Category: SKKN Luận Văn Luận Án

  • SKKN Tích hợp giáo dục hướng nghiệp trong dạy học phần di truyền và biến dị Sinh học lớp 9

    SKKN Tích hợp giáo dục hướng nghiệp trong dạy học phần di truyền và biến dị Sinh học lớp 9

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    PHẦNI. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Lý do chọn đề tài
    1.1. Xuất phát từ nhiệm vụ đổi mới giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học
    ở trường Trung học cơ sở
    Toàn cầu hóa và hiện đại hóa,có ảnh hưởng lớn đến văn hóa,đời sống
    xã hội, giáo dục và kinh tế của tất cả thế giới. Những biến đổi được thể hiện
    rõ ràng nhất trong nền kinh tếđã mang lại một số thay đổi trong ngành
    nghề,cơ cấu tổ chức, và đời sống kinh doanh. Quá trình toàn cầu hóa phát
    triển nhanh chóngtrong lĩnh vực truyền thông thông tin – công nghệ đã và
    đang làm thay đổi cách chúng ta làm việc.Các lĩnh vực nghề nghiệp mới đang
    nổi lên dựa trên sự linh hoạtvà kiến thức trong cuộc sống làm việc, và những
    thay đổi trongvai trò của sự nghiệp, thời gian đào tạo, giờ làm việc, v.v … dẫn
    các cá nhân đối mặt với những vấn đề mới hàng ngàytrong công việc, sự
    nghiệp, cuộc sống gia đình, lựa chọn nghề nghiệp,phát triển nghề nghiệp và
    lập kế hoạch nghề nghiệp tương lai. Đây cũng chính là nguyên nhân tạo ra sự
    phát triển vượt bậc trong lĩnh vực tư vấn hướng nghiệp, đặc biệt là giáo dục
    hướng nghiệp trong nhà trường ngày càng được nhiều người quan tâm. Giáo
    dục hướng nghiệp có tầm quan trọng lớn trong quá trình dạy học. Nó đóng
    một vai trò quan trọng trong kế hoạch nghề nghiệp của học sinh, sinh viên
    trong tương lai và sự phát triển của mỗi quốc gia.
    Khái niệm nghề nghiệp với các em học sinh còn là một cái gì đó rất mơ
    hồ, do đó việc lựa chọn nghề gì luôn là vấn đề mang nhiều khó khăn.Vì vậy
    giáo dục hướng nghiệp có vai trò vô cùng quan trọng, là một phần không thể
    thiếu trong hệ thống giáo dục. Các chương trình giáo dục hướng nghiệp cho
    học sinh, cụ thể là học sinh trung học cơ sở(THCS)được thiết kế để giải quyết
    các khó khăn về thể chất, cảm xúc, các mối quan hệ xã hội, những kiến thức
    về nghề nghiệp và học tập của học sinh. Điều này là để bổ sung cho việc học
    tập trên lớp và cũng tăng cường kết quả học tập, thành tích của học sinh giúp
    2
    học sinh phát triển toàn diện. Đây là nội dung mà giáo dục Việt Nam đang
    thực hiện. Nội dung giáo dục hướng nghiệp (GDHN) cho học sinh (HS) là
    một trong những vấn đề quan trọng được Đảng ta và Nhà nước ta đặc biệt
    quan tâm. Đặc biệt Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết địnhsố 522/QĐ-
    TTg phê duyệt Đềán“Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học
    sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018-2025”[3].Mục tiêu của đề án
    nhằm nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp trong giáo dục cơ sở và
    phổ thông, góp phần chuyển biến mạnh mẽ công tác phân luồng học sinh sau
    trung học cơ sở và trung học phổ thông vào học các trình độ giáo dục nghề
    nghiệp phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và địa
    phương, đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực quốc
    gia, hội nhập khu vực và quốc tế.
    Trong những năm trời lại đây, nhiều học sinh gặp rất nhiều khó khăn
    trong việc lựa chọn trường thi và định hướng nghề nghiệp trong tương lai.
    Dẫn đến tình trạng các em học sinh ngồi nhầm lớp, nhầm trường, không hứng
    thú với học tập, thậm chí hậu quả nặng nề hơn là rất nhiều học sinh bỏ học,
    sinh viên sau khi ra trường không tìm được việc làm, tỉ lệ sinh viên ra trường
    làm trái ngành nghề với chuyên môn được đào tạo chiếm tỉ lệ rất cao. Vậy
    nguyên nhân nào dẫn tới thực trạng trên?
    Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng trên chủ yếu là do HS gặp rất
    nhiều khó khăn trong việc nhận thức và đánh giá được năng lực bản thân, khó
    khăn trong việc tìm thông tin về ngành nghề, trường thi, nghề nghiệp. Đặc
    biệt nhiều gia đình, có sự bất đồng quan điểm giữa bố mẹ và con cái trong quá
    trình lựa chọn trường, lựa chọn ngành nghề. Đây là những nút thắt quan trọng
    trong cuộc đời của mỗi học học sinh, nếu những khó khăn này không được
    giải quyết kịp thời sẽ gây nên sự lo lắngcho các em HS và dẫn đến hậu quả là
    các em học sinh đưa ra những quyết định không đúng đắn trong qua trìnhchọn
    trường thi, nghề nghiệp trong tương lai. Trong các nhà trường hiện nay có
    3
    nhiều hình thức GDHN cho học sinh cũng được quan tâm đặc biêt như: thông
    qua các môn học, qua các hoạt động trải nghiệm, qua các buổi nói chuyện
    ngoại khóa…Tuy nhiên những hoạt động GDHN chủ yếu được tổ chức ở các
    trường trung học phổ thông(THPT), rất ít ở các trường THCS, nếu có thì thời
    lượng tổ chức các hoạt động trong nhà trường rất hạn chế.Do đó, khi học sinh
    muốn tìm hiểu thêm các vấn đề khác có liên quan thì nhàtrường không đáp
    ứng được hoặc chưa cung cấp đầy đủ những thông tin thắc mắc về nghề
    nghiệp, do đó làm cho các em chưa ý thức được sự cần thiết và có nhu cầu
    cần phải được tư vấn khi chọn nghề.
    1.2. Xuất phát từ nội dung môn Sinh học và nội dung của phần Di truyền
    và biến dị – Sinh học 9 – Trung học sơ sở
    Chương trình sách giáo khoa(SGK) môn sinh học 9 và nội dung giáo
    dục phổ thông mới phải đáp ứng được nhiệm vụ nêu tại Nghị quyết số 29-
    NQ/TW là “Xây dựng và chuẩn hóa nội dung giáo dục phổ thông theo hướng
    hiện đại, tinh gọn, bảo đảm chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và
    phân hóa dần ở các lớp học trên; giảm số môn học bắt buộc; tăng môn học,
    chủ đề và hoạt động giáo dục tự chọn”[4].Thực hiện mục tiêu “phân luồng
    mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và
    chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng”, nội dung giáo dục
    được xây dựng theo hướng tích hợp ở các cấp học dưới và phân hóa theo định
    hướng nghề nghiệp ở cấp học trên để tạo thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động
    dạy học gắn với thưc̣ tiêñ , qua đó phát triển năng lực học sinh.
    Giáo dục hướng nghiệp là vấn đề cấp bách, bởi các em học sinh lớp 9
    cuối cấp, rất cần được hướng dẫn để lựa chọn phân ban và phân hóa tại cấp
    trung học phổ thông đồng thời hướng dẫn cho một bộ phận rất lớn các em học
    xong THCS sẽ không học tiếp THPT mà học theo các trường chuyên nghiệp
    hay trường nghề.
    4
    Xuất phát từ các lý do trên, căc cứ vào đặc điểm nội dung bộ môn tôi
    đã chọn sáng kiến“Tích hợp giáo dục hướng nghiệp trong dạy học phần di
    truyền và biến dị – Sinh học lớp 9- Trung học cơ sở”.
    2. Mục đích nghiên cứu
    Đề xuất một số biện pháp tích hợp giáo dục hướng nghiệp trong dạy
    học phần di truyền và biến dị sinh học lớp 9, nhằm trợ giúp HS giải quyết
    những khó khăn trong quá trình chọn nghề góp phần nâng cao hiệu quả giáo
    dục hướng nghiệp trong nhà trường THCS hiện nay, đồng thời góp phần nâng
    cao hứng thú, chất lượng dạy học Sinh học ở trường THCS hiện nay.
    5
    PHẦNII. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô rả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Lịch sử nghiên cứu về giáo dục hƣớng nghiệp
    Trong một kỷ nguyên toàn cầu hóa, sự phát tiển của công nghệ cao và
    hệ thống thông tin mớithúc đẩy sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế, mang
    lại một cuộc cách mạng trong giáo dục, thị trường lao động, và thúc đẩy sự
    phát triển về đời sống ở khắp các quốc gia châu Á và Thái Bình Dương. Việt
    Nam cũng không ngoại lệ. Việt Nam đã có sự chuyển mình mạnh mẽ với
    thành tựu đáng chú ý không chỉ trongphát triển kinh tế của mà còn trong tất cả
    các khía cạnh của xã hội. Một nền kinh tế mới đã tạo ra một điều kiện quan
    trọng mới để phát triển sự nghiệpquần chúng cũng như mở cửa cho sự phát
    triển của hướng nghiệp nói chung và GDHN nói riêng.
    Trong xã hội, từ khi xuất hiện các hình thức phân công lao động, đồng
    thời con người chú trọng đến các phẩm chất cá nhân phù hợp với từng công
    việc cụ thể. Trong một thế giới phát triển, có rất nhiều các loại hình nghề
    nghiệp, sự lựa chọn một nghề phù hợp với bản thân là một điều hết sức quan
    trọng với mỗi người. Tuy nhiên lựa chọn được một nghề, một hướng đi phù
    hợp với bản thân là một điều hết sức khó khăn, gặp rất nhiều trở ngại. Do vậy
    đã có rất nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu vấn đề giáo dục hướng
    nghiệp để một phần nào đó giúp đỡ những học sinh, sinh viên, thanh thiếu
    niên có những cơ sở khoa học để lựa chọn một ngành nghề phù hợp với năng
    lực của mình.
    1.1.1. Tình hình giáo dục hướng nghiệp trên thếgiới
    Những nội dung, khái niệm liên quan đến hướng nghiệp đã được đề cập
    từ rất lâu cùng với lịch sử phát triển kinh tế – xã hội của con người. Ngay từ
    năm đầu tiên của thế kỷ thứ I sau công nguyên, khái niêm về hướng nghiệp đã
    được đề cập đến trong bài viết của Epictetus là một triết gia khắc kỷ Hy Lạp.
    Ông nhận định rằng trước khi chọn nghề thì mọi người nên xem sét khả năng
    6
    có phù hợp với yêu cầu của nghề hay không. Đây chính là một trong những lý
    thuyết cơ bản của hướng nghiệp hiện nay.
    Thời trung cổ, theo nghiên cứu của Juan Huartey Navarro(1530-1592)
    trong một cuốn sách của ông là “Examen de los ingenios para las ciencias –
    Kiểm tra khoa học,1575”. Trong cuốn sách ông viết một số nội dung về
    những quy tắc để khám phá năng lực của bản thân và từ đó lựa chọn nghề
    nghiệp phù hợp nhất với năng lực của mình. [35]
    Vào đầu thế kỷ 18 ở Đức, Immanuel Kant (1724-1804) cho rằng để lựa
    chọn những ngành nghề khác nhau thì năng lực trí tuệ là điều kiện cần thiết
    trong quá trình lựa chọn.[35]
    Ở Ấn độ, giáo dục hướng nghiệp đc nghiên cứu khá sớm, từ đầu những
    năm 1954, một trong nhà nghiên cứu là H.P.Mehta. Ông tiến hành 3 cuộc điều
    tra về tình hình giáo dục ở Ấn độ và thu được kết quả như sau:
    – Trong năm 1954, ông tiến hành điều tra và thu được các kết quả khác nhau
    trong việc tư vấn nghề nghiệp, giáo dục hướng nghiệp rất kém phát triển, sự
    kém phát triển này xuất phát từ truyền thống văn hóa.
    – Năm 1957, ông tiếp tục tiến hành điều tra về tình hình giáo dục 25 trường
    khác nhau, đối tương được khảo sát là các hiệu trưởng nhưng kết quả mang
    lại cũng không mấy khả quan. Hầu hết mọi người đều không đánh giá cao vai
    trò của giáo dục hướng nghiệp, các hiệu trưởng không quan tâm nhiều đến
    những lựa chọn của học sinh sau khi ra trường
    – Năm 1961, ông phát hiện ra rằng những hạn chế trong luật giáo dục là một
    trở ngại thực sự cho sự phát triển giáo dục hướng nghiệp[31]
    Báo cáo năm 1956 của C. W. Riddle về một dự án thí điểm trong
    hướng dẫn sinh viênvà tư vấn ở Calcutta cho thấy kết quả khả quan hơn. Ông
    so sánh giữa những sinh viên được tư vấn đề hướng nghiệp với sinh viên
    không được tư vấn hướng nghiệp. Sau đó có rất nhiều các nhà khoa học khác
    như : A. A. Khatri(1962), A. D’Costa (1961), V. V. Kothurkar(1962)…đã tiến
    7
    hành nghiên cứu và phát triển giá dục hướng nghiệp ở Ấn độ và đạt được
    nhiều thành tựu to lớn. Thành tựu lớn nhất thu được của các nhà nghiên cứu
    đó là Chính phủ Ấn Độ bắt đầu quan tâm đến những chương trình hướng
    nghiệp và tư vấn hướng nghiệp cho các thanh niên(1958). [31], [33]
    Tại Nhật Bản, thuật ngữ hướng nghiệp được đề cập vào khoảng những
    năm 1912-1928 và được áp dụng vào trong dạy học khoảng những năm 1920.
    Đến năm 1927“Hiệp hội hướng nghiệp” được thành lập, vào thời điểm đó Bộ
    giáo dục Nhật Bản thấy rõ sự cần thiết của giáo dục hướng nghiệp với thanh
    thiếu niên, đã yêu cầu các trường tiểu học, trung học cơ sở hỗ trợ tích cực học
    sinh trong việc hướng nghiệp.[33]
    G.L.Weaver đã viết trong cuốn “Handbook on Vocational Guidance”
    về việc cải thiện chương trình giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường, ông
    nhận thấy rằng Bộ giáo dục đã thấy rõ vai trò giữa học vấn văn hóa phổ thông
    với kiến thức và kĩ năng lao động – nghề nghiệp nên đã đưa thêm nội dung
    giáo dục hướng nghiệp vào nhà trường. Tạo cơ hội cho sự phát triển của giáo
    dục hướng nghiệp, đặc biết là đối với các giáo viên giảng dạy chương trình
    hướng nghiệp giúp họ nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn. [34]
    ỞMỹ, tư vấn hướng nghiệp phát triển vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ
    20, trong bối cảnh xã hội có nhiều biến động và thay đổi. Sự biến động xã hội
    được thể hiện rõ rệt ở việc nhiều người bị mất việc làm, yêu cầu công việc đòi
    hỏi chuyên môn cao do công nghiệp hóa, nhiều nông dân không thể cạnh
    tranh và tồn tại trước sự xuất hiện của máy móc. Nên sự ra đời của hướng
    nghiệp là nhu cầu tất yếu để phần nào giải quyết các vấn đề trên. Frank
    Parsons(1909) được gọi là cha đẻ của khái niệm “hướng nghiệp và giáo dục
    hướng nghiệp” khi lần đầu tiên công bố nó trong một nghiên cứu. Những
    nghiên cứu của ông chủ yếu dựa vào sự quan sát và thu thập dữ liệu, ông đưa
    ra những kết luận khi quan sát những người thất nghiệp sống trong một nhà
    8
    tình thương ở Boston. Ông nhấn mạnh rằng sự lựa chọn nghề nghiệp của một
    người dựa vào 3 yếu tố:
    – Hiểu rõ năng lực bản thân
    – Hiểu rõ các điều kiện và yêu cầu để thành công trong công việc
    – Hiểu rõ mối quan hệ giữ năng lực bản thân và sự thành công trong nghề
    nghiệp.[38]
    Ở Pháp, hướng nghiệp có lịch sử phát triển hàng trăm năm, nó có liên
    quan đến sự phát triển của kinh tế và biến động xã hội. Hướng nghiệp có
    những biến đổi phù hợp với sự chuyển biến mạnh mẽ của kinh tế và xã hội
    nên rất được coi trọng. Đặc biệt là giáo dục hướng nghiệp đã được chính
    quyển đương thời quan tâm và có chính sách phát triển lâu dài.Ở Pháp năm
    1848 xuất bản cuốn “Hướng dẫn chọn nghề” cuốn sách viết về vấnđề sự phát
    triểnđa dạng của thế giời nghề nghiệp vàviệc phải hỗ trợ thanh niên trong việc
    sự lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực.
    Ở Anh, ban đầu hướng nghiệp chỉ hướng đến đối tượng là các thanh
    niên, giúp họ định hướng và chuyển đổi nghề nghiệp nếu cần thiết. Sau chiến
    tranh thế giới thứ 2 ở Anh, hiệp hội Tư vẫn việc làm cho những người chưa
    thành niên được sáp nhập vào hiệp hội có tên là Tư vấn việc làm cho người
    trẻ, dành cho những người dưới 18. Hiệp hội này không chỉ hướng nghiệp cho
    thanh thiếu niên mà còn quả lý những thanh thiếu niên bị thất nghiệp tạo cơ
    hội cho họ kiếm được việc làm. Đến năm 1952 hầu hết các trường đại học ở
    Anh đều có các trung tâm hướng nghiệp nhắm cung cấp cho sinh viên các
    thông tin liên quan về nghề nghiệp. Vào cuối những năm 60 đầu những năm
    70 hướng nghiệp phát triển mạnh mẽ ở Anh, kéo theo những nội dung liên
    quan đến giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường cũng phát triển nhanh
    chóng. Nội dung giáo dục hướng nghiệp dành học sinh tập chung vào năng
    lực tự nhân thức bản thân và đưa ra các quyết định phù hợp trong việc lựa
    chọn nghề nghiệp. Và sự kiện nổi bật nhất chứng minh cho sự phát triển
    9
    hướng nghiệp ở Anh đó là sự ra đời của Đảng Lao Động vào năm 1997, nó
    làm thay đổi mạnh mẽ những quan điểm về hướng nghiệp. Đối tượng của
    hướng nghiệp không chỉ là thanh thiếu niên mà dành cho tất cả mọi người
    trong xã hội.[32]
    Tại Trung Quốc vào năm 1914 -1915, Yanpei Huang tiến hành điều
    tra và khảo sát tại các trường trung học về vấn đề hướng nghiệp, ông không
    ủng hộ quan điểm giáo dục của Trung Quốc lúc bấy giờ. Sau chuyến thăm
    quan tại các trường học ở Mỹ, ông nhận định rằng nội dung hướng nghiệp của
    Mỹ lúc bấy giờ là phù hợp nhất đối với hệ thống giáo dục Trung Hoa trong
    việc giải quyết và ngăn chặn các khủng hoảng về kinh tế. Ông đưa ra quan
    điểm kết hợp giữa giáo dục và nghề nghiệp, sau này được gọi là Hiệp hội giáo
    dục hướng nghiệp do ông và Yuanpei Ca thành lập tại Thượng Hải vào năm
    1917. Từ 1917 đến 1948, Hiệp hội giáo dục hướng nghiệp thành lập 5 trường
    dạy nghề, 12 trung tâm giáo dục dạy nghề, và 12 trung tâm hướng nghiệp và
    tư vấn hướng nghiệp. Vào ngày 29 tháng 9 năm 1993, Hiệp hội Hướng dẫn
    Nghề nghiệp Trung Quốc(CCGA), một chi nhánh của Hiệp hội Giáo dục Kỹ
    thuật và Dạy nghề Quốc giavới sự hỗ trợ của Ủy ban Giáo dục Nhà nước,
    được thành lập tại Bắc Kinh. Mục tiêu củaCCGA bao gồm tăng cường nghiên
    cứu trong lĩnh vực hướng nghiệp,thúc đẩy thực hành hướng nghiệp, đào tạo
    các chuyên gia hướng nghiệp, thúc đẩy tăng cườngtrao đổi quốc tế vàhợp tác
    trong tư vấn nghề nghiệp.[38]
    1.1.2. Tình hình giáo dục hướng nghiệp ở Việt Nam
    Bác Hồ đã từng nói: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, muốn xây
    dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa. Bác mong
    muốn, đào tạo không chỉ có lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, đạo đức…
    mà còn phải là người có kiến thức khoa học, chuyên môn trình độ vững vàng.
    Bác là người rất coi trọng công tác giáo dục, Bác cho rằng kết hợp giữa lý
    10
    thuyết và thực tế là một nguyên tắc quan trọng, học đi đôi với hành, học đi đôi
    vớilaođộng.
    GDHN ở nước ta đã tiến hành nghiên cứu và triển khai khá sớm, từ
    những năm 70 của thế kỉ XX. Cơ sở lý luận và thực tiễn GDHN của Việt Nam
    chủ yếu được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn của Liên Xô. Thời kỳ
    này GDHN ở Việt Nam chủ yếugiáo dục cho HS những hành vi, thái độ khi
    tham gia vào hoạt động nghề nghiệp[11]
    Năm 1979, Bộ Chính trị đưa ra Nghị quyết về cải cách giáo dục khẳng
    định HN là bộ phận khăng khít của quá trình giáo dục. Quyết định 126/CP
    ngày 19/3/1981 của Chính phủ có viết:“Về công tác HN trong trường phổ
    thông và việc sử dụng hợp lý HS các cấp THSC và THPT tốt nghiệp ra
    trường” đã tạo hành lang pháp lí cho sự phát triển của công tác HN, nhất là
    HN cho HS phổ thông [10]
    Đầu những năm 80, người có công lớn nhất với sự nghiệp phát triển
    GDHN ở nước ta là GS. Phạm Tất Dong. Ông đã nghiên cứu rất nhiều những
    vấn đề liên quan đến GDHN như: nội dung và các phương pháp GDHN dành
    cho học sinh, thanh thiếu niên…Những quan điểm và nội dung về GDHN của
    ông được thể hiện thông qua rất nhiều các bài báo khoa học, các công trình
    nghiên cứu. Một trong những bài báo được nhiều người quan tâm nhất đó là
    “Hướng nghiệp cho thanh niên” vào năm 1982.
    Ngoài ra cũng có rất nhiều tác giả khác như Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Thị
    Bình, Đoàn Chi, Đặng Danh Ánh, Nguyễn Minh Đường, Nguyễn Văn Hộ
    cũng nghiên cứu về GDHN cho HS. Họ đã đề cập đến vai trò của nhà trường
    trong việc định hướng nghề cho HS, đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao
    chất lương GDHN trong nhà trường.
    Trong giai đoạn 1983-1996, GDHN ở nước ta đã đạt được một số thành
    tựu quan trọng, được coi là thời kì thịnh vượng nhất. Các tác giả Nguyễn
    Trọng Bảo, Đoàn Chi, Cù Nguyên Hanh, Hà Thế Ngữ, Tô Bá Trọng, Trần
    11
    Đức Xước, Nguyễn Thế Quảng, Nguyễn Phúc Chỉnh ngoài việc đi sâu nghiên
    cứu việc tiến hành công tác GDHN tại các nhà trường THPT, còn tham gia
    nghiên cứu những nội dung liên quan đến tư vấn hướng nghiệp cho HS.
    Giai đoạn 1997 – đến nay, những nghiên cứu về GDHN chủ yếu là khái
    quát kinh nghiệm GDHN trên thế giới, đánh giá thực trạng và đưa ra những
    giải pháp về GDHN trong nhà trường ở Việt Nam hiện nay. Việt Nam giai
    đoạn 2005-2010 có các tác giả Phạm Tất Dong, Vũ Văn Tảo, Nguyễn Như
    Ất, Lưu Đình Mạc, Phạm Huy Thụ, Nguyễn Văn Lê, Trần Khánh Đức, Hà
    Thế Truyền, Bùi Văn Quânđã nghiên cứu về những vấn đề trên.Trong giai
    đoạn này, Bộ giáo dục cũng như nhiều tác giả đã xuất bản nhiều ấn phẩm về
    nội dung GDHN cho học sinh THCS và THPT. Một số ấn phẩm nổi bật như:
    “Giáo dục hướng nghiệp 9 – Sách Giáo Viên”, “Hoạt động giáo dục hướng
    nghiệp 10,11,12 – Sách Giáo Viên”,NXB Giáo dục.“Một số cơ sở của công
    tác hướng nghiệp cho học sinh phổ thông”, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000;
    “Hoạt động giáo dục lao động, hướng nghiệp năm học 2000 – 2001 và phương
    hướng năm học 2001 – 2002”, Hà Nội, 2001…; Có rất nhiều tài liệu hướng
    dẫn và tham khảo được phát hành phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao của
    HS, SV về định hướng nghề nghiệp. Có rất nhiều mô hình, hoạt động trải
    nghiệm nghề nghiệp hay các trung tâm tư vấn hướng nghiệp được mở rộng và
    nâng cao, mà đối tượng hướng tới là học sinh cấp tiểu học và THCS. Điều
    này cho thấy rằng, hoạt động hướng nghiệp, GHDN trong nhà trường đã được
    cả xã hội quan tâm.
    Theo của GS – TS Phạm Tất Dong, ông có nêu “Đổi mới công tác
    hướng nghiệp cho phù hợp với kinh tế thị trường. Quán triệt chủ trương đổi
    mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh việc củng cố và phát triển các
    trung tâm KTTH – HN – DN” (Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trung tâm lao động –
    hướng nghiệp, Hà Nội, 1992). Ông thấy rằng trong những người không có
    việc làm, không biết nghề thì thanh thiếu niên chiếm phần lớn. Do vậy ông đề
    12
    xuất: Trước hết cần hình thành, phát triển năng lực nghề nghiệp, sau đó đẩy
    mạnh công tác hướng nghiệp – dạy nghề cho học sinh. Đây là một trong
    những nguyên tắc cơ bản để thúc đẩy sự phát triển của nên kinh tế.Ông đã đề
    nghị thiết lập một hệ thống GDHN từ bậc tiểu học với thời lượng tăng dần ở
    các năm trên. Tăng cường tiết học và nội dung GDHN trong nhà trường chứ
    không chỉ là 9 buổi cho cả năm. Ông cũng đề nghị giao nhiệm vụ GDHN cho
    các giáo viên đổi mới chương trình GDHN, thiết kế nhiều hoạt động ngoại
    khóa, trải nghiệm nghề nghiệp, tham quan dành cho học sinh. Có sự phối hợp
    chặt chẽ giữa nhà trường – gia đình – xã hội trong việc GDHN cho học sinh
    ngay từ cấp tiểu học[1], [12],[19].
    Trong những năm gần đây, thưc hiện các quy định của chính phủ và Bộ
    giáo dục, nội dung GDHN trong nhà trường cụ thể là nội dung tích hợp
    GDHN trong các môn học được triển khai đồng bộ ở hầu hết các khối lớp và
    cấp học. Các tác giả Phạm Thị Hồng Hạnh, Đinh Tiến Công, Nguyễn Phương
    Thảo Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, trong một bài báo khoa học có viết
    “Giáo dục trung học phổ thông (THPT) là giai đoạn giáo dục định hướng
    nghề nghiệp, giai đoạn quan trọng đối với học sinh (HS) trong việc tiếp nhận,
    khám phá các tri thức khoa học và ảnh hưởng quyết định nghề nghiệp trong
    tương lai”. Các tác giả thấy rõ được mối quan hệ mật thiết giữa kiến thức
    khoa học và GDHN, nên việc tích hợp GDHN là điều cần thiết hiện nay. [16]
    Theo tác giả Vũ Cẩm Tú – Tạp chí Giáo dục số 437, có nêu: “Có nhiều
    nguyên nhân, kết quả của hoạt động GDHN ở trường phổ thông vẫn còn
    nhiều hạn chế. Một trong các nguyên nhân phải kể đến đó là sự thiếu kiến
    thức cũng như kĩ năng trong GDHN cho HS của giáo viên (GV)”. Tác giả
    nhận định rằng GDHN có hiệu quả chưa cao không chỉ ở nội dung và phương
    pháp, mà chính bản thân giáo viên hướng nghiệp chưa có đủ năng lực cần
    thiết trong việc GDHN cho học sinh. Tác giả đã đề xuất khung năng lực cho
    giáo viên, nhằm phát triển năng lực GDHN cho giáo viên hiện nay. [27]
    13
    Theo nghị quyết về đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ
    thông số: 88/2014/QH13 của Quốc hội có nêu: “Đổi mới chương trình, sách
    giáo khoa giáo dục phổ thông nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về
    chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và
    định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ
    kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực,
    hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh.” Về
    nội dung đổi mới: “Giáo dục phổ thông 12 năm, gồm hai giai đoạn giáo dục:
    giai đoạn giáo dục cơ bản (gồm cấp tiểu học 5 năm và cấp trung học cơ sở 4
    năm) và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (cấp trung học phổ thông
    3 năm). Giáo dục cơ bản bảo đảm trang bị cho học sinh trí thức phổ thông nền
    tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở. Giáo dục định
    hướng nghề nghiệp bảo đảm học sinh tiếp cận nghề nghiệp, chuẩn bị cho giai
    đoạn học sau phổ thông có chất lượng;” Và cũng theo nội dung chương
    trường trình giáo dục tổng thể mới: Giáo dục hướng nghiệp là hoạt động bắt
    buộc với cấp học THCS, THPT.[25]
    Với bộ môn Sinh học, có rất nhiều tác giảNguyễn Quang Vinh, Trần
    Doãn Bách, Trần Bá Hoành, Trịnh Nguyên Giao, Trần Đăng Cát… đã đề cập
    giáo dục thực hành và hướng nghiệp là nhiệm vụ của bộ môn Sinh học.
    Các tác giả Lê Thị Hương, Lê Văn Tính…trong nghiên cứu của mình đã
    đưa ra mô hình “Vườn thực nghiệm sinh học trong dạy học Sinh học, Công
    nghệ nông nghiệp(CNNN)”. Mục đích của mô hình là tạo cơ hội cho học sinh
    tiếp cận thực tế, thể nghiệm cảm xúc tích cực, khai thác những kinh nghiệm
    đã có và huy động kiến thức, kỹ năng môn Sinh học và CNNN vào thực tế đời
    sống. Qua mô hình ngoài việc áp dụng các kiến thức vào thực tế, cũng là một
    phương pháp rèn luyện năng lực của học sinh thích ứng với cuộc sống, môi
    trường và nghề nghiệp tương lai.[20]
    14
    Những công trình khoa học về GDHN trong và ngoài nước đã mang lại
    rất nhiều giá trị về phương pháp và lý luận đối với GDHN của nước ta. Thông
    quan việc nghiên cứu, phân tích các đề tài nghiên về vấn đề GDHN hiên nay,
    tôi nhận thấy rằng, các đề tài đều khẳng định được tầm quan trọng của
    GDHN, là một hoạt động cấp bách và cần thiết với sự phát triển giáo dục toàn
    diện của học sinh, cũng như sự phát triển của mỗi quốc gia. Tuy vậy, thực
    trạng GDHN ở nước ta hiện nay chưa có được nhiều sự quan tâm của mọi
    người trong xã hội. Đa số ở các trường, GDHN chỉ được coi là một phần
    trong nhỏ trong mục tiêu giáo dục, đa số các trường chỉ lồng ghép trong một
    số hoạt động ngoại khóa.Do vậy chưa phát huy hết hiệu quả của GDHN mang
    lại cho HS. Có rất nhiều phương pháp được các tác giả đề xuất nhằm nâng cao
    chất lượng GDHN, gây hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập. Nhưng
    đa số các đề tài này chưa thực sự mang lại hiểu quả cao, các tác giả chỉ đưa ra
    được nội dung mà chưa có phương pháp cụ thể chi tiết cho từng khối lớp,
    môn học cụ thể. Do đó hiện nay vì tính cấp bách của vấn đề có rất nhiều đề tài
    đưa ra những phương pháp GDHN mới và đem lại kết quả cao, đó là tích hợp
    GDHN vào môn khoa học. Đây là chính là một hướng đi mới cần được
    nghiên cứu và đầu tư.
    1.2.Cơ sở lý luận
    1.2.1.Khái niệm nghề nghiệp
    Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nghề nghiệpđược đưa ra.
    Theo từ điển tiếng Việt thì nghề là “công việc chuyên môn làm theo sự
    phân công lao động của xã hội”. Nghề nghiệp là nghề để sinh sống và phục vụ
    xã hội [24].
    Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp viết: “Từ nghề nghiệp là những từ ngữ
    biểu thị những công cụ, sản phẩm lao động và quá trình sản xuất của một
    nghề nào đó trong xã hội. Những từ này thường được những người trong
    ngành nghề đó biết và sử dụng. Những người không làm nghề ấy tuy ít nhiều
    15
    cũng có thể biết nhiều từ ngữ nghề nghiệp nhưng ít hoặc hầu như không sử
    dụng chúng. Do đó, từ ngữ nghề nghiệp cũng là một lớp từ vựng được dùng
    hạn chế về mặt xã hội”[15]
    Tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt”cho
    rằng:”Từ vựng nghề nghiệp bao gồm những đơn vị từ vựng được sử dụng để
    phục vụ các hoạt động sản xuất và hành nghề của các ngành sản xuất tiểu thủ
    công nghiệp, nông nghiệp và các ngành lao động trí óc (nghề thuốc, ngành
    văn thư…) [8]
    Nghề là một hoạt động lao động trong đó con con người dựa vào năng
    lực, phẩm chất của mình tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần, là điều kiện cơ
    bản cho sự tồn tại của con người cũng như toàn xã hội xã hội.
    1.2.2. Khái niệm hướng nghiệp
    Lịch sử phát triển xã hội loài người nói chung, phát triển và tiến hoá
    của hệ thống nghề nghiệp nói riêng cho đến tận ngày nay đã cho thấy rất rõ
    tính phức tạp, khó dự báo của các quy luật chuyển hoá nghề nghiệp. Xã hội
    ngày càng phát triển, tính phức tạp ấy càng tăng lên. Cùng với sự phát triển
    không ngừng về mọi mặt của cuộc sống nói chung và thế giới nghề nghiệp nói
    riêng, hoạt động hướng nghiệp đã và đang ngày càng phát huy vai trò to lớn
    của mình trong việc giúp đỡ, hỗ trợ cá nhân lựa chọn được một lĩnh vực tác
    nghiệp chuyên môn phù hợp mà còn như một công cụ quan trọng để thực hiện
    công tác phân luồng học sinh, thanh niên vào các lĩnh vực lao động theo định
    hướng phát triển của quốc gia cũng nhu nhu cầu của thị trường lao động.
    Ngay nay, hướng nghiệp được đã và đang được xem như một lĩnh vực khoa
    học và là hướng phát triển đúng đắn của nền giáo dục tiên tiến.
    Có rất nhiều khái niệm hướng nghiệp được đưa ra, chúng ta sẽ em xét
    các khái niệm về hướng nghiệp trên nhiều phương diện khác nhau.
    16
    – Theo từ điển tiếng Việt:“Hướng nghiệp là thi hành những biện pháp nhằm
    đảm bảo sự phân bố tối ưu (có chú ý tới năng khiếu, năng lực thể lực) nội
    dung theo ngành và loại lao động giúp đỡ lựa chọn hợp lý ngành nghề” [24].
    – Theo từ điển giáo dục học:“Hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp giúp đỡ
    học sinh làm quen tìm hiểu nghề, lựa chọn, cân nhắc nghề nghiệp với nguyện
    vọng, năng lực, sở trường của mỗi người. Với nhu cầu và điều kiện thực tế
    khách quan của xã hội” [17].
    – Theo UNESCO, “hướng nghiệp (HN) là một quá trình cung cấp cho người
    học những thông tin về bản thân, về thị trường lao động và định hướng cho
    người học có các quyết định đúng đối với sự lựa chọn nghề nghiệp”. Như
    chúng ta biết, hiện nay giáo dục nói chung và GDHN nói riêng không chỉ
    cung cấp cho người học kiến thức, tri thức khoa học, mà thông qua hoạt động
    học còn giúp người học phát huy tích cực năng lực, phẩm chất cá nhân, giúp
    học sinh phát triển toàn diện, đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Đây cũng là
    cơ sở định hướng cho sự lựa chọn nghề nghiệp của học sinh. Ngày nay, người
    ta đã nhận thấy chỉ cung cấp thông tin là không đầy đủ mà cần phải chỉ ra sự
    phát triển về mặt cá nhân, xã hội, giáo dục và nghề nghiệp của học sinh. Một
    sự thay đổi khác có ảnh hưởng lớn đến hoạt động HN là nó được nhận thức
    như là một quá trình phát triển, đòi hỏi một cách tiếp cận chương trình chứ
    không chỉ đơn giản là các cuộc phỏng vấn cá nhân tại các thời điểm quyết
    định. Trong các cuộc cải cách giáo dục, việc đưa vào giáo dục phổ thông nội
    dung giáo dục nghề nghiệp để chúng ta có thể định hướng nghề nghiệp, giúp
    các em có khái niệm về nghề nghiệp và chọn lựa nghề của mình trong tương
    lai là nội dung rất được coi trọng trong các nền giáo dục tiên[22]
    – PGS. TS Phạm Viết Vượng quan niệm “Hướng nghiệp là hoạt động định
    hướng nghề nghiệp của các nhà sư phạm cho học sinh nhằm giúp họ chọn một
    nghề phù hợp với hứng thú, năng lực của cá nhân và yêu cầu nhân lực xã
    hội”. [28]
    17
    Hướng nghiệp là 1 chuỗi các biện pháp nhằm giúp cho mỗi học sinh
    đưa ra những lựa chọn định hướng học tập và nghề nghiệp dựa trên năng lực
    và phẩm chất của mỗi cá nhân sao cho phù hợp với nhu cầu của xã hội. Như
    vậy,chúng ta có thể thấy rằng hướng nghiệp không chỉ là nhiệm vụ của chỉ
    riêng ngành giáo dục mà đó là một hoạt động của nhiều lĩnh vực khác nhau
    trong xã hội…với mục đích cuối cùng giúp học sinh khám phá năng lực của
    bản thân để lựa chọn nghề nghiệp phù hợp, đáp ứng được yêu cầu chuyên
    môn trong sản xuất lao động.
    Trong giáo dục, hướng nghiệp là cũng được coi là một hoạt độn dạy
    học của giáo viên và học sinh. Giáo viên hướng dẫn giúp đỡ học sinh đưa ra
    các lựa chọn về phương hướng học tập và nghề nghiệp dựa trên phân tích
    năng lực, hứng thú bản thân và yêu cầu của xã hội. Như vậy, hướng nghiệp
    trong trường học được thể hiện như một hệ thống tác động sư phạm nhằm làm
    cho các em học sinh chọn được nghề một cách phù với với năng lực bản thân
    [13].Haycó thể nói “Hướng nghiệp là sự tác động của một hệ thống những
    biện pháp tác động của nhà trường, gia đình và xã hội, trong đó nhà trường
    đóng vai trò chủ đạo nhằm hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng đi
    vào lao động ở các ngành nghề, tại những nơi xã hội đang cần phát triển, đồng
    thời phù hợp với hứng thú, năng lực cá nhân” [18].
    1.2.3. Khái niệm giáo dục hướng nghiệp
    GDHNbao gồm các hoạt động của nhà trường phối hợp với gia đình và
    các tổ chức xa hội nhằm trang bị kiến thức, hình thành năng lực định hướng
    nghề nghiệp cho bản thân HS. Giúp học sinh lựa chọn nghề nghiệp phù hợp
    với năng lực, phẩm chất, tính cách, sở thích, phù hợp với điểu kiện, hoàn cảnh
    gia đình của mỗi học sinh và phù hợp với nhu cầu của xã hội. [16]
    Như vậy, GDHN như là một kim chỉ nam, là một quá trình tác động
    nhiều mặt giúp các em HS hiểu rõ bản thân, từ đó đưa ra các quyết định đúng
    đắn với sự lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai.
    18
    1.2.4. Tích hợp và dạy học tích hợp
    Theo từ điển Giáo dục học“tích hợp là hành động liên kết các đối tượng
    nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác
    nhau trong cùng một kế hoạch dạy học” [17]
    Theo từ điển tiếng Việt thì“Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động,
    chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích
    hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp”. Tích hợp trong môn
    khoa học thường được hiểu là sự kết hợp nội dung kiến thức của nhiều môn
    học để giải quyết một vấn đề, một nhiệm vụ học tập nào đó.[24]
    Hội nghị phối hợp trong chương trình của UNESCO, Paris 1972 có đưa
    ra định nghĩa: Dạy học tích hợp các khoa học là một cách trình bày các khái
    niệm và nguyên lý khoa học cho phép diễn đạt sự thống nhất cơ bản của tư
    tưởng khoa học, tránh nhấn quá mạnh hoặc quá sớm sự sai khác giữa
    các lĩnh vực khoa học khác nhau. [5]
    Theo Xaviers Roegirs “Sư phạm tích hợp là một quan niệm về quá
    trình học tập trong đó toàn thể các quá trình học tập góp phần hình thành ở
    học sinh những năng lực rõ ràng, có dự tính trước những điều cần thiết cho
    học sinh nhằm phục vụ cho quá trình học tập tương lai, hoặc hoà nhập học
    sinh vào cuộc sống lao động. Khoa sư phạm tích hợp làm cho quá trình học
    tập có ý nghĩa” [30]
    Theo Nguyễn Văn Khải “Dạy học tích hợp tạo ra các tình huống liên
    kết tri thức các môn học, đó là cơ hội phát triển các năng lực của học sinh.
    Khi xây dựng các tình huống vận dụng kiến thức, học sinh sẽ phát huy được
    năng lực tự lực, phát triển tư duy sáng tạo.”[21]
    19
    Quan điểm của Ban chỉ đạo đổi mới chương trình, sách giáo khoa sau
    2015 cho rằng: Dạy học tích hợp được hiểu là giáo viên tổ chức để học sinh
    huy động đồng thời kiến thức, kỹ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm
    giải quyết các nhiệm vụ học tập, thông qua đó lại hình thành những kiến thức,
    kỹ năng mới, từ đó phát triển những năng lực cần thiết [5]
    Có rất nhiều hình thức tích hợp như: tích hợp truyền thông, đơn môn,
    liên môn, đa môn, xuyên môn …nhưng hình thức tích hợp chủ yếu hiện nay
    thường được sử dụng là tích hợp liên môn. Tích hợp liên môn là hình thức sử
    dụng những kiến thức của các môn khoa học khác nhau để giải quyết một tình
    huống, một vấn đề.
    Bảng 1.1.So sánh các thành tố giữa dạy học tích hợp và dạy học đơn môn

    Các thành tố của
    quá trình dạy học
    Dạy học tích hợpDạy học đơn môn
    Mục tiêuMục tiêu đơn môn + các mục
    tiêu phát triển các năng lực
    Mục tiêu đơn môn
    Nội dungXuất phát từ vấn đề gắn với
    thực tiễn, ít quan tâm đến logic
    nội tại của môn học
    Trình bày theo cấu
    trúc logic nội tại của
    môn học
    Phương tiệnKhông có sự khác biệt về bản chất mà chỉ là do sự khác
    biệt về nội dung quy định
    Phương pháp,
    hình thức tổ chức
    Không có phương pháp dạy học tích hợp mà sử dụng
    chung hệ thống phương pháp dạy học giống như khi
    dạy học truyền thống
    Kiểm tra đánh giáKhông có sự khác biệt về công cụ hay cách thức đánh
    giá

