy xem còn người lớn nào khác
    bạn có thể nói chuyện cùng không. Đó có thể là một người thân trong gia đình,
    trong dòng họ, thầy cô giáo của bạn hay cả bố mẹ của những bạn khác.
    Mẹ mình lúc nào cũng muốn nói về chuyện ấy với mình, mình ngại lắm!
    Mình phải làm sao đây?
    Đúng là thật ngại! Nhưng mẹ nói với bạn như vậy chẳng qua để bạn biết rằng
    bạn có thể tìm đến mẹ mỗi khi cần hỗ trợ hoặc có câu hỏi nào thôi. Nếu bạn thấy
    mẹ mình hơi quá đà thì cứ nói cho mẹ biết rằng bạn vẫn chưa sẵn sàng để nói về
    những chủ đề này nhưng khi bạn sẵn sàng, bạn hiểu là sẽ luôn có mẹ ở bên cạnh
    để hỏi han.
    7. TIN NHẮN KHIÊU DÂM
    https://giaoducgioitinhvietnam.com/2021/06/20/tin-nhan-khieu-dam/
    Video này dựng lên bối cách của việc gửi ảnh khoả thân qua tin nhắn, hoặc
    được coi là tin nhắn khiêu dâm (sexting). Video cũng đề cập đến những hậu quả
    có thể của việc gửi ảnh khoả thân, như việc những bức ảnh đó có thể bị chia sẻ
    với người khác hoặc đăng lên mạng. Ngoài ra, video cũng cung cấp những hậu
    quả về mặt pháp lý trong việc tàng trữ ảnh nóng bởi nó được coi là nội dung
    khiêu dâm trẻ em hay quấy rối tình dục. Video cũng nhấn mạnh rằng mặc dù
    việc cảm thấy cuốn hút bởi ai đó là hoàn toàn bình thường, vẫn còn nhiều cách
    tôn trọng hơn để thể hiện tình cảm với người bạn thích.
    Dành cho các bạn trẻ
    Tin nhắn khiêu dâm là trao đổi tin nhắn, hình ảnh hoặc video tình dục bằng
    tin nhắn văn bản, mạng xã hội hoặc email. Một số người nhắn tin kiểu này như
    một cách để tán tỉnh, gần gũi ai đó mà không có nguy cơ mang thai hoặc nhiễm
    bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD) hoặc đơn giản là vì họ tò mò. Một số
    người có thể nghĩ rằng gửi tin nhắn tình dục là vô hại, nhưng không có gì chúng
    ta gửi trên điện thoại hoặc trực tuyến là riêng tư, kể cả tin nhắn văn bản, email
    hoặc tin nhắn trực tiếp. Sau khi bạn gửi một tin nhắn tình dục, nó có thể được chia
    sẻ với những người khác mà bạn không biết hoặc không được phép. Chuyển tiếp
    một tin nhắn tình dục mà bạn nhận được hoặc đăng ảnh chụp màn hình của cuộc
    nhắn tin tình dục trực tuyến cũng có thể là bất hợp pháp ở vùng của bạn nếu tin
    nhắn có chứa ảnh của một người trẻ tuổi.
    Cân nhắc mức độ rủi ro của việc gửi tin nhắn tình dục, đừng bao giờ gây áp
    lực cho bất kỳ ai gửi cho bạn một tin nhắn khiêu dâm. Nếu ai đó đang ép bạn gửi
    nó, hãy nhớ rằng bạn có thể nói “Không”. Nếu ai đó gửi cho bạn một tin nhắn
    khiêu dâm, đừng chia sẻ nó với bạn bè hoặc bạn cùng lớp. Nếu bạn nhận được nó
    theo cách không mong muốn khiến bạn cảm thấy khó chịu, hãy yêu cầu người đó
    không gửi thêm bất kỳ đoạn tin nhắn như thế một lần nào nữa. Nói chuyện với
    một người lớn đáng tin cậy nếu người đó tiếp tục nhắn tin cho bạn.
    Việc có những suy nghĩ và cảm xúc về tình dục và muốn thể hiện sự hấp dẫn
    của bạn với người khác là điều bình thường. Mặc dù gửi tin nhắn tình dục có vẻ
    là một cách an toàn và dễ dàng để làm điều đó, nhưng điều quan trọng là phải xem
    xét tất cả các hậu quả có thể xảy ra trước khi quyết định gửi một tin nhắn văn bản
    khiêu dâm.
    Những câu hỏi thường gặp
    Làm cách nào mình có thể làm cho điện thoại của mình an toàn?
    Giống như bạn đặt một chiếc ốp lưng vào điện thoại để bảo vệ bên ngoài,
    bạn có thể bảo vệ các ứng dụng và thông tin cá nhân của mình ở bên trong. Nếu
    bạn không chắc ứng dụng của mình có quyền truy cập vào thông tin nào, bạn có
    thể xem lại quyền của ứng dụng thông qua cài đặt bảo mật của điện thoại. Trong
    cài đặt của mình, bạn cũng có thể đảm bảo rằng cài đặt vị trí đã tắt và điện thoại
    của bạn không thường xuyên tính phí thẻ tín dụng hoặc đăng bài trên mạng xã hội
    của bạn. Hãy nhờ người lớn giúp đỡ để làm điều này!
    Nếu nghĩ rằng mình đang gặp phải sự đe dọa trực tuyến, mình có thể
    làm gì?
    Bạn thường nên bỏ qua các tin nhắn bắt nạt thay vì trả lời chúng, nhưng
    chúng mình biết điều đó thật khó khăn! Thay vào đó, bạn có thể cố gắng xóa hoặc
    chặn những kẻ bắt nạt để không nhìn thấy tin nhắn hoặc văn bản của họ. Bỏ qua
    đe dọa trực tuyến không phải là lựa chọn duy nhất của bạn và bạn chắc chắn không
    phải đối mặt với nó một mình! Bạn nên nhận trợ giúp từ cha mẹ, cố vấn học đường
    hoặc một người lớn đáng tin cậy khác. Điều đó đặc biệt đúng nếu đe dọa trực
    tuyến có chứa các mối nguy hiểm.
    CHỦ ĐỀ: AN TOÀN CÁ NHÂN
    1. QUAN HỆ TÌNH DỤC AN TOÀN VÀ PHÒNG TRÁNH THAI
    https://giaoducgioitinhvietnam.com/2021/06/20/mot-so-meo-cho-qhtd-antoan-va-phong-tranh-thai/
    Video chỉ ra bao cao su chính là biện pháp hiệu quả nhất để tránh thai và
    các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Video cũng hướng dẫn sử dụng bao cao
    su đúng cách như không dùng bao cao su đã hết hạn sử dụng, cách đeo, tháo bao
    cao su và chỉ sử dụng bao cao su một lần duy nhất. Bao cao su có nhiều kích cỡ,
    màu sắc và có cả bao cao su có chất bôi trơn nhưng bạn không nên tự bôi trơn
    bằng dầu hay hóa chất khác vì có thể sẽ làm thủng bao cao su. Video cũng nói
    cho bạn những nơi bạn có thể mua bao cao su và đừng lo sợ vì bao cao su không
    giới hạn cho một độ tuổi nào.–
    Dành cho các bạn trẻ
    Khi bạn bắt đầu bước vào tuổi dậy thì, bạn sẽ có thể mang thai hoặc làm cho
    ai đó mang thai. Do đó, các bạn cần phải biết các cách phòng tránh thai. “Kiêng”
    hay trì hoãn quan hệ tình dục là cách tốt nhất để phòng tránh thai. Nhưng cũng có
    rất nhiều biện pháp tránh thai hiệu quả và an toàn nếu các bạn muốn quan hệ tình
    dục.
    Các biện pháp tránh thai có thể là sử dụng một loại thuốc, thiết bị y tế hoặc
    vật cản như bao cao su để ngăn tinh trùng và trứng kết hợp với nhau. Bao cao su
    thường hay được sử dụng nhất. Bao cao su được đeo vào dương vật để ngăn không
    cho tinh dịch đi vào âm đạo tìm trứng, việc này sẽ giúp tránh thai. Ngoài ra, bao
    cao su cũng giúp bảo vệ bạn khỏi những bệnh lây truyền qua đường tình dục, Bao
    cao su được bán tại các hiệu thuốc và không cần phải kê đơn như thuốc bình
    thường. Ai cũng có thể mua bao cao su bất kể ở độ tuổi nào.