    Như vậy, dạy học tích hợp có thể hiểu đó là một quan điểm dạy học
    nhằm hình thành và phát triển ở học sinh những năng lực cần thiết trong đó có
    20
    năng lực vận dụng kiến thức để giải quyết có hiệu quả các tình huống thực
    tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là để đảm bảo cho mỗi học sinh biết vận dụng
    kiến thức được học trong nhà trường vào các hoàn cảnh mới lạ, khó khăn, bất
    ngờ thường gặp phải trong đời sống thực tiễn; qua đó trở thành một người
    công dân có trách nhiệm, một người lao động có năng lực. Dạy học tích hợp
    đòi hỏi việc học tậpcác nội dung lý thuyết trong nhà trường phải luôn được
    gắn với thực tiễn cuộc sống của học sinh. Như vậy, dạy học tích hợp sẽ phát
    huy tối đa năng lực và phát triển phẩm chất cá nhân mỗi học sinh, giúp các
    em thành công trong cuộc sống sau này.
    1.3. Cơ sở thực tiễn củatích hợp giáo dục hƣớng nghiệp trong dạy học
    Sinh học ở cấp Trung học cơ sở
    1.3.1.Thực trạng của việc dạy học giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường
    Để biết được thực trạng của dạy học GDHN trong nhà trường tôi tiến
    hành “Phiếu hỏi ý kiến” đối với các giáo viên trong trường THCS Phùng Chí
    Kiên, Nam Định. Số lượng giáo viên tham gia: 50 giáo viên bao gồm cả giáo
    viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn. Kết quả tiến hành khảo sát như sau:
    Bảng 1.2. Thực trạng dạy học giáo dục hướng nghiệp(GDHN)

    STTNội dungÝ kiến của GV
    1Mức độ dạy học GDHN trong nhà trƣờng
    Thường xuyên3(6%)
    Thỉnh thoảng25(50%)
    Hiếm khi10(20%)
    Không bao giờ12(24%)
    2Hình thức dạy GDHN của thầy cô thƣờng là:Số GV chọn
    Dạy học ngoại khóa toàn trường50
    Dạy học theo kế hoạch dạy học0
    Dạy học trải nghiệm theo nhóm0

    21

    Dạy học sinh hoạt hướng nghiệp15
    Dạy học lồng ghép vào môn khoa học50
    Hình thức khác0
    3Phƣơng pháp, kỹ thuật dạy học thầy cô thƣờng
    sử dụng:
    Số số GV chọn
    Dạy học dự án2
    Dạy học nhóm15
    Dạy học trải nghiệm5
    Kỹ thuật bản đồ tư duy50
    Dạy học theo trạm0
    Dạy học nêu và giải quyết vấn đề30
    STEM5
    Thuyết trình50
    Vấn đáp50
    Trực quan50
    Phương pháp khác23

    Qua kết quả “phiếu hỏi ý kiến” của giáo viên ta có những nhận xét sau:
    – Với câu hỏi số 1, khi được hỏi về mức độ dạy học GDHN trong nhà trường
    thì chỉ có 3% giáo viên tham gia khảo sát thường xuyên dạy GDHN, số giáo
    viên không tham gia dạy GDHN là 12% còn lại đa số giao viên ít khi
    dạy(25%) hay thỉnh thoảng dạy (50%). Lý giải cho thực trạng trên tôi nhận
    thấy rằng, tất cả những giáo viên trong nhà trường vào giáo viên tham gia
    khảo sát đều không phải là giáo viên chuyên về dạy GDHN. Những giáo viên
    này đều là kiêm nhiệm việc dạy GDHN cho học sinh. Trước kia, việc dạy
    GDHN được Sở Giáo dục, nhà trường tổ chức sẽ do những giáo viên thuộc
    trường trung cấp nghề trên địa bàn đảm nhiệm. Sau khi Sở Giáo dục cho
    22
    trường tự quản trong việc GDHN cho học sinh, thì những giáo viên bộ môn
    trong nhà trường sẽ kiêm nhiệm. Do không được đào tạo chuyên môn, chưa
    có nhiều kinh nghiệm trong việc dạy GDHN là nguyên nhân dẫn đến giáo
    viên bộ môn còn chưa tâm huyết với việc dạy GDHN. Dẫn tới hiệu quả của
    việc GDHN trong nhà trường không đạt được hiệu quả cao. Nguyên nhân thứ
    làm cho hiệu quả GDHN trong nhà trường chưa cao là GDHN không được
    sếp vào môn học trong nhà trường do đó số tiết dạy GDHN rất ít chỉ sắp xếp
    vào các buổi sinh hoạt cuối tuần của lớp hay các buổi học ngoại khóa toàn
    trường.
    – Với câu hỏi số 2 và số 3, khi được hỏi về hình thức, phương pháp dạy học
    GDHN đa số giáo viên lựa chọn những hình thức, phương truyền thống như
    vấn đáp, thuyết trình, kỹ thuật bản đồ tư duy… mà rất ít sử dụng các phương
    pháp dạy học mới như: STEM, dạy học them góc, theo trạm dẫn đến hiệu quả
    của GDHN chưa cao.
    Biểu đồ 1.1. Sự lựa chọn hình thức dạy học
    1.3.2.Thực trạng của việc dạy học giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường
    2
    15
    5
    50
    0
    30
    5
    50 50 50
    23
    0
    10
    20
    30
    40
    50
    60
    SỐ GV
    HÌNH THỨC LỰA CHỌN
    23
    Để biết được thực trang học tập của học sinh đối với môn Sinh học và
    hoạt động GDHN trong nhà trường, tôi tiến hành “Điều tra xa hội học” đối
    với các học sinh của 4 lớp 9 trong trường THCS Phùng Chí Kiên. Số học sinh
    tham gia là 193 học sinh.
    Kết quả khảo sát nội dung 1
    Trong câu hỏi số 1 “Thái độ học tập môn Sinh học của bản thân học
    sinh”, tôi chỉ tiến hành điều tra ở 3 mức độ gồm: Thích, bình thường, không
    thích.Hứng thú trong học tập luôn là một trong những thang điểm quan trọng
    trong việc đánh giá kết quả học tập của học sinh ở tất cả các môn học. Mức độ
    hứng thú với môn học có ý nghĩa quyết định tới kết quả học học tập của học
    sinh. . Kết quả thống kê thuđược như bảng 1.3:
    Bảng 1.3. Kết quả khảo sát mức độ hứng thú của học sinh

    Mức độLớp khảo sát
    TNĐCTổng số
    SL%SL%
    Thích4242,864042,1082(42.49%)
    Bình thường5152,044951,58100(51.81%)
    Không thích55,1066,3211(5.70%)

    Qua kết quả khảo sát, tôi nhận thấy rằng các em học sinh đã có sự quan tâm
    của với môn Sinh tuy ở mức độ chưa cao. Nhưng đây cũng là một tín hiệu tốt
    cho việc học tập môn Sinh học mà còn đối với việc dạy học GDHN. Bên cạnh
    đó vẫn có những em không quan tâm hứng thú đối với môn Sinh học(5.7%)
    đây là những thách thức đặt ra với các giáo viên bộ môn trong việc dạy học.
    Việc dạy học luôn yêu cẩu phải đổi mới cả về nội dung và phương pháp nhằm
    tạo hứng thú cho học sinh.
    Để làm rõ mức độ quan tâm của học sinh đối với môn Sinh học, đặc
    biệt là sự quan tâm tới nghề nghiệp, tôi đưa ra câu hỏi số 2 “Em hãy chọn
    24
    những lĩnh vực nghề nghiệp có liên quan đến Sinh học”. Kết quả thu được
    như sau:
    Bảng 1.4. Kết quả lựa chọn nghề liên quan tới Sinh học

    STTNghề nghiệpÝ kiến của HS
    1Bác sĩ193(100%)
    2Kỹ sư nông nghiệp193(100%)
    3Giáo viên Sinh học193(100%)
    4Y tá, điều dưỡng viên193(100%)
    5Kỹ sư xây dựng3(1.55%)
    6Công an hình sự20(10.36%)
    7Nhà tâm lý giáo dục30(15.54%)
    8Dược sĩ70(36.27%)
    9Kỹ sư lâm nghiệp90(46.63%)
    10Kiến trúc sư5(2.59%)

    Từ kết quả trên, nhận thấy rằng hầu hết các em đã chọn đúng những
    nghành nghề liên quan tới sinh học. Tuy nhiên vẫn có nhiều em lựa chọn sai
    như kỹ sư lâm nghiệp chỉ có 46,63% các em lựa chọn, nhưng có đến tận
    36.27% các em lựa chọn dược sĩ là nghề có liên quan đên Sinh học. Ngoài ra
    vẫn cònhọc sinh hiểu chưa đúng về ngành nghề có liên quan đến Sinh học
    như: Lựa chọn kiến trúc sư (2.59%), kỹ sư xây dựng (1.55%).
    – Với câu hỏi số 3, khi được hỏi về “Em đã tìm hiểu thông tin về nghề nghiệp
    từ những nguồn này?”thu được kết quả như sau:
    Bảng 1.5. Kết quả tìm hiểu nguồn thông tin

    STTNguồn thông tinÝ kiến của HS
    1Hỏi thầy cô giáo35(18.13%)
    2Kiến thức môn khoa học trên lớp27(13.99%)

    25

    3Các phương tiện thông tin đại chúng: tivi, đài,
    báo…
    150(77.72%)
    4Thông qua mạng xã hội147(76.17%)
    5Từ người thân gia đình, bạn bè53(27.46%)
    6Thổng nội dung giáo dục hướng nghiệp10(5.18%)
    7Từ nguồn khác30(15.54%)

    Qua kết quả bảng khảo sát cho ta thấy, học sinh chủ yếu tìm hiểu thông tin về
    môn học, về nghề nghiệp chủ yếu qua các phương tiện thông tin đại
    chúng(77.72% tương ứng 150 lượt học sinh chọn), qua mạng xã hội(76.17%
    tương ứng với 147 lượt học sinh chọn). Như vậy có thể thấy rằng đa số các
    em đều tim hiểu thông tin từ các nguồn chưa chính thống, điều này có thể dẫn
    tới thông tin các em tìm kiếm có thể sai lệch dẫn đến sự hiểu sai của các em
    về một vấn đề nào đó. Nhưng chỉ có 10 học sinh (5.18%) lựa chọn tìm hiểu
    thông tin qua hoạt động GDHN, điều này cho thấy rằng việc GDHN trong nhà
    trường còn nhiều hạn chế. Hoạt động GDHN trong nhà trường chủ yếu là giới
    thiệu cho học sinh cách xác định và hướng chọn nghề chung chung mà chưa
    đi vào chi tiết. Điều này dẫn đến hậu quả là học sinh “đói” thông tin, tự các
    em sẽ tìm hiểu các thông tin về học tập hay GDHN bằng những cách khác
    nhau, dẫn tới kiến thức có thể sai lệch.
    Kết quả khảo sát nội dung 2
    Mục đích của nội dung 2 của phiếu “Điều tra xa hội học” là làm sáng tỏ
    về sự hiểu biết của học sinh với khái niệm thế nào là nghề nghiêp? Và tìm
    hiểu những khó khăn của học sinh trong quá trình chọn trường, chọn nghề. Từ
    đó sẽ đưa ra những phương pháp, nội dung dạy học GDHN phù hợp với học
    sinh, đáp ứng được những thắc mắc của các em.
    – Kết quả điểu tra với câu hỏi 1 “Sau khi tốt nghiệp THCS, em lựa chọn
    hướng đi” như sau:
    26
    Bảng 1.6. Định hướng học tập của học sinh

    Mức độLần 1
    TNĐCBiến động
    (TN-ĐC)%
    SL%SL%
    Thi vào THPT8481.647983.16– 1.52
    Học trung cấp nghề99.181010.53– 1.35
    Học trường năng khiếu33.155.26-2.16
    Nghỉ học và tham gia lao động22.0411.05+ 0.99

    Biểu đồ 1.2. Định hƣớng học tập của học sinh
    Nhìn vào biểu đồ ta thấy được rẳng đa số các em chọn hướng học tập
    tiếp theo là thi vào THPT (81.64% lớp TN và 83.16% lớp ĐC) những lựa
    chọn khác chiếm rất ít (từ 1,05 – 10,53%). Điều này phản ánh đúng thực trạng
    hiện nay, không chỉ diễn ra trong nhà trường mà toàn xã hội. Đa phần các phụ
    huynh học sinh đều cho rằng học tập mới là con đường duy nhất để thành
    công trong cuộc sống và phụ huynh thường áp đặt cách nghĩ này lên con em
    mình. Nhưng phụ huyunh không lường trước được rằng, sự lựa chọn không
    phù hợp với con em của chính họ sẽ dẫn tới có tình trạng học sinh ngồi nhầm
    81.64
    9.18
    3.1 2.04
    83.16
    10.53
    5.26
    1.05
    0
    10
    20
    30
    40
    50
    60
    70
    80
    90
    Thi vào THPT Học trung cấp
    nghề
    Học trường năng
    khiếu
    Nghỉ học và tham
    gia lao động
    TN ĐC
    27
    lớp, nhầm trường, học sinh sẽ chán học, phá lớp …làm ảnh hưởng đến chất
    lượng học tập và ảnh hưởng đến chính cuộc sống của các em sau này. Rất
    nhiều học sinh luôn băn khoăn rằng không biết mình thích gì, học gì và làm
    gì. Đây chính là vấn đề mà giáo dục nói chung và GDHN nói riêng cần giải
    quyết.
    – Với câu hỏi số 2 “Nghề nghiệp tương lai em lựa chọn là gì?” rất nhiều lựa
    chọn được các em đưa ra. Câu hỏi này với mục đích đánh giá mức độ hiểu
    biết của học sinh về khái niệm “nghề nghiệp”.Kết quả như bảng:
    Bảng 1.7. Định hướng nghề nghiệp của học sinh

    Nghề nghiệpLớp
    TNĐC
    SL%SL%
    Học lên THPT2020.411818.5
    Công an1010.201212.63
    Giám đốc55.1068.42
    Kỹ sư IT55.1077.37
    Bác sĩ1010.201010.53
    Kiến trúc sư22.0433.16
    Thiết kế thời trang22.0411.05
    Ca sĩ33.0611.05
    Người mẫu22.0411.05
    Phi công33.0633.16
    Bộ đội33.0666.32
    Giáo viên33.0622.11
    Đầu bếp22.0422.11
    Nội chợ33.0633.16

    28

    Kinh doanh88.1688.42
    Kế toán55.1077.37
    Luật sư55.1044.21
    CEO77.1466.32
    Gamer0011.05
    Làm Nail0011.05
    Quả lý khách sạn0011.05
    Tổng98100%95100%

    Sự lựa chọn nghề nghiệp của các em rất đa dạng, ở cả lớp đối chứng và
    lớp thực nghiệm. Nhưng bên cạnh những lựa chọn chính xác về một nghề, tức
    phần nào các em đã hiểu thế nào là một nghề vẫn có học sinh chưa hiểu đúng,
    có 20.41% ở lớp TN và 18.95% ở lớp đối chứng chọn học lên THPT là một
    nghề, tương tự có 8.16% lớp TN và 8.42% chọn kinh doanh là một nghề.
    Điều này cho thấy vai trò quan trọng trong việc dạy học GDHN trong nhà
    trường.
    – Với câu hỏi “lý do lựa chọn nghề nghiệp”, có kết quả bảng thống kê như
    sau:
    Bảng 1.8. Lý do lựa chọn nghề nghiệp

    Lý do lựa chọn nghề nghiệpLớp
    TNĐC
    SL%SL%
    Bố mẹ mong muốn lựa chọn2727.552526.32
    Do thích ngành nghề đó4040.824143.16
    Lựa chọn theo bạn bè88.1699.47
    Thầy, cô giáo tư vấn66.1233.16
    Theo xu hướng trên báo, mạng xã hội99.181010.53

    29

    Do nhận thấy năng lực bản thân phù
    hợp với nghề
    88.1666.32
    Lý do khác0011.05
    Tổng98100%95100%

    Với lý do theo mong muốn của bố mẹ có 27.55% ở lớp TN và 26.32%
    ở lớp ĐC, có đến 40.82% ở lớp TN và 43.16% ở lớp đối chứng lựa chọn là do
    thích ngành nghề đó. Những lý do quan trong khác như dựa trên năng lực bản
    thân chỉ có 8.16% ở lớp TN và 6.32% ở lớp đối chứng. Điều này chứng tỏ các
    em chưa hiểu rõ những nguyên tắc căn bản trong việc lựa chọn nghề nghiệp.
    Sự lựa chọn của các em chủ yếu dựa vào cảm tính, sở thích của cá nhân chứ
    chưa căn cứ vào năng lực của bản thân.
    – Khi được hỏi về“những khó khăn gặp phải khi lựa chọn nghề và hướng giải
    quyết” của học sinh, tôi thu được kết quả như sau:
    Bảng 1.9. Khó khăn khi lựa chọn nghề nghiệp

    Khó
    khăn
    Những khó khăn thƣờng gặp phải khi em chọn
    trƣờng/nghề nghiệp đó là:
    Không biết mình phù hợp với trường, ngành nghề
    nào
    43(22.28%)
    Không đánh giá được năng lực của bản thân51(26.42%)
    Hiểu biết về các trường/ ngành nghề hạn chế27(13.99%)
    Không lựa chọn được trường/ngành nghề phù hợp22(11.40%)
    Bất đồng quan điểm với bố mẹ trong việc chọn
    trường
    39(20.21%)
    Những khó khăn khác11(5.70%)
    Gặp khó khăn em thƣờng làm gì để giải quyết?
    Hỏi ý kiến bố mẹ43(22.28%)

    30

    Hƣớng
    giải
    quyết
    Hỏi ý kiến thầy cô giáo34(17.62%)
    Chia sẻ với các bạn cùng lớp25(12.95%)
    Tìm hiểu thông tin trên mạng, báo đài.74(38.34%)
    Từ nguồn khác17(8.81%)

    Qua số liệu bảng 1.8, ta nhận thấy rằng đa số các em đều gặp khó khăn trong
    việc lựa chọn trường là không biết mình phù hợp với ngành nghề nào với
    22.28%, không đánh giá được năng lực của bản thân 26.42%, để đưa ra lựa
    chọn phù hợp. Một lý lo cũng hay gặp phải của các em khi lựa chọn trường
    thi, nghề nghiệp đó là sự bất đồng quan điểm với bố mẹ. Phụ huynh thường
    áp đặt sự lựa chọn của mình lên con cái, hướng con cái theo suy nghĩ của

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 7 làm tốt kiểu bài nghị luận

    SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 7 làm tốt kiểu bài nghị luận

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
    Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hiện đại hóa, cách mạng khoa học – công nghệ
    đạt những bƣớc tiến thần kỳ, khối lƣợng thông tin, tri thức nhân loại tăng lên
    hàng ngày, hàng giờ, hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đều nhận
    thức giáo dục và đào tạo trở thành nhân tố vừa là nền tảng, vừa là động lực góp
    phần quyết định tƣơng lai của mỗi dân tộc. Với ý nghĩa đó, Đảng và Nhà nƣớc ta
    khẳng định GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, đầu tƣ cho giáo dục là đầu tƣ cho
    phát triển.
    Thực hiện Nghị quyết Trung ƣơng 2 khóa VIII và các chủ trƣơng của Đảng,
    Nhà nƣớc về định hƣớng chiến lƣợc phát triển GD&ĐT trong thời kỳ công
    nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực GD&ĐT nƣớc ta đạt đƣợc những thành tựu
    quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên
    cạnh đó, chất lƣợng, hiệu quả GD&ĐT vẫn còn thấp so với yêu cầu xã hội. Đặc
    biệt, chƣơng trình giáo dục phổ thông hiện hành đã bộc lộc những hạn chế, bất
    cập nhƣ: chƣơng trình còn nghiêng về trang bị kiến thức lý thuyết, chƣa coi trọng
    kỹ năng thực hành; chƣa đáp ứng các yêu cầu về mục tiêu giáo dục đạo đức, lối
    sống; chƣa đáp ứng tốt yêu cầu về hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực
    của học sinh; nặng về dạy chữ, nhẹ về dạy ngƣời, chƣa coi trọng giáo dục hƣớng
    nghiệp. Hình thức tổ chức giáo dục chủ yếu là dạy học trên lớp, chƣa tăng cƣờng
    tổ chức các hoạt động xã hội, hoạt động trải nghiệm. Phƣơng pháp giáo dục và
    đánh giá chất lƣợng giáo dục nhìn chung còn lạc hậu, chƣa chú trọng dạy cách
    học và phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh.
    Trƣớc thực trạng đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung
    ƣơng khóa XI ngày 04/11/2013 định hƣớng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
    và đào tạo, trong đó quan điểm chỉ đạo là: “Phát triển giáo dục và đào tạo là
    nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình
    giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và
    2
    phẩm chất người học.” Đặc biệt, với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí
    tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dƣỡng
    năng khiếu, định hƣớng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lƣợng giáo dục
    toàn diện, chú trọng giáo dục lý tƣởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại
    ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
    Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Tiếp tục đổi
    mới mạnh mẽ phƣơng pháp dạy và học theo hƣớng hiện đại; phát huy tính tích
    cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của ngƣời học; khắc
    phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học,
    cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để ngƣời học tự cập nhật và đổi mới tri
    thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức
    hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu
    khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và
    học. Nhƣ vậy đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục giúp cho học sinh phát triển
    đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng đƣợc bốn mục tiêu trụ cột của Unesco “học
    để biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định”.
    2. Cuộc cách mạng 4.0 đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức mới cho
    GD – ĐT.
    Trên thế giới cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang phát triển mạnh mẽ, nƣớc
    ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vì vậy
    có sự biến đổi nhảy vọt về trình độ khoa học, công nghệ và cơ sở vật chất kĩ
    thuật. Giáo dục và đào tạo đang có nhiều cơ hội đồng thời cũng phải đối mặt với
    những thách thức mới. Vai trò của GV trong thế kỉ XXI trở nên phức tạp ở một
    thế giới thay đổi nhanh chóng, nơi mà tri thức hầu nhƣ vô tận. Nhiệm vụ chính
    của GV là tạo môi trƣờng học tập, tạo điều kiện để ngƣời học có cơ hội học tập
    theo phƣơng pháp tích cực và sáng tạo.Sự biến đổi lớn về vai trò ngƣời dạy –
    truyền thụ kiến thức theo cách truyền thống sang vai trò xúc tác và điều phối,
    GV phải chuyển sang chức năng hƣớng dẫn ngƣời học.Quan niệm “đến trƣờng”
    là “đi học”, không đến trƣờng là “không đi học” dƣờng nhƣ đã tỏ ra lạc hậu
    3
    trong kỉ nguyên mới. Vai trò ngƣời thầy trong thời kì mới đã thay đổi. Theo
    UNESCO, ngày nay chức năng của GV tập trung vào 8 điểm sau:
    (1) Đảm nhận nhiều chức năng, có trách nhiệm nặng hơn trong việc lựa
    chọn nội dung dạy học và giáo dục;
    (2) Tổ chức việc học của học sinh, sử dụng tối đa những nguồn tri thức
    trong xã hội;
    (3) Cá biệt hóa học tập, thay đổi tính chất trong quan hệ thầy trò;
    (4) Sử dụng rộng rãi hơn những phƣơng tiện dạy học hiện đại;
    (5) Hợp tác rộng rãi và chặt chẽ hơn với các GV cùng trƣờng, thay đổi quan
    hệ giữa các GV với nhau;
    (6) Thắt chặt hơn mối quan hệ với cha mẹ học sinh và cộng đồng góp phần
    nâng cao chất lƣợng cuộc sống;
    (7) Yêu cầu GV tham gia hoạt động rộng rãi trong và ngoài nhà trƣờng;
    (8) Giảm bớt và thay đổi kiểu uy tín truyền thống trong quan hệ với học
    sinh nhất là đối với học sinh lớn và với cha mẹ học sinh.
    Đồng thời, GV phải thể hiện rõ phẩm chất ở 5 lĩnh vực trách nhiệm:
    – Với học sinh;
    – Với xã hội;
    – Với nghề nghiệp;
    – Với việc hoàn thành tốt công việc;
    – Với các giá trị cơ bản của con ngƣời.
    Tóm lại, “cách mạng công nghiệp 4.0” hàm chứa sự thay đổi lớn lao, không
    chỉ biến đổi kinh tế mà cả văn hóa, xã hội một cách toàn diện. Giáo dục đƣợc coi
    4
    là lĩnh vực then chốt đào tạo ra hệ thống nhân lực trong thời đại cách mạng công
    nghiệp 4.0.
    3. Vai trò, vị trí của môn Ngữ Văn trong nhà trƣờng phổ thông
    Chúng ta đều biết rằng môn Ngữ văn là môn học vô cùng quan trọng trong
    việc đào tạo con ngƣời, bồi dƣỡng trí tuệ, tâm hồn và nhân cách cho học sinh.
    Nhà văn Nga lỗi lạc M.Go – ro – ki đã từng viết : “Văn học là nhân học”. Còn
    giáo sƣ Hà Minh Đức từng khẳng định “Văn học không chỉ là một nguồn tri thức
    mà còn là nguồn năng lượng tinh thần lớn lao, có ý nghĩa cổ vũ, tiếp sức cho con
    người trong cuộc sống”.
    Từ tầm quan trọng của văn học đối với việc hình thành và phát triển nhân
    cách cho học sinh, mỗi GV dạy văn không chỉ xác định cho mình một nhiệm vụ
    đơn giản là cung cấp cho học sinh một lƣợng tri thức nhất định, mà quan trọng
    hơn là ngƣời GV thông qua các bài giảng của mình làm cho học trò “tự cảm thấy
    môn văn thật sự cần thiết cho sự khôn lớn tinh thần”(Đỗ Kim Hồi), làm cho các
    em thấy đƣợc thấm vào từng trang văn là tâm hồn, là trí tuệ, là những nghĩ suy,
    trăn trở, là tâm sự của nhà văn trƣớc cuộc đời, là tấc lòng mà nhà văn muốn gửi
    gắm đến các thế hệ độc giả của mình.
    Bộ môn Ngữ văn trong chƣơng trình giáo dục THCS hiện hành là sự tích
    hợp của ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn. Trong đó phân môn
    Tập làm văn vừa “khó”, “khô” “khổ” nhƣng lại là phân môn đánh giá đƣợc đầy
    đủ nhất các năng lực của học sinh. Vì vậy, đây cũng chính là phân môn đòi hỏi
    ngƣời GV phải dành nhiều tâm sức nhất. Hơn nữa, xã hội ngày càng phát triển
    càng đòi hỏi con ngƣời phải năng động sáng tạo, biết chủ động ứng dụng lí
    thuyết vào cuộc sống, biết bày tỏ, bảo vệ ý kiến của riêng mình. Bất kì lĩnh vực
    nào ta cũng phải đƣa ra ý kiến, quan điểm của cá nhân mình và làm thế nào để ý
    kiến mình đƣa ra thuyết phục đƣợc ngƣời nghe. Từ đó ta thấy môn Ngữ văn nói
    chung và văn nghị luận nói riêng càng khẳng định đƣợc vai trò, ý nghĩa trong
    thời kì mới.
    5
    Trong chƣơng trình Ngữ văn trung học cơ sở, văn bản nghị luận đƣợc học ở
    ba khối lớp: 7; 8; 9. Ở lớp 7, các em đƣợc làm quen và thực hành viết các bài
    văn nghị luận chứng minh, nghị luận giải thích; chủ yếu trình bày quan điểm về
    các vấn đề nhƣ tƣ tƣởng đạo lý, các vấn đề của đời sống xã hội. Lên lớp 8 và lớp
    9 học sinh đƣợc tìm hiểu sâu hơn và kỹ hơn, mở rộng nghị luận về các tác phẩm
    văn học… Văn nghị luận viết ra giúp các em có thể trình bày đƣợc quan điểm, tƣ
    tƣởng của mình hƣớng đến những quan điểm đúng đắn; rèn luyện đƣợc kỹ năng
    sống giúp các em trƣởng thành hơn trở thành những ngƣời có ích cho xã hội.
    Muốn viết văn nghị luận tốt cần có quan điểm rõ ràng, tiến bộ, lập luận phải sắc
    bén, dẫn chứng phải xác thực. Điều đó đòi hỏi vốn sống, vốn kiến thức phong
    phú ở ngƣời viết. Tuy nhiên, với học sinh lớp 7: đây là lần đầu tiên các em đƣợc
    làm quen và thực hành ở kiểu bài văn nghị luận. Tất cả hoàn toàn mới mẻ với các
    em. Đôi khi những tƣ tƣởng, đạo lí quá tầm hiểu biết của học sinh. Tƣ duy lối
    mòn và cũng là một nhƣợc điểm của ngƣời Việt là ngại bày tỏ quan điểm riêng.
    Mặt khác, vốn sống, vốn kinh nghiệm, vốn hiểu biết của các em còn ít ỏi, các em
    chƣa biết cách để huy động dẫn chứng lý lẽ, thuyết phục ngƣời đọc, ngƣời nghe .
    Đây cũng là một trở ngại lớn đối với học sinh khi làm văn nghị luận.
    Trƣớc yêu cầu đòi hỏi của thời kì mới, trƣớc đặc thù của môn Ngữ Văn,
    trƣớc đặc điểm tâm lí lứa tuổi của học sinh lớp 7, tôi mạnh dạn đề xuất sáng
    kiến “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 7 làm tốt kiểu bài nghị luận” với
    mong mỏi tháo gỡ khó khăn cho các em học sinh, đồng thời thực hiện tốt vai
    trò, nhiệm vụ của GV trong việc đào tạo, bồi dƣỡng nhân lực đáp ứng yêu cầu
    của xã hội.
    6
    Phần 2
    MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT
    I. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT TRƢỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Thực trạng trƣớc khi áp dụng sáng kiến
    – Về phía chƣơng trình: Chƣơng trình Ngữ văn 7 đặc biệt mảng văn nghị
    luận hiện hành còn quá nặng so với trình độ của học sinh. Nội dung văn nghị
    luận lớp 7 tƣơng đối rộng(môi trƣờng thiên nhiên, vai trò của sách, các tƣ
    tƣởng đạo lý, phẩm chất của con ngƣời…). Nếu HS không có vốn hiểu biết sẽ
    gặp rất nhiều khó khăn trong việc làm văn nghị luận lớp 7. Mặt khác trong thi
    cử, kiểm tra đánh giá còn nặng về kiến thức nên gây áp lực cho cả GV và HS.
    – Về phía GV: Nhiều GV còn có tƣ duy áp đặt HS. Do áp lực về thành
    tích, về chƣơng trình nên nhiều GV còn đọc chép, yêu cầu HS học thuộc văn
    mẫu nên ít nhiều HS ngại và sợ học văn nhất là văn nghị luận.
    – Về phía học sinh:
    Ở bậc tiểu học và ở lớp 6, học sinh đƣợc thực hành nhuần nhuyễn làm văn
    tự sự và văn miêu tả. Lên lớp 7 các em mới bắt đầu làm quen với văn bản nghị
    luận nên còn nhiều bỡ ngỡ. Mặt khác vốn sống, vốn kiến thức của học sinh
    chƣa thật phong phú nên các lý lẽ, dẫn chứng đƣa ra chƣa thật sự thuyết phục.
    Bài viết còn dàn trải, hời hợt, luận điểm chƣa rõ ràng nên hiệu quả bài viết
    chƣa cao.
    Đặc biệt khi khảo sát ý kiến học sinh trƣớc khi áp dụng sáng kiến tôi thấy:

    STTSố lƣợng học
    sinh đƣợc khảo
    sát ý kiến
    Lớp/trƣờngNăm họcKết quả khảo sát
    148 HS/LỚP7A6 TRƢỜNG
    THCS PHÙNG
    CHÍ KIÊN
    2017-2018-62,5% học sinh
    trả lời: Văn bản
    nghị luận có ý
    nghĩa thực tế
    nhƣng đa phần
    dài, khô khan, khó
    nhớ nên không
    thích học bằng

    7

    văn bản biểu cảm
    hay tự sự.
    -20,8% học sinh
    trả lời: Có thích
    học nhƣng chƣa
    thật sự hiểu.
    -16,7 % học sinh
    trả lời: Không
    hiểu gì, không
    thích học.
    255 HS7A7 TRƢỜNG
    THCS PHÙNG
    CHÍ KIÊN
    2018-2019-76,9% học sinh
    trả lời: Văn bản
    nghị luận có ý
    nghĩa thực tế
    nhƣng đa phần
    dài, khô khan, khó
    nhớ nên không
    thích học bằng
    văn bản biểu cảm
    hay tự sự.
    -19,2% học sinh
    trả lời: Có thích
    học nhƣng chƣa
    thật sự hiểu.
    -3,9% học sinh
    trả lời: Không
    hiểu gì, không
    thích học.
    350HS7A6 TRƢỜNG
    THCS HOÀNG
    VĂN THỤ
    2019-2020-80% học sinh trả
    lời: Văn bản nghị
    luận có ý nghĩa
    thực tế nhƣng đa
    phần dài, khô
    khan, khó nhớ nên
    không thích học
    bằng văn bản biểu
    cảm hay tự sự.
    -10% học sinh trả
    lời: Có thích học
    nhƣng chƣa thật

    8

    sự hiểu.
    -10% học sinh
    trả lời: Không
    hiểu gì, không
    thích học.