    Thuốc tránh thai, Miếng dán và Thuốc tiêm là những biện pháp tránh thai
    khác – ngăn buồng trứng phóng thích trứng hoặc noãn. Nếu muốn sử dụng những
    biện pháp này bạn phải đến gặp bác sĩ và nhận những chỉ dẫn phù hợp. Tuy nhiên,
    các biện pháp này không bảo vệ bạn khỏi các bệnh truyền nhiễm, nên bạn vẫn nên
    sử dụng thêm cả bao cao su khi quan hệ tình dục.
    Những câu hỏi thường gặp
    Có thật là các bạn ở tuổi của mình có thể có thai hoặc làm bạn khác có
    thai không?
    Bạn có thể đã nghe rất nhiều chuyện xung quanh việc ‘liệu mình có thể có
    thai không, bằng cách nào khiến mình có thai hay khi nào mình có thai’. Sự thật
    là lúc bạn bắt đầu bước vào tuổi dậy thì, bạn có thể có thai hoặc làm người khác
    có thai đấy! Đó là lý do tại sao bạn phải biết quá trình mang thai xảy ra như thế
    nào và cách phòng tránh nếu bạn hoặc đối tác của bạn chưa sẵn sàng có thai!
    2. AN TOÀN TRÊN MẠNG XÃ HỘI
    https://giaoducgioitinhvietnam.com/2021/06/20/an-toan-tren-mang-xa-hoi/
    Kết nối với bạn bè, gia đình và mọi người trên mạng có thể rất tuyệt vời!
    Nhưng chẳng có gì chúng ta làm trên mạng là riêng tư, bao gồm những email, tin
    nhắn và cả những app bạn sử dụng trên điện thoại.
    Đừng lo lắng, bạn có thể kiểm soát được lượng thông tin bạn chia sẻ với
    bạn bè, mạng lưới quan hệ của mình và thế giới. Miễn là bạn biết cách sử dụng
    mạng xã hội và internet an toàn, bạn có thể bảo vệ bản thân mình. –
    Bạo lực mạng là gì?
    Bạo lực mạng đề cập đến những tin nhắn bắt nạt hoặc bạo lực được gửi
    online. Nó có thể đến từ những người bạn cũ, người bạn hay đi tới trường cùng
    hoặc những người khác bạn quen biết. Thỉnh thoảng cũng thật khó để nhận diện
    được nó đến từ đâu hoặc ai đang làm điều đó do tên hiển thị, nhưng nếu ai đó đang
    gửi cho bạn những tin nhắn xấu xí, đừng lo sợ và hãy tìm kiếm sự giúp đỡ!
    Nếu mình đang bị bắt nạt, mình có thể làm gì?
    Mọi người thường khuyên rằng bạn hãy phớt lờ những tin nhắn bắt nạt đó
    thay vì phản hồi lại chúng, nhưng chúng ta đều biết rằng rất khó để làm điều đó.
    Thay vào đó, bạn có thể cố gắng xóa hoặc chặn những kẻ bắt nạt, sau đó bạn sẽ
    không thấy tin nhắn hoặc bình luận của họ. Phớt lờ bạo lực mạng không phải là
    quyết định duy nhất và bạn hoàn toàn không cần phải đối mặt với nó một mình!
    Sẽ tốt hơn nếu bạn nhận được sự giúp đỡ từ cha mẹ, tham vấn ở trường học hoặc
    người mà bạn tin tưởng. Hãy làm điều đó ngay lập tức nếu bạo lực mạng đi cùng
    với sự đe dọa.
    3. BẠO HÀNH TRONG TÌNH YÊU
    https://giaoducgioitinhvietnam.com/2021/06/15/bao-hanh-trong-tinh-yeu/
    Video định nghĩa về “bạn tình” và “bạo hành trong tình yêu”. Bạo hành
    trong tình yêu có nhiều loại như bạo hành về thể xác, bạo hành về mặt tâm lý và
    bạo hành tài chính. Video cũng lý giải và đưa ra các ví dụ về rình rập, quấy rối
    và lạm dụng tình dục. Từ đó, video chỉ ra những cách mà bạn có thể tìm sự trợ
    giúp nếu bạn có gặp phải vấn đề bạo hành trong tình yêu như thông báo với thầy
    cô trong trường, nhân viên công tác xã hội hay tìm một người lớn mà mình tin
    tưởng. Video cũng cung cấp đường dây nóng để liên hệ tại Việt Nam. –
    Dành cho các bạn trẻ
    Bạo hành trong tình yêu (bạo lực hẹn hò hay bạo hành gia đình) là hiện tượng
    mà một người trong một mối quan hệ lãng mạn có những hành động để kiểm soát
    người còn lại. Bạo hành trong tình yêu có thể tồn tại giữa bạn trai và bạn gái, giữa
    những người bắt đầu mối quan hệ lãng mạn với nhau, người yêu hay giữa vợ và
    chồng.
    Bạo hành trong tình yêu có rất nhiều loại bao gồm lạm dụng, rình rập và quấy
    rối. Bạo lực về thể chất có thể là đánh, đấm và có những hành động thô bạo. Bạo
    lực về tình cảm có thể khó quan sát hơn nhưng bao gồm chửi rủa, la mắng và lăng
    mạ người kia. Bạo lực về tình cảm cũng có thể là cố gắng kiểm soát người kia
    bằng việc ép buộc họ làm gì, không cho họ làm gì kể cả là quy định nơi họ được
    đến và không được phép đến. Bạo hành tài chính có thể là một người không cho
    người kia quyền sử dụng tiền bằng cách không cho người kia nắm giữ tiền hoặc
    bắt họ phải tự làm việc để kiếm tiền. Bạo hành trong tình yêu còn bao gồm việc
    rình rập hay chính là lén lút theo dõi người kia và không chịu ngừng lại, quấy rối
    trực tiếp, nhắn tin, gửi email hay viết những bài đăng quấy rối. Bạo hành trong
    tình yêu có thể bao gồm cả lạm dụng tình dục – bắt người khác phải tham gia vào
    các hành vi tình dục mà chưa được họ đồng ý. Khi hai người đang trong một mối
    quan hệ, mỗi người vẫn phải tôn trọng ranh giới với người kia, hỏi và nhận sự
    đồng thuận nếu muốn tham gia bất cứ hành vi tình dục nào.
    Bất kể là loại bạo hành tình yêu nào đi chăng nữa, sự kiểm soát đối phương
    không bao giờ là đúng. Bạo hành trong tình yêu không phải là lỗi của người bị
    hại. Nếu một người nào đó thực sự quan tâm đến bạn, người đó sẽ không bao giờ
    gây ra những tổn thương về thể xác cho bạn, không bao giờ kiểm soát bạn, không
    bao giờ bắt bạn làm điều mà bạn không muốn và sẽ không khiến bạn cảm thấy tồi
    tệ về bản thân. Một người thực sự quan tâm và yêu thương bạn là người luôn tôn
    trọng bạn!
    Nếu bạn hay một ai bạn biết đang trong một mối quan hệ bị bạo hành, hãy
    nói với một người lớn mà bạn tin tưởng như bố mẹ, người thân, thầy cô hoặc nhà
    điều trị. Bạn cũng có thể gọi đến đường dây nóng 1900969680 của ngôi nhà Bình
    yên (thuộc Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) để được hỗ trợ.
    Những câu hỏi thường gặp
    Thế nào là “giao tiếp tốt” trong một mối quan hệ?
    Giao tiếp là một phần quan trọng của một mối quan hệ lành mạnh. Giao tiếp
    tốt là khi bạn có thể thoải mái nói với người ấy bạn đang cảm thấy như thế nào,
    bạn cần gì, bạn tin vào điều gì và bạn muốn gì. Bạn sẽ nói chuyện với họ một cách
    cởi mở và chân thành nhất mà không sợ hãi sự phán xét hay những phản ứng tiêu
    cực, vô lý. Bạn cũng sẽ lắng nghe và thấu hiểu những cảm xúc, nhu cầu, niềm tin
    và khao khát của họ với sự tôn trọng mà bạn cũng muốn nhận lại từ họ.