    Từ thực tế đó, trong quá trình giảng dạy tôi vận dụng một số phƣơng pháp
    nhằm rèn kỹ năng làm văn nghị luận cho học sinh. Qua quá trình rèn luyện,
    trình độ của học sinh có sự cải thiện rõ rệt. Hầu hết các em đều biết cách làm
    bài, một số bài viết trên lớp đạt kết quả tƣơng đối khả quan(95%-100%) trong
    đó có 60- 75% bài làm đạt điểm khá giỏi.
    Tôi xin mạnh dạn trình bày một số việc đã tiến hành nhằm mục đích rèn kỹ
    năng làm văn nghị luận cho học sinh khối 7.
    2. Những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng sáng kiến
    2.1. Thuận lợi:
    – Về phía nhà trường: Trƣờng THCS Phùng Chí Kiên (nơi bản thân tôi
    công tác từ năm 2006-2019) và Trƣờng THCS Hoàng Văn Thụ(công tác từ năm
    2019 đến nay) đều là những trƣờng THCS loại I của Thành phố. Chất lƣợng
    giáo dục luôn đứng trong tốp đầu của Thành phố Nam Định. Nhà trƣờng chỉ
    đạo sát sao, tạo điều kiện, giúp đỡ GV đổi mới phƣơng pháp học tập đáp ứng
    với yêu cầu mới.
    Tổ Văn Sử của trƣờng THCS Phùng Chí Kiên và tổ Khoa học Xã hội
    trƣờng THCS Hoàng Văn Thụ : GV có trình độ chuyên môn vững vàng, luôn
    đổi mới phƣơng pháp và hình thức dạy học, thƣờng xuyên bồi dƣỡng, trao đổi,
    sinh hoạt chuyên môn. Đây cũng là cơ hội cho bản thân tôi luôn học hỏi, đổi
    mới phƣơng pháp dạy học.
    Về cơ sở vật chất của nhà trƣờng: khang trang, đầy đủ phòng học, trang
    thiết bị phục vụ công tác dạy-học.
    9
    – Về phía GV: Từ khi ra trƣờng đến nay, trong nhiều năm bản thân tôi trực
    tiếp giảng dạy, bồi dƣỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 7 nên tôi tích lũy một
    số kinh nghiệm trong việc giúp học sinh lớp 7 làm tốt kiểu bài nghị luận.
    – Về phía học sinh: HS các lớp tôi giảng dạy tƣơng đối chăm ngoan, có ý
    thức học tập, nhiều em thích thú, say mê đối với môn học nên việc triển khai áp
    dụng sáng kiến gặp nhiều thuận lợi. Đặc biệt có em Nguyễn Khánh Ly(Trƣờng
    THCS Phùng Chí Kiên) đạt giải trong kì thi Olimpic do Sở Giáo dục đào tạo
    tỉnh Nam Định tổ chức(năm học 2017-2018). Đó cũng là động lực giúp tôi hoàn
    thành nhiệm vụ đƣợc giao.
    2.2. Khó khăn:
    – Chƣơng trình còn nặng về kiến thức.
    – Áp lực về thi cử và bệnh thành tích gây cản trở cho việc dạy học phát
    huy năng lực và phẩm chất của HS.
    – Vốn sống của HS lớp 7 còn ít ỏi, chƣa sâu sắc, có nhiều tƣ tƣởng đạo lí
    các emchƣa hiểu rõ. Hơn nữa, nhiều em chƣa chịu khó đọc sách, chƣa có thói
    quen ghi chép nên việc huy động lí lẽ, dẫn chứng gặp nhiều khó khăn. Bài viết
    hời hợt, dàn trải, thiếu thuyết phục.
    – Do quan niệm xã hội, chạy theo bằng cấp, chọn trƣờng nên các bộ môn
    KHXH trong đó có môn Ngữ Văn đang bị xem nhẹ. Đây cũng là một khó khăn
    không nhỏ đối với GV-HS.
    II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
    1. Giải pháp 1: Cung cấp đầy đủ hệ thống tri thức cần thiết về kiểu bài
    nghị luận thông qua các tiết dạy:
    Theo khung kế hoạch dạy học, thời lƣợng cho phần văn nghị luận là 20 tiết bao
    gồm 11 tiết lý thuyết và 9 tiết thực hành.
    Tôi xin đƣợc trình bày các giải pháp đã thực hiện với các tiết lý thuyết và thực
    hành nhƣ sau:
    1.1. Với các bài lý thuyết: bao gồm các bài sau đây:
    + Tìm hiểu chung về văn nghị luận.
    10
    + Đặc điểm của văn bản nghị luận
    + Đề văn nghị luận và cách lập ý cho bài văn nghị luận
    + Bố cục và phƣơng pháp lập luận trong bài văn nghị luận
    + Tìm hiểu chung về phép lập luận chứng minh
    + Cách làm bài văn lập luận chứng minh
    + Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích
    + Cách làm bài văn lập luận giải thích
    1.1.1 Bài đầu tiên “Tìm hiểu chung về văn nghị luận”: mục tiêu của bài
    học giúp học sinh nhận ra nhu cầu nghị luận trong đời sống, khái niệm văn nghị
    luận, phân biệt văn nghị luận với các kiểu bài đã học(miêu tả, tự sự, biểu cảm). Ở
    bài này, GV có thể bắt đầu bài học bằng hoạt động khởi động: yêu cầu HS liệt kê
    các kiểu văn bản và phƣơng thức biểu đạt thƣờng gặp. Sau đó cho học sinh xem
    một đoạn clip của VTC14 “Người Hà Nội sống bên những dòng sông ô nhiễm”.
    Yêu cầu HS xác định phƣơng thức biểu đạt trong đoạn phóng sự vừa xem? HS
    dễ dàng nhận ra đây không phải là văn miêu tả, tự sự, biểu cảm mà sử dụng
    phƣơng thức biểu đạt nghị luận. Tuy nhiên, HS chƣa hiểu rõ thế nào là văn nghị
    luận. Ở phần khởi động này, GV đặt vấn đề, từ đó mà dẫn dắt vào bài.
    Trong phần hình thành kiến thức mới, GV giúp HS tìm hiểu nhu cầu
    nghị luận trong đời sống qua việc trả lời các câu hỏi: Trong đời sống, em hay bắt
    gặp các câu hỏi nhƣ: Vì sao con ngƣời phải đi học? Việc học tập có vai trò, ý
    nghĩa gì đối với đời sống con ngƣời? Thế nào là sống đẹp? Thực trạng môi
    trƣờng thiên nhiên đang bị ô nhiễm, nguyên nhân, hậu quả, giải pháp? Với các
    câu hỏi trên, ta không thể dùng các kiểu văn bản nhƣ tự sự, miêu tả, biểu cảm để
    giải đáp mà nên dùng văn nghị luận. Từ đó ta thấy nhu cầu nghị luận trong đời
    sống rất lớn. Ta dễ dàng nhận ra văn nghị luận trong đời sống qua các bài xã
    luận, phóng sự, ý kiến trong các cuộc họp…
    Để rút ra khái niệm văn nghị luận, GV cho HS tìm hiểu ví dụ văn bản “
    Chống nạn thất học”- Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng các kĩ thuật và phƣơng pháp
    dạy học, GV giúp HS trả lời các câu hỏi: Bác viết bài này nhằm mục đích gì?
    11
    Đối tƣợng hƣớng tới là ai? Đặc biệt phải chú ý đến hoàn cảnh lịch sử khi bài viết
    ra đời chúng ta phải đƣơng đầu với giặc dốt (một trong ba thứ giặc nguy hại sau
    CM Tháng 8/1945), ta phải chống nạn thất học do chính sách ngu dân của thực
    dân Pháp để lại. Và đối tƣợng Bác hƣớng tới là quốc dân đồng bào- hơn 90%
    trong số đó mù chữ nên phải chọn cách nói ngắn gọn, giản dị, trong sáng, dễ
    hiểu, thuyết phục. Sau đó GV khơi gợi để HS trả lời các câu hỏi: Để thực hiện
    mục đích trên, bài viết nêu ra những ý kiến nào? Bác đã dùng những lí lẽ, dẫn
    chứng nào để thuyết phục mọi ngƣời? Nếu tác giả thực hiện mục đích của mình
    bằng văn kể chuyện, miêu tả, biểu cảm có đƣợc không? Vì sao? Tƣ tƣởng, quan
    điểm của tác giả có hƣớng đến các vấn đề trong cuộc sống hay không? Sau khi
    giúp HS trả lời các câu hỏi đó, HS rút ra khái niệm thế nào là văn nghị luận. Và
    thấy đƣợc những quan điểm trong bài văn nghị luận phải giải quyết vấn đề trong
    cuộc sống thì bài viết mới có sức thuyết phục.
    Sau khi giải quyết xong phần hình thành kiến thức mới, GV nên quay lại
    hỏi HS vì sao phóng sự “Người Hà Nội sống bên những dòng sông ô nhiễm” lại
    đƣợc xếp vào phƣơng thức nghị luận. Có lẽ đến đây HS đã có thể trả lời đƣợc
    câu hỏi này.
    Ở hoạt động thực hành: GV giúp HS làm các bài tập trong SGK đặc biệt
    chú ý bám vào lý thuyết để nhận diện ra văn bản nghị luận, văn bản có thuyết
    phục không? Vì sao? Đâu là luận điểm, đâu là lí lẽ và dẫn chứng trong bài. Đặc
    biệt văn bản “Hai biển hồ” (Quà tặng cuộc sống) nếu HS không hiểu bản chất
    của văn nghị luận, rất dễ nhầm lẫn sang văn bản tự sự nhƣng thực ra tác giả kể
    chuyện hai biển hồ (Biển Chết và biển Ga-li-lê) mục đích để bày tỏ quan điểm:
    sống phải biết sẻ chia, không nên ích kỉ, giữ lại cho riêng mình. Bài tập này giúp
    khắc sâu kiến thức, phân biệt văn bản nghị luận với các kiểu văn bản khác (nhất
    là tự sự).
    Ở hoạt động ứng dụng, bổ sung: GV nên cho HS về nhà sƣu tầm hai văn
    bản nghị luận? Vì sao em lại chọn hai văn bản đó?
    12
    1.1.2. Bài “Đặc điểm của văn bản nghị luận”: mục tiêu của bài học là
    giúp HS nhận biếtđặc điểm của văn bản nghị luận với các yếu tố luận điểm, luận
    cứ, lập luận gắn bó mật thiết với nhau. Biết xác định luận điểm, luận cứ và lập
    luận trong một văn bản nghị luận. Bƣớc đầu biết xác định luận điểm, xây dựng
    hệ thống luận điểm, luận cứ và lập luận cho một đề bài cụ thể.
    – Trong phần hình thành kiến thức mới: GV cho HS tìm hiểu văn bản”
    Chống nạn thất học”. Bằng cách trả lời các câu hỏi, HS rút ra đặc điểm của văn
    nghị luận.Mỗi bài văn nghị luận đều phải có luận điểm, luận cứ và lập luận.
    Luận điểm: Luận điểm là ý kiến thể hiện tƣ tƣởng, quan điểm của bài văn
    đƣợc nêu ra dƣới hình thức câu khẳng định (hay phủ định), đƣợc diễn đạt sáng
    tỏ, dễ hiểu, nhất quán. Luận điểm là linh hồn của bài viết, nó thống nhất các đoạn
    văn thành một khối. Luận điểm phải đúng đắn, chân thật, đáp ứng nhu cầu thực
    tế thì mới có sức thuyết phục.
    Nhƣ vậy:
    + Về hình thức: luận điểm cần đƣợc nêu khái quát, trình bày nổi bật, có thể
    bằng câu khẳng định hoặc phủ định tính chất, thuộc tính của đối tƣợng bàn luận.
    Câu văn nêu luận điểm thƣờng đứng đầu hoặc đứng cuối mỗi đoạn văn. Ví dụ:
    – Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra là
    thương cả muôn vật, muôn loài.
    ( Ý nghĩa văn chương, Hoài Thanh)
    – Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay.
    ( Sự giàu đẹp của Tiếng Việt, Đặng Thai Mai)
    + Về ý nghĩa: luận điểm là linh hồn của bài viết, nó thống nhất các đoạn văn
    thành một khối. Có luận điểm chính bao trùm toàn bài và có những luận điểm
    phụ làm bộ phận của luận điểm chính. Tất cả họp lại thành hệ thống luận điểm.
    13
    + Về tính chất: luận điểm phải đúng đắn, chân thực, đáp ứng đƣợc nhu cầu
    của thực tế mới có sức thuyết phục.
    Luận cứ:Luận cứ là những lý lẽ, dẫn chứng đƣa ra làm cơ sở cho luận
    điểm. Luận cứ có giá trị dẫn đến luận điểm hoặc chứng minh, soi sáng luận
    điểm.
    + Lý lẽ là ý kiến riêng của ngƣời viết. Muốn lí lẽ thuyết phục thì lí lẽ đó
    phải phù hợp với các nguyên lý, chân lý, đạo lý, những ý kiến đã đƣợc thừa
    nhận, khi nêu ra sẽ đƣợc sự tán thành của nhiều ngƣời.
    Ví dụ: Để giúp mọi ngƣời tin rằng trong cuộc sống, đừng sợ những sai lầm,
    thất bại, cứ kiên trì nỗ lực vƣơn lên, ngƣời viết có thể thuyết phục bằng các lí lẽ
    sau:
    * “Một người mà lúc nào cũng sợ thất bại, làm gì cũng sợ sai lầm là một
    người sợ hãi thực tế, trốn tránh thực tế, và suốt đời không bao giờ có thể tự lập
    được.”
    * “Sai lầm cũng có hai mặt. Tuy nó đem lại tổn thất, nhưng nó cũng đem
    đến một bài học cho đời”.
    * “Khi bạn tiến bước vào tương lai, bạn làm sao tránh được những sai lầm?
    Nếu bạn sợ sai thì bạn chẳng dám làm gì. Người khác bảo bạn sai chưa chắc
    bạn đã sai, vì tiêu chuẩn đúng sai khác nhau. Lúc đó bạn chớ ngừng tay, mà cứ
    tiếp tục làm, dù cho có gặp trắc trở. Thất bại là mẹ thành công.”
    * “Chẳng ai thích sai lầm cả. Có người phạm sai lầm thì chán nản. Có kẻ
    sai lầm rồi thì tiếp tục sai lầm thêm. Nhưng có người biết suy nghĩ, rút kinh
    nghiệm, tìm con đường khác để tiến lên.”
    * “Những người sáng suốt dám làm, không sợ sai lầm, mới là người làm
    chủ số phận của mình.”
    14
    + Dẫn chứng là những bằng cớ để xác nhận sự đúng đắn của luận điểm. dẫn
    chứng có thể là số liệu, là những con ngƣời cụ thể…(Dẫn chứng bao gồm dẫn
    chứng thực tế và dẫn chứng trong văn học, trong lịch sử…)
    Ví dụ: Vẫn là nội dung trên (thuyết phục mọi ngƣời không sợ thất bại, khó
    khăn) ngƣời viết có thể thuyết phục bằng các dẫn chứng sau:
    “Oan Đi-xnây từng bị tòa báo sa thải vì thiếu ý tưởng. Ông cũng nếm mùi
    phá sản nhiều lần trước khi tạo nên Đi-xnây-len.
    Lúc còn học phổ thông, Lu-i Pa-xtơ chỉ là một HS trung bình. Về môn Hóa,
    ông đứng hạng 15 trong tổng số 22 HS của lớp.
    Lép Tôn-xtôi, tác giả của bộ tiểu thuyết nổi tiếng “chiến tranh và hòa bình”
    bị đình chỉ học đại học vì “vừa không có năng lực, vừa thiếu ý chí học tập”
    Hen-ri Pho thất bại và cháy túi tới năm lần trước khi thành công.
    Ca sĩ ô-pê-ra nổi tiếng En-ri-cô Ca-ru-xô bị thầy giáo cho là thiếu chất
    giọng và không thể nào hát được”.
    ->Với bài viết này, để thuyết phục ngƣời đọc, ngƣời nghe, tác giả đã đƣa ra
    các dẫn chứng là những nhân vật nổi tiếng trên thế giới thuộc nhiều lĩnh vực
    khác nhau: Oan Đi-xnây, Lu-i Pa-xtơ, Lép Tôn-xtôi, Hen-ri Pho, En-ri-cô Ca-ruxô. Đó là những tấm gƣơng trƣớc khi thành công đã phải nếm mùi thất bại.
    Nhƣ vậy, trong luận cứ, lý lẽ và dẫn chứng hỗ trợ cho nhau, lý lẽ làm sáng
    tỏ ý nghĩa của dẫn chứng và dẫn chứng làm cho lý lẽ giàu sức thuyết phục. Lí lẽ
    giúp ngƣời ta hiểu còn dẫn chứng giúp ngƣời ta tin.
    Luận cứ phải đúng đắn, chân thật, tiêu biểu thì mới khiến cho luận điểm có
    sức thuyết phục. Muốn có những luận cứ nhƣ vậy thì ngƣời viết phải có vốn thực
    tế dồi dào, vốn văn hóa phong phú và quan điểm sống đúng đắn. Ví dụ luận cứ
    trong văn bản “ Đức tính giản dị của Bác Hồ” của Phạm Văn Đồng đúng đắn,
    15
    chân thực, tiêu biểu bởi tác giả là một trong những học trò xuất sắc và là ngƣời
    cộng sự gần gũi với Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt hơn 30 năm giữ cƣơng vị
    Thủ tƣớng chính phủ, Phạm Văn Đồng có điều kiện sống và làm việc bên cạnh
    Bác Hồ nên các dẫn chứng ông đƣa ra hoàn toàn xác thực, đầy sức thuyết phục.
    Lập luận:Lập luận là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm. Lập luận phải
    chặt chẽ, hợp lý thì bài văn mới có sức thuyết phục.
    Lập luận thƣờng dùng các thao tác tổ chức, phối hợp dẫn chứng và lý lẽ sau:
    quy nạp, diễn dịch, suy lý, so sánh, phân tích, tổng hợp…
    Lập luận giữ vai trò quan trọng, có mặt ở các phần trong bài nghị luận: lập
    luận thể hiện trong đoạn văn, trong bài văn, trong việc viết mở bài, kết bài.
    -> Có thể tạm so sánh luận điểm nhƣ xƣơng sống; luận cứ nhƣ xƣơng
    sƣờn, xƣơng các chi; còn lập luận nhƣ da thịt, mạch máu của bài văn nghị
    luận.
    Sau khi cho học sinh tìm hiểu lý thuyết, GV củng cố kiến thức bằng bài tập
    ngoài sách giáo khoa.
    Đọc văn bản “ Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”- Hồ Chí Minh, hãy cho
    biết luận điểm, luận cứ và cách lập luận trong bài?
    Để chứng minh tinh thần yêu nƣớc của nhân dân ta, Bác đã đƣa ra hệ thống
    luận điểm, luận cứ sau:
    – Luận điểm:
    + Luận điểm chính: – Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền
    thống quý báu của ta.
    + Luận điểm phụ: – Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại, chứng
    tỏ tinh thần yêu nước của dân ta.
    – Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước.
    16
    – Luận cứ: Để chứng minh cho luận điểm “ Lịch sử ta đã có nhiều cuộc
    kháng chiến vĩ đại, chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta”, Bác đã đƣa ra các
    dẫn chứng về những trang sử vẻ vang của dân tộc thời đại Bà Trƣng, Bà Triệu,
    Trần Hƣng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung…Các dẫn chứng Ngƣời lựa chọn tiêu
    biểu, xác thực, không ai có thể phủ nhận đƣợc.
    Để chứng minh cho luận điểm “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng
    với tổ tiên ta ngày trước”, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đƣa ra luận cứ: Trong kháng
    chiến chống Pháp, các tầng lớp nhân dân không phân biệt già – trẻ, gái – trai, giàu
    – nghèo, không phân biệt giai cấp, nghề nghiệp, địa bàn sinh sống, tất cả đều
    giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nƣớc.
    – Lập luận: Bài văn mở đầu bằng câu văn nêu luận điểm khẳng định chắc
    nhƣ đinh đóng cột về tinh thần yêu nƣớc của nhân dân ta. Sau đó Bác đã dùng
    những lý lẽ và dẫn chứng chứng minh tinh thần yêu nƣớc thể hiện trong những
    trang sử hào hùng của dân tộc và trong thời đại ngày nay (trong kháng chiến
    chống Pháp). Cuối cùng nêu nhiệm vụ của Đảng, của Chính phủ là phải ra sức
    tuyên truyền, giải thích, phát huy tinh thần yêu nƣớc của quần chúng nhân dân.
    -> Văn bản “ Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”- Hồ Chí Minh đƣa ra
    những luận điểm rõ ràng, nhất quán, đúng đắn; luận cứ chân thật, toàn diện, tiêu
    biểu; lập luận chặt chẽ, sắc bén (bài văn suy luận tƣơng đồng theo dòng thời
    gian: xƣa- nay) thật xứng đáng là một mẫu mực về lập luận, bố cục và cách dẫn
    chứng của thể văn nghị luận.
    Ở hoạt động thực hành: GV giúp HS tìm luận điểm, luận cứ và cách lập
    luận trong bài “ Cần tạo thói quen tốt trong đời sống xã hội”.
    – Luận điểm: chính là nhan đề.
    – Luận cứ:
    + Luận cứ 1: Có thói quen tốt và có thói quen xấu.
    17
    + Luận cứ 2: Có ngƣời biết phân biệt tốt và xấu, nhƣng vì đã thành thói
    quen nên rất khó bỏ, khó sửa.
    + Luận cứ 3: Hậu quả của thói quen xấu (mất vệ sinh, nguy hiểm)
    + Luận cứ 4: Tạo đƣợc thói quen tốt là rất khó. Nhƣng nhiễm thói quen
    xấu thì dễ. Mỗi ngƣời cần tạo thói quen tốt trong đời sống xã hội.
    – Lập luận: Bài viết nêu những biểu hiện của thói quen tốt và thói quen
    xấu trong đời sống xã hội. Sau đó, phân tích tác hại của những thói quen xấu để
    rồi cuối cùng chốt lại “Tạo được thói quen tốt là rất khó. Nhiễm thói quen xấu thì
    rất dễ. Cho nên, mỗi người, mỗi gia đình hãy tự xem lại mình để tạo ra nếp sống
    đẹp, văn minh cho xã hội”
    => Bài văn có sức thuyết phục mạnh mẽ vì luận điểm mà tác giả nêu ra rất
    phù hợp với cuộc sống hiện tại.
    1.1.3.Bài “Đề văn nghị luận và việc lập ý cho bài văn nghị luận”: Mục
    tiêu của bài học giúp HS nhận ra đặc điểm và cấu tạo của đề bài văn nghị luận,
    các bƣớc tìm hiểu đề và lập ý cho một đề văn nghị luận. So sánh để tìm ra sự
    khác biệt của đề văn nghị luận với các đề tự sự, miêu tả, biểu cảm.
    – Hoạt động hình thành kiến thức mới: Từ việc phân tích các ví dụ SGK
    về các đề văn nghị luận, GV giúp HS nắm đƣợc: Đề văn nghị luận bao giờ cũng
    nêu ra một vấn đề để bàn bạc và đòi hỏi ngƣời viết bày tỏ ý kiến của mình với
    vấn đề đó. Đề văn nghị luận thƣờng có tính chất ngợi ca, phân tích, khuyên nhủ,
    phản bác…Tùy tính chất của đề mà khi làm bài ta vận dụng các phƣơng pháp
    phù hợp.
    Ví dụ:
    (1) Tiếng Việt giàu đẹp. (Đề có tính chất giải thích, ca ngợi)
    (2) Thất bại là mẹ thành công. (Đề có tính chất khuyên nhủ, phân tích)
    18
    (3) Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. (Đề có tính chất suy nghĩ, bàn luận)
    (4) Ăncỗ đi trước, lội nước theo sau nên chăng? (Đề có tính chất tranh luận,
    phản bác, lật ngƣợc vấn đề)
    Dạng thức đề:
    + Về hình thức: có đề nêu rõ yêu cầu về thao tác nghị luận nhƣ: Hãy chứng
    minh…Hãy giải thích…Hãy phân tích…
    Ví dụ: Hãy giải thích câu tục ngữ “ Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”.
    Nhƣng có đề chỉ đƣa ra vấn đề nghị luận mà không có yêu cầu về thao tác
    nghị luận (đề mở). Với đề mở, ngƣời làm bài cần dựa vào nội dung, đề tài nghị
    luận mà lựa chọn thao tác nghị luận phù hợp.
    Ví dụ: Bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta.
    + Về nội dung: có đề nêu trực tiếp vấn đề cần nghị luận. Có đề nêu vấn đề
    nghị luận gián tiếp qua câu danh ngôn, tục ngữ, câu chuyện… Với dạng đề này
    cần phải hiểu rõ nghĩa câu danh ngôn, tục ngữ… và phải giải thích trƣớc khi bàn
    luận.
    Sau khi tìm hiểu chung về nội dung, tính chất của đề văn nghị luận, GV cho
    HS tìm hiểu đề văn “Chớ nên tự phụ”. Việc tìm hiểu đề rất quan trọng, giúp cho
    việc triển khai văn bản không khị lạc đề, lệch đề. Đây là một trong 4 bƣớc quan
    trọng khi làm bài (HS thƣờng bỏ qua). Trong phần tìm hiểu đề, GV yêu cầu HS
    đọc kĩ đề bài, gạch chân vào các từ ngữ quan trọng, xác định đúng vấn đề, phạm
    vi, tính chất của bài.
    Sau khi tìm hiểu đề, HS cần tiến hành lập ý cho bài văn nghị luận. Lập ý
    giúp tìm ra những ý chính của bài viết, giúp bài viết trở nên mạch lạc, chặt chẽ.
    Ở phần này, GV gợi mởcho HS trả lời các câu hỏi gợi ý SGK. Từ việc lập ý cho
    bài văn nghị luận “Chớ nên tự phụ”, HS rút ra kết luận:Lập ý cho bài văn nghị
    19
    luận là làm 3 việc: xác lập luận điểm (cụ thể hóa luận điểm chính thành các luận
    điểm phụ), tìm luận cứ, xây dựng lập luận.
    – Ở hoạt động thực hành: GV Cho HS tìm hiểu đề và lập ý cho bài “Sách
    là người bạn lớn của con người”.
    Tìm hiểu đề:
    * Vấn đề NL: Lợi ích của việc đọc sách.
    * Đối tượng và phạm vi nghị luận: Bàn về lợi ích của sách, thuyết phục mọi
    ngƣời tạo cho mình thói quen đọc sách.
    * Khuynh hướng tư tưởng: Khẳng định ích lợi của việc đọc sách. Cần trân
    trọng, nâng niu những cuốn sách, rèn thói quen đọc sách hàng ngày.
    * Đề đòi hỏi người viết phải:
    + Giải thích đƣợc “sách” là gì? Thế nào là “ngƣời bạn lớn”? Từ đó suy ra
    nghĩa chung của câu nói.
    + Phân tích và chứng minh ích lợi của việc đọc sách.
    + Nhắc nhở mọi ngƣời phải có thái độ đúng với sách. Cần phải trân trọng,
    nâng niu những cuốn sách quý sách hay nhƣ giữ gìn tình bạn. Chọn sách hay mà
    đọc. Dành thời gian đọc sách và vận dụng những điều học trong sách vào cuộc
    sống. Phê phán những ngƣời chƣa có thói quen đọc sách, xem nhẹ ngƣời bạn lớn
    ấy…..
    Lập ý cho đề bài:
    * Xác định luận điểm: Sách là ngƣời bạn lớn của con ngƣời.
    * Tìm luận cứ:
    Luận cứ 1:Trƣớc hết sách mở rộng tầm hiểu biết cho ta. Nó giống nhƣ một
    cánh cửa để ta bƣớc vào toà lâu đài tri thức tráng lệ của nhân loại. Những tinh
    20
    hoa đƣợc lƣu giữ trong sách phong phú đa dạng vô cùng từ tri thức về khoa học
    tự nhiên đến tri thức về khoa học xã hội. Sách đƣa ta vƣợt thời gian, có thể trở về
    quá khứ, có thể bay đến tƣơng lai để ta hiểu sâu hơn về thực tại. Sách cũng giúp
    ta chiếm lĩnh đƣợc nhiều khoảng không gian khác nhau từ không gian cực lớn
    của thiên hà vũ trụ đến không gian cực nhỏ của những hạt vất chất nguyên tử,
    phân tử. Sách cũng giúp ta trả lời bao câu hỏi vẫn đặt ra từ thời thơ ấu nhƣ: tại
    sao sau cơn mƣa cầu vồng xuất hiện, tại sao lá cây có màu xanh, con ngƣời có
    nguồn gốc từ đâu?
    Luận cứ 2: Không chỉ mở rộng tầm hiểu biết, ngƣời bạn lớn ấy còn bồi
    đắp tâm hồn cho ta khiến tâm hồn ta thêm phong phú và giàu có hơn. Giống nhƣ
    dòng sống đã đi qua còn để lại những ấn tƣợng phù sa trong tâm khảm. sách gieo
    những hạt giống tốt lành trong tâm hồn ngƣời để những hạt giống ấy nảy nở
    trong gió lộng và nắng mai. Sách đem đến cho chúng ta bao cảm xúc, khơi dậy
    trong ta bao điều tốt đẹp để ta sống đẹp hơn. Đọc sách nhất là sách văn học
    khiến tâm hồn ta biết yêu thƣơng và rung động nhiều hơn. Ta biết nhận vẻ đẹp
    của một nhành mai khi xuân về, biết rung động trƣớc một giọt sƣơng buổi sớm,
    một tia nắng mai len lỏi qua kẽ lá, một tiếng chim lảnh lót đầu hồi cũng khiến
    lòng ta xao động. Ta cũng biết đồng cảm với những mảnh đời bất hạnh, biết căm
    ghét cái xấu xa ích kỉ, tầm thƣờng.

  • SKKN Đổi mới phương pháp dạy học góp phần nâng cao chất lượng môn ngữ văn

    SKKN Đổi mới phương pháp dạy học góp phần nâng cao chất lượng môn ngữ văn

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT
    LƢỢNG MÔN NGỮ VĂN
    I – ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
    1. Bối cảnh xã hội và mục tiêu giáo dục phổ thông.
    Đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng là nhiệm vụ trọng tâm
    của ngành giáo dục, của mỗi giáo viên đứng lớp. Đặc biệt ở Việt Nam trong xu thế
    hội nhập toàn cầu trong thời đại 4.0 hiện nay cần giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ,
    đáp ứng yêu cầu của nguồn nhân lực phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện
    đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu của người học mong
    trở thành những công dân toàn cầu.
    Năm 2013, Nghị quyết số 29- NQ/TW Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành
    Trung ương khóa XI khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và
    học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
    thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy
    móc… Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả
    giáo dục, đào tạo, đảm bảo trung thực khách quan…”.
    Dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông nói chung bậc THCS nói riêng
    thực sự là điều có ý nghĩa bởi đó là con đường quan trọng hướng học trò đến với cái
    chân thiện mĩ trong cuộc sống cũng là để góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục. Để
    thực hiện tốt vai trò của người truyền lửa cho các thế hệ học trò thì việc đổi mới
    phương pháp dạy học khơi gợi hứng thú học tập cho học sinh là điều cần thiết đem lại
    cho học sinh tình yêu với môn Ngữ văn bấy lâu nay nhiều em không mấy mặn mà
    cũng là để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục .
    2. Mục tiêu của bộ môn Ngữ văn.
    Xưa nay” Văn học là nhân học” học văn là học cách làm người. Đến với những
    áng văn văn chương tâm hồn chúng ta sẽ đẹp hơn, thêm lấp lánh diệu kì. Từ tác phẩm
    thơ ca, từ số phận cuộc đời nhân vật trải lòng trên trang sách học sinh có tìm cho
    mình cách ứng xử khéo léo, tinh tế,tuyệt vời hợp lí hơn trước cuộc sống. Đặc biệt nay
    khi cuộc sống hiện đại với những tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ làm cho
    con người ta phần nào bớt đi tình yêu với văn chương và cứ thế vô hình chung làm
    cho tâm hồn con người ta dễ trở nên cằn cỗi mất đi những tư tưởng, tình cảm cao đẹp
    hơn bao giờ hết việc khơi gợi hứng thú học tập môn Ngữ văn ở trường phổ thông cần
    quan tâm nhiều hơn .
    Mục tiêu giáo dục của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay là
    đào tạo nên những công dân có tư duy toàn cầu, năng động, linh hoạt. Và mục tiêu
    giáo dục phổ thông là đào tạo nguồn nhân lực có đủ đức, trí, thể, mỹ. Để đạt mục tiêu
    đó học tập môn Ngữ văn rất quan trọng đó là môn công cụ giúp học sinh có thể học
    tập và vươn tới thành công trên con đường học tập cũng như lập nghiệp sau này. Để
    những học sinh thân yêu có thể trở thành công dân toàn cầu đáp ứng được yêu cầu của
    thời đại mới, biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực
    3
    cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong văn học nghệ thuật, có năng lực thực hành và
    sử dụng tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.
    Thực tế giảng dạy nhiều năm môn ngữ văn, tâm sự chia sẻ với đồng nghiệp,
    phụ huynh và học sinh tôi được biết có những học sinh ngày càng xa rời môn Ngữ
    văn, ” ngại”, “sợ” học văn vì thầy cô giảng dạy chưa khơi nguồn sáng tạo, hứng thú
    cho các em bằng việc làm mới mình trong mỗi giờ lên lớp. Có những học sinh khi
    được thầy cô chọn vào đội tuyển ngữ văn lúc đầu tìm cách để chối từ vì sợ học văn,
    chán học văn. Thế nhưng khi gặp được thầy cô khơi nguồn đam mê, hứng thú sáng
    tạo cho các em thì các em lại thích học văn và mong muốn được thầy cô chọn vào đội
    tuyển tham dự các kì thi học sinh giỏi
    Thực tế khi nói đến học văn có nhiều em thở dài ngao ngán. Thật buồn sao khi
    giáo viên hỏi tới những áng thơ ca hay trong kho tàng văn học dân tộc học sinh chỉ
    khẽ lí nhí trả lời ” thưa cô em không nhớ.”. Những câu trả lời thành thật, hồn nhiên đó
    của các em dễ dàng chạm đến trái tim của người thầy buộc tôi phải trăn trở làm khơi
    gợi hứng thú thắp sáng đam mê văn chương cho các thế hệ học trò.Trong thời đại 4.0
    hiện nay khi mà khoa học kĩ thuật bùng nổ việc giảng dạy ngữ văn trong nhà trường
    phổ thông đang là một thử thách lớn với giáo viên. Dạy như thế nào cho hay, hiệu quả
    cao, tạo sự hứng thú, say mê cho HS quả thực là cả một vấn đề lớn. Việc học sinh
    không thích thú với môn văn cũng có nhiều lí do, tuy nhiên có một nguyên nhân khá
    quan trọng đó là thầy cô chưa thực sự tạo ra sự cuốn hút các em bằng bài giảng của
    mình. Thầy cô chưa thực sự có nhưng bước ngoặt đột phá trong việc đổi mới phương
    pháp, vẫn nặng về phương pháp truyền thống thế nên việc dạy và học chưa thực sự
    hiệu quả
    Và như vậy nếu người thầy không biết thắp sáng cho các em ngọn lửa đam mê,
    tình yêu với văn chương thì ngày càng nhiều học trò xa lánh, không thích thú với
    môn học đậm tính nhân văn này. Là một tổ trưởng chuyên môn trực tiếp tham gia
    giảng dạy môn ngữ văn nhiều năm, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như chia
    sẻ khó khăn của các đồng nghiệp trong việc giảng dạy môn ngữ văn tôi nhận thấy
    muốn học sinh yêu thích môn ngữ văn thì thầy cô cần biết khơi gợi hứng thú, niềm
    đam mê cho các em . Biết tạo hứng thú học tập môn ngữ văn cho học sinh lôi cuốn
    các em cũng là cách nâng cao chất lượng bộ môn. Chất lượng làm bài môn ngữ văn
    của học sinh không cao cũng là chất lượng giảng dạy của thầy chưa được như mong
    muốn – đó là điều khiến tôi trăn trở. Tôi đã tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học và
    chọn lựa chọn áp dụng sáng kiến sáng kiến:”Đổi mới phương pháp dạy học góp phần
    nâng cao chất lượng môn ngữ văn”.
    Qua sáng kiến này tôi muốn ghi lại kinh nghiệm của bản thân trong quá trình
    vận dụng các phương pháp dạy học vào việc giảng dạy môn Ngữ văn mình được phân
    công phụ trách. Và mong muốn chia sẻ với đồng nghiệp tham khảo để có thêm tư liệu
    khơi gợi hứng thú học tập cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng môn ngữ văn
    một bộ môn mà ngày nay học sinh không mấy mặn mà. Đó cũng là cách bồi dưỡng
    4
    thêm cho mỗi giáo viên trong chuyên môn thực hiện tốt hơn mục tiêu đổi mới giáo
    dục.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP :
    A. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến:
    Thực hiện xây dựng sáng kiến tôi đã tiến hành nghiên cứu, thực nghiệm
    trên cơ sở lí thuyết và thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong nhà trường cụ thể
    như sau:
    1. Phƣơng pháp nghiên cứu
    a. Nghiên cứu lí luận
    – Những phương pháp dạy học mới trong môn Ngữ văn
    b. Nghiên cứu thực tế.
    – Thực tế giảng dạy môn Ngữ văn của bản thân và đồng nghiệp: tìm hiểu
    những thuận lợi, khó khăn, hiệu quả của giáo viên trong dạy học ngữ văn.
    – Lấy phiếu thăm dò ý kiến học sinh về tình cảm suy nghĩ của các em
    trong học tập môn Ngữ văn từng năm, nguyên nhân các em yêu thích hay sợ học
    văn. Đặc biệt tìm ra lí do nhiều học sinh ” ngại”,” sợ ” học môn
    – Đối sánh chất lương chất lượng môn Ngữ văn ở cùng đối tượng học sinh qua
    các năm học với giáo viên khác nhau. Chất lượng lớp học sinh dưới sự giảng dạy ở
    cùng một giáo viên khi giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, khơi nguồn sáng tạo,
    từ đó từ đó kiểm nghiệm, đôi chứng và tìm ra các phương pháp phù hợp.
    2. Nội dung cụ thể của giải pháp
    a. Tìm hiểu đánh giá thực tế việc dạy học ngữ văn trong nhà trường:
    * Về phía giáo viên
    – Là một tổ trưởng chuyên môn trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn để tìm hiểu rõ
    thực tế việc giảng dạy môn Ngữ văn bản thân tôi đã thực hiện:
    + Trực tiếp dự giờ, đánh giá đồng nghiệp ở trường THCS Lê Quý Đôn qua phong
    trào hội giảng hội học.
    + Tổng kết đánh giá chất lượng của giáo viên trong tổ, bản thân học sinh, phân
    tích nguyên nhân thành công, thất bại.
    + Qua thực tế dạy học của bản thân và đồng nghiệp, tâm sự sẻ chia với học sinh thậm chí
    qua phản hồi của phụ huynh
    – Từ đó tôi nhận thấy thực tế trong quá trình giảng dạy của đồng nghiệp còn hạn chế sau:
    + Chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học.
    + Một số giáo viên còn lúng túng trong việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực
    + Chưa nắm vững kiến thức lí luận về phương pháp dạy học bộ môn
    + Nguồn lực phụ vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên còn hạn chế,
    chưa đồng bộ…
    * Về phía học sinh :
    Một bộ phận học sinh không thích học văn vì do phương pháp dạy học của thầy cô còn
    áp đặt chưa khơi gợi hứng thú, cuốn hút.
    5
    Có học sinh không chọn lựa học văn vì định hướng của gia đình muốn các em tập trung
    vào môn tự nhiên hoặc ngoại ngữ để thuận tiện cho việc học sau này ở bậc THPT và đại học.
    Những học sinh yêu thích học văn một phần do sở thích, phần do giáo viên lôi cuốn,
    khơi gợi đam mê trong các em bằng phương pháp dạy học tấm lòng của người thầy từng giờ lên
    lớp và từ niềm ngưỡng mộ, yêu kính thầy cô.
    b. Tìm hiểu đánh giá nguyên nhân dẫn đến thực tế việc dạy học ngữ văn trong
    nhà trường:
    + Giáo viên trong quá trình dạy học còn hạn chế trong vận dụng phương pháp dạy học.
    Chưa mạnh dạn đổi mới đổi phương pháp giảng dạy của mình chủ yếu sử dụng phương pháp
    truyền thống, áp đặt học sinh học tập theo ý mình, chưa gây được hứng thú cho học sinh, chưa
    khắc phục được tư tưởng “ngại” học ở học sinh.
    + Học sinh một phần thụ động trong học tập, có phương pháp học tập môn ngữ văn cũng
    như suy nghĩ chưa đúng về học tập bộ môn Ngữ văn.
    c. Suy nghĩ, tìm tòi những phương pháp để có thể khắc phục những hạn chế trong dạy học
    ngữ văn trong nhà trường hiện nay.
    d. Chia sẻ những kinh nghiệm, giải pháp cá nhân để bản thân và đồng nghiệp thực hiện
    tốt nhiệm vụ giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường và hướng đến hiệu quả cao nhất trong
    việc thắp lên ở mỗi học sinh tình yêu mến văn chương, thích thú, nghiêm túc học tập bộ môn
    đậm tính nhân văn này.
    B. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
    PHẦN I.
    TÌM HIỂU KIẾN THỨC CHUNG VỀ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI PHƢƠNG
    PHÁP DẠY HỌC
    1. Văn bản, quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục:
    – Luật Giáo dục số 38/2005/QH11, điều 28 quy định: ” Phương pháp giáo dục
    phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù
    hơp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng
    làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến
    tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”
    – Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thức XI” Đổi mới chương trình,
    nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại;
    nâng cao chất lượng toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lí tưởng, giáo dục truyền
    thống lịch sử cách mạng, đạo đức lối sống, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành, tác
    phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội…
    – Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
    dục và đào tạo ” Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học theo hướng hiện đại
    phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người
    học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều ghi nhớ máy móc.. Tập trung dạy cách
    học, cách nghĩ, khuyến khích tực học, tạp cơ sở để người học tự cập nhật đổi mới tri
    thức, kĩ năng, phát triển năng lực…”
    6
    – Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo Quyết
    định 711/QĐ-TTG ngày 13/06/2012 của thủ tướng Chính phủ : ” Tiếp tục đổi mới
    phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính
    tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học”
    Như vậy với việc nắm vững tinh thần chỉ đạo trên giáo viên sẽ nhận thức
    đúng đắn trong việc đổi mới phương pháp dạy học của bản thân, góp phần nâng cao
    cho sự nghiệp giáo dục.
    2. Định hƣớng đổi mới chƣơng trình giáo dục phổ thông.
    2.1. Chuyển từ chương trình giáo dục định hướng nội dung dạy học sang giáo
    dục theo định hướng năng lực
    * Chương trình giáo dục định hướng nội dung dạy học:
    – Chương trình giáo dục truyền thống xưa nay còn gọi là chương trình giáo dục
    ” định hướng nội dung” hay ” định hướng đầu vào” nghiêng về truyền thụ hệ thống tri
    thức khoa học theo các môn học quy định trong chương trình. Mục tiêu dạy học còn
    chung chung, không chi tiết, cụ thể rõ ràng về “chất lượng đầu ra” đối với học sinh
    sau những tháng năm học tập ở nhà trường.
    – Thực tế bối cảnh xã hội hiện nay chương trình dạy học theo định hướng nội
    dung không còn phù hợp do:
    + Tri thức thay đổi nhanh chóng, kiến thức chương trình dạy học quy định chi
    tiết cứng nhắc nhanh chóng bị lạc hậu.
    + Việc kiểm tra đánh giá học sinh nặng về tái hiện tri thức mà không định
    hướng vào khả năng vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn.
    * Chương trình giáo dục theo định hướng năng lực
    – Chương trình giáo dục định hướng năng lực còn gọi là chương trình giáo dục
    ” định hướng ” định hướng kết quả đầu ra” được biết đến từ những năm 90 của thế kỉ
    20 và trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo dục định hướng năng lực nhằm mục
    tiêu phát triển năng lực người học.
    – Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy
    học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng vận
    dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn chuẩn bị cho người học năng lực giải
    quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp… Chương trình này nhấn mạnh
    vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức.
    b. Định hướng chuẩn đầu ra về phẩm chất và năng lực của chương trình giáo
    dục cấp trung học cơ sở.
    *Phẩm chất chủ yếu
    -Yêu nước: Yêu thiên nhiên, di sản, yêu con người; tự hào và bảo vệ thiên nhiên,
    di sản, con người.
    – Nhân ái: Yêu con người, yêu cái đẹp, yêu cái thiện; tôn trọng sự khác biệt giữa
    con người, nền văn hóa; ghét cái xấu, cái ác; cảm thông, độ lượng; sẵn sàng học hỏi,
    hòa nhập và giúp đỡ mọi người.
    7
    – Chăm chỉ: Chăm học, ham học, có tinh thần tự học; chăm làm, nhiệt tình tham
    gia các công việc trong lớp, trường, gia đình, cộng đồng, có ý thức vượt khó trong
    công việc.
    – Trung thực: Thật thà, ngay thẳng trong học tập và làm việc; tôn trọng lẽ phải;
    lên án sự gian lận.
    – Trách nhiệm: Bảo vệ bản thân, gia đình, nhà trường, xã hội, môi trường; không
    đổ lỗi cho người khác.
    * Năng lực cốt lõi
    – Tự chủ và tự học: Tự lực, tự khẳng định, tự định hướng, tự hoàn thiện
    – Giao tiếp và hợp tác: Mục đích, nội dung, phương tiện, thái độ
    – Giải quyết vấn đề và sáng tạo: Phát hiện, giải pháp, thực thi
    – Năng lực ngôn ngữ: Tiếng Việt và ngoại ngữ (Đọc, Nghe, Nói, Viết)
    – Năng lực toán học: Kiến thức, thao tác tư duy, sử dụng công cụ
    – Năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội: Kiến thức, khám phá, vận dụng
    – Năng lực công nghệ: Thiết kế, sử dụng, giao tiếp, đánh giá
    – Năng lực tin học: Thiết kế, sử dụng, giao tiếp, đánh giá
    – Năng lực thẩm mỹ: Nhận biết, phân tích, đánh giá, tái tạo, sáng tạo
    – Năng lực thể chất: Kiến thức, kỹ năng, tố chất, đánh giá
    3. Một số biện pháp đổi mới phƣơng pháp dạy học
    3.1. Cải tiến phương pháp dạy học truyền thống
    Muốn cải tiến phương pháp dạy học truyền thống thì trước hết người giáo
    viên cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật của chúng trong
    việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, chẳng hạn như kỹ thuật mở bài, kỹ thuật
    trình bày, giải thích trong khi thuyết trình, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu
    trả lời trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập.
    Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì
    thế bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương
    pháp dạy học mới, đặc biệt là những phương pháp và kỹ thuật dạy học phát huy tính
    tích cực và sáng tạo của học sinh.
    3.2. Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học.
    Việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ
    quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao
    chất lượng dạy học.
    Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đôi và dạy học cá thể là những hình
    thức xã hội của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi một hình thức có những chức năng
    riêng.
    Tình trạng độc tôn của dạy học toàn lớp và sự lạm dụng phương pháp thuyết
    trình cần được khắc phục, đặc biệt thông qua làm việc nhóm.
    Tuy nhiên hình thức làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc giải
    quyết các nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình, mà còn có những hình
    thức làm việc nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp, có thể chiếm một hoặc
    8
    nhiều tiết học, sử dụng những phương pháp chuyên biệt như phương pháp đóng vai,
    nghiên cứu trường hợp, dự án.
    Mặt khác, việc bổ sung dạy học toàn lớp bằng làm việc nhóm xen kẽ trong một
    tiết học mới chỉ cho thấy rõ việc tích cực hóa “bên ngoài” của học sinh.
    Muốn đảm bảo việc tích cực hóa “bên trong” cần chú ý đến mặt bên trong của
    phương pháp dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề và các phương pháp dạy
    học tích cực khác.
    3.3. Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề
    Dạy học giải quyết vấn đề (dạy học nêu vấn đề, dạy học nhận biết và giải quyết
    vấn đề) là quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy, khả năng nhận biết và
    giải quyết vấn đề.
    Học được đặt trong một tình huống có vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu
    thuẫn nhận thức, thông qua việc giải quyết vấn đề, giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ
    năng và phương pháp nhận thức.
    Dạy học giải quyết vấn đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực nhận
    thức của học sinh, có thể áp dụng trong nhiều hình thức dạy học với những mức độ tự
    lực khác nhau của học sinh. Các tình huống có vấn đề là những tình huống khoa học
    chuyên môn, cũng có thể là những tình huống gắn với thực tiễn.
    Tuy nhiên nếu chỉ chú trọng việc giải quyết các vấn đề nhận thức trong khoa học
    chuyên môn thì học sinh vẫn chưa được chuẩn bị tốt cho việc giải quyết các tình
    huống thực tiễn. Vì vậy bên cạnh dạy học giải quyết vấn đề, lý luận dạy học còn xây
    dựng quan điểm dạy học theo tình huống.
    3.4. Vận dụng dạy học theo tình huống
    Dạy học theo tình huống là một quan điểm dạy học, trong đó việc dạy học được
    tổ chức theo một chủ đề phức hợp gắn với các tình huống thực tiễn cuộc sống và nghề
    nghiệp.
    Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học tập tạo điều kiện cho
    học sinh kiến tạo tri thức theo cá nhân và trong mối tương tác xã hội của việc học tập.
    Phương pháp nghiên cứu trường hợp là một phương pháp dạy học điển hình của
    dạy học theo tình huống, trong đó học sinh tự lực giải quyết một tình huống điển hình,
    gắn với thực tiễn thông qua làm việc nhóm.
    Vận dụng dạy học theo các tình huống gắn với thực tiễn là con đường quan trọng
    để gắn việc đào tạo trong nhà trường với thực tiễn đời sống, góp phần khắc phục tình
    trạng giáo dục hàn lâm, xa rời thực tiễn hiện nay của nhà trường phổ thông.
    Tuy nhiên, nếu các tình huống được đưa vào dạy học là những tình huống mô
    phỏng lại, thì chưa phải tình huống thực. Nếu chỉ giải quyết các vấn đề trong phòng
    học lý thuyết thì học sinh cũng chưa có hoạt động thực tiễn thực sự, chưa có sự kết
    hợp giữa lý thuyết và thực hành.
    3.5. Vận dụng dạy học theo định hướng hành động
    Dạy học định hướng hành động là quan điểm dạy học nhằm làm cho hoạt động
    trí óc và hoạt động chân tay kết hợp chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học tập, học
    9
    sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập và hoàn thành các sản phẩm hành động, có sự kết
    hợp linh hoạt giữa hoạt động trí tuệ và hoạt động tay chân.
    Đây là một quan điểm dạy học tích cực hóa và tiếp cận toàn thể. Vận dụng dạy
    học định hướng hành động có ý nghĩa quan trọng cho việc thực hiện nguyên lý giáo
    dục kết hợp lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội.
    Dạy học theo dự án là một hình thức điển hình của dạy học định hướng hành
    động, trong đó học sinh tự lực thực hiện trong nhóm một nhiệm vụ học tập phức hợp,
    gắn với các vấn đề thực tiễn, kết hợp lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm
    có thể công bố.
    Trong dạy học theo dự án có thể vận dụng nhiều lý thuyết và quan điểm dạy học
    hiện đại như lý thuyết kiến tạo, dạy học định hướng học sinh, dạy học hợp tác, dạy
    học tích hợp, dạy học khám phá, sáng tạo, dạy học theo tình huống và dạy học định
    hướng hành động
    3.6. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tinh hợp lí hỗ
    trợ dạy học.
    Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy
    học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Việc sử
    dụng các phương tiện dạy học cần phù hợp với mối quan hệ giữa phương tiện dạy học
    và phương pháp dạy học.
    Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương
    tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Đa phương tiện và công nghệ thông tin có nhiều
    khả năng ứng dụng trong dạy học.
    Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần tăng
    cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử dụng
    mạng điện tử (E-Learning).
    Phương tiện dạy học mới cũng hỗ trợ việc tìm ra và sử dụng các phương
    pháp dạy học mới. Webquest là một ví dụ về phương pháp dạy học mới với phương
    tiện mới là dạy học sử dụng mạng điện tử, trong đó học sinh khám phá tri thức trên
    mạng một cách có định hướng.
    3.7. Sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo
    Kỹ thuật dạy học là những cách thức hành động của của giáo viên, của người dạy
    và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá
    trình dạy học.
    3.8.Chú trọng các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn.
    Phương pháp dạy học có mối quan hệ biện chứng với nội dung dạy học. Vì vậy
    bên cạnh những phương pháp chung có thể sử dụng cho nhiều bộ môn khác nhau thì
    việc sử dụng các phương pháp dạy học đặc thù có vai trò quan trọng trong dạy học bộ
    môn. Các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn được xây dựng trên cơ sở lý luận dạy
    học bộ môn.
    Ví dụ: Thực hành là một phương pháp dạy học đặc thù quan trọng của môn Công
    nghệ; các phương pháp dạy học như làm mẫu thao tác, phân tích sản phẩm kỹ thuật,
    10
    thiết kế kỹ thuật, lắp ráp mô hình, các dự án là những phương pháp chủ lực trong dạy
    học Công nghệ.
    3.9. Bồi dưỡng phương pháp học tập tích cực cho học sinh
    Phương pháp học tập một cách tự lực đóng vai trò quan trọng trong việc tích
    cực hóa, phát huy tính sáng tạo của học sinh. Có những phương pháp nhận thức chung
    như phương pháp thu thập, xử lý, đánh giá thông tin, phương pháp tổ chức làm việc,
    phương pháp làm việc nhóm, có những phương pháp học tập chuyên biệt của từng bộ
    môn.
    Bằng nhiều hình thức khác nhau, cần luyện tập cho học sinh các phương pháp
    học tập chung và các phương pháp học tập trong bộ môn.
    Như vậy có rất nhiều phương hướng đổi mới phương pháp dạy học với những
    cách tiếp cận khác nhau. Việc đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi những điều kiện
    thích hợp về phương tiện, cơ sở vật chất và tổ chức dạy học, điều kiện về tổ chức,
    quản lý.Ngoài ra, phương pháp dạy học còn mang tính chủ quan. Mỗi giáo viên với
    kinh nghiệm riêng của mình cần xác định những phương hướng riêng để cải tiến
    phương pháp dạy học và kinh nghiệm của cá nhân.
    4. Phƣơng pháp dạy học.
    Phương pháp dạy học là con đường hoạt động chung giữa giáo viên và học sinh
    trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt tới mục đích dạy học.
    Theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học ngữ văn bên cạnh phương pháp
    dạy học theo đặc thù bộ môn cần quan tâm đến phương pháp dạy học phát huy tính
    tích cực tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh như giải quyết vấn đề. dạy học khám
    phá, dạy học theo dự án, đóng vai, thảo luận, nghiên cứu trường hợp điển hình, trò
    chơi… cùng với sự kết hợp linh hoạt với các kĩ thuật dạy học hiện đại, phương pháp
    dạy học đặc thù của môn ngữ văn mang tính truyền thống như thuyết trình, giảng
    bình..
    4.1.Một số phƣơng pháp dạy học tích cực sử dụng hiệu quả trong dạy học
    ngữ văn
    * Dạy học đọc hiểu
    Dạy học đọc hiểu là một trong những nội dung cơ bản của đổi mới phương pháp
    dạy học Ngữ văn trong tiếp nhận văn bản. Thông qua phương pháp này giáo viên
    tránh được tình trạng truyền thụ tri thức một chiều cho học sinh những cảm nhận của
    giáo viên về văn bản được học. Thay vào đó hướng đến việc cung cấp cho học sinh
    cách đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đề nội dung và nghệ thuật cảu văn bản,
    từ đó hình thành cho học sinh năng lực tự đọc một cách tích cực, chủ động có sắc thái
    cá nhân.
    Hoạt động đọc hiểu được thực hiện theo một trình tự nhất định từ dễ đến khó,
    từ thấp đến cao, trải qua các giai đoạn từ đọc đúng, đọc thông đến hiểu, từ đọc tái hiện
    sang đọc sánh tạo. Khi hình thành năng lực đọc hiểu của học sinh cũng chính là hình
    thành năng lực cảm thụ thẩm mĩ, khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng và tư duy.
    11
    Năng lực đọc hiểu của học sinh còn được hiểu là sự tích hợp những kiến thức
    và kĩ năng của các phân môn cũng như toàn bộ kĩ năng và kinh nghiệm sống của học
    sinh Nội dung thông tin trong các văn bản đọc hiểu hết sức phong phú, có liên quan
    đến nhiều lĩnh vực đời sống và nhiều môn học khác do vậy cần chú ý đến những vấn
    đề liên môn trong dạy học đọc hiểu đồng thời giáo viên phải giúp học sinh có phương
    pháp đọc, khả năng tự tìm kiếm nguồn thông tin đa dạng của cuộc sống nhằm đáp ứng
    năng lực, sở thích của cá nhân.
    * Phƣơng pháp đóng vai
    – Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành trình bày những suy
    nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một vai giả định. Đây là phương pháp giảng dạy giúp
    học sinh suy ngẫm sâu sắc về một cấn đề bầng cách đứng từ chỗ đứng, góc nhìn của
    người trong cuộc, tập trung vòa một sự kiện cụ thể mà các em quan sát được từ vai
    của mình
    – Ưu điểm của phương pháp đóng vai:
    + Học sinh được rèn luyện thực hành những kĩ năng ứng xử và bày tỏ thái độ
    trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
    + gây hứng thú và chú ý cho học sinh, hình thành cho các em kĩ năng giao tiếp
    có cơ hội bộc lộ cảm xúc.
    + Tạo điều kiện phát triển óc sáng tạo của học sinh
    + Khích lệ thay đổi thái độ học sinh theo hướng tích cực
    + Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai
    diễn.
    + Lôi cuốn học sinh nhút nhát, thiếu tự tin khi đứng trước tập thể tham gia các
    hoạt động học tập.
    * Phƣơng pháp trò chơi
    – Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề
    hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò
    chơi nào đó.
    – Khi tổ chức cần theo quy trình:
    + Phổ biến tên trò chơi, nội dung, luật chơi cho học sinh
    + Chơi thử ( nếu cần thiết)
    + HS tiến hành chơi
    + Đánh giá sau trò chơi
    – Tuy nhiên cần lưu ý các vấn đề sau:
    + Trò chơi phải dễ tổ chức và thực hiện, phải phù hợp với chủ đề bài học, với
    đặc điểm và trình độ HS, với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của lớp
    học, đồng thời phải không gây nguy hiểm cho HS.
    + HS phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi.
    + Phải quy định rõ thời gian, địa điểm chơi.
    12
    + Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, tạo điều kiện cho HS
    tham gia tổ chức, điều khiển tất cả các khâu: từ chuẩn bị, tiến hành trò chơi và đánh
    giá sau khi chơi.
    + Trò chơi phải được luân phiên, thay đổi một cách hợp lí để không gây nhàm
    chán cho HS.
    + Sau khi chơi, giáo viên cần cho HS thảo luận để nhận ra ý nghĩa giáo dục của
    trò chơi.
    * Phƣơng pháp dạy học theo dự án
    Đây là hình thức tổ chức dạy học trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ
    dạy học phức hợp, xó sự kết hợp giữa lí thuyết thực tiễn và thực hành. Nhiệm vụ nàu
    được người học thực hiện với tính tự lực trong toàn bộ quá trình học tập từ việc xác
    định mục đích, lập kế hoạch đến thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá
    trình và kết quả thực hiện.
    Thực hiện hình thức học tập này học sinh hoàn toàn chủ động tham gia hoạt
    động dưới sự hướng dẫn của thầy cô để tạo ra một sản phẩm hay vận dụng kiến thức
    đã học để tìm hiểu, thực hành nghiên cứu vấn đề trong học tập hay giải quyết vấn đề
    trong cuộc sống. Nói khác đi dạy học dự án là hoạt động học tập nhằm tạo cơ hội cho
    người học tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực học tập và áp dụng một cách sáng tạo
    vào thực tế cuộc sống.
    Quá trình học theo dự án giúp người học củng cố kiến thức, xây dựng khả năng
    giao tiếp và học tập độc lập, chuẩn vị hành trang học tập suốt đời cho người học, đặc
    biệt là thế hệ trả và đối mặt với thử thách cuộc sống.
    Dạy học theo dự án còn là hoạt động tìm hiểu sâu về một chủ đề cụ thể với mục
    tiêu tạo cơ hội để người học thực hiện nghiên cứu vấn đề thông qua kết nối thông tin,
    phối hợp nhiều kĩ năng giá trị và thái độ nhằm xây dựng kiến thức, phát triển khả
    năng.
    Dạy học theo dự án có một số đặc điểm nổi bật:
    + Có định hướng thực tiễn( xuất phát từ thực tế tình huống thực tiễn xã hội, nghề
    nghiệp, đời sống).
    + Có ý nghĩa thực tiễn xã hồi( góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với
    thực tế đời sống xã hội, đem lại tác động xã hội tích cực…
    + Định hướng hứng thú người học: Học sinh được tham gia chọn đề tài, nội
    dung học tập phù hợp khả năng, hứng thú cá nhân.
    + Dự án học tập mang nội dung tích hợp: Kết hợp kiến thức của nhiều lĩnh vực,
    bộ môn.
    + Định hướng hành động: Kết hợp lí thuyết với thực hành qua đó kiểm tra củng
    cố mở rộng lí thuyết và rèn kĩ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học.
    + Tính tự lực và cộng tác cao trong thực hiện.
    + Sản phẩm có thể được công bố, giới thiệu
    – Khi thực hiện dạy học theo dự án cần tuân thủ các bước:
    + Chọn đề tài xác định mục đích
    13
    + Xây dựng đề cương và kế hoạch thực hiện
    + Thực hiện dự án
    + Thu thập kết quả và công bố sản phẩm
    + Đánh giá dự án
    * Phƣơng pháp dạy học nhóm.
    – Phương pháp dạy học theo nhóm là phương pháp dạy học giáo viên tạo điều
    kiện cho học sinh tham gia trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến về một vấn đề mà cả
    nhóm cần quan tâm.Thảo luận nhóm còn là phương tiện học hỏi có tỉnh dân chủ,mọi
    cá nhân bình đẳng nàu tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận
    quan điểm bất đồng, hình thành quan điểm riêng qua đó giúp học sinh có kĩ năng giải
    quyết vấn đề cá nhân.
    – Thảo luận nhóm được tiến hành theo các hình thức: nhóm nhỏ ( cặp đội, cặp
    ba), nhóm trung bình (4- 6 người) hoặc nhóm lớn ( 8 người ) trở lên.
    – Khi thực hiện nhiệm vụ nhóm: nhóm tự bầu nhóm trưởng, phân công phần việc
    cho mỗi thành viên, các thành viên tích cực thảo luận, khi trình bày có thể một người
    đại diện cho nhóm trình bày hoặc mỗi thành viên trình bày một phần.
    Để tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học giáo viên cần tiến hành các bước:
    + Giao nhiệm vụ: Chuẩn bị đề tài, mục tiêu, nội dung thảo luận nhóm…
    +Thực hiện nhiệm vụ: Chia nhóm theo yêu cầu của nhiệm vụ, giáo viên quan sát,
    điều chỉnh chỗ ngồi học sinh, hỗ trợ khi cần thiết..
    +Trình bày kết quả: Đại diện nhóm trình bày, các thành viên khác có thể bổ sung
    thêm, các nhóm khác nhận xét, bổ sung, hỏi thêm…
    * Phƣơng pháp nghiên cứu tình huống.
    – Nghiên cứu tình huống là một phương pháp dạy học trong đó trọng tâm của quá
    trình dạy học là việc phân tích và giải quyết các vấn đề của một tình huống được lựa
    chọn trong thực tiễn.
    – Với phương pháp này học sinh tự lực nghiên cứu một tình huống thực tiễn và
    giải quyết các vấn đề của tình huống và hình thức làm việc chủ yếu là làm việc nhóm.
    Tình huống đưa ra là thường gặp trong đời sống, học sinh vận dụng lí thuyết đã học
    đẻ giải quyết tình huống cụ thể.
    – Phương pháp này tạo điều kiện gắn kết lý thuyết với thực tiễn,tư duy và hành
    động có ưu điểm cơ bản:
    + Sử dụng liên hệ thực tiễn để tích cực hóa động cơ người học.
    +Huy động sự làm việc cá nhân và cộng tác làm việc thảo luận trong nhóm
    + Tạo điều kiện để học sinh phát huy năng lực giải quyết vấn đề, sáng tạo, khả
    năng giao tiếp và cộng tác làm việc.
    – Thực hiện theo các bước sau: Nhận biết tình huống, thu thập thông tin,tìm
    phương án giải quyết, phân tích đánh giá.
    5. Một số kĩ thuật dạy học tích cực
    * Kĩ thuật chia nhóm
    14
    Khi tổ chức cho HS hoạt động theo nhóm, GV nên sử dụng nhiều cách chia
    nhóm khác nhau để gây hứng thú cho HS, đồng thời tạo cơ hội cho các em được học
    hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong lớp. Dưới đây là một số cách chia nhóm:
    + Chia nhóm theo số điểm danh, theo các màu sắc, theo các loài hoa, các mùa
    trong năm,…:
    + GV yêu cầu HS điểm danh từ 1 đến 4/5/6…(tùy theo số nhóm GV muốn có là
    4,5 hay 6 nhóm,…); hoặc điểm danh theo các màu (xanh, đỏ, tím, vàng,…); hoặc điểm
    danh theo các loài hoa (hồng, lan, huệ, cúc,…); hay điểm danh theo các mùa (xuân,
    hạ, thu, đông,…)
    + Yêu cầu các HS có cùng một số điểm danh hoặc cùng một mầu/cùng một loài
    hoa/cùng một mùa sẽ vào cùng một nhóm.
    – Chia nhóm theo hình ghép
    + GV cắt một số bức hình ra thành 3/4/5… mảnh khác nhau, tùy theo số HS
    muốn có là 3/4/5… HS trong mỗi nhóm. Lưu ý là số bức hình cần tương ứng với số
    nhóm mà GV muốn có.
    + HS bốc ngẫu nhiên mỗi em một mảnh cắt.
    + HS phải tìm các bạn có các mảnh cắt phù hợp để ghép lại thành một tấm hình
    hoàn chỉnh.
    + Những HS có mảnh cắt của cùng một bức hình sẽ tạo thành một nhóm.
    – Chia nhóm theo sở thích
    GV có thể chia HS thành các nhóm có cùng sở thích để các em có thể cùng
    thực hiện một công việc yêu thích hoặc biểu đạt kết quả công việc của nhóm dưới các
    hình thức phù hợp với sở trường của các em. Ví dụ: Nhóm Họa sĩ, Nhóm Nhà thơ,
    Nhóm Hùng biện,…
    – Chia nhóm theo tháng sinh: Các HS có cùng tháng sinh sẽ làm thành một
    nhóm.
    Ngoài ra còn có nhiều cách chia nhóm khác như: nhóm cùng trình độ, nhóm hỗn
    hợp, nhóm theo giới tính,….
    * Kĩ thuật giao nhiệm vụ
    – Giao nhiệm vụ phải cụ thể, rõ ràng:
    + Nhiệm vụ giao cho cá nhân/nhóm nào?
    + Nhiệm vụ là gì?
    + Địa điểm thực hiện nhiệm vụ ở đâu?
    + Thời gian thực hiện nhiệm vụ là bao nhiêu?
    + Phương tiện thực hiện nhiệm vụ là gì?
    + Sản phẩm cuối cùng cần có là gì?
    + Cách thức trình bày/ đánh giá sản phẩm như thế nào?
    – Nhiệm vụ phải phù hợp với: mục tiêu hoạt động, trình độ HS, thời gian, không
    gian hoạt động và cơ sở vật chất, trang thiết bị
    * Kĩ thuật đặt câu hỏi
    15
    Trong dạy học theo PP cùng tham gia, GV thường phải sử dụng câu hỏi để gợi
    mở, dẫn dắt HS tìm hiểu, khám phá thông tin, kiến thức, kĩ năng mới, để đánh giá kết
    quả học tập của HS; HS cũng phải sử dụng câu hỏi để hỏi lại, hỏi thêm GV và các HS
    khác về những ND bài học chưa sáng tỏ.
    Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa HS – GV và HS
    – HS. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của HS càng nhiều; HS sẽ học
    tập tích cực hơn.
    Mục đích sử dụng câu hỏi trong dạy học là để:
    – Kích thích, dẫn dắt HS suy nghĩ, khám phá tri thức mới, tạo đ/k cho HS tham
    gia vào quá trình dạy học
    – Kiểm tra, đánh giá KT, KN của HS và sự quan tâm, hứng thú của các em đối
    với ND học tập
    – Thu thập, mở rộng thông tin, kiến thức
    Khi đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau:
    – Câu hỏi phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bài học
    – Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu
    – Đúng lúc, đúng chỗ
    – Phù hợp với trình độ HS
    – Kích thích suy nghĩ của HS
    – Phù hợp với thời gian thực tế
    – Sắp xếp thep trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
    – Không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xính
    – Không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc
    * Kĩ thuật khăn trải bàn
    – HS được chia thành các nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Mỗi nhóm sẽ có một tờ
    giấy A0 đặt trên bàn, như là một chiếc khăn trải bàn.
    – Chia giấy A0 thành phần chính giữa và phần xung quanh, tiếp tục chia phần
    xung quanh thành 4 hoặc 6 phần tuỳ theo số thành viên của nhóm ( 4 hoặc 6 người.)
    – Mỗi thành viên sẽ suy nghĩ và viết các ý tưởng của mình ( về một vấn đề nào
    đó mà GV yêu cầu) vào phần cạnh “khăn trải bàn” trước mặt mình. Sau đó thảo luận
    nhóm, tìm ra những ý tưởng chung và viết vào phần chính giữa “khăn trải bàn”
    * Kĩ thuật phòng tranh
    Kĩ thuật này có thể sử dụng cho hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm.
    – GV nêu câu hỏi/ vấn đề cho cả lớp hoặc cho các nhóm.
    – Mỗi thành viên ( hoạt động cá nhân) hoặc các nhóm (hoạt động nhóm) phác
    hoạ những ý tưởng về cách giải quyết vấn đề trên một tờ bìa và dán lên tường xung
    quanh lớp học như một triển lãm tranh.
    – HS cả lớp đi xem “ triển lãm’’và có thể có ý kiến bình luận hoặc bổ sung.
    – Cuối cùng, tất cả các phương án giải quyết được tập hợp lại và tìm phương án
    tối ưu.
    * Kĩ thuật công đoạn
    16
    – HS được chia thành các nhóm, mỗi nhóm được giao giải quyết một nhiệm vụ
    khác nhau. Ví dụ: nhóm 1- thảo luận câu A, nhóm 2- thảo luận câu B, nhóm 3- thảo
    luận câu C, nhóm 4- thảo luận câu D,…
    – Sau khi các nhóm thảo luận và ghi kết quả thảo luận vào giấy A0 xong, các
    nhóm sẽ luân chuyển giáy AO ghi kết quả thảo luận cho nhau. Cụ thể là: Nhóm 1
    chuyển cho nhóm 2, Nhóm 2 chuyển cho nhóm 3, Nhóm 3 chuyển cho nhóm 4, Nhóm
    4 chuyển cho nhóm 1
    – Các nhóm đọc và góp ý kiến bổ sung cho nhóm bạn. Sau đó lại tiếp tục luân
    chuyển kết quả cho nhóm tiếp theo và nhận tiếp kết quả từ một nhóm khác để góp ý.
    – Cứ như vậy cho đến khi các nhóm đã nhận lại được tờ giấy A0 của nhóm mình
    cùng với các ý kiến góp ý của các nhóm khác. Từng nhóm sẽ xem và xử lí các ý kiến
    của các bạn để hoàn thiện lại kết quả thảo luận của nhóm . Sau khi hoàn thiện xong,
    nhóm sẽ treo kết quả thảo luận lên tường lớp học.
    * Kĩ thuật các mảnh ghép
    – HS được phân thành các nhóm, sau đó giáo viên phân công cho mỗi nhóm thảo
    luận, tìm hiểu sâu về một vấn đề của bài học. Chẳng hạn: nhóm 1- thảo luận vấn đề A,
    nhóm 2- thảo luận vấn đề B, nhóm 3- thảo luận vấn đề C, nhóm 4- thảo luận thảo luận
    vấn đề D,….
    – HS thảo luận nhóm về vấn đề đã được phân công
    – Sau đó, mỗi thành viên của các nhóm này sẽ tập hợp lại thành các nhóm mới,
    như vậy trong mỗi nhóm mới sẽ có đủ các “chuyên gia” về vấn đề A, B, C, D,…và
    mỗi “ chuyên gia” về từng vấn đề sẽ có trách nhiệm trao đổi lại với cả nhóm về vấn
    đề mà em đã có cơ hội tìm hiểu sâu ở nhóm cũ.
    * Kĩ thuật động não
    – Động não là kĩ thuật giúp cho HS trong một thời gian ngắn nảy sinh được nhiều
    ý tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề nào đó. Các thành viên được cổ vũ tham gia
    một cách tích cực, không hạn chế các ý tưởng ( nhằm tạo ra cơn lốc các ý tưởng).
    – Động não thường được:
    + Dùng trong giai đoạn giới thiệu vào một chủ đề
    + Sử dụng để tìm các phương án giải quyết vấn đề
    + Dùng để thu thập các khả năng lựa chọn và suy nghĩ khác nhau
    – Động não có thể tiến hành theo các bước sau :
    + Giáo viên nêu câu hỏi hoặc vấn đề ( có nhiều cách trả lời) cần được tìm hiểu
    trước cả lớp hoặc trước nhóm.
    + Khích lệ HS phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
    + Liệt kê tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc giấy to không loại trừ một ý kiến nào,
    trừ trường hợp trùng lặp.
    – Phân loại các ý kiến.
    – Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng
    – Tổng hợp ý kiến của HS và rút ra kết luận.
    * Kĩ thuật “ Trình bày một phút”
    17
    Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho HS tổng kết lại kiến thức đã học và đặt những
    câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn gọn và cô
    đọng với các bạn cùng lớp. Các câu hỏi cũng như các câu trả lời HS đưa ra sẽ giúp
    củng cố quá trình học tập của các em và cho giáo viên thấy được các em đã hiểu vấn
    đề như thế nào.
    – Kĩ thuật này có thể tiến hành như sau:
    + Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết học), giáo viên yêu cầu HS suy nghĩ, trả lời
    các câu hỏi sau: Điều quan trọng nhất các em học đuợc hôm nay là gì? Theo các em,
    vấn đề gì là quan trọng nhất mà chưa được giải đáp?…
    + HS suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi của HS có thể dưới nhiều hình thức
    khác nhau.
    + Mỗi HS trình bày trước lớp trong thời gian 1 phút về những điều các em đã
    học được và những câu hỏi các em muốn được giải đáp hay những vấn đề các em
    muốn được tiếp tục tìm hiểu thêm.
    * Kĩ thuật “Chúng em biết 3”
    – GV nêu chủ đề cần thảo luận.
    – Chia HS thành các nhóm 3 người và yêu cầu HS thảo luận trong vòng 10 phút
    về những gì mà các em biết về chủ đề này.
    – HS thảo luận nhóm và chọn ra 3 điểm quan trọng nhất để trình bày với cả lớp.
    – Mỗi nhóm sẽ cử một đại diện lên trình bày về cả 3 điểm nói trên.
    Kĩ thuật “ Hỏi và trả lời”
    Đây là KTDH giúp cho HS có thể củng cố, khắc sâu các kiến thức đã học thông
    qua việc hỏi và trả lời các câu hỏi.
    Kĩ thuật này có thể tiến hành như sau:
    – GV nêu chủ đề .
    – GV (hoặc 1 HS) sẽ bắt đầu đặt một câu hỏi về chủ đề và yêu cầu một HS
    khác trả lời câu hỏi đó.
    – HS vừa trả lời xong câu hỏi đầu tiên lại được đặt tiếp một câu hỏi nữa và yêu
    cầu một HS khác trả lời.
    – HS này sẽ tiếp tục quá trình trả lời và đặt câu hỏi cho các bạn cùng lớp,… Cứ
    như vậy cho đến khi GV quyết định dừng hoạt động này lại.
    * Kĩ thuật “Hỏi chuyên gia”
    – HS xung phong (hoặc theo sự phân công của giáo viên ) tạo thành các nhóm
    “chuyên gia” về một chủ đề nhất định.
    – Các ”chuyên gia” nghiên cứu và thảo luận với nhau về những tư liệu có liên
    quan đến chủ đề mình được phân công.
    – Nhóm ”chuyên gia” lên ngồi phía trên lớp học
    – Một em trưởng nhóm ”chuyên gia” (hoặc giáo viên ) sẽ điều khiển buổi “tư
    vấn”, mời các bạn HS trong lớp đặt câu hỏi rồi mời ”chuyên gia” giải đáp, trả lời.
    * Kĩ thuật “Lƣợc đồ tƣ duy”
    18
    Lược đồ tư duy là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng
    hay kết quả làm việc của cá nhân/ nhóm về một chủ đề.
    – Viết tên chủ đề/ ý tưởng chính ở trung tâm.
    – Từ chủ đề/ ý tưởng chính ở trung tâm, vẽ các nhánh chính, trên mỗi nhánh
    chính viết một nội dung lớn của chủ đề hoặc các ý tưởng có liên quan xoay quanh ý
    tưởng trung tâm nói trên.
    – Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc
    nhánh chính đó.
    – Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
    * Kĩ thuật “Hoàn tất một nhiệm vụ”
    – Giáo viên đưa ra một câu chuyện/một vấn đề/một bức tranh/một thông điệp/…
    mới chỉ được giải quyết một phần và yêu cầu học sinh /nhóm hoàn tất nốt phần còn
    lại.
    – Học sinh hoặc nhóm học sinh thực hiện nhiệm vụ được g

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học văn lớp 9

    SKKN Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học văn lớp 9

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
    1. Bối cảnh xã hội và mục tiêu giáo dục phổ thông
    -Trong bối cảnh thế giới với sự phát triển khoa học kĩ thuật có những bước
    tiến vượt trội, nền kinh tế toàn cầu hóa, đòi hỏi nền giáo dục phải có sự thay đổi
    để bắt kịp với nhu cầu cấp thiết của thời đại. Giáo dục Việt Nam trong bức tranh
    toàn cảnh của khu vực và quốc tế đang có những bước chuyển mình đáng kể để
    tạo ra những con người hiền tài góp phần dựng xây đất nước ngày càng giàu
    đẹp, có thể “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” như lời Bác Hồ đã từng
    căn dặn.
    -Mục tiêu của giáo dục nước ta hiện nay là đào tạo ra những người có đủ
    đức, trí, thể, mỹ; năng lực sáng tạo…đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội.
    Năm 2013, Nghị quyết số 29- NQ/TW Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung
    ương khóa XI khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
    theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng
    kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi
    nhớ máy móc… Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và
    đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, đảm bảo trung thực khách quan…”.Đổi mới
    phương pháp dạy học có thể coi là chìa khóa thành công trên con đường thực
    hiện mục tiêu chung của giáo dục nước nhà.
    -Giữ vai trò là người truyền cảm hứng cho các em học sinh tiếp cận kiến
    thức một cách tự nhiên nhất, kích thích khả năng sáng tạo, làm việc tích cực,
    mỗi giáo viên cần có phương pháp phù hợp với tình hình hiện tại, phải biết làm
    mới những điều tưởng như đã cũ.
    2. Mục tiêu của bộ môn Ngữ văn:
    Giáo dục là con đường muốn nhanh phải đi từ từ. Dạy học văn cũng
    không nằm ngoài quy luật ấy. Để đạt được hiệu quả trong việc dạy học môn văn
    thì mỗi giờ học phải thực sự tạo hứng thú cho học sinh. Khi thực sự thích học
    thì kiến thức, kĩ năng, cảm nhận về tác phẩm văn chương, về cuộc sống sẽ đến
    với các em một cách tự nhiên nhất. Luận ngữ có câu: “Biết mà học không bằng
    thích mà học, thích mà học không bằng say mà học”. Yếu tố cảm xúc, say mê
    chính là động lực lớn thúc đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không
    ngừng của mỗi người.Với vai trò là người tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá
    trình học tập của học sinh, hơn ai hết giáo viên phải tìm, xây dựng hướng tiếp
    3
    cận mới, phương pháp mới để phát tính tích cực sáng tạo của người học, tạo
    hứng thú, hưng phấn, đam mê.
    Mục tiêu của dạy học môn văn là hình thành những con người có ý thức,
    có tư tưởng tình cảm cao đẹp, có năng lực cảm thụ các giá trị Chân, Thiện, Mỹ
    và đặc biệt là khả năng thích ứng với cuộc sống năng động trong xã hội hiện
    đại.Vì vậy vai trò của người giáo viên dạy Ngữ văn là vô cùng quan trọng .Để
    tạo ra những tiết học hiệu quả, gây hứng thú với học sinh đòi hỏi giáo viên phải
    tận tâm, nhiệt huyết, vận dụng phương pháp phù hợp. Luật giáo dục nước
    CHXHCN Việt Nam điều 4 đã nêu: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính
    tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo ở người học, bồi dưỡng năng lực tự học,
    lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Trong quá trình dạy học môn ngữ văn,
    bản thân tôi luôn trăn trở để làm thế nào đem đến cho học sinh những giờ học
    bổ ích, gieo vào lòng các em tình yêu đối với văn học.
    Văn bản văn học chiếm một dung lượng lớn trong chương trình Ngữ văn
    THCS. Và đặc biệt Ngữ văn lớp 9 nhiều văn bản dài và khó đối với học sinh
    .Mặt khác cấu trúc đề thi vào THPT tỉnh Nam Định phần nghị luận văn học
    thường chiếm 4,5 điểm toàn bài thi, nghị luận xã hội 1,5 điểm ,kĩ năng đọc hiểu
    văn bản 2 điểm. Các câu hỏi thì phong phú đa dạng, đòi hỏi ở học sinh sự linh
    hoạt, tư duy tốt, khả năng xử lí đề nhạy bén. Để học sinh làm tốt bài thi, trước
    hết đòi hỏi người giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh nắm chắc văn bản,
    hiểu ý nghĩa văn bản và từ đó rèn kĩ năng đọc hiểu, cảm nhận, phân tích, bình
    giá văn bản, linh hoạt xử lí yêu cầu của đề bài .
    Qua khảo sát các đề thi vào THPT, đề thi học sinh giỏi của các tỉnh trong cả
    nước tôi nhận thấy các đề thi ngữ Văn đều có phần đọc hiểu, nghị luận văn học
    về các tác phẩm trong và ngoài chương trình ngữ văn lớp 9. Tôi xin đưa ra 1 số
    ví dụ sau:
    Đề 1:ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI CẤP TP HÀ NỘI NĂM HỌC 2018-2019
    Trong một lần trò chuyện về bài thơ “Bếp lửa”, Bằng Việt tâm sự:
    “Khi nhớ về bà nội,về tuổi thơ của mình, tôi luôn coi bếp lửa là nhân vật thứ
    hai, một nhân vật có đời sống, số phận thật sự.”
    (Nhà thơ Bằng Việt viết “ Bếp lửa”: Kỉ niệm tuổi thơ ùa về, Báo Dân Việt,ngày
    09/06/2016)
    Hãy làm sáng tỏ “đời sống, số phận thật sự” của nhân vật thứ hai trong bài thơ
    Bếp lửa.
    Đề 2: ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT TỈNH NAM ĐỊNH
    Năm học 2019 – 2020.
    4
    Phần II. Đọc – hiểu văn bản (2.0 điểm)
    Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi nêu ở dưới:
    Một ngày nọ, có một con lừa của người nông dân bị rơi xuống đáy giếng.
    Lừa khóc lóc thảm thương trong vài giờ đồng hồ trong khi người chủ tìm cách
    giải thoát cho nó. Cuối cùng người nông dân quyết định rằng con lừa đã quá
    già và cái giếng cũng cần được lấp đi, ông không cần phải cứu con lừa nữa.
    Người nông dân kêu hàng xóm của ông đến và giúp một tay. Họ cầm xẻng
    và bắt đầu xúc đất đổ xuống giếng. Ban đầu, con lừa biết chuyện gì xảy ra và nó
    bắt đầu khóc vì tuyệt vọng. Nhưng sau đó mọi người ngạc nhiên vì nó bỗng trở
    nên im lặng.
    Một lúc sau, người nông dân nhìn xuống giếng và ông ta không khỏi ngạc
    nhiên vì những gì đã xảy ra trước mắt. Với mỗi xẻng đất mà người ta hắt xuống
    giếng, con lừa đã làm một việc thông minh, nó lay người để giũ đất và bùn rơi
    xuống chân và tiếp tục bước lên trên.
    Với mỗi xúc đất của người nông dân hắt xuống, con lừa lại rung mình và
    bước một bước lên trên đống đất. Chỉ một lúc sau, mọi người đều kinh ngạc vì
    con lừa đã lên được miệng giếng và vui vẻ thoát ra ngoài.
    (Lược dịch từ Truyện ngụ ngôn Ê-dốp)
    Câu 1 (0,5 điểm). Con lừa trong văn bản trên bị rơi vào hoàn cảnh nào?
    Câu 2 (0,75 điểm). Vì sao khi thấy người nông dân và người hàng xóm cầm
    xẻng và bắt đầu xúc đất đổ xuống giếng, ban đầu con lừa khóc nhưng sau đó nó
    bỗng trở nên im lặng?
    Câu 3 (0,75 điểm). Từ văn bản trên, hãy rút ra một thông điệp mà em tâm đắc
    nhất và lí giải vì sao điều đó có ý nghĩa với em?
    Phần III: Tập làm văn (6,0 điểm)
    Câu 1 (1,5 điểm).
    Có ý kiến cho rằng: Hi vọng được tìm thấy trong mỗi chúng ta, và nó có
    thể mang ánh sáng vào những nơi tăm tối nhất. Hãy viết một đoạn văn (khoảng
    từ 15 đến 20 câu) trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của hi vọng.
    Câu 2 (4,5 điểm).
    Cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
    “ Ta hát bài ca gọi cá vào,
    Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
    Biển cho ta cá như lòng mẹ
    Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
    5
    Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
    Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
    Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
    Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
    Câu hát căng buồm với gió khơi,
    Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
    Mặt trời đội biển nhô màu mới,
    Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”
    (Trích Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận,
    (Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr.140)
    Từ cảm nhận đó hãy chỉ ra nét độc đáo trong cảm hứng của Huy Cận khi
    sáng tác bài thơ.
    Đề 3: ĐỀ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT TP HỒ CHÍ MINH
    Năm học 2019-2020
    Câu 1 (3 điểm) Em hãy đọc đoạn 2 văn bản sau và thực hiện các yêu cầu dưới:
    Văn bản 1: Gần đây, trên mạng xã hội liên tục xuất hiện các bức ảnh về việc
    làm tình nguyện của giới trẻ được chụp trước và sau khi hoàn thành các hoạt
    động tình nguyện như: xóa “điểm đen” về rác, sơn vẽ nhà mẫu giáo, tu sửa nhà
    tình thương, xây nhà cho người nghèo, kêu gọi không sử dụng đồ nhựa…
    Đây là bức ảnh tham gia cuộc thi “Thách thức để thay đổi” (Cuộc thi do Trung
    ương Đoàn và Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp tổ chức) nhằm lan tỏa
    thông điệp: Giới trẻ cần dấn thân vào các hoạt động tình nguyện để thử thách
    bản thân trước những thách thức của cuộc sống, nhằm thay đổi chính mình và
    6
    thay đổi cuộc đời của nhiều người ( Theo Vũ Thơ- Người trẻ thách thức bản
    thân để thay đổi- Báo Thanh Niên ngày 18/4/2019)
    Văn bản 2: Hãy thách thức bản thân. Thách thức bằng những thách thức không
    ai biết, chỉ có bản thân mình chứng kiến. Ví dụ: Dù ở nơi không có con mắt của
    người đời vẫn sống chính trực, dù những khi chỉ có có một mình vẫn giữ đúng
    luật lệ, phép tắc.
    Và khi đã chiến thắng trong nhiều thử thách, khi thẳng thắn tự mình nhìn lại
    bản thân, và hiểu ra bản thân là người có phẩm hạnh cao, lúc ấy con người sẽ
    có được lòng tự tôn thật sự. Việc này sẽ trao cho ta lòng tự tin mạnh mẽ. Đó
    chính là phần thưởng dành cho bản thân. (Theo Shiratori Haruhiko, Lời của
    Nietzsche cho người trẻ, NXB Thế giới, 2018)
    a. Xác định phép liên kết câu được sử dụng trong đoạn (1) của văn bản 2 (0,5
    điểm)
    b.Dựa vào văn bản 1, hãy cho biết thông điệp mà cuộc thi “Thách thức để thay
    đổi” muốn lan tỏa tới cộng đồng. (0,5 điểm)
    c. Chỉ ra một điểm chung và một điểm khác biệt về nội dung của hai văn bản
    trên. (1,0 điểm)
    d. Theo em, có phải lúc nào việc thách thức bản thân cũng giúp chúng ta thay
    đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn? (Trả lời trong khoảng 3 – 5 dòng) (1,0 điểm)
    Câu 2: (3,0 điểm)
    Câu chuyện của những cái cây
    Có lẽ những cách ứng xử của cây 2, 3, 4 đối với cây 1 cũng là những cách ứng
    xử của một số bạn trẻ đối với một ai đó nổi bật hơn mình. Em hãy viết bài văn
    ngắn (khoảng 01 trang thi) bàn về một trong ba cách ứng xử ấy.
    7
    Câu 3: (4,0 điểm)
    Học sinh được chọn 1 trong 2 đề sau:
    Đề 1:
    Cảm nhận của em về tình cảm mà người cha dành cho con trong tác phẩm Chiếc
    lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Từ đó liên hệ với thực tế cuộc sống
    hoặc với một tác phẩm khác cũng viết về đề tài gia đình để thấy được sức mạnh
    của tình cảm gia đình.
    Đề 2:
    Mỗi bài thơ của chúng ta
    Phải như một ô cửa
    Mở tới tình yêu
    (Trích Liên tưởng tháng Hai, Lưu Quang Vũ)
    Từ những trải nghiệm trong quá trình đọc thơ, hãy viết về một bài thơ hoặc một
    đoạn thơ “như một ô cửa/mở tới tình yêu” trong em.
    Với những dạng đề này đòi hỏi học sinh phải có năng lực đọc hiểu văn bản,
    tư duy logic, khả năng cảm thụ tác phẩm văn học, khả năng sáng tạo, kĩ năng
    làm bài văn nghị luận. Để có thể làm được điều đó trong các giờ học trên lớp,
    người giáo viên phải thực sự rÌn luyÖn bé ãc, rÌn luyÖn ph-¬ng ph¸p suy nghÜ,
    tạo được niềm ham mê, vui thích với môn học, kiến thức sẽ đến với các em một
    cách nhẹ nhàng, tự nhiên, dần dần tạo được kĩ năng làm bài thuần thục.
    Để rèn luyện bộ óc, phương pháp học tập…cho học sinh thì giáo viên
    phải có phương pháp của riêng mình để tạo hứng thú thực sự cho các em. Trong
    khuôn khổ của đề tài này, tôi chú trọng đến một số giải pháp: “Tạo hứng thú
    cho học sinh trong giờ dạy văn lớp 9”
    II MÔ TẢ GIẢI PHÁP :
    1.Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến:
    Thực hiện xây dựng sáng kiến tôi đã tiến hành nghiên cứu, thực nghiệm
    trên cơ sở lí thuyết và thực tế cụ thể như sau:
    1.1.Phƣơng pháp nghiên cứu
    a.Nghiên cứu lí luận
    – Nghiên cứu những thuận lợi, khó khăn, hiệu quả của giáo viên và học
    sinh trong dạy học văn bản
    – Những kiến thức, kĩ năng bộ môn cần cung cấp cho học sinh trong quá
    trình dạy học văn bản
    -Nguồn tư liệu cần khai thác để phục vụ cho quá trình giảng dạy văn bản
    8
    b.Nghiên cứu thực tế
    Điều tra thực tế việc giảng dạy, học tập của giáo viên, học sinh, theo dõi
    chất lượng qua từng đề kiểm tra ở các giai đoạn, chất lượng các kì thi từ đó
    kiểm nghiệm, đôi chứng và tìm ra các phương pháp phù hợp.
    1.2.Nội dung cụ thể của giải pháp
    a. Về phía giáo viên:
    Để tìm hiểu rõ thực tế việc các em có thực sự yêu thích môn học không,
    kết quả bài kiểm tra, bài thi có cao không ở học sinh lớp 9, tôi đã tiến hành trao
    đổi, thảo luận, dự giờ đồng nghiệp ở trường THCS Lê Quý Đôn.
    Qua thực tế điền phiếu khảo sát học sinh, dự giờ đồng nghiệp và chấm bài học
    sinh, tôi nhận thấy bộc lộ những điểm giáo viên, học sinh đã làm, đã đạt được và những
    điểm chưa làm, chưa đạt được như sau:
    *Ưu điểm:
    -Giáo viên nhiệt tình say sưa giảng bài, kiến thức vững vàng, truyền đạt đúng, đủ
    nội dung yêu cầu theo chuẩn kiến thức kĩ năng.
    *Nhược điểm :
    – Giáo viên còn hạn chế trong việc thay đổi phương pháp, chủ yếu dạy học theo
    phương pháp truyền thống: sử dụng phương pháp giảng bình, đọc chép khiến
    học sinh thụ động, không sáng tạo, không linh hoạt xử lí được yêu cầu của đề
    thi.
    – Hiểu biết của giáo viên chưa sâu rộng, chưa có sức thuyết phục với học
    sinh. Giáo viên chỉ chú trọng các văn bản trong sách giáo khoa, chưa có sự liên
    hệ tới các tác phẩm bên ngoài chương trình, chưa liên hệ thực tế cuộc sống, dễ
    gây nhàm chán cho học sinh.
    -Giáo viên cung cấp kiến thức còn mang tính áp đặt nên học sinh khó tiếp thu, gây
    tình trạng ngại học.
    b. Về phía học sinh
    Đầu năm học 2018-2019, 2019-2020 tôi đã tiến hành khảo sát học sinh
    để tìm hiểu về thực trạng các em học sinh lớp 9 có thực sự hứng thú với môn
    văn hay không, kết quả bài kiểm tra có cao không, từ đó nắm bắt thông tin để
    điều chỉnh phương pháp dạy học.
    Nội dung khảo sát: 35 học sinh lớp 9A5 năm học 2018-2019 và 26 học sinh
    lớp 9A4 năm học 2019-2020 điền vào phiếu khảo sát:
    Thái độ học tập môn văn
    9

    Thái độ học
    tập
    Lớp 9A5 năm học 2018-2019Lớp 9A4 năm học 2019-2020
    Hứng thú2 học sinh
    (5.7%)
    2 học sinh
    (7,7%)
    Ít hứng thú10 học sinh
    (28.6%)
    8 học sinh
    (30,8%)
    Không hứng
    thú
    23 học sinh
    (65.7%)
    16 học sinh
    (61.5%)

    – Tiến hành khảo sát đối với học sinh lớp 9A5, 9A4 với đề văn nghị luận văn
    học như sau:
    Nêu cảm nhận của em về về vẻ đẹp của bức tranh mùa xuân qua đoạn thơ sau:
    Ngày xuân con én đưa thoi
    Thiều quang chin chục đã ngoài sáu mươi
    Cỏ non xanh tận chân trời
    Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
    (Truyện Kiều-Nguyễn Du)
    Kết quả khảo sát:

    LớpSố
    HS
    Điểm
    1 – 2
    Điểm
    2,25-4,75
    Điểm
    5 – 6,25
    Điểm
    6,5–7,75
    Điểm
    8-8,75
    Điểm
    9-10
    SL%SL%SL%SL%SL%SL%
    9a53525.71337.11648.526.10000
    9a426001028.51246.1415,40000

    Có thể thấy kết quả đạt được của học sinh còn thấp.
    Từ phiếu khảo sát và bài kiểm tra về đoạn văn nghị luận văn học, có thể nhận
    thấy thực trạng học sinh hiện nay :
    – Học sinh ngày càng không có hứng thú với việc học văn, không chú ý, thiếu
    tập trung vào giờ học, tiết học chưa thực sự sôi nổi. Các em thường uể oải, mệt
    mỏi, nói chuyện riêng trong lớp, mang vở môn khác ra làm, thậm chí là ngủ gục
    trong giờ học. Đối với các em, học văn trở thành một công việc hết sức nặng nề,
    ít hấp dẫn .
    -Học sinh học theo kiểu cũ: Đọc thuộc, sao chép, nói lại cảm nhận của
    thày cô, không có sự sáng tạo trong tiếp cận tác phẩm.
    -Học sinh ít tập trung suy nghĩ, tìm tòi.
    -Thói quen ỷ lại vào sách tham khảo, thày cô.
    10
    – Häc sinh th-êng chó ý ®Õn néi dung cña v¨n b¶n nhiÒu h¬n lµ nghÖ thuËt.
    – C¸ch ®äc v¨n cña häc sinh ch-a thËt sù diÔn c¶m.
    – Kh¶ n¨ng b×nh v¨n cña häc sinh cßn yÕu do vèn tõ cßn h¹n chÕ.
    – Kh¶ n¨ng x¸c ®Þnh néi dung c¬ b¶n cña v¨n b¶n cña häc sinh ch-a tèt.
    – Kh¶ n¨ng ph¸t hiÖn nghÖ thuËt vµ ph©n tÝch c«ng dông cña nghÖ thuËt
    cña häc sinh ch-a cao.
    Từ thực tế trên, bản thân tôi đã suy nghĩ và thực hiện các phương pháp
    dạy học phát huy tính chủ động, tích cực, tạo hứng thú cho học sinh lớp 9 và
    giải quyết những hạn chế còn tồn tại của giáo viên trong thực tế dạy học văn
    bản.
    c. Thế nào là hứng thú trong giờ học văn ?
    -Định hướng đổi mới phương pháp dạy học :
    Luật Giáo dục , điều 24.2 , đã ghi: “biện pháp giáo dục phổ quát phải phát
    huy tính hăng hái, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; ăn nhập với đặc
    điểm của tầng lớp học, môn học; bồi bổ biện pháp tự học, đoàn luyện Năng lực
    áp dụng tri thức vào thực tiễn; tác động đến tính cách, đem lại niềm vui, hứng
    thú Học hỏi cho học sinh”. Có thể nói cốt lõi của cách tân dạy và học là hướng
    tới hoạt động Học hỏi chủ động , chống lại thói quen Học hỏi thụ động.
    -Thế nào là hứng thú trong giờ học văn ?
    Theo Đại từ điển Tiếng Việt –Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin năm
    1998 ,hứng thú có 2 nghĩa :đó là “Biểu hiện của 1 nhu cầu ,làm cho chủ thể tìm
    cách thỏa mãn ,tạo ra khoái cảm ,thích thú và huy động sinh lực để cố gắng thực
    hiện” và “hứng thú là sự ham thích”. Như vậy, hứng thú có nghĩa là một thuộc
    tính tâm lí, thể hiện tâm trạng vui vẻ, hào hứng của con người đối với một hoạt
    động nào đó. Ở đây là hứng thú trong học tập nói chung và trong môn ngữ văn
    nói riêng. M.Gorki từng nói: “Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc”.
    Khi có được sự say mê, thích thú con người sẽ làm việc có hiệu quả hơn, dễ
    thành công và thành công nhanh hơn, bởi lẽ hứng thú chính là động lực thúc đẩy
    hoạt động của con người đi sâu vào bản chất của đối tượng nhận thức mà không
    dừng lại ở bề ngoài của hiện tượng. Nó đòi hỏi con người phải hoạt động tích
    cực, chịu khó tìm tòi hoặc sáng tạo. Hứng thú có nhiều tác dụng trong cuộc sống
    nói chung và trong dạy học nói riêng.
    Luận ngữ có câu: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà
    học không bằng say mà học”. Yếu tố cảm xúc, say mê chính là động lực lớn
    thúc đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của mỗi chúng ta.
    Với vai trò là người tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của học
    11
    sinh, hơn ai hết giáo viên phải tìm, xây dựng hướng tiếp cận mới, phương pháp
    mới để phát tính tích cực sáng tạo của người học, tạo hứng thú, hưng phấn, khơi
    dậy đam mê học tập ở học sinh.
    -Tác động của hứng thú trong dạy học văn:
    Theo William A Ward: “Người thầy bình thường chỉ biết nói, người thầy
    giỏi biết cách giải thích, người thầy xuất chúng biết minh họa, người thầy vĩ đại
    biết cách truyền cảm hứng”. Như vậy, việc truyền cảm hứng cho học sinh trong
    giờ học là vô cùng cần thiết. Nó sẽ giúp cho học sinh có được hứng thú, niềm
    say mê đối với môn học, tiếp nhận tri thức một cách tự giác, chủ động, sáng tạo,
    kết quả học tập tốt. “Hứng thú, ham mê học tập là một trong những nguồn gốc
    chủ yếu nhất của việc học tập có kết quả cao, là con đường dẫn đến sáng tạo và
    tài năng.”(Viện KHGD – “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”). Khi có hứng
    thú với môn học, các em sẽ tạo ra không khí học tập sôi nổi, sự thi đua tìm tòi,
    sáng tạo giữa các thành viên trong lớp, thúc đẩy kết quả học tập của cả tập thể .
    -Biểu hiện của người học sinh có hứng thú học tập là:
    +Chủ động nghiên cứu bài học qua sách giáo khoa, sách tham khảo, mạng
    xã hội.
    +Trong giờ học trên lớp, tập trung nghe giảng, hăng hái phát biểu ý kiến.
    +Đặt ra những vấn đề thắc mắc của bản thân về nội dung bài học, yêu cầu
    giáo viên giải thích.
    +Hoàn thành các bài tập được giao.
    +Chủ động vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.
    +Suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo ra những cách giải mới .
    -Tính tích cực trong học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao:
    +Bắt chước: Làm theo mẫu của thầy ,của bạn.
    +Tìm tòi: Suy nghĩ độc lập, tìm ra cách giải quyết khác nhau về một vấn
    đề…
    +Sáng tạo: Tìm ra cách giải quyết mới hiệu quả.
    d. Suy nghÜ vÒ c¸ch d¹y- häc v¨n b¶n.
    Tr-íc kia d¹y v¨n ®-îc hiÓu lµ “ gi¶ng v¨n”, cßn ngày nay d¹y v¨n theo
    h-íng “§äc-hiÓu v¨n b¶n”. Vậy gi÷a gi¶ng v¨n và d¹y ®äc-hiÓu khác nhau như
    thế nào?

    Gi¶ng v¨n§äc -hiÓu v¨n b¶n
    – Nghiªng vÒ c«ng viÖc cña thÇy
    – ThÇy nãi c¸i hay mµ thÇy c¶m nhËn
    – Tæ chøc cho trß thùc hiÖn
    – Trß tù kh¸m ph¸ ra c¸i hay, c¸i ®Ñp

    12

    ®-îc cho häc sinh nghe
    – Nghiªng vÒ khai th¸c néi dung, t
    t-ëng cña v¨n b¶n.
    – Ít chó ý ®Õn ng«n tõ vµ c¸c h×nh thøc
    nghÖ thuËt cô thÓ
    – Chưa trang bị ph-¬ng ph¸p ®äc-hiÓu
    c¸c t¸c phÈm cïng lo¹i.
    cña v¨n b¶n theo ý m×nh.
    – TËp trung khai th¸c vÎ ®Ñp néi dung
    qua h×nh thøc v¨n b¶n.
    – B¸m s¸t c©u ch÷ cña v¨n b¶n ®Ó chØ
    ra néi dung, t- t-ëng.
    – Cã ph-¬ng ph¸p ®äc-hiÓu c¸c t¸c
    phÈm cïng lo¹i.

    Cè thñ t-íng Ph¹m V¨n §ång ®· nãi: “ D¹y v¨n lµ qu¸ tr×nh rÌn luyÖn
    toµn diÖn”. Nh- vËy, d¹y v¨n theo yªu cÇu ®æi míi hiÖn nay cÇn tíi sù nç lùc
    cña c¶ thÇy vµ trß th× tiÕt d¹y v¨n míi cã hiÖu qu¶.
    2.Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
    2.1.Tạo cơ hội để học sinh đƣợc trau dồi vốn từ, rèn luyện kĩ năng
    sống trong môi trƣờng văn học:
    2.1.1.Kích thích vào lòng ham đọc sách của học sinh :
    Đây là cách để học sinh có vốn từ, vốn hiểu biết phong phú, học được
    cách diễn đạt hay, từ đó phát huy khả năng sáng tạo :
    +Giáo viên phải cho học sinh hiểu được giá trị của sách và tác dụng của
    việc đọc sách thông qua những buổi nói chuyện về văn hóa đọc, tổ chức cuộc
    thi giới thiệu sách, kể chuyện theo sách, tích cực liên hệ với thư viện sách di
    động của huyện, tỉnh về trường để các em có cơ hội được đọc thêm nhiều sách
    mới, sách hay, tạo tủ sách lớp học, mỗi tuần trong giờ sinh hoạt cô đọc cho học
    sinh nghe một câu chuyện hoặc bài thơ hoặc một thông tin có tính chất thời sự,
    khuyến khích mỗi bạn kể chuyện, đọc thơ mà mình sưu tầm được, giáo viên
    cung cấp những câu danh ngôn, châm ngôn nói về vai trò của sách .Ví dụ như:
    _“Hãy yêu sách! Nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con
    đường sống.”(Go-rơ-ki)
    – Thích đọc sách tức là biết đánh đổi những giờ phút buồn tẻ không thể
    tránh được trong cuộc đời lấy những giờ phút lý thú. (Môngtexkiơ)
    – Cần phải yêu mến và tin vào sách. Cần rèn luyện cho mình thói quen
    thực hành và kỹ năng dùng sách để làm việc. (N. Rubakin)
    – Sách vở đầy bốn vách
    Có mấy cũng không vừa (Nguyễn Du)
    – Sách giúp cho ta làm việc tốt hơn, hiểu được con người trên những nẻo
    đường xa xôi nhất và tối tăm nhất của cuộc đời (A. Upit)
    13
    – Chỉ có thái độ coi sách là báu vật tinh thần quan trọng nhất và vĩnh cửu
    mới tạo nên thái độ coi trường học là cái nôi của dân tộc. (Xukhômlinxki)
    – Đọc được nhiều sách tốt nhưng nếu không đem áp dụng vào thực tiễn
    cuộc sống thì chẳng khác nào “cái hòm đựng sách”. (Hồ Chí Minh)
    – Đọc muôn quyển sách, đi muôn dặm đường. (Thành ngữ)
    – Sách làm cho con người trở thành chủ nhân vũ trụ. (P.Paplenko)
    – Bạn hãy học cách tôn trọng sách. Bạn hãy nhớ rằng sách là do con
    người tạo ra, vì vậy bạn tôn trọng sách cũng chính là bạn tôn trọng con người.
    (G.H.Taxteven)
    – Đọc sách nên đọc bản văn cho kỹ, nhấm từng chữ một mới thấy thú vị,
    thấy chỗ nào không hiểu thấu được thì nghĩ cho kỹ, nghĩ không ra mới xem chú
    giải, như thế mới có ý vị. (Lê Quý Đôn)
    – Một cuốn sách tốt mở ra thì gợi niềm hy vọng, khép lại thì đem đến
    điều hữu ích (M.Ancôt)
    Học sinh trường THCS Lê Quý Đôn trong ngày hội đọc sách
    +Hướng dẫn học sinh lựa chọn sách có liên quan đến tác phẩm văn học có
    trong chương trình ngữ văn 9 và các loại sách phù hợp với lứa tuổi, các tác
    phẩm văn học kinh điển của thế giới . Ví dụ các em có thể tìm đọc thêm toàn bộ
    tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, các cuốn sách nghiên cứu về Truyện
    Kiều, tập truyện truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, tập thơ của Chính Hữu,
    Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Bằng Việt.,cuốn nhật kí “Mãi mãi tuổi hai
    mươi” của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, Nhật kí Đặng Thùy Trâm., những cuốn phê
    bình về các tác phẩm trong chương trình, các tác phẩm văn học kinh điển của
    thế giới như “Những người khốn khổ” của Vichto Huy-go, tập thơ Dâng của Tago, “Tiếng gọi nơi hoang dã” của G.Lân-đơn…những tác phẩm văn học phù
    14
    hợp với lứa tuổi bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm: Tôt-tô-chan cô bé bên cửa sổ,
    Hạt giống tâm hồn, truyện ngắn của Nguyễn Nhật Ánh…
    2.1.2. Rèn kỹ năng ghi chép :
    Đúng như Lê Quý Đôn đã từng viết: “Đọc sách mà tìm được một ý hay
    cũng như được một thuyền hạt ngọc .” Đọc những tác phẩm văn học hay có
    được rất nhiều thuyền hạt ngọc như thế- những hạt ngọc không bán được cho ai
    nhưng chính vì vậy mà không bao giờ lo bị mất, cứ tỏa sáng mãi trong lòng.Vì
    thế giáo viên phải hướng dẫn các em biết cách ghi chép vào sổ tay văn học. Đó
    là tư liệu vô cùng quý giá đối với học sinh trong quá trình tiếp cận và cảm thụ
    tác phẩm.
    – Đọc sách phải biết chọn sách có giá trị, khi đọc phải biết chọn ý hay,
    câu thơ, câu văn hay.
    -Tóm tắt được các câu chuyện, chép những đoạn văn miêu tả, biểu cảm,
    nghị luận hay trong truyện., từ đó nêu được ý nghĩa, tư tưởng chủ đề của tác
    phẩm.
    -Sưu tầm những câu danh ngôn, châm ngôn (về thơ, vai trò của người
    nghệ sĩ, tình yêu quê hương, đất nước, tình bạn, tình thày trò….), những cách
    mở bài, kết bài hay.
    2.1.3. Tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa:
    Để tăng khả năng cảm thụ, khơi gợi cảm xúc, tăng khả năng kết nối với
    bạn bè, với thiên nhiên, việc tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa là điều kiện
    để các em được bộc lộ tư tưởng, tình cảm của mình, bồi dưỡng tình yêu đối với
    môn văn. Có thể tổ chức các hoạt động sau:
    +Phát động phong trào viết về ý nghĩa khăn quàng đỏ, lòng biết ơn với Bác…
    +Biểu diễn văn nghệ : Thi kể chuyện cổ tích, diễn kịch, thi kể chuyện
    theo sách, giới thiệu sách.
    + Tổ chức cuộc thi sáng tác thơ về thầy cô, mái trường, về văn học dân
    gian, về hình tượng người lính…
    +Dịch tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh.
    +Lẩy Kiều, bói Kiều, ngâm Kiều, đố Kiều :
    Ví dụ : Dưới đây là hình thức đố Kiều trong hát phường vải ở xứ Nghệ:

    Câu hát đố 1:Truyện Kiều anh đã thuộc làu
    Đố anh kể được một câu năm “còn”?
    Câu hát trả lời 1 :Còn non, còn nước, còn người
    Còn về còn nhớ đến người hôm nay.
    Câu hát đố 2:Truyện Kiều anh đã thuộc làu

    15
    Chỗ nào tơ liễu mà không buông mành?

    Câu hát trả lời 2:Dưới cầu nước chảy trong veo
    Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha

    Dựa vào hình thức giải đáp trên, em hãy tìm câu trả lời cho các câu đố dưới đây:
    +Nghe đồn anh thuộc Kiều làu
    Đố anh đọc được một câu hết Kiều
    + Truyện Kiều anh đọc đã làu
    Đố anh biết được người nào sinh đôi
    + Tổ chức các chuyến đi trải nghiệm những di tích lịch sử, văn hóa, danh
    lam thắng cảnh, làng nghề truyền thống ở địa phương và ngoài địa phương tùy
    vào tình hình thực tế :Thờ Mẫu tam phủ ( Vụ Bản), tượng đài Trần Hưng Đạo,
    đền Trần ( TP Nam Định), Làng nghề đúc đồng , làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ, mộ
    cụ Nguyễn Khuyến (Ý Yên), làng văn hóa 54 dân tộc, K9 Đá Chông, Lăng Bác,
    làng gốm Bát Tràng….
    Cô và trò lớp 9A5 trong chuyến trải nghiệm ở Côn Sơn- Kiếp Bạc
    -Khuyến khích các em sáng tác thơ, văn, làm cộng tác viên cho các tờ
    báo: Thiếu niên, Văn học tuổi thơ, Văn học tuổi trẻ…
    -Phát động phong trào học tập tốt, làm việc tốt, giúp đỡ học sinh có hoàn
    cảnh khó khăn, vùng bão lũ, người nghèo, cử học sinh thay nhau đến nhà giúp
    đỡ các gia đình thương binh, bà mẹ việt Nam anh hùng ở quanh khu vực trường
    học vào thời gian các em được nghỉ học, để bồi dưỡng tình yêu thương, sự cảm
    thông, chia sẻ, tự hào, biết ơn…
    16
    Học sinh Trường THCS Lê Quý Đôn quyên góp tiền, sách vở, quần áo cho học
    sinh nghèo tỉnh Hà Giang
    -Tổ chức chăm sóc cây xanh hàng ngày, các buổi lao động vệ sinh môi
    trường để các em có tình yêu đối với thiên nhiên, có ý thức bảo vệ môi trường .
    Những buổi vệ sinh trong và ngoài sân trường của học sinh trường THCS
    Lê Quý Đôn
    – Nhân ngày 20/11 tổ chức thi báo tường, các hoạt động thể thao như kéo
    co, nhảy bao bố, tiếp sức….để thể hiện lòng biết ơn với thày cô, tăng khả năng
    kết nối với bạn bè, giữ gìn trò chơi dân gian.
    -Lễ hội Halowin tổ chức hàng năm để học sinh mở rộng hiểu biết về văn
    hóa nước ngoài.
    17
    Lễ hội Halowin của cô và trò Trường THCS Lê Quý Đôn năm 2019
    -Trong dịch covid-19 các em được nghỉ, giáo viên tuyên truyền phòng
    chống dịch đến học sinh, phụ huynh, dạy online …thực hiện chủ trương của
    Tỉnh: “Dừng đi học nhưng không ngừng học” để các em thấy việc học là không
    ngừng. Cho học sinh viết các bài về tinh thần dân tộc trong mùa dịch, cây ATM
    gạo, sức mạnh của tình yêu thương,tinh thần tương thân tương ái, truyền thống
    đoàn kết…
    Bảng tin của nhà trường tuyên truyền về dịch bệnh covid-19
    -Hàng tuần trong giờ chào cờ ,các lớp biểu diễn các chương trình văn
    nghệ theo chủ đề tháng : Tháng 9: Mái trường, tháng 10: Mẹ, tháng 11: Thày
    cô, Tháng 12: Bộ đội, Tháng 1: Mùa xuân, tháng 2:Mùa xuân- Đảng, tháng 3:
    Mẹ, cô giáo, tháng 4: Quê hương đất nước, tháng 5: Bác Hồ với các hình thức
    phong phú: hát ,nhảy, múa, đọc thơ, kể chuyện …
    -Tổ chức các cuộc thi kể chuyện theo sách, kể chuyện về Bác Hồ…
    18
    Các hoạt động ngoại khóa này sẽ giúp các em bồi dưỡng tình cảm, tăng
    khả năng kết nối, có được sân chơi bổ ích, giúp việc cảm nhận cuộc sống trở
    nên tinh tế, nhạy bén hơn vốn sống phong phú, từ đó các em sẽ cảm thụ văn và
    viết văn tốt hơn.
    2.2.Trang bị kiến thức cơ bản về lí luận văn học và văn học sử:
    2.2.1. Lí luận văn học
    a.Văn học là gì?
    Văn học là bộ môn nghệ thuật lấy con người làm đối tượng nhận thức
    trung tâm, lấy hình thượng làm phương tiện biểu đạt nội dung, lấy ngôn từ làm
    chất liệu xây dựng hình tượng.
    b. Đặc trƣng cơ bản của văn học
    -Đặc trưng về đối tượng phản ánh: Đối tượng phản ánh của văn học là
    toàn bộ vấn đề đời sống vật chất và tinh thần của con người. Đặc trưng cơ bản
    của đối tượng phản ánh là toàn bộ sự sống của con nguời như tư tưởng, tình
    cảm, đạo đức của con người.
    -Đặc trưng về nội dung phản ánh của văn học: Nội dung phản ánh của
    văn học là đối tượng đã được ý thức, tái hiện có chọn lọc và khái quát trong tác
    phẩm và biểu hiện trong tác phẩm như là một tư tưởng về đời sống hiên thực.
    Đặc điểm quan trọng của nội dung văn học là khát vọng tha thiết của nhà văn
    muốn thể hiện một quan niệm về chân lí của đời sống..
    -Đặc trưng về phương tiện phản ánh của văn học : Ngôn ngữ chọn lọc,
    được sáng tạo phải có tính chính xác, điêu luyện,tính hàm súc,đa nghĩa, tính
    hình tượng và mang dấu ấn cá nhân của mỗi nhà văn
    c.Chức năng của văn học
    -Chức năng nhận thức: Chức năng nhận thức thể hiện ở vai trò phản ánh
    hiện thực của văn học. Nó có thể đem đến cho người đọc một thế giới tri thức
    mênh mông về đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân loại từ xưa đến
    nay; về vẻ đẹp thiên nhiên ở nước mình và trên khắp thế giới. Mặt khác, văn
    học còn giúp con người nhận thức về bản thân mình.
    -Chức năng giáo dục: Văn học nuôi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm
    của con người. Văn học luyện cho người đọc thói quen cảm thụ tinh tế, mài sắc
    khả năng nhận ra cái thật, cái giả, cái thiện, cái ác trong cuộc sống.Văn học
    nâng đỡ cho nhân cách, giúp hình thành nhân cách, giáo dục con người tình cảm
    đúng đắn, trong sáng, biết yêu cái tốt, ghét cái xấu, dám xả thân vì nghĩa và biết
    sống đúng đạo lí làm người. Mặt khác, văn học giúp con người tự giáo đục, tự
    hoàn thiện để sống tốt đẹp hơn, hữu ích hơn cho xã hội.
    19
    -Chức năng thẩm mĩ: Văn học mang lại sự hưởng thụ lành mạnh, bổ ích
    cho tâm hồn. Văn học còn làm thỏa mãn thị hiếu thẩm mĩ của người đọc bằng
    vẻ đẹp ngôn từ, vần điệu, bằng kết cấu khéo léo, lôi cuốn của từng tác phẩm. Nó
    làm cho tâm hồn chúng ta rung động trước những hình tượng nhân vật điển
    hình, trước cách cảm, cách nghĩ của nhà văn về con người và cuộc đời.
    d. Một số khái niệm đƣợc sử dụng phổ biến trong văn học:
    -Tác phẩm văn học:
    Tác phẩm văn học là một văn bản ngôn từ tái hiện bức tranh sinh động về
    cuộc sống con người qua đó gửi gắm thái độ tình cảm của nhà văn . Tác phẩm
    văn học không chỉ là kết quả sáng tạo của nhà văn, mà còn là đối tượng tiếp
    nhận của người đọc, đối tượng khảo sát của nghiên cứu văn học.
    -Đề tài: dùng để chỉ hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp
    trong sáng tác văn học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác
    phẩm.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Giải pháp giúp học sinh nắm chắc kiến thức văn thuyết minh thông qua thực hành

    SKKN Giải pháp giúp học sinh nắm chắc kiến thức văn thuyết minh thông qua thực hành

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Thứ nhất: Đất nƣớc ta đang bƣớc vào giai đoạn thứ hai của quá trình Công
    nghiệp hoá- hiện đại hoá với mục tiêu phấn đấu là đến năm 2020, nƣớc ta sẽ trở
    thành một nƣớc Công nghiệp. Để theo kịp xu thế chung của thế giới, chúng ta
    đã và đang chú trọng đầu tƣ cho giáo dục với mục tiêu là: “Đào tạo con người
    Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề
    nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành
    và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
    của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(điều 2 chƣơng I-Luật giáo dục).
    Nghị quyết trung ƣơng II , khoa VIII của Đả ng có xác điṇ h : “Muc tiêu cơ bản
    của giáo duc là nhăm xây dựng nhưng con người mới và thê hệ thiêt tha găn bó
    vớ i lí tưởng dân tôc̣ và chủ nghiã xã hôị , có đạo đức trong sáng , có y chí kiên
    cườ ng, xây dưṇ g và bảo vê ̣ Tổ Quốc, công nghiêp̣ hó a hiêṇ đaị hó a đất nướ c…
    làm chủ tri thức khoa hoc và công nghệ hiện đại , có tư duy sáng tạo, có kĩ năng
    thưc̣ hà nh giỏi, có tác phong công nghiệp …”.
    Nhƣ vâỵ , mục tiêu của giáo dục noi chung và của nhà trƣơng phô thông
    noi riêng là gop phần vào đào tạo nên nhưng con ngƣơi toàn diện gioi cả ly
    thuyết lâñ thƣc̣ hành , biết áp dụng nhưng kiến thức sách vở vào thực tiễn đơi
    sống để đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp hoa, hiêṇ đaị hóa của đất nƣớ c.
    Thứ hai: Thế nhƣng chƣơng trình giáo dục trƣớc đây năṇ g tính chất
    kinh điển, thoát ly đơi sống thực tế . Học sinh gioi về ly thuyết nhƣng lại yếu về
    thƣc̣ hành. Không chỉ thế, các em con hầu nh ƣ chƣa có khả năng tƣ̣ trình bày rõ
    ràng, mạch lạc một phƣơng pháp, môṭ cách làm về sản phẩm mình làm ra; co em
    lại chƣa biết tự giới thiệu về nhưng đăc trƣng tiêu biểu nhất của quê hƣơng mình
    … Để khăc phục tình trạng đo, Bô ̣Giáo Dục đã thực hiện theo tinh thần hiện đại
    hoa nội dung chƣơng trình, hƣớ ng tớ i thƣc̣ tiêñ đờ i sống, giảm bớt hàn lâm, tăng
    cƣờ ng thƣc̣ hành nói và viết cho hoc̣ sinh , SGK Ngƣ̃ Văn 8 đã đƣa vào giảng
    dạy ở phần tập làm văn thể loaị “ Văn thuyết minh” vớ i mong muốn bƣớ c đầu
    các em co năng lực giới thiệu khách quan , mạch lạc về đối tƣơng nào đo . Văn
    bản thuyết minh là kiểu văn bản lần đầu tiên đƣơc đƣa vào chƣơng
    trình Tâ
    p̣ Làm Văn mới. Đây là loaị văn bản thông duṇ g, co phaṃ vi sƣ̉ duṇ g rất
    phô biến trong đờ i sống . Chinh vì vậy , có thể noi đây là kiểu văn bản
    2
    mới, chƣa co trong chƣơng trình và sách giáo khoa Tâp̣ làm văn trƣ ớc đây đối
    với giáo viên. Mới là so với chƣơng trình và sách giáo khoa chứ không mới so
    với yêu cầu thƣc̣ tế của đờ i sống.
    Vâỵ nên đ ể giúp h ọc sinh vận dụng tốt kiến thức văn thuyết minh vào
    thực tiễn là việc hết sức cần thiết.
    Thứ 3: Luâṇ ngƣ̃ viết: “Biêt mà hoc không băng thích mà hoc, thích mà
    hoc
    không băng say mà hoc”. Vâỵ ni ềm yêu thích say mê chính là đôṇ g lƣc̣ thúc
    đẩy, nuôi dƣỡng sƣ̣ cố g ắng, nỗ lƣc̣ học tâp̣ không ngƣ̀ ng c ủa mỗi ngƣờ i. Thế
    nhƣng, đã từ lâu môn Ngư văn vốn đƣơc măc định là môn học thuộc, ít tính vận
    dụng và rất nhàm chán với học trò. Học sinh học văn thụ động, thiếu hứng thú,
    thiếu say mê, sáng tạo…
    Vì thế với vai trò tô chức, hƣớng dẫn quá trình học tâp̣ của học sinh, hơn
    ai hết việc tìm ra nhiều biện pháp để phát huy cao nhất tính tích cƣc̣ sáng taọ của
    ngƣờ i học, gây niềm hứng thú say mê h ọc tâp̣ để các em co nhƣ̃ng tiết học thực
    sự bô ích, lý thú chinh là nhi ệm vu ̣quan tr ọng đối v ới mỗi giáo viên. Mà một
    trong nhưng cách khiến các em yêu thích và ghi nhớ kiến thức lâu hơn là vận
    dụng thực tiễn, học lí thuyết gắn với thực hành.
    Thứ tƣ: Chƣơng trình học hiện tại khiến học sinh còn rất ít thì giơ để
    có thể tự học hoăc tìm tòi ứng dụng kiến thức đƣơc học. Năm 2020, thế giới nói
    chung, Việt Nam nói riêng phải đối măt với dịch COVID- 19. Tất cả mọi lĩnh
    vực đơi sống xã hội đều bị ảnh hƣởng năng nề và giáo dục cũng không ngoại lệ.
    Để thực hiện tốt việc phòng chống đại dịch, học sinh cả nƣớc đã phải nghỉ học
    trong một thơi gian dài, chƣơng trình học bị gián đoạn. Nhƣng đây cũng là
    khoảng thơi gian quy giá để học sinh có thể tự học tập, nghiên cứu ở nhà, ứng
    dụng nhưng kiến thức sách vở đã đƣơc học vào thực tiễn đơi sống.
    Tận dụng cơ hội này, giáo viên với vai tro ngƣơi hƣớng dẫn, tô chức có thể
    gơi ý, yêu cầu học sinh thực hành nhưng kiến thức lý thuyết đã học vào thực tế,
    vừa tạo ra nhưng sản phẩm hưu ích cho cuộc sống, vừa khắc sâu kiến thức sách
    vở, đồng thơi thêm yêu thích say mê bộ môn khi thấy đƣơc tính ứng dụng của
    nó.
     Từ nhưng hoàn cảnh, điều kiện ấy, tôi đã mạnh dạn hƣớng dẫn học
    sinh ứng dụng một đơn vị kiến thức ly thuyết phần Văn thuyết minh lớp 8 vào
    3
    thực hành để giúp các em vừa nắm chắc kiến thức, vừa co hứng thú với phân
    môn làm văn và đã nhận đƣơc hiệu quả nhƣ mong muốn.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP.
    1. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƢỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN:
    1.1. Vai trò của phân môn Làm văn:
    Môn Ngƣ̃ văn 8 trong chƣơng trình THCS noi riêng và trong nhà trƣờ ng
    noi chung co nhiệm vu ̣cung cấp cho học sinh 4 kĩ năng đo là: “nghe – nói – đọc
    viết”. Trong đo, phân môn Tâp̣ làm văn là phân môn co tính chất tích hơp các
    phân môn khác. Qua tiết Tâp̣ làm văn , học sinh co khả năng xây dƣṇ g môṭ văn
    bản, đo là bài noi , bài viết. Noi và viết là nhƣ̃ng hình thức giao tiếp rất quan
    trọng, thông qua đo con ngƣờ i thƣc̣ hiện quá trình tƣ duy – chiếm liñ h tri thức ,
    trao đôi tƣ tƣở ng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi ngƣơi hiểu nhau , cùng hơp tác
    trong cuôc̣ sống lao đôṇ g . Ngôn ngƣ̃ (dƣới daṇ g noi – ngôn bản, và dƣới daṇ g
    viết – văn bản) giƣ̃ vai tro quan trọng trong sƣ̣ tồn taị và phát triển xã hôị . Chinh
    vì vâỵ , hƣớng dẫn cho học sinh noi đúng đăc biệt viết đúng kiểu bài, dạng đề bài
    yêu cầu là hết sức cần thiết . Nhiệm vu ̣năng nề đo phu ̣thuôc̣ phần lớn vào việc
    giảng daỵ môn Ngƣ̃ văn noi chung và phân môn Tâp̣ làm văn noi riêng.
    Thƣc̣ tế việc giảng daỵ trong nhà trƣờ ng đăc biệt môn Ngƣ̃ Văn thƣờ ng
    giúp học sinh gioi về ly thuyết (co kiến thức) nhƣng laị yếu về thƣc̣ hành (chƣa
    biết cách viết tốt môṭ bài văn ); không biết cách ứng dụng nhưng kiến thức ly
    thuyết làm văn đƣơc học vào thực tế cuộc sống. Không chỉ thế, co trƣờ ng hơp
    học sinh chƣa co khả năng viết đúng kiểu bài , hoăc khi viết trình bày chƣa rõ
    ràng, mạch lạc…
    1. 2. Đặc điểm cơ bản và vai trò của kiểu bài thuyết minh:
    – Đăc điểm của kiểu bài thuyết minh trình bày tinh chất, cấu tạo, cách dùng
    cùng lí do phát sinh, quy luật phát triển biến hoá của sự vật, hiện tƣơng nhằm
    cung cấp tri thức cho con ngƣơi. Vì vậy văn bản thuyết minh sử dụng rất rộng
    rãi (hƣớng dẫn sử dụng phƣơng tiện, đồ dùng, danh lam thắng cảnh, tác phẩm
    nghệ thuật…) tất cả đều là văn bản thuyết minh. Hai chư thuyết minh đều bao
    hàm cả y giải thich, trình bày, giới thiệu cho ngƣơi đọc, ngƣơi nghe hiểu rõ.
    Khác với văn bản nghị luận, tự sự, miêu tả, biểu cảm, hành chinh, văn thuyết
    minh chủ yếu trình bày tri thức một cách khách quan khoa học, giúp con ngƣơi
    hiểu đƣơc đăc trƣng, tinh chất của sự vật, hiện tƣơng và biết cách sử dụng chúng
    4
    vào mục đich giao tiếp co lơi cho con ngƣơi. Văn thuyết minh gắn liền với tƣ
    duy khoa học, no đoi hoi phải chinh xác, rạch roi. Muốn làm đƣơc văn thuyết
    minh phải tiến hành điều tra, nghiên cứu học hoi để co kiến thức thì mới làm
    đƣơc. Thuyết minh là loại văn bản khác hẳn với tự sự(vì không co sự việc, diễn
    biến) khác với miêu tả (vì không đoi hoi miêu tả cụ thể cho ngƣơi đọc cảm thấy,
    mà cốt là làm ngƣơi ta hiểu), khác với các văn bản nghị luận (vì ở đây chinh là
    trình bày giải thich nguyên li, quy luật, cách thức…chứ không suy luận li lẽ)
    khác với văn bản hành chinh công vụ (bày to quyết định, nguyện vọng, thông
    báo của ai đối với ai). Nghĩa là các văn bản ấy không thay thế văn bản thuyết
    minh đƣơc. Đối với bài văn thuyết minh là phải co tri thức về đối tƣơng cần
    thuyết minh, không co tri thức không thể làm văn thuyết minh đƣơc.Tri thức lấy
    từ học tập, tich luỹ hàng ngày, từ sách báo và đăc biệt là từ tìm hiểu của mỗi
    ngƣơi. Noi kiến thức về đối tƣơng nghĩa là phải hiểu biết về đối tƣơng thuyết
    minh(sự vật, hiện tƣơng, phƣơng pháp) là cái gì? Đăc điểm tiêu biểu gì? Co cấu
    tạo ra sao và no hình thành nhƣ thế nào? Co giá trị và y nghĩa gì đối với con
    ngƣơi?…), nghĩa là muốn làm đƣơc bài thuyết minh thì học sinh phải nắm đƣơc
    bản chất, đăc trƣng của sự vật, hiện tƣơng. Muốn co tri thức về đối tƣơng phải
    quan sát, nhƣng quan sát không đơn giản là nhìn, xem mà con phải phán xét để
    phát hiện đƣơc đăc điểm tiêu biểu của no là đăc điểm co y nghĩa phân biệt sự vật
    này với sự vật kia. Muốn co tri thức về đối tƣơng phải biết tra từ điển, sách,
    báo…
    – Văn bản Thuyết minh đƣơc sƣ̉ duṇ g hết sức rôṇ g rãi . Mua môṭ thứ đồ
    dùng sinh hoaṭ (ti vi, máy giăt, quạt điện, xe máy…) đều phải kèm theo nhƣ̃ng
    thuyết minh về tính năng , cấu taọ , cách sƣ̉ duṇ g , bảo quản để ngƣờ i sƣ̉ duṇ g
    nắm vƣ̃ng; mua môṭ loaị thƣc̣ phẩm (hôp̣ bánh, thùng sƣ̃a…) trên đo cũng co ghi
    xuất xứ, thành phần, ngày sản xuất , hạn sử dụng , trọng lƣơng… Ra ngoài phố
    găp các biển quảng cáo giới thiệu sản phẩm ; cầm quyển sách bìa sau co thể co
    lờ i giới thiệu tác giả , tom tắt nôị dung ; trƣớc môṭ danh lam thắng cảnh co bảng
    ghi lờ i giới thiệu, lai lịch, sơ đồ… Trong sách giáo khoa, có bài trình bày môṭ sƣ̣
    kiện lịch sƣ̉ , tiểu sƣ̉ môṭ nhà văn , tác phẩm đƣơc trích, môṭ thí nghiệm… Tất cả
    đều là các daṇ g văn bản thuyết minh . Loại văn bản này đƣơc dùng nhiều trong
    văn bản giáo khoa, khoa học, nhâṭ duṇ g.
    5
    Xuất phát từ tình hình thực tế của việc giảng dạy kiểu văn bản thuyết
    minh trong nhà trƣơng THCS con quá mới mẻ, nên việc khảo sát thực tế rút kinh
    nghiệm co y nghĩa hết sức quan trọng đối với việc dạy và học kiểu văn bản này.
    Qua đo gop phần nâng cao hiệu quả dạy và học Tập làm văn noi chung và kiểu
    văn bản thuyết minh noi riêng.
    1. 3. Quan niệm của các thầy, cô và học sinh khi dạy kiểu văn bản này:
    Là kiểu văn bản mới, vừa đƣơc đƣa vào chƣơng trình thay sách, chinh vì thế mà
    khi dạy kiểu văn bản này cả giáo viên và học sinh đều co nhưng quan niệm và
    thái độ khác nhau. Tuy nhiên, dù ở goc độ nào, chúng ta cũng nhận thấy:
    Ƣu điểm: Kiểu văn bản này gắn bo với đơi sống xã hội và con ngƣơi. Ở
    Trung Quốc học sinh đã đƣơc học từ rất lâu và học sử dụng kiểu văn bản này
    trong mọi lĩnh vực đơi sống. Con ở Việt Nam, cũng đã sử dụng nhiều nhƣng
    chƣa gọi tên quen thuộc với cái tên vốn co của no. Nhận thấy khả năng ứng
    dụng của kiểu văn này là rất lớn, do đo no đƣơc đƣa vào chƣơng trình ngư văn
    để phát huy sức mạnh và tinh ƣu việt của no trong cuộc sống hiện đại này. Vốn
    tri thức hiểu biết khá rộng, giáo viên co khả năng cung cấp một cách đầy đủ co
    hệ thống cho học sinh. Măt khác trong quá trình giảng dạy giáo viên tich luỹ cho
    mình một vốn kiến thức sâu rộng khác.
    Hạn chế: Kiểu văn bản này đoi hoi vốn tri thức của học sinh về đối tƣơng
    khác nhau, với nhiều tri thức khác học sinh chƣa kịp tiếp cận, hoăc chƣa đƣơc
    biết đến hoăc it quan tâm dẫn đến không co đủ tri thức để viết bài
    1. 4. Những tồn tại trong việc dạy và học văn thuyết minh hiện nay:
    1.4.1. Thực trạng việc dạy phần Văn thuyết minh trong nhà trƣờng
    hiện nay:
    – Vì là kiểu văn bản đoi hoi tri thức khách quan, chinh xác về đối tƣơng
    nên giáo viên thƣơng làm thay học sinh ở khâu quan trọng là hình thành kiến
    thức về đối tƣơng cần thuyết minh thay vì để học sinh tự quan sát, phân tich, sƣu
    tầm. Điều này xuất phát từ suy nghĩ lo sơ học sinh không đủ khả năng sƣu tầm
    và hình thành kiến thức về đối tƣơng.
    – Phƣơng pháp dạy học chủ yếu vẫn là nhưng phƣơng pháp truyền thống
    nhƣ đọc- chép thụ động chứ không phải học sinh đƣơc quan sát, tìm hiểu trực
    tiếp hoăc gián tiếp( thông qua kênh hình ảnh từ máy chiếu, ti vi…)về đối tƣơng.
    6
    + Vi dụ khi dạy dạng bài thuyết minh về danh lam thắng cảnh, thay vì học
    sinh đƣơc tham quan trực tiếp hoăc chi it là gián tiếp qua vi deo, hình ảnh về
    danh lam thắng cảnh đo, các em thƣơng chỉ đƣơc nghe giáo viên truyền thụ qua
    kênh nghe- noi, đọc- chép.
    + Hay khi dạy dạng bài thuyết minh về phƣơng pháp, cách làm, mục đich
    cuối cùng mà dạng bài này hƣớng đến là giúp các em co đƣơc phƣơng pháp,
    cách thức để thực hiện một việc nào đo nhƣ cách thức nấu một mon ăn quen
    thuộc; cách thức làm một thứ đồ chơi quen thuộc, gần gũi với các em hay biết
    cách chơi một tro chơi dân gian bô ich nào đo… Nhƣng thay vì đƣơc trải
    nghiệm thực tế để tự rút ra ly thuyết thì các em lại thƣơng đƣơc trang bị ly
    thuyết và đƣơc cung cấp nhưng dàn y chi tiết.
    – Giáo viên đáng lẽ chỉ đong vai tro ngƣơi tô chức, hƣớng dẫn quá trình học
    tập để học sinh chủ động co kiến thức về đối tƣơng thuyết minh thì giơ lại trở
    thành ngƣơi làm thay cho học sinh.
    – Học sinh tiếp thu kiến thức thụ động, thiếu sự sáng tạo: Học sinh tiếp thu kiến
    thức một cách thụ động, thiếu hứng thú, chỉ học theo hình thức đọc thuộc để đối
    pho nên không phát huy đƣơc tinh sáng tạo cũng nhƣ chủ động trong việc tìm
    toi, khám phá kiến thức.
    – Học sinh không hình thành thoi quen tự học: Học sinh không chủ động tìm
    kiếm kiến thức trong sách giáo khoa, không nắm đƣơc đâu là kiến thức trọng
    tâm, không phân biệt đƣơc đâu là vấn đề chinh và phụ, không phát triển từ cái
    đã biết để tìm ra câu trả lơi cho cái chƣa biết.
    – Thiếu sự tƣơng tác giưa giáo viên – học sinh, học sinh – học sinh: Trong quá
    trình giảng dạy và học tập, giáo viên chỉ quan tâm đến việc dạy, học sinh lại
    quan tâm đến việc ghi chép bài nên thiếu đi sự tƣơng tác lẫn nhau. Nếu tăng
    cƣơng đƣơc sự tƣơng tác co thể nhắc nhở, bô sung kiến thức cho nhau, từ đo làm
    cho kiến thức trở nên toàn vẹn hơn.
    – Thiếu sự hứng thú và đam mê với việc học: Học sinh không co hứng thú, niềm
    đam mê với tiết học ngư văn, dẫn đến việc học tập không hiệu quả.
    – Đăc biệt, cách truyền thụ kiến thức một chiều từ giáo viên cho học sinh nhƣ
    hiện nay con làm mất đi y nghĩa quan trọng của kiểu văn thuyết minh là giúp các
    em co đƣơc kiến thức ly thuyết về các dạng bài thuyết minh để từ đo co thể vận
    7
    dụng vào thực tiễn, co thể tự xây dựng đƣơc một bài thuyết minh tƣơng đối hoàn
    chỉnh về bất kì đối tƣơng nào co y nghĩa trong cuộc sống chung quanh.
    Việc đôi mới phƣơng pháp dạy học để phát huy vai tro chủ động, sáng tạo của
    ngƣơi học, khơi dạy hứng thú say mê với môn học để đạt đƣơc hiệu quả cao
    nhất của phân môn Tập làm văn- học để hành- là điều mà ngƣơi dạy cần trăn trở
    nhất.
    1.4.2. Thực trạng việc kiểm tra, đánh giá (KTĐG) phần Văn thuyết minh
    hiện nay:
    – Việc kiểm tra, đánh giá học sinh ở phần Văn thuyết minh vẫn chủ yếu bằng
    cách truyền thống: qua bài viết. Chủ yếu thiên về KTĐG mức độ học thuộc lòng,
    kiểm tra tri nhớ một cách đơn thuần. Ngƣơi ra đề thƣơng dừng lại ở mức độ
    KTĐG kiến thức ly thuyết, khả năng ghi nhớ (nhận biết, tái hiện), it đăt ra yêu
    cầu KTĐG mức độ thông hiểu và KTĐG kỹ năng vận dụng tri thức, it đoi hoi
    HS phân tich, suy luận, khái quát. Cách KTĐG đo gây nên tình trạng học tủ, học
    vẹt, ghi nhớ máy moc nhƣng không nắm vưng bản chất vấn đề, thiếu kỹ năng
    vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Việc KTĐG kết quả học tập con chƣa co tác
    dụng mạnh mẽ kich thich, động viên HS nỗ lực học tập. Phần lớn lơi phê, sửa lỗi
    bài làm của HS con chung chung, it khai thác lỗi để rèn kỹ năng tƣ duy cho HS,
    một số lơi phê của thầy cô thiếu thân thiện gây ức chế tâm ly cho HS;
    – Trong khi đo, các bài viết đều đã đƣơc giáo viên hƣớng dẫn, cung cấp tri thức
    tƣơng đối hoàn chỉnh. Do đo, việc kiểm tra vô hình lại chỉ co thể đánh giá đƣơc
    khả năng học thuộc của học sinh. Việc chấm bài kiểm tra trở thành “cực hình”
    với ngƣơi dạy vì sẽ trở thành quá trình chấm chinh tả, chấm sản phẩm của chinh
    mình đƣơc học sinh tái hiện lại, chấm mở bài đã co thể biết rõ thân bài và kết bài
    ra sao.
    – KTĐG mới chỉ tập trung vào việc GV đánh giá HS, it tạo điều kiện cho HS tự
    đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau. Nhà giáo Mararenco từng noi: “Mỗi học
    sinh không phải là cái hũ để chúng ta đô đầy nƣớc, mà mỗi học sinh là một bo
    đuốc mà ta phải thắp cho sáng rực”.
    Vậy nên, việc đôi mới kiểm tra – đánh giá trong phân môn Tập làm văn nói
    chung và phần Văn thuyết minh noi riêng đang trở thành một yêu cầu cấp thiết.
    – Ngoài ra, năm học 2019-2020, việc dạy và học con bị ảnh hƣởng bởi một tác
    động khách quan là đại dịch COVID-19, việc nghỉ học kéo dài khiến cho việc
    8
    dạy và học bị gián đoạn, học sinh không đƣơc đến trƣơng nên kiến thức co phần
    mai một.
    Làm thế nào để vừa giúp HS đảm bảo yêu cầu giãn cách xã hội để phong chống
    dịch hiệu quả, vừa co thể tự ôn tập kiến thức cũng là một bài toán với mỗi ngƣơi
    dạy học.
     Xuất phát từ những thực trạng nêu trên, bản thân tôi đã mạnh dạn áp
    dụng những phƣơng pháp, kĩ thuật dạy học mới và giảng dạy phần
    Văn thuyết minh trong chƣơng trình Ngữ Văn lớp 8. Từ đó, phần nào
    khắc phục đƣợc những tồn tại của phƣơng pháp dạy học hiện tại, đặc
    biệt nâng cao khả năng vận dụng kiến thức lý thuyết vào thực tiễn cho
    học sinh. Cụ thể xin trình bày ở phần Giải pháp.
    2. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI TẠO RA SÁNG KIẾN.
    Để khắc phục thực trạng nêu trên đoi hoi ngƣơi giáo viên phải tìm toi, đôi
    mới phƣơng pháp học, áp dụng các phƣơng pháp học tập tich cực để phát huy tối
    đa tinh chủ động và tich cực của học tro cũng nhƣ vai tro của môn học. Năm
    2020, trong thơi gian nghỉ phong chống dịch COVID-19, tôi đã mạnh dạn áp
    dụng một giải pháp kết hơp ly thuyết với thực hành trong phần kiến thức thuyết
    minh về phƣơng pháp, cách làm và đã thu đƣơc nhưng hiệu quả bƣớc đầu nhƣ kì
    vọng.
    2. 1. Cấu trúc phần Văn thuyết minh trong chƣơng trình Ngữ vănTHCS.
    Trƣớc khi đi vào nhưng giải pháp cụ thể, chúng ta cần nắm đƣơc cấu trúc
    chƣơng trình kiểu văn bản thuyết minh trong chƣơng trình Ngư văn-THCS.

    Lớp 8Lớp 9
    1. Tìm hiểu chung về văn bản
    thuyết minh.
    2. Phƣơng pháp thuyết minh.
    3. Đề văn thuyết minh và cách làm bài văn
    thuyết minh.
    4. Luyện noi thuyết minh về một thứ đồ
    dùng.
    5. Thuyết minh một thể loại văn học.
    6. Viết đoạn trong văn bản thuyết minh.
    1. Sử dụng một số biện pháp nghệ
    thuật trong văn bản thuyết minh.
    2. Luyện tập sử dụng một số biện
    pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết
    minh.
    3. Sử dụng yếu tố miêu tả trong văn
    bản thuyết minh.
    4. Luyện tập sử dụng yếu tố
    miêu tả trong văn bản thuyết minh.

    9

    7. Thuyết minh về một phƣơng pháp(cách
    làm).
    8. Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh.
    9. Ôn tập văn bản thuyết minh.
    10. Viết bài văn thuyết minh.

    Trong đo, riêng phần nội dung giảng dạy Văn thuyết minh ở chƣơng trình
    Ngƣ̃ Văn 8 gồm các bài và thơi lƣơng nhƣ sau:
    1. Tìm hiểu chung về văn bản thuyêt minh – 1 tiết;
    2. Phương pháp thuyêt minh – 1 tiết;
    3. Đề văn thuyêt minh và cách làm bài văn thuyêt minh – 1 tiết;
    4. Thuyêt minh về môṭ thứ đồ dùng (luyện nói) – 1 tiết;
    5. Thuyêt minh về môṭ thể loaị văn hoc – 1 tiết;
    6. Viêt đoaṇ văn trong văn bản thuyêt minh – 1 tiết;
    7. Thuyêt minh về môṭ phương pháp (cách làm) – 1 tiết;
    8. Thuyêt minh môṭ danh lam thăng cảnh – 1 tiết;
    9. Ôn tâp̣ về văn thuyêt minh – 1 tiết;
    10. Chương trình địa phương (phần Tâp̣ làm văn) – 1 tiết.
    Nhƣ vậy, trong chƣơng trình Ngư Văn 8, học sinh đƣơc học 10 tiết về ly
    thuyết các dạng văn thuyết minh và co ba bài thực hành Viêt bài văn thuyêt minh
    với số tiết là 6 tiết. Trong đo, ở HK I 5 tiết ly thuyết; 4 tiết thực hành; HK II có 5
    tiết ly thuyết và 2 tiết thực hành. Phần giải pháp của sáng kiến này chủ yếu
    hƣớng vào mảng nội dung thuyết minh của học kì 2. Cụ thể là phần Thuyết
    minh về phương pháp, cách làm và bài thực hành Viết bài làm văn số 5- Văn
    thuyết minh.
    2.2. Trình bày giải pháp:
    2.2.1. Giải pháp cho phần dạy lý thuyết Thuyết minh về phương pháp,
    cách làm:
    Dạng bài thuyết minh về phƣơng pháp, cách làm đƣơc phân phối ở đầu
    chƣơng trình học kì 2 của Ngư văn 8, cụ thể là tuần 21. Qua tiết học ly thuyết,
    các em đã nắm đƣơc nhưng kiến thức cơ bản của kiểu bài thuyết minh về
    phƣơng pháp, cách làm.
    2.2.1.1.Mục tiêu cần đạt:
    * Về kiến thức:
    10
    – Kiến thức về văn bản thuyết minh (trong cụm các bài học về văn bản
    thuyết minh đã học và sẽ học).
    – Đăc điểm, tác dụng của các phƣơng pháp thuyết minh.
    * Về kỹ năng:
    – Nhận biết và vận dụng các phƣơng pháp thuyết minh thông dụng.
    – Rèn luyện khả năng quan sát để nắm bắt đƣơc bản chất của sự vật.
    – Tich lũy và nâng cao tri thức đơi sống.
    – Phối hơp sử dụng các phƣơng pháp thuyết minh để tạo lập văn bản thuyết
    minh theo yêu cầu.
    – Lựa chọn phƣơng pháp nhƣ định nghĩa, so sánh, phân tich, liệt kê để
    thuyết minh về nguồn gốc, đăc điểm, công dụng của đối tƣơng.
    * Về thái độ
    Hơp tác trong tìm hiểu kiến thức.
    * Định hƣớng phát triển năng lực:
    – Năng lực tự chủ và tự học
    – Năng lực giao tiếp và hơp tác
    – Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo
    – Năng lực ngôn ngư.
    2.2.1.2. Giải pháp cơ bản:
    Để giúp học sinh đạt đƣơc mục tiêu bài học, chúng tôi đã sử dụng một số
    phƣơng pháp dạy học mới, trong đo co phƣơng pháp “Dạy học phát hiện và giải
    quyết vấn đề”
    a. Khái niệm:
    Dạy hoc phát hiện và giải quyêt vấn đề là PPDH trong đo GV tạo ra nhưng tình
    huống có vấn đề, hƣớng dẫn HS phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực,
    chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đo chiếm lĩnh tri thức, rèn
    luyện kĩ năng và đạt đƣơc nhưng mục đich học tập khác. Đăc trƣng cơ bản của
    dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là “tình huống gơi vấn đề” vì “Tƣ duy chỉ
    bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề” (Rubinstein).
    Tình huống có vấn đề (tình huống gơi vấn đề) là một tình huống gơi ra cho HS
    nhưng khó khăn về lí luận hay thực hành mà họ thấy cần có khả năng vƣơt qua,
    nhƣng không phải ngay tức khắc bằng một thuật giải, mà phải trải qua quá trình
    11
    tích cực suy nghĩ, hoạt động để biến đôi đối tƣơng hoạt động hoăc điều chỉnh
    kiến thức sẵn có.
    “Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề” là phƣơng pháp dạy học theo định
    hƣớng lấy học sinh làm trung tâm. Trong đo học sinh học về các chủ đề thông
    qua các vấn đề co trong thực tiễn và liên quan tới nội dung môn học. Làm việc
    theo nhom, học sinh xác định nhưng điều đã biết, nhưng điều cần biết, và làm
    thế nào để co đƣơc nhưng thông tin cần thiết trong việc giải quyết vấn đề. Để
    vận dụng phƣơng pháp này vào quá trình giảng dạy là điều không hề đơn giản
    đối với mỗi giáo viên chúng ta..
    b. Nguyên tắc của phƣơng pháp “Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề” .
    – Dạy học dựa trên giải quyết vấn đề nhằm nhấn mạnh khâu giải quyết vấn
    đề, coi đây là khâu chủ yếu. Kich thich hứng thú học tập của học sinh Nếu học
    sinh tham gia vào khâu này thì sẽ vừa nắm đƣơc kiến thức, vừa nắm đƣơc
    phƣơng pháp để đi đến kiến thức đo.
    – Dạy học dựa trên giải quyết vấn đề nhằm khám phá nhưng vấn đề từ thực
    tiễn co liên quan đến ngƣơi học và liên quan đến nội dung học tập đã đƣơc qui
    định trong chuẩn kiến thức kĩ năng. Gắn nội dung môn học với thực tiễn Trên cơ
    sở đo, ngƣơi học tự chiếm lĩnh tri thức và phát triển các năng lực nhƣ lập kế
    hoạch, tự định hƣớng học tập, hơp tác, các kĩ năng tƣ duy bậc cao, kĩ năng sống.
    – Về bản chất, đo là việc học mà kết quả của no thu đƣơc từ kết quả của quá
    trình giải quyết vấn đề. Do đo vấn đề vừa là bối cảnh, vừa là động lực cho việc
    học, quá trình giải quyết vấn đề là phƣơng tiện đạt đến kết quả của việc học.
    Rèn luyện khả năng tự định hƣớng, tự học cho học sinh
    – Trong dạy học dựa trên giải quyết vấn đề, kiến thức, kĩ năng cần học tập
    thƣơng không đƣơc trình bày dƣới dạng măc định, co sẵn mà tiềm ẩn trong các
    vấn đề. Khi giải quyết, các vấn đề sẽ Phát triển tƣ duy phê phán, kỹ năng giải
    quyết vấn đề, ra quyết định khả năng đƣơc bộc lộ, thông qua giải quyết vấn đề,
    ngƣơi học sẽ chiếm lĩnh đƣơc các kiến thức, kĩ năng. Vì vậy việc phát hiện, xây
    dựng vấn đề, tô chức các hoạt động giải quyết vấn đề là nội dung trọng tâm của
    dạy học dựa trên giải quyết vấn đề.Thúc đẩy làm việc hơp tác, phát triển kỹ năng
    sống Dạy học dựa trên giải quyết vấn đề Vấn đề thực tiễn co liên quan đến
    ngƣơi học nhƣng đảm bảo theo“chuẩn kiến thức,kĩ năng .Vấn đề nằm trong
    thực tiễn đơi sống co liên quan đến bài học. Vận dụng kiến thức trong bài học và
    vốn sống thực tế để giải quyết.Vấn đề nêu ngay từ đầu tiết học/đầu hoạt động.
    c. Qui trình:“Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề”.
    Qui trình “Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề” đƣơc thực hiện thông
    qua 4 giai đoạn.
    Bài: THUYẾT MINH VỀ PHƢƠNG PHÁP, CÁCH LÀM.
    GIAI ĐOẠN I: XÁC ĐỊNH VÀ TÌM HIỂU VẤN ĐỀ
    12
    Bƣớc 1: Giới thiệu tình huống chứa đựng vấn đề:
    Trải nghiệm gói bánh chƣng
    Bánh chƣng là mon ăn truyền thống không thể thiếu trong mỗi gia đình Việt
    Nam vào dịp Tết Nguyên Đán. Mỗi chúng ta ai cũng từng đƣơc ăn mon bánh rất
    dân tộc này, đồng thơi nhiều bạn con đƣơc tham gia goi bánh cùng gia đình và
    ngƣơi thân. Lớp ta trong tuần tới phải thực hiện chƣơng trình ngoại khoa với chủ
    đề: Tết sum vầy. Các em co nhiệm vụ tô chức hoạt động trải nghiệm goi bánh
    chƣng cho các bạn học sinh trong toàn trƣơng.
    Bƣớc 2: Đăt câu hoi (=> làm sáng to vấn đề):
    * Yếu tố đã biết:
    – Bánh chƣng là mon ăn quen thuộc, ai cũng từng ăn;
    – Rất nhiều bạn đã biết cách goi bánh chƣng …
    * Yếu tố chƣa biết:
    – Goi bánh chƣng gồm nhưng công đoạn gì?
    – Làm thế nào để hƣớng dẫn bạn bè trong trƣơng biết cách goi bánh chƣng?
    Bƣớc 3: Đề xuất các y tƣởng, giả thuyết (phân chia lớp học thành các nhom, cử
    nhom trƣởng => HS thảo luận nhom để đƣa ra các y tƣởng và giả thuyết về vấn
    đề):
    – Nhom 1: Chuẩn bị các nguyên liệu để goi bánh chƣng; học cách goi bánh
    chƣng.
    + Nguyên liệu cần chuẩn bị là gì? (gạo nếp cao; đỗ xanh đã vỡ hạt và loại
    vo; thịt lơn; lá dong; lạt tre; gia vị…)
    + Goi bánh gồm nhưng công đoạn nào? ( vo gạo, rửa lá, thái thịt; goi
    bánh; luộc bánh…)
    + Tiêu chi đánh giá một chiếc bánh chƣng đạt yêu cầu là gì?
    – Nhóm 2: Chuẩn bị nội dung thuyết minh về cách goi bánh chƣng.
    + Văn bản thuyết minh gắn với hoạt động goi bánh của nhom 1.
    + Phân công ngƣơi dẫn lơi thuyết minh.
    – Nhom 3: Tƣơng tác với các thầy cô và các bạn học sinh trong trƣơng.
    + Mơi đại diện học sinh lên giao lƣu goi bánh chƣng.
    + Mơi đại diện thầy cô làm giám khảo để nhận xét, đánh giá về kết quả
    của các bạn HS.
    Bƣớc 4: Xác định các kiến thức cần cho việc giải quyết vấn đề (liệt kê các nội
    dung kiến thức cần co để kiểm chứng).
    Bƣớc 5: Liệt kê nhưng kiến thức chƣa biết (GV xem xét danh mục các nội dung
    kiến thức cần co để giải quyết vấn đề, đề xuất các kiến thức mới cần nghiên
    cứu):
    GIAI ĐOẠN II: TỰ TÌM HIỂU CÁC KIẾN THỨC CÓ LIÊN QUAN
    Bƣớc 1. Định hƣớng nguồn thông tin (chủ yếu là SGK, sách tham khảo; tham
    khảo tài liệu và thông tin trên Internet; tham vấn chuyên gia, đƣơng sự liên
    quan):
    Bƣớc 2. Tự nghiên cứu (nội dung nghiên cứu co thể đƣơc tách thành từng chủ
    đề nho, phân công theo khả năng của các thành viên trong nhom).
    13
    – Chia lớp thành 3 nhom, mỗi nhom 13 em. Nhom trƣởng phân công nghiên cứu
    từng chủ đề nho cho các thành viên:
    GIAI ĐOẠN III: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
    Bƣớc 1. Hệ thống hoa kiến thức mới nhận đƣơc (thành viên trong nhom trình
    bày, thảo luận, chia sẻ về từng chủ đề nho đã nghiên cứu => tất cả các thành
    viên trong nhom đều hiểu đƣơc chủ đề và biết đƣơc y nghĩa của no trong việc
    kiểm chứng các y tƣởng, giả thuyết).
    Bƣớc 2. Đánh giá y tƣởng, giả thuyết (xem xét, kiểm chứng về tinh đúng đắn
    của từng y tƣởng, giả thuyết => vấn đề đƣơc giải quyết trên cơ sở hệ thống kiến
    thức mới và sự suy luận co lôgic).
    GIAI ĐOẠN 4: TRÌNH BÀY KẾT QUẢ
    Bƣớc 1. Chƣơng trình ngoại khóa: Tết sum vầy.
    – Thời gian: tiết sinh hoạt dƣới cờ đầu tuần.
    – Địa điểm: sân trƣờng THCS Giao Thủy.
    – Thành phần: Toàn thể cán bộ giáo viên và học sinh trƣờng THCS
    Giao Thủy.
    – Nội dung: lớp 8C tổ chức cho HS toàn trƣờng trải nghiệm hoạt động
    gói bánh chƣng.
    Cụ thể nhƣ sau:
    Phần 1: Giới thiệu về nguồn gốc, ý nghĩa của Bánh chƣng trong đời sống
    ngƣời Việt:
    Bánh chƣng từ lâu đã là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể
    hiện long biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trơi xứ sở. Tƣơng truyền
    rằng vào đơi vua Hùng Vƣơng thứ sáu, sau khi đánh dẹp xong giăc Ân, nhà vua
    co y định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu xuân, vua cha họp các hoàng tử lại
    và yêu cầu họ đem dâng lên thứ mà họ cho là quy nhất để cúng lên bàn thơ tô
    tiên nhân ngày đầu xuân. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng
    lên cho vua cha, với hi vọng mình đƣơc vua cha truyền ngôi. Trong khi đo,
    ngƣơi con trai thứ mƣơi tám của Hùng Vƣơng là Lang Liêu co tinh tình hiền
    hậu, sống gần gũi với ngƣơi nông dân lao động nghèo khô nên chàng lo lắng
    không co gì quy giá để dâng lên vua cha. Một hôm, Lang Liêu nằm mộng thấy
    co một vị thần đến chỉ bảo cho cách làm một loại bánh từ lúa gạo và nhưng thức
    co sẵn gần gũi với đơi sống hằng ngày. Tỉnh dậy, chàng vô cùng mừng rỡ làm
    theo cách chỉ bảo của thần. Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem nhưng thứ sơn
    hào hải vị đến, con Lang Liêu chỉ co hai loại bánh nhƣ lơi thần mách bảo. Vua
    Hùng lấy làm lạ bèn hoi, chàng đem chuyện thần báo mộng kể, giải thich y
    nghĩa của bánh. Vua cha nếm thử, thấy ngon, khen co y nghĩa, bèn đăt tên cho
    bánh là bánh chƣng và bánh giày, rồi truyền ngôi lại cho chàng. Từ đo đến nay,
    14
    mỗi dịp tết đến xuân về, mon bánh chƣng trở thành vật phẩm không thể thiếu
    trong mân cơm tế lễ trơi đất, gia tiên.
    Phần 2: Trải nghiệm làm bánh chƣng:
    Hẳn ai trong chúng ta cũng it nhất một lần ăn mon bánh chƣng. Vị dẻo thơm của
    gạo nếp quyện với vị bùi ngọt của đỗ xanh, vị béo ngậy của thịt ba chỉ và mùi
    thơm của các gia vị hành, tiêu nhƣ đánh thức tất cả các giác quan của ta, để ăn
    một lần rồi nhớ mãi. Nhƣng co lẽ rất nhiều bạn chƣa một lần tự tay goi một tấm
    bánh chƣng. Hôm nay, lớp chúng mình sẽ đƣa bạn đến một trải nghiệm thú vị, là
    tập goi bánh chƣng.
    Câu hỏi 1: Bạn hãy kể tên các nguyên liệu cần thiêt để làm ra món bánh chưng?
    Nguyên liệu làm bánh bao gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lơn, lá dong. Nhưng
    nguyên liệu ấy vừa dễ kiếm lại vừa giàu y nghĩa. Vật trong trơi đất không co gì
    quy bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con ngƣơi. Gạo nếp thƣơng dùng là
    gạo thu hoạch vụ mùa. Gạo vụ này co hạt to, tron, đều và thơm dẻo hơn các vụ
    khác. Đỗ xanh thƣơng đƣơc chọn lựa công phu. Sau thu hoạch đỗ cần phơi nắng
    đều thật khô, sàng sẩy hết rác, bụi, hạt lép, phân loại hạt rồi đong vào hũ, lọ
    bằng sành là tốt nhất. Thịt lơn nên chọn thịt lơn ỉn đƣơc nuôi hoàn toàn bằng
    phƣơng pháp thủ công (nuôi chuồng hoăc nuôi thả, thức ăn bằng cám rau tự
    nhiên, không dùng thuốc tăng trọng hoăc thức ăn gia súc). Khi chọn thịt thì lấy
    thịt ba chỉ vừa co mỡ vừa co nạc, khiến nhân bánh vừa co vị béo đậm đà, không
    khô bã. Ngoài ra con cần các gia vị nhƣ hạt tiêu, hành củ dùng để ƣớp thịt làm
    nhân; muối dùng để trộn vào gạo, đỗ xanh và ƣớp thịt. Đăc biệt thịt ƣớp không
    nên dùng nƣớc mắm vì bánh sẽ chong bị ôi thiu. Lá để goi bánh thƣơng là lá
    dong tƣơi. Lá thì chọn lá dong rừng bánh tẻ, to bản, đều nhau, không bị rách,
    màu xanh mƣớt. Tuy nhiên, tùy theo địa phƣơng, dân tộc, điều kiện và hoàn
    cảnh, lá goi bánh co thể là lá chit, hoăc vừa là lá dong vừa là lá chit. Lạt buộc
    bánh chƣng thƣơng dùng lạt giang đƣơc làm từ ống cây giang. Lạt co thể đƣơc
    ngâm nƣớc muối hay hấp cho mềm trƣớc khi goi.
    Câu hỏi 2: Theo bạn, gói bánh chưng gồm những công đoạn nào?
    Cách thức làm bánh rất đơn giản:
    – Bƣớc 1: Sơ chế nguyên liệu

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh qua ba trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng trong dạy học lịch sử lớp 6, 7 THCS

    SKKN Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh qua ba trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng trong dạy học lịch sử lớp 6, 7 THCS

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Sử dụng phương pháp nghiên cứu bài học dạy tiết Tỉ khối của chất khí theo định hướng phát triển năng lực học sinh

    SKKN Sử dụng phương pháp nghiên cứu bài học dạy tiết Tỉ khối của chất khí theo định hướng phát triển năng lực học sinh

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
    Dưới ánh sáng của Nghị quyết 29 – Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành
    Trung ương khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo xác
    định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục,
    đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”
    đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị
    trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
    Hóa học có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của
    nhà trường phổ thông. Việc này cần được bắt đầu từ việc xác định mục tiêu đào
    tạo đó là xác định những gì cần đạt được (đối với người học) sau một quá trình
    đào tạo. Đồng thời do sự phát triển nhanh, mạnh với tốc độ mang tính bùng nổ
    của khoa học công nghệ vì vậy phải coi trọng dạy phương pháp, dạy cách đi tới
    kiến thức của loài người trên cơ sở đó mà học tập suốt đời.
    Thực hiện đổi mới phương pháp dạy- học hóa học là một yêu cầu cấp
    bách. Phương pháp người dạy truyền thụ kiến thức cho học sinh nghe một cách
    thụ động, để học sinh thuộc lòng còn phổ biến ở nhiều nơi, đã hạn chế tính chủ
    động tích cực của học sinh và ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sáng tạo trong
    công tác sau này của người học.Nhất là với học sinh lớp 8 mới bắt đầu làm
    quen, học tập môn hóa học. Nhiệm vụ quan trọng của giáo viên là sử dụng
    phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
    động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ
    năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong
    thực tiễn; tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập. Như chúng ta đã biết
    giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo
    dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Do đó việc đổi mới
    đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục theo định
    hướng phát triển năng lực của người học là vấn đề cấp thiết.
    2
    Theo quan điểm dạy học hiện đại, quá trình dạy học là quá trình tổ
    chức hoạt động tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Vai trò của giáo
    viên trong dạy học hiện đại là tổ chức, định hướng và kiểm tra hoạt động của
    học sinh. Trong học tập, học sinh sử dụng tư liệu dạy học, trao đổi và tranh
    luận với nhau, trao đổi và tranh luận với giáo viên. Vì vậy, hoạt động của học
    sinh là trung tâm của quá trình dạy học.
    Hóa học là khoa học thực nghiệm, cách tiếp cận với môn học đòi hỏi
    phải có nhiều tư duy ( bao gồm cả tư duy thực tế lẫn tư duy trừu tượng).Khi
    nghiên cứu về chất khí một câu hỏi được đặt ra là chất khí này nặng hay nhẹ
    hơn chất khí kia bao nhiêu lần, và nặng hay nhẹ hơn không khí bao nhiêu lần.
    Từ đó có cách sử dụng, thu giữ khí hợp lí. Hơn nữa trong các tài liệu thiết kế
    giáo án, bài soạn của tiết học không chú ý thì học sinh không được hiểu rõ
    bản chất nên dễ quên , khả năng giải bài tập liên quan tới tỉ khối chất khí của
    học sinh bị hạn chế.
    Xuất phát từ thực tiễn đó tôi đã: “Sử dụng phương pháp nghiên
    cứu bài học dạy tiết “Tỉ khối của chất khí” theo định hướng phát triển
    năng lực học sinh” nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo và rèn luyện
    phương pháp tự học; tăng cường kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức, kĩ
    năng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Trên cơ sở đó hình thành phẩm chất:
    trung thực trong học tập, tự lực chủ động tích cực học hỏi; tự tin trong giao
    tiếp; biết xây dựng và thực hiện kế hoạch học tập…từ đó giáo dục học sinh có
    trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng, đất nước và môi trường tự
    nhiên góp phần nâng cao hiệu quả bài học, thực hiện tốt định hướng đổi mới
    phương pháp dạy học ở trường THCS hiện nay.
    2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
    a. Mục đích
    – Coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là
    người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên.
    3
    – Khi học tiết “Tỉ khối của chất khí” theo phương pháp nghiên cứu
    bài học học sinh biết được làm thế nào biết được A nặng hay nhẹ hơn khí
    B và nặng hay nhẹ hơn không khí .
    – Việc nghiên cứu đề tài này nhằm giúp học sinh củng cố được kiến
    thức, rèn luyện được phương pháp giải các loại bài tập liên quan tới tỉ khối
    chất khí từ đó trình bày bài một cách chặt chẽ và khoa học nhằm nâng
    cao chất lượng học tập bộ môn hóa học.
    – Tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá và say mê khoa học đồng
    thời luyện kỹ năng diễn đạt, tính toán thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học
    sinh.
    b. Nhiệm vụ
    – Vận dụng phương pháp nghiên cứu bài học dạy bài “Tỉ khối của chất
    khí” theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
    – Vận dụng kiến thức đã học trong những chương trước hướng dẫn học
    sinh nghiên cứu bài học.
    – Thông qua giờ dạy giúp học sinh đứng trước một bài tập có thể đặt ra
    các câu hỏi, các giả thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành nghiên cứu,
    làm bài tập để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo
    luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức.
    – Học sinh tự tìm hiểu các kiến thức liên quan đến bài học thông qua
    bài học … giúp các em chủ động trong việc lĩnh hội và nắm bắt kiến thức.
    – Từ việc nghiên cứu vận dụng đề tài, rút ra bài học kinh nghiệm để
    giảng dạy các giờ học khác góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy trong các
    giờ học nhằm đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực
    học sinh.
    3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
    Để hoàn thành tốt đề tài tôi đã vận dụng các phương pháp khoa học sau:
    4
    – Sử dụng phương pháp nghiên cứu bài học trong đó có cả nghiên cứu
    trước ở nhà về thành phần của không khí .
    – Sử dụng yếu tố tích cực của phương pháp dạy học nêu vấn đề, đàm
    thoại, tính toán, giải quyết vấn đề,…
    – Sử dụng các phương pháp thuyết trình, giải quyết vấn đề, tính toán, tư
    duy… theo hướng tích cực nhất.
    – Sử dụng phương pháp học tập hợp tác theo nhóm nhỏ, cá nhân.
    – Sử dụng sơ đồ tư duy để củng cố các kiến thức đã dạy ở các bài học
    trước giúp học sinh dễ nhớ.
    – Sử dụng công nghệ thông tin có hiệu quả trong tiết dạy.
    5
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    Chương trình và phương pháp dạy học truyền thống chú trọng vào việc
    truyền thụ hệ thống tri thức khoa học khách quan và nhiều lĩnh vực khác
    nhau. Tuy nhiên ngày nay tri thức thay đổi và bị lạc hậu nhanh chóng do đó
    việc rèn luyện cho học sinh phương pháp học tập ngày càng có ý nghĩa quan
    trọng trong việc chuẩn bị cho con người có khả năng học tập suốt đời.
    Chương trình và phương pháp dạy học định hướng nội dung dẫn đến xu
    hướng kiểm tra đánh giá chủ yếu dựa trên việc kiểm tra khả năng tái hiện tri
    thức mà không định hướng vào khả năng vận dụng tri thức trong những tình
    huống thực tiễn. Do đó sản phẩm giáo dục là những con người mang tính thụ
    động, hạn chế khả năng sáng tạo và năng động.
    Giáo dục phổ thông đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo
    dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
    quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh làm
    cái gì qua việc học.
    Dạy học khoa học dựa trên tìm tòi nghiên cứu là một phương pháp dạy
    và học khoa học xuất phát từ sự hiểu biết về cách thức học tập của học sinh,
    bản chất của nghiên cứu khoa học và sự xác định các kiến thức khoa học cũng
    như kĩ năng mà học sinh cần nắm vững. Phương pháp dạy học này cũng dựa
    trên sự tin tưởng rằng điều quan trọng là phải đảm bảo rằng học sinh thực sự
    hiểu những gì được học mà không phải đơn giản chỉ là học để nhắc lại nội
    dung kiến thức và thông tin thu được. Không phải là một quá trình học tập hời
    hợt với động cơ học tập dựa trên sự hài lòng từ việc khen thưởng, dạy học
    khoa học dựa trên tìm tòi nghiên cứu đi sâu với động cơ học tập được xuất
    phát từ sự hài lòng của học sinh khi đã học và hiểu được một điều gì đó. Dạy
    học khoa học dựa trên tìm tòi nghiên cứu không quan tâm đến lượng thông tin
    được ghi nhớ trong một thời gian ngắn mà ngược lại là những ý tưởng hay
    6
    khái niệm dẫn đến sự hiểu biết ngày càng sâu hơn cùng với sự lớn lên của học
    sinh.
    Chính vì vậy sau khi được tập huấn về đổi mới kiểm tra đánh giá
    trong quá trình dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh tôi đã
    mạnh dạn vận dụng vào lập kế hoạch sử dụng phương pháp dạy học khoa học
    thông qua vận dụng “phương pháp nghiên cứu bài học dạy tiết “Tỉ khối của
    chất khí” theo định hướng phát triển năng lực học sinh”.
    1. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƢỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
    Trước đây khi giảng dạy theo phương pháp dạy học định hướng nội
    dung thì “Bài 20 – Tỉ khối của chất khí” được học ở tiết 29 (Hóa học 8):
    trong quá trình dạy học thì giáo viên là người truyền thụ tri thức, là trung tâm
    của quá trình dạy học. Hơn nữa trong các tài liệu thiết kế giáo án, bài soạn của
    một tiết day chủ yếu theo phương pháp chưa phát huy tính chủ động của học
    sinh. Học sinh tiếp thu thụ động những tri thức được quy định sẵn chủ yếu dạy
    học lý thuyết trên lớp học và tiêu chí đánh giá được xây dựng chủ yếu dựa trên
    sự ghi nhớ và tái hiện nội dung đã học không định hướng vào khả năng vận dụng
    tri thức trong những tình huống thực tiễn. Cụ thể khi dạy “Bài 20 – Tỉ khối của
    chất khí” học sinh được cung cấp các kiến thức, thông tin theo nội dung kiến
    thức sách giáo khoa. Học sinh chủ yếu ghi nhớ theo nội dung định sẵn trong
    sách giáo khoa ít được vận dụng kiến thức thực tiễn nên khó nhớ, khó vận
    dụng vào thực tiễn, không tạo được sự say mê khi học.
    Phương pháp chủ đạo trong khi dạy “Bài 20 – Tỉ khối của chất khí” đó
    là phương pháp giải quyết vấn đề kết hợp với các phương pháp khác như
    phương pháp thuyết trình, phương pháp vấn đáp, phương pháp giảng giải
    thuyết trình … dưới sự hướng dẫn của giáo viên nên ở một mức nào đó vẫn
    mang sự gò bó, áp đặt nội dung theo nội dung chỉ đạo của giáo viên. Học sinh
    được hoạt động làm theo nội dung hướng dẫn có sẵn các em cũng được thực
    hành làm bài tập nhưng ở mức độ bắt chước làm theo.
    7
    Xu hướng kiểm tra, đánh giá trong chương trình dạy học định hướng
    nội dung dựa trên khả năng tái hiện tri thức mà không định hướng vào khả
    năng vận dụng tri thức trong những tình huống thực tế.
    Do phương pháp dạy học mang tính thụ động và ít chú ý đến khả năng
    ứng dụng nên học sinh rất lúng túng khi vận dụng kiến thức bài học vào để
    giải bài tập nên phần nào còn hạn chế khả năng sáng tạo và năng động của
    học sinh, học sinh không hứng thú làm học tập.
    Từ thực trạng trên và thực hiện yêu cầu đổi mới kiểm tra, đánh giá
    trong quá trình dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh của Bộ
    giáo dục và đào tạo tôi đã nghiên cứu và áp dụng vào các hoạt động giáo dục
    để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của học sinh.
    2. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KĨ THUẬT SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN
    a. Sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu bài học tiết “ Tỉ khối của chất khí’’
    Với mục tiêu dạy học định hướng năng lực nhằm mục tiêu phát triển
    năng lực người học tôi đã xây dựng bài học “Tỉ khối của chất khí” dạng
    chuyên đề và sử dụng hai phương pháp dạy học tích cực chủ đạo là phương
    pháp nghiên cứu bài học kết hợp với một số phương pháp dạy học tích cực
    khác để tổ chức, hỗ trợ học sinh tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức đồng thời
    chú trọng tới sự phát triển khả năng giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp, khả
    năng làm việc nhóm…
    Phương pháp nghiên cứu bài học được sử dụng trong nội dung tìm hiểu
    kiến thức cũ thông qua bài tập.
    +Nội dung “. Kiểm tra bài cũ” tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu bài
    học bằng cách sử dụng hai bài tập để sử dụng triển khai bài học.
    Bài 1:
    a. Tính khối lượng mol của khí oxi, khí hiđro
    8
    b. Ở cùng điều kiện nhiệt độ và áp suất:
    Hãy so sánh thể tích của 1 mol khí oxi và 1 mol khí Hiđro
    (Cho nguyên tử khối của: H=1; O=16)
    Bài 2: Tính khối lượng của 0,8 mol khí N2 và 0,2 mol khí O2 ?
    (Cho nguyên tử khối của : N=14; O=16)
    Với cách tổ chức ôn lại kiến thức đã học ở các bài học trước và chủ
    động hệ thống lại những công thức đã học : tính khối lượng mol, tính khối
    lượng chất,1mol bất kì chất khí nào nếu đưa về cùng điều kiện nhiệt độ áp
    suất đều chiếm những thể tích bằng nhau, thể tích chất khí phụ thuộc vào
    nhiệt độ và áp suất từ đó vận dụng triển khai bài mới , giáo viên chủ yếu là
    người hỗ trợ học sinh khi các em gặp những tình huống khó xử lí.
    Như vậy trong cùng một điều kiện nhiệt độ và áp suất, với thể tích khí bằng
    nhau tại sao quả bơm khí hiđro lại bay lên còn quả bơm khí cacbon đioxit lại
    rơi xuống đất
    Sau đó đưa ra tình huống do giáo viên đặt ra: trên tay có 2 quả bóng
    được bơm 2 chất khí có cùng thể tích .Một quả bơm khí hiđro, một quả thầy
    bơm khí cacbon đioxit (CO2). Khi thả tay ra quả bóng bơm khí hiđro bay lên
    còn quả bóng bơm khí cacbon đioxit rơi xuống đất. . Như vậy trong cùng một
    điều kiện, những thể tích bằng nhau của các chất khí khác nhau thì nặng nhẹ
    khác nhau. Vậy bằng cách nào có thể biết được chất khí này nặng hay nhẹ
    hơn khí kia bao nhiêu lần?
    So với cách dạy học cũ (định hướng nội dung) thì cách dạy học mới
    (định hướng phát triển năng lực đã có cách triển khai nội dung bài mới hoàn
    toàn khác. Với phương pháp dạy học theo định hướng nội dung thì phần triển
    khai nội dung bài mới thường giáo viên sẽ đưa ra một và câu dẫn ban đầu để
    đi vào bài học mới. Còn phương pháp dạy học theo định hướng phát triển
    9
    năng lực “Phương pháp nghiên cứu bài học ’’ thì giáo viên sẽ đưa học sinh
    vào tình huống có bấn đề đòi hỏi phải giải quyết.
    + Nội dung “Bài mới – I. Bằng cách nào có thể biết được khí A nặng
    hay nhẹ hơn khí B – 1. Công thức ” với nội dung này tôi sử dụng bài tập 1
    phần kiểm tra bài cũ MO2= 2.16=32 (g/mol)
    MH2=2 .1=2(g/mol)
    b. Ở cùng điều kiện nhiệt độ và áp suất, xét với 1 mol thì VO2=VH2
    Với các chất khí trong cùng điều kiền nhiệt độ, áp suất, cùng thể tích ta
    dựa vào khối lượng mol để so sánh sự nặng nhẹ giữa khí oxi và khí
    hiđro.Yêu cầu một học sinh cho biết khí oxi nặng hay nhẹ hơn khí hiđro bao
    nhiêu lần . Từ kết quả phép tính 2
    2
    O 16
    H
    M M
     xây dựng tỉ khối của khí oxi đối
    với khí hiđro.
    2
    2
    2
    2
    32
    16
    2
    O
    O
    H H
    M
    d
    M
      
    Từ đó giáo viên đặt câu hỏi: Nếu thay khí oxi là khí A khí hiđro là khí
    B thì tỉ khối khí A đối với khí B được viết như thế nào ?
    Từ đó học sinh tự xây dựng được công thức tính tỉ khối của khí A đối
    với khí B là A A
    B
    B
    M
    d
    M
     và công thức chuyển đổi tính
    / /
    .A A B B A B
    A B
    M d M
    M
    M
    d
     
     
     

    – Phương pháp nghiên cứu bài học giúp cho học sinh tự xây dựng được
    công thức tính tỉ khối của khí A đối với khí B, lúc này giáo viên chỉ là người
    định hướng học sinh .
    Sau khi học sinh xây dựng xong công thức tính tỉ khối của khí A đối
    với khí B giáo viên cho học sinh vận dụng làm 2 bài tập
    10
    Bài tập luyện tập củng cố
    Bài 1:
    a,Cho biết khí hiđro nặng hay nhẹ hơn khí nitơ bao nhiêu lần
    b,Cho biết khí cacbon đioxit (CO2) nặng hay nhẹ hơn khí hiđro bao nhiêu lần
    Giáo viên để học sinh làm việc cá nhân theo dõi xem những khó khăn học
    sinh gặp phải để giúp đỡ học sinh.
    Sau khi học sinh làm xong giáo viên yêu cầu học sinh giải thích
    Tại sao
    2
    2
    H 0,07
    N
    d  em lại kết luận khí H2 nhẹ hơn khí N2 ?
    2
    2
    22
    CO
    H
    d  em lại kết luận khí CO2 nặng hơn khí H2 ?
    Từ đó học sinh tự tổng quát công thức
    + Nếu A 1
    B
    d 
    → khí A nặng hơn khí B.
    + Nếu A 1
    B
    d  → khí A nhẹ hơn khí B.
    Trường hợp đặc biệt
    Nếu A 1
    B
    d 
    → khí A nặng bằng khí B.
    Như vậy với phương pháp nghiên cứu bài học, học sinh được hoạt động
    tích cực, tự đưa ra được những cách làm, xây dựng được các công thức trên
    cơ sở định hướng của giáo viên chứ không phải làm bài tập trên cơ sở các
    công thức giáo viên cho sẵn, giáo viên lúc này chỉ là người định hướng học
    sinh, chốt lại kiến thức cho học sinh
    Bài 2: Hãy điền các số thích hợp vào ô trống ở bảng sau
    11

    STTKhí AMA
    1SO2
    244
    38

    2
    A
    H
    d
    – Hãy cho biết khí A trong các trường hợp 1, 2, 3 có thể là các khí nào trong
    các khí sau đây?
    CO2; SO2; O2; Cl2; CH4; SO3
    (Cho nguyên tử khối của :C= 12; S= 32; O= 16; Cl= 35,5; H= 1)
    Học sinh làm việc theo nhóm, thảo luận nhóm đưa ra cách làm nhóm
    khác nhận xét, góp ý. Sau khi hoàn thành bài tập học sinh biết được: Với 2
    chất khí trong đó có 1 chất biết công thức hóa học thì từ tỉ khối có thể tìm
    được khối lượng mol chất còn lại và ngược lại từ khối lượng mol có thể xác
    định được tỉ khối .Đồng thời tạo được sự tương tác giữa các nhóm học tập.
    Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, kết luận.
    + Nội dung “Bài mới – II. Bằng cách nào có thể biết được khí A nặng
    hay nhẹ hơn không khí – 1. Công thức ” .Với nội dung này tôi sử dụng ngay
    công thức tỉ khối của khí A đối với khí B để học sinh xây dựng công thức tỉ
    khối của khí A đối với không khí bằng câu hỏi : “ Nếu thay khí B là không
    khí thì công thức tính tỉ khối khí A đối với không khí được biểu thị như thế
    nào? Học sinh tự rút ra công thức và biết cách xác định tỉ khối của khí A đối
    với không khí.
    A
    A
    KK
    KK
    M
    d
    M

    Sau đó tôi sử dụng bài tập 2 phần kiểm tra bài cũ
    12
    . 0, 8.28 22, 4( )
    2 2 2
    . 0, 2.32 6, 4( )
    2 2 2
    m n M gam N N N
    m n M gam O O O
      
      
    Từ phần học sinh nghiên cứu ở nhà về thành phần của không khí :
    Không khí là một hỗn hợp của nhiều chất khí trong đó có 2 khí chính là N2
    và O2 trong đó N2 chiếm khoảng 80% thể tích không khí, O2 chiếm khoảng
    20% thể tích không khí.
    Và nếu coi không khí chỉ gồm N2 và O2, xét 1mol không khí có 0,8 mol
    N2 và 0,2 mol O2 → m m m gam kk N O    2 2 28,8
    Xét 1 mol không khí thì mkk=Mkkvà bằng xấp xỉ 29.Từ đó học sinh hoàn thiện
    công thức tính tỉ khối của khí A đối với không khí :
    29
    A
    A
    KK
    M
    d 
    Và công thức chuyển đổi tính MA= dA/KK .29
    Đến đây bằng kiến thức vừa lĩnh hội học sinh giải thích được vấn đề được
    đặt ra ban đầu tại sao quả bóng bơm khí hiđro bay lên còn quả bóng bơm khí
    cabon đioxit (CO2) lại rơi xuống.
    2
    2
    2
    0,07 1
    29 29
    H
    H
    KK
    M
    d     → Khí H2 nhẹ hơn không khí → quả bóng bay lên
    2
    2
    44
    1,52 1
    29 29
    CO
    CO
    KK
    M
    d    

    → Khí CO2 nặng hơn không khí → quả bóng rơi

    xuống
    Từ cách giải thích trên học sinh có thể liên hệ ứng dụng thực tế
    + Khí hiđro : bơm vào quả bóng được thả trong những dịp lễ. Không
    những thế học sinh còn có thể mở rộng hơn: ngoài khí hiđro thì những khí
    nhẹ hơn không khí khi bơm vào quả bóng, quả bóng đều có thể bay lên .
    Sau đó giáo viên bổ sung cho học sinh thêm một số kiến thức thực tế
    13
    + Khí hidro thường được sử dụng để bơm vào bóng làm bóng bay.
    Nhưng khi gặp nguồn nhiệt lớn hoặc trong không gian hẹp, chịu ma sát lớn thì
    nổ gây bỏng nên khi sử dụng phải thận trọng, tránh xa các nguồn nhiệt. Để an
    toàn người ta sử dụng khí Heli (một loại khí trơ) để thay thế.
    + Một hiện tượng trong tự nhiên các em cũng có thể giải thích được :
    Trong lòng đất luôn luôn xảy ra sự phân hủy một số hợp chất vô cơ và hợp
    chất hữu cơ, sinh ra khí cacbon đioxit (CO2). Khí này không màu, không
    mùi, không duy trì sự cháy và sự sống của con người và động vật. Mặt khác,
    khí này còn nặng bơn không khí 1,52 lần. Vì vậy, khí cacbon đioxit thường
    tích tụ trong đáy giếng khơi, trên nền hang sâu. Người và đông vật xuống
    những nơi này sẽ bị chết ngạt nếu không mang theo bình dưỡng khí hoặc
    thông khí trước khi xuống.
    + Đặc biệt khi nghiên cứu tính chất của chất khí nặng hay nhẹ hơn
    không khí còn giúp ta có có phương pháp thu khí khi điều chế chất khí đó :
    Như trong phòng thí nghiệm thu khí bằng cách đẩy không khí bình thu khí có
    thể đặt 2 tư thế đứng bình và ngược bình → học sinh liên hệ giải thích những
    khí nhẹ hơn không khí thu thì bình thu đặt ngược. Còn khí nặng hơn không
    khí khi thu bình thu đặt đứng.
    Với cách triển khai như trên học sinh : Biết cách xác định tỉ khối của
    một khí cụ thể đối với không khí Biết vận dụng công thức tính tỉ khối của
    khí cụ thể đối với không khí để giải thích hiện tượng thực tế trong tự nhiên,
    biết cách vận dụng kiến thức hóa học vào trong thực tiễn cuộc sống và trong
    nghiên cứu.
    Để củng cố thêm công thức tính MA dựa và tỉ khối khí A với không khí
    tôi cho học sinh tự làm bài tập sau:
    Bài tập: Một chất khí A có tỉ khối đối với không khí là 2,207. Hãy xác định
    khối lượng mol của khí A.
    14
    Từ bài học trước bài “chuyển đổi giữa khối lượng, thể tích và lượng
    chất” ,bài tập trên và bài tập hoạt động nhóm phần I học sinh rút ra kết luận :
    Để tính khối lượng mol (M) một chất khi chưa biết công thức hóa học ta có
    thể có 3 cách tính
    + Dựa vào khối lượng : M m
    n
     (1)
    + Dựa vào tỉ khối khí A đối với khí B( khi biết công thức hóa học khí cò lại) :
    M d M A A B B  / .

    ;( 2)

    A /
    B
    A B
    M
    M
    d
     + Dựa vào tỉ khối của khí A đối với không khí : M d A A KK  / .29 (3)
    Lưu ý công thức (1) áp dụng cho cả chất rắn, chất lỏng, chất khí.
    Nhưng riêng với chất khí có thể sử dụng công thức (2), (3) để tính khối lượng
    mol. Và với những dữ kiện trên ta chỉ tìm được khối lượng mol của chất . Để
    biết được công thức hóa đúng của chất ta còn phải cần những dữ kiện khác.
    Đây là một kĩ năng rất quan trọng để học sinh làm bài tập hóa học.
    Khi sử dụng phương pháp nghiên cứu bài học dạy bài “Tỉ khối của chất
    khí” học sinh đã biết trả lời được câu hỏi “Bằng cách nào có thể biết được khí
    A nặng hay nhẹ hơn khí B và không khí. Từ vấn đề được đặt ra bằng những
    hiểu biết ban đầu, tiến hành nghiên cứu cách làm để đưa ra những kết quả
    đúng nhất thông qua thảo luận, tính toán, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến
    thức rút ra kết luận. Học sinh chủ động trong lĩnh hội kiến thức, phát triển tư
    duy tạo điều kiện cho học sinh tích cực khai thác, tìm tòi xây dựng kiến thức
    mới từ đó hướng học sinh chủ động xây dựng kiến thức và rèn luyện kĩ năng
    làm bài tập.
    Phương pháp nghiên cứu bài học đã sử dụng thiết bị dạy học theo định
    hướng tích cực là phương tiện hỗ trợ, nguồn kiến thức giúp học sinh tìm tòi,
    15
    nghiên cứu, vận dụng kiến thức để hiểu sâu, nhớ lâu các kiến thức đã học và
    áp dụng các kiến thức này vào giải bài tập có liên quan.
    Tôi đã vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học tích cực: giáo viên chủ
    yếu là người tổ chức, hỗ trợ kết hợp với hình thức học tập đa dạng chú ý tới
    các hoạt động xã hội, nghiên cứu khoa học, trải nghiệm sáng tạo, vào tiết dạy
    giúp học sinh trở thành chủ thể hoạt động tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức
    đồng thời phát triển khả năng giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp, khả năng
    tính toán, khả năng hoạt động nhóm.
    Thông qua các nội dung chuẩn bị trước ở nhà về: hệ thống lại nội dung
    kiến thức, công thức các con đã học cùng với việc tự làm lại các bài tập có
    trong bài đã học … với cách tổ chức giao nhiệm vụ học tập như trên học sinh
    được bồi dưỡng khả năng tự học, tự nghiên cứu tài liệu giúp học sinh củng cố,
    khắc sâu các kiến thức đã học trên lớp, mở rộng nâng cao hiểu biết cho học
    sinh về các lĩnh vực của đời sống xã hội; có ý thức trách nhiệm với bản thân,
    gia đình, nhà trường và xã hội. Từ đó tiếp tục hình thành và phát triển các
    năng lực chủ yếu như: năng lực tự hoàn thiện, năng lực thích ứng, năng lực
    giao tiếp, năng lực hoạt động chính trị – xã hội, năng lực tổ chức quản lí, năng
    lực tự kiểm tra đánh giá kết quảCó thái độ đúng đắn trước những
    vấn đề của cuộc sống, biết chịu trách nhiệm về hành vi của bản thân; đấu
    tranh tích cực với những biểu hiện sai trái của bản thân (để tự hoàn thiện
    mình) và của người khác; biết cảm thụ và đánh giá cái đẹp trong cuộc sống.
    Với cách xây dựng tiết dạy bài tập phương pháp nghiên cứu bài học kết
    hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác nhằm định hướng phát triển
    năng lực học sinh đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo
    dục và đào tạo đúng như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI:“Tiếp
    tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy
    tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức kĩ năng của người
    học; khắc phục lối truyền thị áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung
    16
    dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập
    nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu
    trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội,
    ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
    và truyền thông trong dạy và học”.
    So với cách dạy truyền thống theo cách tiếp cận nội dung thì khi dạy
    tiết “Tỉ khối của chất khí” theo phương pháp nghiên cứu bài học kết hợp với
    các phương pháp dạy học tích cực khác nhằm định hướng phát triển năng lực
    học sinh có những ưu điểm sau:

    Dạy theo cách định hƣớng
    nội dung
    Dạy theo cách định hƣớng năng
    lực
    A. Kiểm tra
    bài cũ
    – Giáo viên yêu cầu học sinh
    viết công thức rồi vận dụng .
    Học sinh nhớ lại công thức
    rồi làm bài tập một cách máy
    móc không có vận dụng
    – Phƣơng pháp dạy học:
    phương pháp thuyết trình,
    phương pháp đàm thoại,
    phương pháp diễn giảng
    thông báo.
    – Phát triển năng lực: năng
    lực sử dụng ngôn ngữ hóa
    học, năng lực giao tiếp.
    – Học sinh tự nhớ lại các công thức
    đã học rồi tự vận dụng làm bài tập.
    Do đó học sinh chủ động trong việc
    lĩnh hội kiến thức. Giáo viên chủ
    yếu là người tổ chức, hỗ trợ, học
    sinh tự lực và tích cực lĩnh hội tri
    thức.
    – Phƣơng pháp dạy học: phương
    pháp đàm thoại, phương pháp dạy
    học phát hiện và giải quyết vấn đề,
    dạy học tích hợp, kí thuật đặt câu
    hỏi.
    – Phát triển năng lực: năng lực sử
    dụng ngôn ngữ hóa học, năng lực
    giải quyết vấn đề, năng lực tự học,
    năng lực tư duy.

    17

    B. Bài mới.
    I.Bằng cách
    nào có thể biết
    được khí A
    nặng hay nhẹ
    hơn khí B ?
    – Giáo viên thông báo cho
    học sinh công thức xác định
    tỉ khối của khí A đối với khí
    B sau đó làm bài tập . Học
    sinh thực hiện theo yêu cầu
    của giáo viên.
    Phƣơng pháp dạy học:
    phương pháp thực hành tính
    toán, phương pháp thuyết
    trình, phương pháp đàm
    thoại, phương pháp đặt và
    giải quyết vấn đề.
    – Phát triển năng lực: năng
    lực sử dụng ngôn ngữ hóa
    học, năng lực giao tiếp, năng
    – Học sinh được bắt tay vào làm bài
    tập dựa vào phần kiến thức đã kiểm
    tra ở phần A, sau đó đưa ra kết
    quả khí oxi nặng hơn khí hiđro và
    nặng hơn 16 lần.
    – Từ đó học sinh biết được dựa vào
    khối lượng mol để so sánh và kết
    quả của tỉ số khối lượng mol của
    khí oxi với khối lượng mol khí
    hiđro được gọi là tỉ khối của khí oxi
    đối với khí hiđro.Học sinh tự xây
    dựng được tỉ khối của khí A đối với
    khí B.
    – Giáo viên có vai trò rất quan trọng
    trong việc định hướng hoạt động
    lĩnh hội kiến thức cho học sinh.
    Qua đó học sinh rút ra được đại
    lượng so sánh và công thức tính .
    -Học sinh vận dụng kiến thưc đã
    học một cách chủ động nên dễ nhớ,
    nhớ lâu.
    – Phƣơng pháp dạy học: phương
    pháp nghiên cứu bài học, phương
    pháp thực hành tính toán, phương
    pháp dạy học phát hiện và giải
    quyết vấn đề, phương pháp hoạt
    đọng nhóm.
    – Phát triển năng lực: năng lực sử
    dụng ngôn ngữ hóa học , năng lực

    18

    lực xử lí thông tin liên quan
    đến bài tập, năng lực thực
    hành tính toán.
    giao tiếp, năng lực xử lí thông tin
    liên quan đến bài tập, năng lực thực
    hành tính toán, năng lực giải quyết
    vấn đề, năng lực vận dụng kiến
    thức vào bài tập, năng lực tự học,
    năng lực hợp tác nhóm.
    II. Bằng cách
    nào có thể biết
    được khí A
    nặng hay nhẹ
    hơn không
    khí ?
    – Giáo viên yêu cầu học sinh
    nêu công thức trong sách
    giáo khoa. Học sinh ghi nhở
    thông tin trả lời nội dung
    trên.
    – Phƣơng pháp dạy học:
    phương pháp đàm thoại,
    phương pháp thuyết trình,
    phương pháp vấn đáp
    . –
    Phát triển năng lực: năng
    lực sử dụng ngôn ngữ hóa
    học, năng lực giao tiếp, năng
    lực giải quyết vấn đề.
    – Giáo viên yêu cầu học sinh làm
    việc cá nhân sau khi đã rút ra công
    thức xác định tỉ khối của khí A đối
    với không khí dựa trên công thức tỉ
    khối của khí A đối với khí B.
    – Giáo viên yêu cầù học sinh tự viết
    công thức sau khi đã xây dựng khối
    lượng mol không khí .
    – Học sinh vận dụng công thức làm
    bài tập, tự giải thích hiện tượng
    trong tự nhiên, cuộc sống và trong
    nghiên cứu.
    – Phƣơng pháp dạy học: phương
    pháp nghiên cứu bài học, dạy học
    tích hợp, phương pháp đàm thoại,
    phương pháp thuyết trình, phương
    pháp vấn đáp.
    – Phát triển năng lực: năng lực sử
    dụng ngôn ngữ hóa học, năng lực
    giải quyết vấn đề, năng lực sáng
    tạo, năng lực tính toán,năng lực vận
    dụng kiến thức hóa học vào bài tập
    , giải thích hiện tượng, năng lực tự
    học, năng lực giao tiếp.

    19
    Khi sử dụng phương pháp nghiên cứu bài học dạy tiết “Tỉ khối của
    chất khí” môn hóa học lớp 8 định hướng phát triển năng lực học sinh đã hình
    thành được những phẩm chất: tự học, trung thực, tự trọng, chí công vô tư; có
    trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước và môi trường tự nhiên; đánh
    giá được hành vi xử sự của bản thân, của người khác theo các chuẩn mực của
    pháp luật, chủ động, tích cực tham gia và vận động người khác tham gia các
    hoạt động tuyên truyền, chấp hành pháp luật và phê phán các hành vi làm trái
    quy định của pháp luật.
    b. Các giải pháp thực hiện sáng kiến
     Cơ sở lí thuyết
    – “Nghiên cứu bài học” là một mô hình bồi dưỡng, phát triển chuyên
    môn nghiệp vụ cho giáo viên bởi những lợi ích to lớn mà nó mang lại cho
    những người tham gia.
    – Mục đích của “Nghiên cứu bài học” là tìm hiểu những gì học sinh
    nghĩ, những gì học sinh tư duy để có những phương pháp dạy cho phù hợp
    chứ không phải là một bài học biểu diễn. Tất cả các thành viên trong nhóm
    đều phải có những đóng góp và các ý tưởng đó cần phải được tôn trọng. Do
    vậy, bài học là thuộc về cả nhóm chứ không phải của riêng người dạy. Như
    vậy khi các thành viên tham gia vào “Nghiên cứu bài học” thì sẽ kết hợp
    được những ưu điểm và cùng hoàn thiện bài học hơn.
    Thông qua “Nghiên cứu bài học” giáo viên cảm thấy tập trung hơn
    vào bài học và tăng sự thích thú trong công việc dạy học của mình.
    “Nghiên cứu bài học” là để cải tiến nội dung dạy học cụ thể nên thông
    qua quá trình hợp tác với các thành viên trong nhóm giúp họ hiểu sâu hơn về
    nội dung kiến thức của bài học vì chính họ phải đào sâu suy nghĩ hơn và được
    bổ sung từ ý kiến của những bạn khác, qua đó năng lực tư duy của họ được
    cải thiện. Giáo viên và học sinh phải cùng nhau thảo luận về những phản ứng
    20
    có thể có ở học sinh trong quá trình học để có những phương pháp dạy học
    cho phù hợp. Như vậy giáo viên có thể dự kiến trước được những kết quả đối
    với một bài học và những phản ứng của các học sinh trong lớp.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Kéo môn Hóa học lại gần hơn với học sinh trong trường THCS

    SKKN Kéo môn Hóa học lại gần hơn với học sinh trong trường THCS

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
    Khổng Tử đã dạy rằng: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà
    học không bằng vui say mà học”.
    Hóa học, một nhánh của khoa học tự nhiên, là ngành nghiên cứu về thành
    phần, cấu trúc, tính chất, và sự thay đổi của vật chất. Hóa học nói về các nguyên
    tố, hợp chất, nguyên tử, phân tử, và các phản ứng hóa học xảy ra giữa những
    thành phần đó. Hóa học đôi khi được gọi là “khoa học trung tâm” vì nó là cầu
    nối các ngành khoa học tự nhiên khác như vật lý học, địa chất học và sinh học.
    Hóa học phát triển từ giả kim thuật, đã được thực hành từ hàng ngàn năm trước
    như ở Trung Hoa, Châu Âu và Ấn Độ. Lịch sử của hóa học có thể được coi như
    bắt đầu từ lúc Robert Boyle tách hóa học từ khoa giả kim thuật trong tác
    phẩm The Skeptical Chemist (Nhà hóa học hoài nghi) vào năm 1661 nhưng
    thường được đánh dấu bằng ngày Antoine Lavoisier tìm ra khí ôxy vào
    năm 1783. Hóa học có bước phát triển mạnh và phân hóa vào thế kỷ 19. Nghiên
    cứu trong hóa học đã phát triển trong thời kỳ chuyển tiếp sang thế kỷ 20 đến
    mức các nghiên cứu sâu về cấu tạo nguyên tử đã không còn là lãnh vực của hóa
    học nữa mà thuộc về vật lý nguyên tử hay vật lý hạt nhân. Tiến bộ trong các
    chuyên ngành khác nhau của hóa học thường là các điều kiện tiên quyết không
    thể thiếu cho những nhận thức mới trong các bộ môn khoa học khác, đặc biệt là
    trong các lãnh vực của sinh học và y học, cũng như trong lãnh vực của vật lý (Ví
    dụ như việc chế tạo các chất siêu dẫn mới). Đối với y học thì hóa học không thể
    thiếu được trong cuộc tìm kiếm những thuốc trị bệnh mới và trong việc sản xuất
    các dược phẩm.
    Hóa học không chỉ là khoa học của những khám phá phát hiện, mà còn là
    khoa học của sự sáng tạo. Hóa học như một bức tranh nghệ thuật về sự phức tạp
    của vật chất. Hóa học hiện diện khắp nơi trong cuộc sống. Hóa học không thích
    phô trương bản thân mình. Nó có mặt xung quanh chúng ta trong những sản
    phẩm nhỏ bé hàng ngày, đồng thời cũng không thể thiếu bóng hóa học trong
    những thành tựu ngoạn mục của thế giới. Người ta đã gọi hóa học là một khoa
    học trung tâm của các khoa học khác, bởi nếu không có hóa học thì không thể có
    những bước đột phá thăm dò vào không gian, không thể có những phát minh
    mới trong điều trị bệnh, không thể có những khám phá kì diệu về công nghệ.
    Hóa học đóng góp rất lớn trong lĩnh vực thực phẩm, thuốc men, năng lượng,
    nguyên vật liệu, vận chuyển và thông tin liên lạc. Nó cung cấp nguyên liệu cho
    lĩnh vực vật lý, các chất cơ bản cho sinh học, dược học cũng như nguyên liệu
    cho các ngành công nghiệp khác. Một thế giới không có hóa học sẽ không có vật
    liệu tổng hợp. Điều đó có nghĩa là sẽ không có những vật dụng hàng ngày chúng
    2
    ta thường sử dụng như: điện thoại, máy tính, quần áo…, và cũng sẽ là một thế
    giới không có aspirin hoặc xà phòng, dầu gội, kem đánh răng, mỹ phẩm, sẽ
    không có giấy rồi không có báo chí, sách, keo hoặc sơn. Không có hóa học, sẽ
    không có các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, điều đó đồng nghĩa với việc
    thiếu lương thực, và không có những loại nước hoa tạo mùi hương quyến rũ.
    Chúng ta cũng không quên rằng, hóa học còn giúp các nhà sử học nghiên cứu về
    các bí mật đằng sau các bức tranh, tác phẩm điêu khắc nghệ thuật, giúp cho các
    nhà khoa học pháp y phân tích mẫu từ một hiện trường gây án, từ đó nhanh
    chóng tìm ra thủ phạm…. Hay như trộn hỗn hợp bột đồng đỏ với thiếc ta được
    một hợp chất giống như vàng, cho lưu huỳnh vào chì hoặc thiếc thì hai kim loại
    này sẽ biến thành màu bạc…
    Tuy nhiên, hóa học lại là môn học mà HS được tiếp xúc khá muộn. Lên
    lớp 8 học sinh bắt đầu được nghiên cứu. Lý do là vì hết chương trình lớp 7, học
    sinh mới được trang bị đầy đủ kiến thức và kĩ năng để có thể nắm bắt lượng kiến
    thức khổng lồ của bộ môn này. Do đó, đây được xem là môn học khó, phức tạp
    theo đánh giá của cả học sinh và giáo viên giàu kinh nghiệm. Với những công
    thức cấu tạo dài cùng hàng trăm dạng bài tập khác nhau sẽ là một thách thức lớn
    đối với các em học sinh trên hành trình chinh phục môn hoá. Thái độ học tập đối
    với môn học của học sinh có thể là một trong những yếu tố quyết định đối với
    hiệu quả học tập môn học. Đặc thù học sinh nơi trường mà tôi đang giảng dạy là
    ở vùng quê nên học sinh ít có điều kiện để tiếp cận các kiến thức hóa học như
    các bạn ở thành phố. Thách thức lớn nhất trong dạy học môn Hóa học là càng
    ngày số học sinh theo học các môn tự nhiên càng ít nên việc tạo hứng thú cho
    học sinh học bộ môn Hóa là không thể đồng đều với tất cả các lớp.
    Trong chương trình hóa học phổ thông thì có nhiều kiến thức khá trừu
    tượng, trong khi có rất nhiều các PTHH, nhiều dạng bài tập đa dạng… rất dễ làm
    HS cảm thấy “học hóa càng ngày càng khó”, HS sẽ nản ngay từ đầu khi vào học
    hóa học, sẽ không chú ý học dẫn đến chất lượng dạy và học môn Hóa học bị ảnh
    hưởng đáng kể. Nghiên cứu cho thấy rằng thái độ học tập của học sinh đóng vai
    trò quan trọng đối với hiệu quả học tập bộ môn. Hơn nữa, hiểu được thái độ học
    tập của học sinh và nguyên nhân gây ra các thái độ đó có thể giúp giáo viên và
    các nhà quản lí điều chỉnh việc dạy học, góp phần nâng cao thái độ theo hướng
    tích cực và từ đó nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học Hóa học. Với hi vọng
    giúp HS ngày càng yêu thích và say mê học tập môn Hóa học, góp phần vào
    việc nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Hóa học ở trường THCS để làm
    nền tảng cho các em học tiếp ở THPT nên tôi chọn nghiên cứu đề tài:
    “ Kéo môn Hóa học lại gần hơn với học sinh trong trường THCS”.
    3
    II. Mô tả giải pháp:
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    – Thực trạng về thái độ học tập môn Hóa học tại trường THCS Nghĩa Lâm.
    Để tìm hiểu thực trạng thái độ học tập của học sinh và nguyên nhân gây ra
    các thái độ đó có thể giúp giáo viên điều chỉnh việc dạy học, góp phần nâng cao
    thái độ theo hướng tích cực và từ đó nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học
    Hóa học, tôi đã tiến hành điều tra HS của 2 lớp 8, 2 lớp 9.
    Thời điểm điều tra: tháng 5 năm học 2018- 2019.
    Số lượng HS điều tra: 128 HS.
    – Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp định tính với công cụ là phiếu
    hỏi gồm hai câu hỏi mở như sau:
    Câu hỏi 1. Em có thích môn Hóa học không? Tại sao?
    (Câu hỏi 1 với mục đích tập trung tìm hiểu về thái độ của học sinh đối với
    môn Hóa học, cụ thể ở đây là “thích”, “ghét” môn Hóa học).
    Câu hỏi 2. Theo em, số lượng học sinh lựa chọn môn Hóa học để học sẽ
    tăng hay giảm? Tại sao?
    (Câu hỏi thứ 2 với mục đích tìm hiểu thái độ có ảnh hưởng đến hành vi)
    – Kết quả thảo luận
    + Thái độ của học sinh trung học cơ sở đối với môn Hóa học
    Trong câu hỏi 1, thái độ được hỏi lên quan đến việc học sinh có “thích” hay
    “không thích” môn Hóa học. Tuy nhiên các câu trả lời của các em về thái độ đối
    với môn học lại khá đa dạng, cho nên tôi phân thành 4 nhóm kết quả như sau:
    – Học sinh có thái độ tích cực
    – Học sinh có thái độ tiêu cực
    – Học sinh cho rằng việc thích hay không thích còn tùy thuộc vào
    hoàn cảnh.
    – Học sinh không trả lời hoặc trả lời “em không biết”.
    Kết quả được biểu thị ở đồ thị sau:
    4
    Biểu đồ 1. Thái độ của học sinh đối với môn Hóa học
    70/128 học sinh ( tỉ lệ 54,69%) cho rằng học sinh đang có những thái độ
    tiêu cực đối với môn Hóa học như “chưa thích”, “không thích”, “ít thích”, “giảm
    thích”, “không đam mê”, “không hứng thú”, “ngán học”, “ngại học” hay “sợ
    học” Hóa học.
    Nguyên nhân chính mà các em đưa ra để lí giải cho thái độ tiêu cực này
    nằm ở ba khía cạnh. Thứ nhất là về chương trình học và phương pháp dạy học
    của giáo viên – lí do này chiếm đa số trong các câu trả lời của học sinh. Chương
    trình Hóa học hiện nay nặng về hàn lâm và khó đối với học sinh. Chương trình
    quá tải về mặt kiến thức lí thuyết trong khi đó lại thiếu ứng dụng thực tế và thực
    hành thí nghiệm. Các bài tập Hóa học phi thực tế, nặng về tính toán, gắn với các
    con số, công thức, phương trình khó nhớ, phức tạp, mang nặng tính toán học,
    không gây được hứng thú cho học sinh. Hơn nữa học sinh chưa thấy được ý
    nghĩa của việc học môn Hóa học, chưa thấy được ích lợi của Hóa học trong cuộc
    sống. Học sinh học môn Hóa học là do sự bắt buộc của chương trình học và
    chương trình thi.
    Lí do thứ hai khiến học sinh không thích học môn Hóa học, theo các em, là
    vì học sinh mất căn bản môn Hóa học từ đầu năm lớp 8. Điều này khiến cho việc
    học Hóa học ở các lớp trên đối với học sinh trở nên khó khăn, và từ đó học sinh
    chán nản với môn Hóa học.
    Khía cạnh thứ ba lí giải cho thái độ quay lưng với môn Hóa học của học
    sinh là sự đổi mới thi cử và lựa chọn ngành nghề ở THPT. Sự ra đời của nhiều
    các khối thi mới bên cạnh khối truyền thống, nhất là A1 đã khiến học sinh
    không còn nhu cầu học Hóa học nữa…
    3.9%
    18.87%
    22.66%
    54.69%
    Tiêu cực
    Tích cực
    Còn tùy
    Em không biết
    5
    29/128 học sinh (tỉ lệ 22,66%) học sinh có thái độ tích cực đối với môn
    Hóa học như “rất thích” hay “thích” Hóa học.
    Những lí do để giải thích cho thái độ tích cực với môn Hóa học như sau:
    Thứ nhất, Hóa học là môn khoa học thực nghiệm. Khi học Hóa học, học
    sinh được làm thí nghiệm và được quan sát các hiện tượng xảy ra, từ đó học sinh
    có hứng thú học tập môn học.
    Thứ hai, khi dạy Hóa học, giáo viên có liên hệ kiến thức với thực tiễn, do
    đó học sinh thấy được sự ứng dụng của Hóa học trong cuộc sống.
    Thứ ba, các môn khoa học tự nhiên vẫn phổ biến và được yêu thích hơn các
    môn khoa học xã hội ở Việt Nam.
    24/128 học sinh (tỉ lệ 18,75%) đưa ra những nhận định lưỡng tính, tức là
    có học sinh thích và không thích Hóa học tùy thuộc vào nhiều yếu tố về mặt
    phương pháp dạy học của giáo viên hay đặc điểm tâm lí và năng lực của chính
    bản thân các em; hoặc là học sinh “thích” Hóa học nhưng vẫn sợ hoặc bây giờ
    “thích” nhưng tương lai sẽ giảm vì các em học đối phó do là môn thi trong bài
    Tổ hợp vào THPT.
    5/128 học sinh (tỉ lệ 3,9%) không đưa ra câu trả lời hoặc trả lời: “ Em
    không biết”.
    Nói tóm lại, Hóa học là môn học vừa được yêu, vừa bị ghét. Nhưng tỉ lệ
    học sinh không thích Hóa học vẫn nhiều hơn học sinh thích môn Hóa học nhìn
    từ góc độ của bản thân tôi – một giáo viên Hóa học. Đồng thời, lý do để học sinh
    thích môn Hóa học phụ thuộc nhiều vào phương pháp giảng dạy của giáo viên
    chẳng hạn học sinh sẽ thích Hóa học hơn khi giáo viên sử dụng thí nghiệm hay
    liên hệ thực tiễn trong dạy học.
    – Xu hướng chọn môn Hóa học của học sinh để học tiếp lên THPT
    Biểu đồ 2. Xu hướng chọn môn Hóa học của học sinh để học tiếp lên THPT
    Số học sinh chọn môn Hóa
    giảm
    Số học sinh chọn môn Hóa không
    giảm
    86,71% Không trả lời
    9,38%
    3,9%
    6
    111/128 học sinh (86,71%) ý kiến cho rằng số học sinh chọn môn Hóa để
    học tiếp lên THPT giảm so với các năm trước. Lí do chủ yếu đã được trình bày ở
    phần trả lời câu hỏi (1). Cụ thể là, với xu thế phát triển của xã hội hiện nay thì
    môn Ngoại ngữ là cần thiết hơn nên đa số các em đã định hướng được sớm thì
    có ý kiến theo khối có Văn, Toán, Ngoại ngữ và thêm môn Vật lí nữa là các em
    thi được hai khối và nhiều trường Đại học.
    Thứ hai, đối với nhiều học sinh, môn Hóa học là môn học khó nhằn, kiến
    thức lại trải rộng và phát triển cao lên ở các lớp trên do đó khó lấy điểm cao, vì
    thế học sinh không chọn.
    Thứ ba, nhiều học sinh đơn giản là không thích học môn Hóa học.
    Trong khi đó, chỉ có 12/128 học sinh (9,38%) cho rằng số lượng học sinh
    chọn môn Hóa học để học tiếp lên THPT “tăng” hay “không thay đổi” hay
    “không giảm nhiều” là vì bố mẹ các em định hướng cho rằng khối A vẫn được
    ưa chuộng vì có nhiều trường Đại học và khối D ( bao gồm: Toán, Hóa, Anh) thi
    theo hình thức trắc nghiệm đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều thí sinh; khối B
    (bao gồm môn Toán học, Sinh học, Hóa học) có trường Y, Dược…
    5/128 học sinh (3,9%) trả lời “Em không biết”.
    – Ý kiến rút ra từ kết quả khảo sát:
    Kết quả khảo sát cho thấy tỉ lệ HS thích học môn Hóa học của nhà trường
    không cao, điều này đặt ra một thách thức lớn cho GV trong quá trình giảng dạy.
    Còn một bộ phận đáng kể HS không thích, thậm chí sợ môn Hóa học.
    Phần lớn HS thích học môn Hóa do có nhiều kiến thức liên hệ thực tiễn,
    các thí nghiệm hấp dẫn, thú vị. Bên cạnh đó, vai trò của GV (cách giảng dạy,
    cách tạo không khí vui vẻ cho lớp…) đóng một phần quan trọng trong việc gây
    hứng thú học tập cho HS. Còn một số lượng HS học Hóa học còn gượng ép do
    những nguyên nhân điểm số, học môn liên quan đến thi vào THPT.
    Khi được hỏi: “Em không thích học môn Hóa học vì lí do gì?” Kết quả cho
    thấy, đa số HS không thích môn Hóa học cho rằng môn hóa rất khó hiểu, khó
    nhớ. Số lượng nghĩ rằng mình bị mất gốc môn hóa là khá nhiều. Điều này hoàn
    toàn phù hợp với chất lượng khảo sát đầu năm học lớp 9 năm học 2019 – 2020
    và chất lượng thi vào THPT bài thi tổ hợp.
    Bảng 1. Kết quả điều tra thái độ tích cực của HS khi học môn Hóa học.
    (trang 7)
    7

    Nội dungThường
    xuyên
    Đôi khibao gi Khôngờ
    Tập trung nghe giảng phát biểu ý kiến40,4%52,4%7,2%
    Lắng nghe câu phát biểu của bạn, sửa
    chữa, bổ sung
    10,8%75,7%13,5%
    Trao đổi với bạn về nội dung, bài tập mà
    em chưa hiểu, chưa làm được
    5,8%79,6%14,6%
    Vận dụng kiến thức hóa học vào giải
    quyết vấn đề thực tiễn
    9,2%53,6%37,2%
    Học lý thuyết trước khi làm bài tập25,6%58,2%16,2%
    Đọc sách giáo khoa để tìm hiểu bài trước8,2%26,5%60,3%
    Đọc thêm tài liệu sách tham khảo để mở
    rộng kiến thức
    2,5%20,4%77,1%
    Tự làm thêm các bài tập ngoài yêu cầu
    của GV
    3,2%21,7%75,1%

    Kết quả điều tra hoạt động tích cực của HS khi học môn Hóa học thể hiện ở
    bảng 1. Từ bảng ở trên cho thấy, chỉ có 40,4% HS thường xuyên tập trung trong
    giờ học. Tỉ lệ HS ít và không phát biểu ý kiến xây dựng bài, không thắc mắc nội
    dung bài chiếm trên 85% cho thấy, thực tế đa số các em tiếp thu kiến thức một
    cách thụ động, chưa có sự hợp tác học hỏi lẫn nhau. Điều này cho thấy môn Hóa
    học chưa thực sự lôi cuốn HS. Có thể là do, các em thấy môn hóa khó, GV chưa
    tạo được sự yêu thích môn hóa cho HS, HS chưa thấy tầm quan trọng của môn
    Hóa học trong cuộc sống.
    Bên cạnh đó, chúng tôi nhận thấy các em chưa chủ động, hứng thú học tập
    môn Hóa học (trên 86% HS chưa tích cực chuẩn bị bài ở nhà; chưa có ý thức
    đọc sách, đọc thêm tài liệu hoặc tự nghiên cứu bài).
    Như vậy, dựa vào kết quả điều tra cho thấy Hóa học là môn học được nhiều
    HS quan tâm, cho rằng môn này lý thú. Tuy nhiên việc gây hứng thú học Hóa
    học cho HS đã được GV quan tâm tuy nhiên việc khai thác và vận dụng nhiều
    biện pháp gây hứng thú cho HS trong quá trình dạy học chưa đạt hiệu quả cao.
    Điều đó dẫn đến HS học tập môn Hóa học còn thụ động chưa tích cực, tự giác,
    8
    khám phá, tìm tòi cũng như nhìn nhận đầy đủ những điều kì diệu mà Hóa học
    mang lại.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
    2.1. Cơ sở lý lí luận
    2.1.1. Khái niệm về thái độ và hứng thú học tập.
    Theo từ điển Tiếng Việt, thái độ là “cách để lộ ý nghĩ và tình cảm trước
    một sự việc, trong một hoàn cảnh, bằng nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động”.
    Theo Từ điển Tâm lí học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên: “Thái độ là mặt
    biểu hiện bề ngoài của ý nghĩa, tình cảm đối với ai hay việc gì thông qua nét
    mặt, cử chỉ, hành động”. Một định nghĩa rất phổ biến trong các nghiên cứu quốc
    tế về thái độ như sau: “Thái độ là một phản ứng mang tính chất đánh giá tích cực
    hay tiêu cực đối với một đối tượng nào đó (người, sự vật, hiện tượng, ý
    tưởng…), thể hiện qua suy nghĩ, cảm xúc hay hành vi dự định”.
    Thái độ luôn hướng đến một đối tượng nào đó. Theo Crano và Prislin
    (2006), “Khi chúng ta có một thái độ, chúng ta nhìn nhận một điều gì đó theo
    những khía cạnh về mặt cảm xúc, tốt hay xấu, có hại hay có lợi, dễ chịu hay khó
    chịu, quan trọng hay không quan trọng. Điều quan trọng là cần nhận thấy những
    đánh giá như vậy luôn luôn hướng về một cái gì đó, một điều gì đó, mà chúng ta
    gọi là đối tượng của thái độ”.
    “Đối tượng” có thể ở bất cứ dạng nào hay là bất kì bản chất nào. Trong
    nghiên cứu này, “đối tượng” được giới hạn ở những khía cạnh khác nhau của
    việc trải nghiệm quá trình học tập Hóa học chính khóa ở trường trung học,
    không phải là việc học Hóa học ngoại khóa cũng không phải là khoa học Hóa
    học ở trong cuộc sống thực.
    Như vậy, đối tượng của thái độ được nghiên cứu là môn Hóa học ở trường
    trung học, và như vậy sẽ có nhiều khía cạnh đa dạng liên quan đến đối tượng
    này bao gồm chương trình, phương pháp dạy và học, giáo viên, kiểm tra đánh
    giá và thi cử liên quan đến môn Hóa học.
    Mặt khác, hứng thú là một thuộc tính tâm lí – nhân cách của con
    người. Hứng thú có vai trò rất quan trọng trong học tập và làm việc, không có
    việc gì người ta không làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. M.Gorki từng
    nói: Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc. Cùng với tự giác, hứng thú
    làm nên tính tích cực nhận thức, giúp học sinh (HS) học tập đạt kết quả cao, có
    khả năng khơi dậy mạch nguồn của sự sáng tạo.
    Có 2 loại hứng thú học tập là hứng thú trực tiếp và hứng thú gián tiếp.
    9
    + Hứng thú trực tiếp trong học tập là hứng thú đối với nội dung tri thức,
    qúa trình học tập và những phương pháp tiếp thu, vận dụng những tri thức đó.
    Như vậy, hứng thú trực tiếp hình thành dựa trên sự say mê của HS đối với môn
    học, cũng như cách thức chiếm lĩnh các tri thức và vận dụng tri thức đó.
    + Hứng thú gián tiếp trong học tập là hứng thú đối với những yếu tố tác
    động bên ngoài như được GV khen, được điểm cao trong học tập. GV giảng vui,
    dễ hiểu, do ảnh hưởng của bạn bè… và sẽ biến mất khi những yếu tố này không
    còn nữa.
    Chính vì tầm quan trọng như vậy, phạm trù cảm xúc (bao gồm thái độ,
    hứng thú, giá trị) là một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng và phổ biến trong cộng
    đồng nghiên cứu giáo dục khoa học quốc tế. Những biện pháp tạo hứng thú
    trong bài viết này xuất phát từ 3 luận điểm cơ bản: Một là: Hiệu quả thực sự của
    việc dạy học môn Hóa học là học sinh biết tự học; tự hoàn thiện kiến thức và tự
    rèn luyện kỹ năng, hai là: Nhiệm vụ khó khăn và quan trọng nhất của GV là làm
    sao cho học sinh thích học bô môn Hóa học, ba là: Dạy học môn Hóa học ở
    THCS phải làm cho HS cảm thấy biết thêm kiến thức của mỗi bài học là có thêm
    những điều bổ ích, lý thú từ một góc nhìn cuộc sống.
    Với ba luận điểm này, tôi quan niệm rằng thực chất của việc dạy học là
    truyền cảm hứng và đánh thức khả năng tự học của người học. Còn nếu quan
    niệm người dạy truyền thụ, người học tiếp nhận thì người dạy dù có hứng thú và
    nỗ lực đến mấy mà chưa truyền được cảm hứng cho HS, chưa làm cho người
    học thấy cái hay, cái thú vị, giá trị chân thực mà tri thức đem lại thì giờ dạy vẫn
    không có hiệu quả. Người học chỉ tự giác, tích cực học tập khi họ thấy hứng thú.
    Hứng thú không có tính tự thân, không phải là thiên bẩm. Hứng thú không tự
    nhiên nảy sinh và khi đã nảy sinh nếu không duy trì, nuôi dưỡng cũng có thể bị
    mất đi. Hứng thú được hình thành, duy trì và phát triển nhờ môi trường giáo dục
    với vai trò dẫn dắt, hướng dẫn, tổ chức của GV. GV là người có vai trò quyết
    định trong việc phát hiện, hình thành, bồi dưỡng hứng thú học tập cho HS.
    Quá trình dạy học gồm 5 thành tố cơ bản: Mục đích dạy học, nội dung dạy
    học, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, phương tiện và thiết bị dạy học,
    kiểm tra đánh giá kết quả học tập.
    Với các thành tố đó, có nhiều nhóm biện pháp tạo hứng thú học tập cho
    học sinh và chúng thuộc những bình diện khác nhau của quá trình dạy học. Có
    biện pháp tác động vào việc trình bày mục tiêu bài học, có biện pháp tác động
    vào nội dung dạy học, có biện pháp tác động vào phương pháp, hình thức tổ
    chức dạy học, có biện pháp tác động vào phương tiện, thiết bị dạy học, có biện
    10
    pháp tác động vào kiểm tra đánh giá (bao gồm cả nhận xét), tác động vào quan
    hệ tương tác thân thiện giữa thầy – trò, trò – trò…
    2. 1.2. Những thành tố tâm lý tâm lý cấu thành hứng thú học tập.
    – Xúc cảm: Là sự rung động được tạo ra khi do các em có những tình cảm
    nhất định khi tiếp xúc với môn hóa học.
    – Nhận thức: là HS nhận biết tại sao mình thích môn Hóa học.
    – Hành động:
    + Ý thức, tính tự giác, quyết tâm dồn sức lực trí tuệ để hành động nhằm
    đạt được mục đích của mình đó là ý chí. Ý chí có một vai trò lớn trong việc giúp
    HS vượt qua những khó khăn khi tiếp thu tri thức hay khi gặp bài tập khó.
    Động cơ học tập sẽ thôi thúc HS suy nghĩ hành dộng, giúp kích thích và
    duy trì hứng thú học tập ở HS,
    + Tính tích cực nghĩa là hăng hái, năng nổ với công việc. Tính tích cực
    tạo điều kiện cho việc tìm tòi và làm xuất hiện niềm vui trong hoạt động học tập,
    Khi hứng thú học tập xuất hiện sẽ nâng cao tính tích cực và hiệu quả lĩnh hội tri
    thức, kĩ năng và kĩ xảo.
    2.1.3. Sự hình thành và phát triển hứng thú học tập
    Trong quá trình phát triển cá thể, hứng thú học tập được hình thành và phát
    triển qua 3 giai đoạn sau:
    – Giai đoạn 1: Kích thích hứng thú học tập cho HS.
    – Giai đoạn 2: Hứng thú học tập được duy trì.
    – Giai đoạn 3: Hứng thú học tập trở nên bền vững. .
    Để hình thành hứng thú học tập, việc tổ chức hoạt động nhận thức phải
    thường xuyên chủ động, gắn liền với các mức độ phát triển của nó. Do đó các
    nhà sư phạm phải hiểu rõ các giai đoạn phát triển của loại hứng thú này.
    2.1.4. Một số đặc điểm của hứng thú học tập
    – Trong hứng thú tồn tại một sự kết hợp hữu cơ giữa các quá trình trí tuệ
    với các quá trình tình cảm – ý chí của HS.
    – Hứng thú học tập, lúc đầu hướng tới nội dung tri thức khoa học của môn
    học, sau đó tới các phương pháp khám phá ra nội dung đó.
    – Hứng thú học tập dần có tính bền vững và có tính không bão hòa.
    – Hứng thú học tập là động lực thúc đẩy HS tích cực nghiên cứu đối tượng
    trong phạm vi của nó.
    11
    2.1.5. Các biểu hiện của hứng thú học tập
    Hứng thú học tập được biểu hiện thông qua các dấu hiệu, các chỉ số cụ thể
    trong hoạt động học tập, trong cuộc sống của các em. Nhà giáo dục có thể quan
    sát và nhận biết được chúng. Những biểu hiện này khá phong phú, đa dạng và
    nhiều khi còn phức tạp, chúng có thể đan xen vào nhau:
    – Biểu hiện về mặt xúc cảm: HS có xúc cảm tích cực (yêu thích, say mê…)
    đối với môn học như có niềm vui trong quá trình lĩnh hội kiến thức, mong chờ
    tiết học và luyến tiếc khi tiết học kết thúc…
    – Biểu hiện về mặt nhận thức: HS nhận thức đầy đủ, rõ ràng nguyên nhân
    của sự yêu thích môn học như nội dung môn học hấp dẫn, phương pháp khám
    phá kiến thức hấp dẫn, vai trò của môn học có ý nghĩa trong cuộc sống…
    – Biểu hiện về mặt hành động: HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo
    không chỉ trong giờ lên lớp mà còn ở cả ngoài giờ học hàng ngày như:
    * Trong giờ lên lớp:
    + Say mê học tập, chú ý nghe giảng.
    + Ghi chép bài đầy đủ, cẩn thận.
    + Tích cực suy nghĩ, hăng hái phát biểu xây dựng bài, trao đổi ý kiến với
    bạn bè, với GV.
    + Tích cực làm việc cùng nhóm để hoàn thành nhiệm vụ.
    * Ở ngoài lớp và ở nhà:
    + Độc lập và tự giác trong việc học tập.
    + Học bài và làm bài đầy đủ.
    + Tự giác làm thêm các bài tập ngoài yêu cầu của GV.
    + Tự sưu tầm, đọc thêm nhiều tài liệu, sách báo tham khảo có liên quan đến
    môn học.
    + Tự tổng kết từng phần, những chương mục đã học và tìm ra mối liên hệ
    bên trong giữa chúng.
    + Từng bước tập vận dụng những kiến thức môn học vào thực tiễn.
    + Cố gắng giải nhanh và tìm nhiều cách giải các bài tập…
    – Biểu hiện về mặt học tập: Kết quả học tập đạt loại khá, giỏi.
    2.1.6. Tác dụng của hứng thú học tập
    Chính hứng thú học tập mang lại một số tác dụng đặc biệt như:
    12
    – Là yếu tố cần thiết cho sự phát triển nhân cách, tri thức và nhận thức của
    học sinh.
    – Làm chỗ dựa cho sự ghi nhớ, cho phép HS duy trì sự chú ý thường
    xuyên và cao độ vào nhận thức bài học.
    – Làm cho hoạt động học trở nên hấp dẫn hơn vì các em được duy trì trạng
    thái tỉnh táo của cơ thể, giúp HS phấn chấn, vui tươi hơn, học tập lâu mệt mỏi.
    – Ảnh hưởng đến tính chất, cường độ, diễn biến kết quả của dạy và học
    giúp cho hiệu quả của hoạt động này được nâng cao.
    – Tạo ra và duy trì tính tích cực nhận thức, tích cực hoạt động tiếp thu, tìm
    hiểu kiến thức.
    – Giúp điều khiển hoạt động định hướng vì chính cảm xúc hứng thú tham
    gia điều khiển tri giác và tư duy.
    – Đóng vai trò trung tâm, tạo cơ sở, động cơ trong các hoạt động nghiên
    cứu sáng tạo.
    – Góp phần quan trọng trong sự phát triển kĩ năng, kĩ xảo và trí tuệ HS,
    làm cho hiệu quả của hoạt động học tập được nâng cao.
    2.2. Một số biện pháp nhằm nâng cao hứng thú học tập môn Hóa học trong
    trường THCS.
    Luật Giáo dục, điều 24, đã ghi: “Biện pháp giáo dục phổ quát phải phát
    huy tính hăng hái, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; ăn nhập với đặc
    điểm của từng lớp học, môn học; bồi bổ biện pháp tự học, rèn luyện năng lực áp
    dụng tri thức vào thực tiễn; tác động đến tính cách, đem lại niềm vui, hứng thú
    học hỏi cho học sinh”. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho mỗi nhà giáo dục là tìm ra và
    đổi mới PPDH và sử dụng kĩ thuật dạy học phù hợp, hiện đại để bồi dưỡng năng
    lực sáng tạo, kích thích niềm đam mê, hứng thú học tập cho HS, phát hiện và bồi
    dưỡng nhân tài cho đất nước. Sau đây là một số biện pháp nhằm nâng cao hứng
    thú học tập môn Hóa học cho HS mà tôi đã áp dụng.
    2.2.1. Sử dụng phim/video mô phỏng
    Hóa học có thể giải thích hầu hết các hiện tượng trong cuộc sống nhưng
    không phải hầu hết chúng đều có thể diễn tả bằng lời, mô tả, biểu diễn một cách
    trực diện.Vì thế, sử dụng phim mô phỏng là sự lựa chọn thông minh để diễn tả
    những quá trình vi mô, vĩ mô phức tạp. Đặc biệt, phần kiến thức những chương
    đầu của môn Hóa học có nhiều kiến thức trừu tượng. Để giúp HS dễ tưởng
    tượng và tiếp thu kiến thức một cách dễ hơn, thì việc sử dụng phim/video mô
    13
    phỏng là một giải pháp hợp lý. HS sẽ hứng thú với những hình ảnh minh họa vui
    nhộn, gần gũi với các em.
    Dưới đây là một số video tôi sưu tầm được từ internet qua kênh you tube
    và đã sử dụng trong quá trình dạy học hóa học ở trường THCS:
    – Khi bắt đầu dạy Hóa 8, ngay ở tiết học đầu tiên tôi cho học sinh được làm
    quen với bộ môn hóa học bằng cách cho học sinh xem các video về:
    + Top 10 phản ứng hóa học hay nhất thế giới – Hóa online
    https://www.youtube.com/watch?
    + Hóa học & Cuộc sống – tập 1 [Vietsub]-
    https://www.youtube.com/watch?
    + Phương pháp học tập môn Hóa học – 1phut30giayhttps://www.youtube.com/watch?
    – Khi dạy bài 4: “Nguyên tử” Môn Hóa học 8 có thể dùng 3 video sau:
    + Sự tìm ra electron: https://www.youtube.com/watch?v=7m7ja2AGc6g:
    + Sự tìm ra proton. https://www.youtube.com/watch?v=IT7K1MYr_6g
    + Sự chuyển động của electron, lớp electron, phân lớp electron:
    https://www.youtube.com/watch?v=fm2C0ovz-3M:
    – Khi dạy bài 12 + 13 – Hóa 8. “ Sự biến đổi chất – Phản ứng hóa học” sử
    dụng video:
    + Top 15 thí nghiệm cực hay có thể làm tại nhà-
    https://www.youtube.com/watch?
    + 11 Thí Nghiệm Hóa Học Hấp Dẫn – https://www.youtube.com/watch?
    – Khi dạy bài “oxi” có thể dùng video
    + Nguyên tố oxi
    – Khi dạy xong “Một số oxit quan trọng” – Hóa học 9 để giúp HS dễ hình
    dung về sự hình thành mưa axit có thể dùng video
    + Các quá trình của mưa axit:
    https://www.youtube.com/watch?v=UOM-C6qk8Sc
    https://www.youtube.com/watch?v=Y6jmrPE_iBg
    – Khi dạy xong “Các oxit của Cacbon” – Hóa học 9 để giúp HS dễ hình
    dung về sự hình thành hiệu ứng nhà kính có thể dùng video
    + [G-Sub] Hiệu ứng nhà kính là gì?_Nhóm Gia Đình-
    14
    https://www.youtube.com/watch?
    – Khi dạy bài : “Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học” sử dụng video
    + Sự hình thành và phát triển của BTH :
    https://www.youtube.com/watch?v=JIeH-HXKdVs……….
    2.2.2. Một số hình thức dạy học nhằm nâng cao hứng thú học tập môn Hóa
    cho học sinh THCS.
    2.2.2.1. Sử dụng thơ ca.
    PGS.TS Nguyễn Xuân Trường -Tổng chủ biên SGK và là tác giả của hơn
    60 đầu sách về Hóa học đã phân tích: “Học mà chưa cảm thấy vui thì chưa gọi là
    học. Một trong các cách để lôi cuốn, học phải thấy vui đó là nên ‘thơ hóa’ nội
    dung học tập. Tức là soạn thành những câu thơ có vần điệu”. Để giờ học thật sự
    là những trải nghiệm bổ ích, kiến thức hóa học thực sự không hề khô khan, hơn
    nữa để giúp HS có thể nhớ kiến thức hóa học một các dễ dàng, tôi đã sưu tầm
    một số các bài thơ vui liên quan đến bài học có thể đọc cho các em nghe hoặc
    cung cấp cho HS.
    Nhằm giúp học sinh ghi nhớ kiến thức hóa học, tôi cho học sinh có thể
    thuộc các bài thơ sau:
    BÀI CA KÍ HIỆU HOÁ HỌC
    Ca là chú Can xi
    Ba là cậu Bari họ hàng
    Au tên gọi là Vàng
    Ag là Bạc cùng làng với nhau
    Viết Đồng C trước u sau
    Pb mà đứng cùng nhau là Chì
    Al đấy tên gì?
    Gọi Nhôm bác sẽ cười khì mà xem
    Cacbon vốn tính nhọ nhem
    Kí hiệu C đó bạn đem nhóm lò
    Oxy O đấy lò dò
    Gặp nhau hai bạn cùng hò cháy to
    Cl là chú Clo
    Lưu huỳnh em nhớ viết cho S (ét sờ).
    Zn là Kẽm khó gì
    Na gọi Natri học hàng
    Br thật rõ ràng
    Brom “người ấy” cùng làng Gari (Ga)
    15
    Fe chẳng khó chi
    Gọi tên là sắt em ghi ngay vào
    Hg chẳng khó tí nào
    Thuỷ ngân em đọc tự hào chẳng sai

    Bài ca nhắc bạn xa gần
    Học chăm để nhớ khi cần viết ra.
    BÀI CA NGUYÊN TỬ KHỐI 1
    Hai ba Natri (Na=23)
    Nhớ ghi cho rõ
    Kali chẳng khó
    Ba chín dễ dàng (K=39)
    Khi nhắc đến Vàng
    Một trăm chín bảy (Au=197)
    Oxi gây cháy
    Chỉ mười sáu thôi (O=16)
    Còn Bạc dễ rồi
    Một trăm lẻ tám (Ag =108)
    Sắt màu trắng xám
    Năm sáu có gì (Fe=56)
    Nghĩ tới Beri
    Nhớ ngay là chín (Be=9)
    Gấp ba lần chín
    Là của anh Nhôm (Al=27)
    Còn của Crôm
    Là năm hai đó (Cr=52)
    Của Đồng đã rõ
    Là sáu mươi tư (Cu =64)
    Photpho không dư
    Là ba mươi mốt (P=31)
    Hai trăm lẻ một
    Là của Thủy Ngân (Hg=201)
    Chẳng phải ngại ngần
    Nitơ mười bốn (N=14)
    Hai lần mười bốn
    Silic phi kim (Si=28)
    16
    Can xi dễ tìm
    Bốn mươi vừa chẵn (Ca=40)
    Mangan vừa vặn
    Con số năm lăm (Mn=55)
    Ba lăm phẩy năm
    Clo chất khí (Cl=35.5)
    Phải nhớ cho kỹ
    Kẽm là sáu lăm (Zn=65)
    Lưu huỳnh chơi khăm
    Ba hai đã rõ (S=32)
    Chẳng có gì khó
    Cacbon mười hai (C=12)
    Bari hơi dài
    Một trăm ba bảy (Ba=137)
    Phát nổ khi cháy
    Cẩn thận vẫn hơn
    Khối lượng giản đơn
    Hiđrô là một (H=1)
    Còn cậu Iốt
    Ai hỏi nói ngay
    Một trăm hai bảy (I=127)
    Nếu hai lẻ bảy
    Lại của anh Chì (Pb =207)
    Brôm nhớ ghi
    Tám mươi đã tỏ (Br = 80)
    Nhưng vẫn còn đó
    Magiê hai tư (Mg=24)
    Chẳng phải chần trừ
    Flo mười chín (F=19).
    BÀI CA HÓA TRỊ HÓA HỌC LỚP 8
    Hidro (H) cùng với liti (Li)
    Natri (Na) cùng với kali (K) chẳng rời
    Ngoài ra còn bạc (Ag) sáng ngời
    Chỉ mang hoá trị I thôi chớ nhầm
    Riêng đồng (Cu) cùng với thuỷ ngân (Hg)
    Thường II ít I chớ phân vân gì
    17
    Đổi thay II , IV là chì (Pb)
    Điển hình hoá trị của chì (Pb) là II
    Bao giờ cũng hoá trị II
    Là ôxi (O) , kẽm(Zn) chẳng sai chút gì
    Ngoài ra còn có canxi (Ca)
    Magiê (Mg) cùng với bari (Ba) một nhà
    Bo (B) , nhôm (Al) thì hóa trị III
    Cácbon (C) silic (Si) thiếc (Sn) là IV thôi
    Thế nhưng phải nói thêm lời
    Hóa trị II vẫn là nơi đi về
    Sắt (Fe) II toan tính bộn bề
    Không bền nên dễ biến liền sắt (Fe) III
    Phốtpho (P) III ít gặp mà
    Photpho (P) V chính người ta gặp nhiều
    Nitơ (N) hoá trị bao nhiêu ?
    I , II, III , IV phần nhiều tới V
    Lưu huỳnh (S) lắm lúc chơi khăm
    Khi II lúc IV , VI tăng tột cùng
    Clo (Cl), Iot (I) lung tung
    II, III, V, VII thường thì I thôi
    Mangan (Mn) rắc rối nhất đời
    Đổi từ I đến VII thời mới yên
    Hoá trị II dùng rất nhiều
    Hoá trị VII cũng được yêu hay cần
    Bài ca hoá trị thuộc lòng
    Viết thông công thức đề phòng lãng quên
    Học hành cố gắng cần chuyên
    Siêng ôn chăm luyện tất nhiên nhớ nhiều
    THƠ VỀ HIDROCACBON
    Hiđrô Cacbon no em nhớ nhé
    Vừa có nối đơn vừa đủ Hiđrô
    Không tham gia phản ứng cộng bao giờ
    Chỉ có cháy và Clo thay thế
    Trước Brom chúng làm ngơ triệt để
    Bởi no đủ nên không hoạt động không nhiều
    Êtilen đứa em cùng dòng giống
    18
    Kém chị vừa 2 tuổi một nối đôi
    Nhưng tính tình đanh đá lôi thôi
    Bởi vậy nên làm Brôm phai sắc
    Rất thích cộng và cũng hay trùng hợp
    Bởi chưa no nên hoạt động hơi nhiều
    Axêtilen tuổi 18 đương yêu
    Bắt cá 3 tay nên không bền vững
    Lửa yêu thương trên 3000 độ nóng
    Vừa đủ Ôxi nên bị nổ tan tành
    Làm Brôm mất màu rất nhanh
    Gặp chàng Hiđrô em quay về tính chị
    Nhựa P.V.C khó gì đâu em nhỉ
    Clorua vinyl trùng hợp mà nên
    Còn lại cuối cùng là chàng bezen
    Vòng sáu cạnh ba đôi ba đơn xen kẽ
    Dễ thế khó cộng do vòng kín kẽ
    Vẫn cháy như thường khi gặp khí oxi
    THƠ VỀ TÍNH TAN CỦA MUỐI
    Tính tan của muối
    Loại muối tan tất cả
    là muối ni tơ rat
    Và muối a xê tat
    Bất kể kim loại nào
    *
    Những muối hầu hết tan
    Là clorua, sunfat
    Trừ bạc chì clorua
    Bari, chì sunfat
    *
    Những muối không hoà tan
    Cacbonat , photphat
    Sunfua và sunfit
    Trừ kiềm, amoni.
    19
    – Để học sinh ghi nhớ dãy hoạt động hóa học của kim loại:
    Câu nói huyền thoại dành cho ai học mãi không thuộc
    dãy hoạt động hóa học của kim loại
    – Khi học về công thúc cấu tạo của hợp chất hữu cơ ở lớp 9, GV có thể cho kích
    thích HS tên của 10 ankan đầu tiên:
    + Các cách đọc:
    Mẹ em phải bón phân hoá học ở ngoài đồng
    Mê em nên phải bao phen hồi hộp . Ôi người đẹp!
    Mẹ em phải bưng phở hì hụp ở ngoài đường
    Mắt em phai buồn phút hoàng hôn ở nơi đó.
    2.2.2.2. Sử dụng câu đố.
    – Đố “ Đó là chất gì?” Đố các bạn biết được:
    Tên của tớ là gì?
    Chỉ cần nhắc đến tớ
    Dây tóc bóng đèn mừng vui.
    ( Wonfam)
    20
    Bốn “H” vây ở bốn bên
    “Cờ” nằm chính giữa tạo nên chất gì?
    Đố phụ lão, đố thiếu nhi
    Công thức cấu tạo viết đi ra liền.
    (Metan – CH4)
    Huy chương đứng thứ ba
    Sao tên hiệu đặt như là bé trai
    Dẫn điện, dẫn nhiệt cao tài
    Là gì ai biết, đố ai đáp liền.
    (Đồng – Cu)
    Axit gì không bền
    Có tên không thấy mặt
    Điều chế muối cho kiềm
    Cùng oxit tương tác
    Có thể cho đáp bằng thơ
    (Axit cacbonic – H2CO3).
    Axit gì cùng sắt
    Tạo muối sắt II, III
    Tùy điều kiện dung dịch
    Còn làm sắt trơ ra.
    (Axit sunfuric – H2SO4).
    Khí gì là khí thải
    Gây hiệu ứng nóng lên
    Hạn chế ngay bạn nhé
    Để cuộc sống vững bền?
    (Khí cacbonic – CO2).
    Khí gì mà phân tử
    Có một liên kết đôi
    Một chút dùng kích thíc

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Dạy học trong việc hình thành phát triển năng lực môn Giáo dục công dân ở trường trung học cơ sở

    SKKN Dạy học trong việc hình thành phát triển năng lực môn Giáo dục công dân ở trường trung học cơ sở

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
    giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Nghĩa là từ chỗ
    quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng
    được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành
    công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy
    cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và
    phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm
    tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề,
    coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra đánh giá trong quá trình
    học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động
    dạy học và giáo dục.
    Trong quan niệm dạy học phát triển năng lực giáo viên chủ yếu là người tổ
    chức, hỗ trợ học sinh tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức. Chú trọng sự phát triển khả
    năng giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp, sử dụng các quan điểm, phương pháp và
    kỹ thuật dạy học tích cực… Một giờ học tốt là một giờ học phát huy được tính tích
    cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri
    thức, bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi
    dưỡng phương pháp tự học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng
    thú học tập cho người học. Ngoài những yêu cầu có tính chất truyền thống như: bám
    sát mục tiêu giáo dục, nội dung dạy học, đặc trưng môn học; phù hợp với đặc điểm
    tâm sinh lí lứa tuổi học sinh (HS); dạy học phát triển năng lực còn có những yêu cầu
    mới như: được thực hiện thông qua việc GV tổ chức các hoạt động học tập cho HS
    theo hướng chú ý đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, khả năng tự học, nhu cầu
    hành động và thái độ tự tin; được thực hiện theo nguyên tắc tương tác nhiều chiều:
    giữa GV với HS, giữa HS với nhau (chú trọng cả hoạt động dạy của người dạy và
    hoạt động học của người học). Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ cách dạy học nào cũng
    phải đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ học tập dưới
    sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
    Xác định việcđổi mới phương pháp dạy và học,phát triển năng lựcnhằm
    phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của học
    sinh; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc; tăng cường kỹ
    năng vận dụng kiến thức; tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học;
    bảo đảm cân đối giữa trang bị kiến thức, rèn luyện kỹ năng và định hướng thái độ,
    hành vi cho học sinh; chú ý việc tổ chức dạy học phân hoá theo năng lực của học
    sinh dựa theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của Chương trình giáo dục phổ thông.Đặc
    biệt môn Giáo dục công dân giữ vai trò chủ chốt trong việc giáo dục cho học sinh
    ý thức và hành vi của công dân, góp phần hình thành và phát triển ở các em những
    phẩm chất và năng lực cần thiết của công dân trong một xã hội công bằng, dân
    1
    chủ, văn minh, giáo dục các em trở thành những người công dân toàn cầu hòa
    nhập với sự phát triển của thế giới, nhất là trong bối cảnh “bùng nổ thông tin”,
    “cuộc sống số” và đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng 4.0
    hiện nay. Xuất phát từ những yêu cầu đó tôi đã chọn đề tài: “Dạy học trong việc
    hình thành phát triển năng lực môn Giáo dục công dân ở trường trung học cơ sở”
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Từ thực tế giảng dạy, bản thân nhận thấy sự sáng tạo trong việc đổi mới
    phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự học của học sinh ở môn GDCD
    chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức. Việc rèn luyện kỹ năng
    chưa được quan tâm. Hoạt động kiểm tra, đánh giá chưa thực sự khách quan, chính
    xác (chủ yếu tái hiện kiến thức), chú trọng đánh giá cuối kỳ chưa chú trọng đánh
    giá quá trình. Tất cả những điều đó dẫn tới học sinh học còn thụ động, lúng túng
    khi giải quyết các tình huống trong thực tiễn. Điều đó thể hiện ở những tồn tại sau:
    – Dạy học tích hợp đã được chú trọng, tuy nhiên, dạy học tích hợp vẫn mang
    tính khiên cưỡng, nội dung tích hợp vào bài học như bảo vệ môi trường, giáo dục
    kỹ năng sống… một cách cứng nhắc. Chưa làm cho học sinh huy động kiến thức,
    kỹ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực… để giải quyết các nhiệm vụ học tập.
    Việc tích hợp nội môn và tích hợp liên môn chưa thực sự hiệu quả, chính vì vậy
    chưa giúp học sinh hình thành kiến thức, kỹ năng mới và tất nhiên các năng lực
    của học sinh chưa được phát triển.
    – Việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực còn mang
    tính hình thức. Phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức ở các lớp thực hiện
    chương trình SGK hiện hành nhưng chủ yếu vẫn dựa vàomột vài cá nhân học sinh
    tích cực tham gia, các thành viên còn lại còn dựa dẫm, ỉ lại chưa thực sự chủ động.
    Mục đích của thảo luận nhóm chưa đạt được tính dân chủ, mọi cá nhân được tự do
    bày tỏ quan điểm, thói quen bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng để hình
    thành quan điểm cá nhân.
    – Mặc dù đã có giáo viên thực hiện thay đổi phương pháp dạy học, thay đổi
    cách thức tổ chức giờ nhằm đạt mục tiêu dạy học phát triển năng lực cho học sinh
    song kết quả chưa đạt được như mong muốn mà nguyênnhân là:
    + Về phía giáo viên: Việc đổi mới phương pháp dạy học cũng không được
    thực hiện một cách triệt để, vẫn còn nặng về phương pháp truyền thống, có đổi mới
    song chỉ dừng lại ở hình thức, chưa đi sâu vào thực chất nhằm giúp khai thác kiến
    thức một cách có chiều sâu; việc hiểu hết bản chất của nhóm năng lực chung và
    năng lực chuyên biệt ở môn GDCD ở một vài GV vẫn còn hạn chế. Lý do không
    2
    nhỏ là GV chuyên giảng dạy môn GDCD THCS còn đếm trên đầu ngón tay, chủ
    yếu là GV dạy kiêm nhiệm, chéo ban.
    + Về phía học sinh: chủ yếu sinh sống vùng nông thôn, tr×nh ®é d©n trÝ ch-a
    caonên việc tiếp cận và tìm tòi những thông tin thời sự phục vụ cho bài học còn hạn
    chế. Một số học sinh chưa có phương pháp học tập phù hợp, chưa tích cực trong
    việc tìm tòi nghiên cứu bài học nên chưa đảm bảo các năng lực.
    Trước thực trạng trên, tôi mạnh dạn đưa sáng kiến về việc “Dạy học trong
    việc hình thành phát triển năng lực môn Giáo dục công dân ở trường trung học cơ
    sở”.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1. Những định hướng chung
    Tổ chức dạy học nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực, phẩm
    chất cũng không phải là mới. Bởi trong quá trình dạy học, chúng ta không chỉ chú ý
    tích cựchóa học sinh về mặt trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn
    đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt
    động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong
    nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan
    trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ
    năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập phức
    hợp nhằm phát triển năng lực giải Tuy nhiên, quá trình tổ chức dạy học để phát huy
    năng lực cá nhân, tạo điều kiện cho học sinh được sáng tạo và tương trợ lẫn nhau
    trong học tập thì mỗi tiết học cần sự thay đổi và thay đổi cụ thể trong mỗi giáo
    viên. Một thay đổi cần làm cụ thể, thiết thực và quan trọng để dạy học hình thành,
    phát triển phẩm chất, năng lực của cá nhân.
    Trước hết, ta cần hiểu năng lực của con người là gì?Theo từ điển Tiếng Việt:
    Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một
    hoạt động nào đó. Hoặc: Năng lực là khả năng huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ
    năng để thực hiện thành công một loại công việc trong một bối cảnh nhất định.
    Năng lực gồm có năng lực chung và năng lực đặc thù. Năng lực chung là năng lực
    cơ bản cần thiết mà bất cứ người nào cũng cần phải có để sống và học tập, làm
    việc. Năng lực đặc thù thể hiện trên từng lĩnh vực khác nhau như năng lực đặc thù
    môn học là năng lực được hình thành và phát triển do đặc điểm của môn học đó
    tạonên.
    Vậy dạy học phát triển phẩm chất, năng lực là thế nào? Đó là cách dạy người
    học được xem như một nội dung giáo dục, một phương pháp giáo dục như phương
    pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh.
    Điểm khác nhau giữa các phương pháp là ở chỗ dạy học phát triển phẩm chất, năng
    lực người học có yêu cầu cao hơn, mức độ khó hơn, đòi hỏi người dạy phải có
    3
    phẩm chất, năng lực giảng dạy nói chung cao hơn trước đây. Điều quan trọng hơn
    cả là nếu so sánh với các quan niệm dạy học trước đây, việc dạy học phát triển
    phẩm chất, năng lực sẽ làm cho việc dạy và việc học được tiếp cận gần hơn, sát
    hơn với mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách con người…
    Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và
    phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông
    tin…), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy.
    Có thể lựa chọn một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp
    đặc thù của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào
    cũng phải đảm bảo được nguyên tắc: “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận
    thức với tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
    Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với hình thức dạy học. Tùy theo
    mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình thức tổ chức thích
    hợp như học cá nhân, học nhóm; trong lớp học, ngoài lớp học… Cần chuẩn bị tốt về
    phương pháp đối với các giờ thực hành để đảm bảo yêu cầu rèn luyện kỹ năng thực
    hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nâng cao hứng thú cho người học.
    Cần sử dụng đủ, hiệu quả các thiết bị dạy học môn học tối thiếu đã quy định.
    Có thể sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm nếu xét thấy cần thiết với nội dung học và
    phù hợp với đối tượng học sinh. Tích cực vận dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
    2.2. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh thể hiện ở các nội
    dung:
    – Trong soạn
    – Trong giảng
    – Trong kiểm tra đánh giá.
    2.3. Yêu cầu cụ thể
    2.3.1. Trong soạn:
    Thiết kế bài giảng ngắn gọn, đầy đủ các bước lên lớp quy định, sắp xếp hợp
    lý hoạt động của giáo viên và học sinh (đặc biệt cần có hoạt động dẫn dắt vào bài,
    chuyển hoạt động để tạo hứng thú học tập cho học sinh). Ở mỗi bài học trên cơ sở
    chuẩn KT-KN cần xác định rõ các năng lực cần đạt để từ đóxây dựng hệ thống câu
    hỏi phù hợp với đối tượng học sinh và nội dung bài học, tăng cường các loại câu
    hỏi kích thích tư duy để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo cũng như các
    năng lực của học sinh trong quá trình học tập.
    Trong phần Mục tiêu bài dạy, giáo viên phải xác định rõ trọng tâm kiến
    thức, kỹ năng, thái độ và các năng lực cần đạt; phần Dạy bài mới phải thể hiện
    rõ các hoạt động của giờ dạy (gồm công việc cụ thể của giáo viên, học sinh) và
    các yêu cầu cần đạt; phần chuẩn bị và dặn dò học sinh: phải nêu rõ những yêu cầu
    4
    thật cụ thể đối với giáo viên và học sinh để chuẩn bị cho bài học, các công việc
    cần làm ở nhà; Mục đích cuối cùng là học sinh đạt được mục tiêu bài học trên tất
    cả các mặt kiến thức, kỹ năng và thái độ và phát huy được các năng lực trong quá
    trình học tập.
    Các năng lực của học sinh ở các bộ môn:
    * Các năng lực chung (Cho tất cả các bộ môn):
    – Năng lực tự học
    – Năng lực giải quyết vấn đề
    – Năng lực tư duy sáng tạo
    – Năng lực tự quản lí
    – Năng lực giao tiếp
    – Năng lực hợp tác
    – Năng lực truyền thông và sử dụng công nghệ thông tin
    – Năng lực sử dụng ngôn ngữ
    – Năng lực tính toán
    * Năng lực chuyên biệt các môn GDCD
    – Năng lực tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và
    chuẩn mực đạo đức xã hội
    – Năng lực tự chịu trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm công dân đối với cộng đồng.
    – Năng lực giải quyết các vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị và xã hội
    *Cấu trúc giáo án dạy học phát huy năng lực:
    Giáo án (kế hoạch bài học) được điều chỉnh cụ thể hơn so với truyền thống.
    Có thể có nhiều cấu trúc để thiết kế một kế hoạch dạy học (giáo án). Sau đây là
    một cấu trúc giáo án có các hoạt động và mục tiêu cụ thể….
    Mục tiêu bài học:
    + Nêu rõ yêu cầu HS cần đạt về KT, KN, thái độ;
    + Các mục tiêu được biểu đạt bằng động từ cụ thể, có thể lượng hoá
    được.Chuẩn bị về phương pháp và phương tiện dạy học:
    + GV chuẩn bị các thiết bị dạy học (tranh ảnh, mô hình, hiện vật, hoá
    chất…), các phương tiện dạy học (máy chiếu, TV, đầu video, máy tính, máy
    projector…) và tài liệu dạy học cần thiết;
    + Hướng dẫn HS chuẩn bị bài học (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài liệu và
    đồ dùng học tập cần thiết).
    5
    Tổ chức các hoạt động dạy học: Trình bày rõ cách thức triển khai các hoạt
    động dạy – học cụ thể. Với mỗi hoạt động cần chỉ rõ:
    + Tên hoạt động ;
    + Mục tiêu của hoạt động;
    + Cách tiến hành hoạt động;
    + Thời lượng để thực hiện hoạt động;
    + Kết luận của GV về: những KT, KN, thái độ HS cần có sau hoạt động;
    những tình huống thực tiễn có thể vận dụng KT, KN, thái độ đã học để giải quyết;
    những sai sót thường gặp; những hậu quả có thể xảy ra nếu không có cách giải quyết
    phù hợp;…
    Hướng dẫn các hoạt động tiếp nối: xác định những việc HS cần phải tiếp tục
    thực hiện sau giờ học để củng cố, khắc sâu, mở rộng bài cũ, hoạt động ứng dụng kết
    quả bài học vào cuộc sống (ở lớp, nhà, cộng đồng; có thể cùng bạn, gia đình, làng
    xóm, khối phố) hoặc để chuẩn bị cho việc học bài mới.
    2.3.2. Trong giảng:
    Theo quan niệm dạy học mới (tổ chức) một giờ học tốt là một giờ học phát
    huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học
    nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào
    thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm,
    đem lại hứng thú học tập cho người học. Ngoài những yêu cầu có tính chất truyền
    thống như: bám sát mục tiêu giáo dục, nội dung dạy học, đặc trưng môn học; phù
    hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh (HS); giờ học đổi mới PPDH còn có
    những yêu cầu mới như: được thực hiện thông qua việc GV tổ chức các hoạt động
    học tập cho HS theo hướng chú ý đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, khả năng
    tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin; được thực hiện theo nguyên tắc tương
    tác nhiều chiều: giữa GV với HS, giữa HS với nhau (chú trọng cả hoạt động dạy của
    người dạy và hoạt động học của người học).
    Về phương pháp dạy học: Việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
    phát triển năng lực thể hiện qua bốn đặc trưng cơ bản sau:
    Một, dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, giúp học
    sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không thụ động tiếp thu những tri thức
    được sắp đặt sẵn. Giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các hoạt
    động học tập phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã biết vào các
    tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn…
    Hai, chú trọng rèn luyện cho học sinh biết khai thác sách giáo khoa và các tài
    liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có, suy luận để tìm tòi và phát
    6
    hiện kiến thức mới… Định hướng cho học sinh cách tư duy như phân tích, tổng
    hợp, đặc biệt hoá, khái quát hoá, tương tự, quy lạ về quen… để dần hình thành và
    phát triển tiềm năng sáng tạo.
    Ba, tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác, lớp học trở thành
    môi trường giao tiếp GV – HS và HS – HS nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh
    nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ học tập chung.
    Bốn, chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến
    trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học). Chú trọng
    phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh với nhiều hình
    thức như theo lời giải/đáp án mẫu, theo hướng dẫn, hoặc tự xác định tiêu chí để có
    thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót.
    Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học:
    Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống: Đổi mới phương pháp dạy
    học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết
    trình, đàm thoại, luyện tập mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả
    và hạn chế nhược điểm của chúng. Để nâng cao hiệu quả của các phương pháp dạy
    học này người giáo viên trước hết cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành
    thạo các kỹ thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, kỹ
    thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu trả lời trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu
    trong luyện tập. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn
    chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử
    dụng các phương pháp dạy học mới, có thể tăng cường tính tích cực nhận thức của
    học sinh trong thuyết trình, đàm thoại theo quan điểm dạy học giải quyết vấn đề.
    Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học: Việc phối hợp đa dạng các
    phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương
    hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Dạy
    học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đôi và dạy học cá thể là những hình thức xã hội
    của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi một hình thức có những chức năng riêng.
    Tình trạng độc tôn của dạy học toàn lớp và sự lạm dụng phương pháp thuyết trình
    cần được khắc phục, đặc biệt thông qua làm việc nhóm. Trong thực tiễn dạy học ở
    trường trung học hiện nay, nhiều giáo viên đã cải tiến bài lên lớp theo hướng kết
    hợp thuyết trình của giáo viên với hình thức làm việc nhóm, góp phần tích cực hoá
    hoạt động nhận thức của học sinh. Tuy nhiên hình thức làm việc nhóm rất đa dạng,
    không chỉ giới hạn ở việc giải quyết các nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ trong bài
    thuyết trình, mà còn có những hình thức làm việc nhóm giải quyết những nhiệm vụ
    phức hợp, có thể chiếm một hoặc nhiều tiết học, sử dụng những phương pháp
    chuyên biệt như phương pháp đóng vai, nghiên cứu trường hợp, dự án. Mặt khác,
    việc bổ sung dạy học toàn lớp bằng làm việc nhóm xen kẽ trong một tiết học mới
    chỉ cho thấy rõ việc tích cực hoá “bên ngoài” của học sinh. Muốn đảm bảo việc tích
    7
    cực hoá “bên trong” cần chú ý đến mặt bên trong của phương pháp dạy học, vận
    dụng dạy học giải quyết vấn đề và các phương pháp dạy học tích cực khác.
    Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề: Dạy học giải quyết vấn đề (dạy học nêu
    vấn đề, dạy học nhận biết và giải quyết vấn đề) là quan điểm dạy học nhằm phát
    triển năng lực tư duy, khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề. Học được đặt trong
    một tình huống có vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông
    qua việc giải quyết vấn đề, giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng và phương pháp
    nhận thức. Dạy học giải quyết vấn đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực
    nhận thức của học sinh, có thể áp dụng trong nhiều hình thức dạy học với những
    mức độ tự lực khác nhau của học sinh. Các tình huống có vấn đề là những tình
    huống khoa học chuyên môn, cũng có thể là những tình huống gắn với thực tiễn.
    Trong thực tiễn dạy học hiện nay, dạy học giải quyết vấn đề thường chú ý đến
    những vấn đề khoa học chuyên môn mà ít chú ý hơn đến các vấn đề gắn với thực
    tiễn. Tuy nhiên nếu chỉ chú trọng việc giải quyết các vấn đề nhận thức trong khoa
    học chuyên môn thì học sinh vẫn chưa được chuẩn bị tốt cho việc giải quyết các
    tình huống thực tiễn. Vì vậy bên cạnh dạy học giải quyết vấn đề, lý luận dạy học
    còn xây dựng quan điểm dạy học theo tình huống.
    Vận dụng dạy học theo tình huống: Dạy học theo tình huống là một quan điểm
    dạy học, trong đó việc dạy học được tổ chức theo một chủ đề phức hợp gắn với các
    tình huống thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp. Quá trình học tập được tổ chức trong
    một môi trường học tập tạo điều kiện cho học sinh kiến tạo tri thức theo cá nhân và
    trong mối tương tác xã hội của việc học tập. Các chủ đề dạy học phức hợp là những
    chủ đề có nội dung liên quan đến nhiều môn học hoặc lĩnh vực tri thức khác nhau,
    gắn với thực tiễn. Trong nhà trường, các môn học được phân theo các môn khoa học
    chuyên môn, còn cuộc sống thì luôn diễn ra trong những mối quan hệ phức hợp. Vì
    vậy sử dụng các chủ đề dạy học phức hợp góp phần khắc phục tình trạng xa rời thực
    tiễn của các môn khoa học chuyên môn, rèn luyện cho học sinh năng lực giải quyết
    các vấn đề phức hợp, liên môn. Phương pháp nghiên cứu trường hợp là một phương
    pháp dạy học điển hình của dạy học theo tình huống, trong đó học sinh tự lực giải
    quyết một tình huống điển hình, gắn với thực tiễn thông qua làm việc nhóm. Vận
    dụng dạy học theo các tình huống gắn với thực tiễn là con đường quan trọng để gắn
    việc đào tạo trong nhà trường với thực tiễn đời sống, góp phần khắc phục tình trạng
    giáo dục hàn lâm, xa rời thực tiễn hiện nay của nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, nếu
    các tình huống được đưa vào dạy học là những tình huống mô phỏng lại, thì chưa
    phải tình huống thực. Nếu chỉ giải quyết các vấn đề trong phòng học lý thuyết thì
    học sinh cũng chưa có hoạt động thực tiễn thực sự, chưa có sự kết hợp giữa lý thuyết
    và thực hành.
    Vận dụng dạy học định hướng hành động: Dạy học định hướng hành động là
    quan điểm dạy học nhằm làm cho hoạt động trí óc và hoạt động chân tay kết hợp
    chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học tập, học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập
    8
    và hoàn thành các sản phẩm hành động, có sự kết hợp linh hoạt giữa hoạt động trí
    tuệ và hoạt động tay chân. Đây là một quan điểm dạy học tích cực hoá và tiếp cận
    toàn thể. Vận dụng dạy học định hướng hành động có ý nghĩa quan trong cho việc
    thực hiện nguyên lý giáo dục kết hợp lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động,
    nhà trường và xã hội. Dạy học theo dự án là một hình thức điển hình của dạy học
    định hướng hành động, trong đó học sinh tự lực thực hiện trong nhóm một nhiệm
    vụ học tập phức hợp, gắn với các vấn đề thực tiễn, kết hợp lý thuyết và thực hành,
    có tạo ra các sản phẩm có thể công bố. Trong dạy học theo dự án có thể vận dụng
    nhiều lý thuyết và quan điểm dạy học hiện đại như lý thuyết kiến tạo, dạy học định
    hướng học sinh, dạy học hợp tác, dạy học tích hợp, dạy học khám phá, sáng tạo,
    dạy học theo tình huống và dạy học định hướng hành động.
    Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý hỗ
    trợ dạy học: Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương
    pháp dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy
    học. Hiện nay, việc trang bị các phương tiện dạy học mới cho các trường phổ thông
    từng bước được tăng cường. Tuy nhiên các phương tiện dạy học tự làm của giáo
    viên luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát huy. Đa phương tiện và công nghệ
    thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học hiện
    đại. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần
    tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử
    dụng mạng điện tử (E-Learning), mạng trường học kết nối.
    Sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo: Kỹ thuật
    dạy học là những cách thức hành động của của giáo viên và học sinh trong các tình
    huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các kỹ thuật
    dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của phương pháp dạy học. Có những kỹ thuật
    dạy học chung, có những kỹ thuật đặc thù của từng phương pháp dạy học, ví dụ kỹ
    thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại. Ngày nay người ta chú trọng phát triển và sử
    dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học như
    “động não”, “tia chớp”, “bể cá”, bản đồ tư duy…
    Chú trọng các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn: Phương pháp dạy học
    có mối quan hệ biện chứng với nội dung dạy học, việc sử dụng các phương pháp
    dạy học đặc thù có vai trò quan trọng trong dạy học bộ môn. Các phương pháp dạy
    học đặc thù bộ môn được xây dựng trên cơ sở lý luận dạy học bộ môn…
    Bồi dưỡng phương pháp học tập tích cực cho học sinh: Phương pháp học tập
    một cách tự lực đóng vai trò quan trọng trong việc tích cực hoá, phát huy tính sáng
    tạo của học sinh. Có những phương pháp nhận thức chung như phương pháp thu
    thập, xử lý, đánh giá thông tin, phương pháp tổ chức làm việc, phương pháp làm
    việc nhóm, có những phương pháp học tập chuyên biệt của từng bộ môn. Bằng
    nhiều hình thức khác nhau, cần luyện tập cho học sinh các phương pháp học tập
    chung và các phương pháp học tập trong bộ môn.
    9
    Tóm lại, có rất nhiều phương hướng đổi mới phương pháp dạy học với
    những cách tiếp cận khác nhau, trên đây chỉ là một số phương hướng chung. Việc
    đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi những điều kiện thích hợp về phương tiện, cơ
    sở vật chất và tổ chức dạy học, điều kiện về tổ chức, quản lý. Ngoài ra, phương
    pháp dạy học còn mang tính chủ quan. Mỗi giáo viên với kinh nghiệm riêng của
    mình cần xác định những phương hướng riêng để cải tiến phương pháp dạy học và
    kinh nghiệm của cá nhân.
    Về hình thức tổ chức dạy học
    Đa dạng hóa các hình thức học tập, chú ý các hoạt động trải nghiệm sáng
    tạo, nghiên cứu khoa học của học sinh; sử dụng các hình thức dạy học trên cơ sở
    ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông như: dạy học trực tuyến, trường học
    ảo;… Ngoài việc tổ chức cho học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập ở trên lớp,
    cần coi trọng giao nhiệm vụ và hướng dẫn học sinh tự học và tự nghiên cứu.
    Chủ động thực hiện tích hợp giáo dục đạo đức, học tập và làm theo tấm gương
    đạo đức Hồ Chí Minh; giáo dục pháp luật; giáo dục phòng chống tham nhũng; chú
    trọng tuyên truyền, giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; sử dụng
    năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; bảo vệ môi trường; đa dạng sinh học và bảo tồn
    thiên nhiên; giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo; ứng phó với biến
    đổi khí hậu, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai; giáo dục an toàn giao thông …
    2.3.3. Trong kiểm tra, đánh giá
    Theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đổi mới kiểm tra đánh giá theo
    hướng chú trọng đánh giá phẩm chất và năng lực của học sinh. Chú trọng đánh giá
    quá trình: đánh giá trên lớp; đánh giá bằng hồ sơ; đánh giá bằng nhận xét; tăng
    cường hình thức đánh giá thông qua sản phẩm dự án; bài thuyết trình;kết hợp kết
    quả đánh giá trong quá trình giáo dục và đánh giá tổng kết cuối kỳ, cuối năm học;
    Các hình thức kiểm tra, đánh giá đều hướng tới phát triển năng lực của học
    sinh; coi trọng đánh giá để giúp đỡ học sinh về phương pháp học tập, động viên sự
    cố gắng, hứng thú học tập của các em trong quá trình dạy học;
    Việc kiểm tra, đánh giá không chỉ là việc xem học sinh học được cái gì mà
    quan trọng hơn là biết học sinh học như thế nào, có biết vận dụng không.
    Trong quá trình thực hiện các hoạt động dạy học, giáo dục, giáo viên cần coi
    trọng việc quan sát và hướng dẫn học sinh tự quan sát các hoạt động và kết quả
    hoạt động học tập, rèn luyện của các em; nhận xét định tính và định lượng về kết
    quả hoạt động, qua đó đề xuất hoặc triển khai kịp thời các hướng dẫn, góp ý, điều
    chỉnh nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện của học
    sinh.
    Chủ động, kết hợp một cách hợp lý, phù hợp giữa hình thức tự luận với trắc
    nghiệm khách quan.
    10
    Tiếp tục nâng cao yêu cầu vận dụng kiến thức liên môn vào thực tiễn; gắn
    với thời sự quê hương, đất nước để học sinh được bày tỏ chính kiến của mình về
    các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội… Việc cho điểm có thể kết hợp giữa đánh giá
    kết quả bài làm với theo dõi sự cố gắng, tiến bộ của học sinh. Chú ý hướng dẫn học
    sinh đánh giá lẫn nhau và biết tự đánh giá năng lực của mình.
    Thực hiện nghiêm túc việc xây dựng đề kiểm tra, đề thi theo hướng phát
    triển năng lực nhận thức của học sinh; cấu trúc đề thi, đề kiểm tra phải phân hoá
    được năng lực nhận thức của học sinh.
    Tăng cường xây dựng “Nguồn học liệu mở” (thư viện) câu hỏi, bài tập, đề