    Sẽ mất một khoảng thời gian để làm quen thì các bạn mới học được cách
    giao tiếp với nhau. Đó thường là một bài toán khó trong một mối quan hệ, nhưng
    cũng có thể là chất keo gắn kết mọi người bởi vì nó sẽ xây dựng mối quan hệ phát
    triển dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau.
    Bạn trai mình suốt ngày nhắn tin hỏi mình đang ở đâu và đang làm gì.
    Thỉnh thoảng cậu ấy tỏ ra buồn bã khi mà mình trả lời muôn. Mình nghĩ cậu
    ấy làm vậy chẳng qua vì thích mình thôi nhưng mẹ mình bảo như thế là
    không tốt. Có điều gì sai khi cậu ấy cứ muốn biết mình ở đâu à?
    Khi một ai đó yêu thương một người, họ có thể hay hỏi han người kia và
    kiểm tra để xem liệu người kia có ổn không. Nhưng, nếu bạn trai bạn tức giận khi
    không phải lúc nào bạn cũng nói ra bạn ở đâu, đó chính là hành vi kiểm soát. Cả
    hai bạn cần phải đủ tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau để mỗi người có sở thích riêng
    và trải nghiệm riêng. Đó chính là những gì một người làm khi họ mong muốn điều
    tốt nhất cho nhau. Nếu bạn trai bạn cứ cố gắng kiểm soát những nơi bạn đến,
    những gì bạn làm hay bạn đang đi cùng ai, hãy nói chuyện với người lớn về mối
    quan hệ của bạn. Bạn nên được an toàn cả về thể chất lẫn tình cảm và được tôn
    trọng trong mối quan hệ.
    4. CÁCH ĐỂ BẠN ĐỐI MẶT VỚI SỰ TỪ CHỐI
    https://giaoducgioitinhvietnam.com/2021/06/15/cach-de-ban-doi-mat-voisu-tu-choi/
    Video đưa ra những tình huống có sự từ chối và nhấn mạnh rằng từ chối chỉ
    là một quan điểm cá nhân và không có nghĩa là bạn không đủ tốt. Video cũng
    đưa ra cách đối mặt với sự từ chối: bắt đầu từ việc chấp nhận quan điểm của
    người khác mà không cố gắng để thuyết phục họ. Video khuyến khích các bạn
    trẻ chấp nhận cảm xúc của mình có thể là buồn bã hay đau lòng, dành thời gian
    để chữa lành những cảm xúc ấy và nói chuyện với ai đó bạn tin tưởng để vượt
    qua nó. Hãy nhớ rằng không phải bạn bị từ chối một lần thì mãi mãi bạn sẽ bị từ
    chối. –
    Dành cho các bạn trẻ
    Bị từ chối là một điều bình thường trong cuộc sống. Có thể đó là việc bạn
    không thể tham gia một vở kịch hoặc “người yêu” của bạn chia tay với bạn. Nhưng
    điều đó xảy ra với tất cả mọi người. Điều quan trọng nhất là cách bạn đối mặt với
    nó. Có thể bạn sẽ cảm thấy thực sự tồi tệ khi bị từ chối. Vậy, bạn có thể làm gì
    khi cảm thấy bị tổn thương hoặc tức giận vì lời từ chối? Dù đang bực bội, bạn hãy
    tôn trọng quyết định của người kia. Bạn cũng có thể tập trung vào bản thân, nói
    chuyện với người mà bạn tin tưởng về cảm giác của bạn và làm điều gì đó vui vẻ
    để đầu óc mình giải tỏa mọi thứ. Và hãy nhớ luôn là chính mình! Chỉ vì một việc
    không diễn ra như bạn nghĩ, không có nghĩa là bạn không thể tận dụng cơ hội cho
    những việc khác trong tương lai!
    Những câu hỏi thường gặp
    Nếu mình bị từ chối rồi có nghĩa là sau này mình vẫn bị từ chối ư?
    Tất nhiên là không phải như vậy. Từ chối chỉ là một điều bình thường trong
    cuộc sống này. Có thể bạn nhận nhiều lời từ chối nhưng không có nghĩa là bạn sẽ
    luôn luôn và mãi mãi bị từ chối đâu. Bạn hãy cứ tiếp tục thử những điều mới mẻ
    và nắm bắt cơ hội của mình nhé!
    Nếu mình bị từ chối, có lẽ mình làm sai gì chăng hay mình phải thay đổi
    thế nào?
    Sự từ chối có thể sẽ rất đau lòng nhưng mà bạn phải nhớ bạn không làm gì
    sai cả! Và bạn cũng đừng nghĩ ngợi rằng mình phải thay đổi theo một cách nào
    đó như là bề ngoài của mình hay những giá trị riêng của mình. Bạn hoàn hảo nhất
    khi là chính bạn đó!
    Nếu ai đó từ chối mình thì mình có nên thuyết phục họ không?
    Thường thì cố gắng để thuyết phục ai đó thay đổi quyết định của họ là khá
    khó. Vậy nên bạn cần học cách chấp nhận lựa chọn của người đã từ chối mình.
    Họ cũng sẽ có quyết định riêng mà họ cho là tốt nhất cho bản thân, cũng giống
    như bạn vậy. Thực tế bạn cũng sẽ hay bắt gặp hình ảnh của chính mình – từ chối
    một ai khác. Do đó, bạn hãy thấu hiểu cho những cảm xúc của đối phương và suy
    nghĩ xem bạn muốn họ đáp lại mình như thế nào
    5. LẠM DỤNG TÌNH DỤC CÓ THỂ XẢY ĐẾN VỚI BẤT KỲ AI !
    https://giaoducgioitinhvietnam.com/2021/06/14/lam-dung-tinh-dung-cothe-xay-den-voi-bat-ky-ai/
    Video này sẽ định nghĩa thế nào là lạm dụng tình dục và giải thích rằng lạm
    dụng tình dục có thể xảy đến với bất kỳ ai, bao gồm cả những bé trai hoặc
    những bạn nam trẻ tuổi. Video nhấn mạnh rằng nếu một bạn nam bị lạm dụng
    tình dục, đó không phải là lỗi của họ, họ không làm gì sai trái cả. Video cũng
    đưa ra quan điểm rằng lạm dụng tình dục đối với các bé trai phổ biến hơn mọi
    người nghĩ và khuyến khích các bạn chia sẻ với người lớn.
    Dành cho các bạn trẻ
    Bất kỳ hành vi tình dục nào hoặc chạm vào ngực, bộ phận sinh dục hoặc
    mông của người khác mà không có sự đồng ý của họ được coi là tấn công tình
    dục.
    Tấn công tình dục bao gồm sự ép buộc hoặc gây áp lực lên một người để
    quan hệ tình dục (hiếp dâm), quan hệ tình dục hoặc có những hành vi tình dục với
    cha mẹ, con cái, anh chị, cháu hoặc những thành viên thân cận trong gia đình (loạn
    luân) hoặc bất kỳ hình vi tình dục nào giữa người lớn và trẻ em – người quá nhỏ
    để đồng ý với hành vi này (lạm dụng tình dục trẻ em). Lạm dụng tình dục có thể
    xảy đến với bất kỳ ai, và nó là bất hợp pháp. Tấn công tình dục phổ biến hơn
    chúng ta nghĩ nhiều, và đó không phải là điều đúng đắn, cho dù những người tấn
    công là người bạn quen biết hoặc họ hàng của bạn.
    Điều quan trọng bạn cần nhớ là tấn công tình dục không bao giờ là lỗi của
    nạn nhân, người bị tấn công hoặc lạm dụng, cho dù kẻ tấn công nói rằng đó là lỗi
    của nạn nhân. Cho dù người đó có mặc gì hay có chăng sử dụng thuốc kích thích

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: 

    Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT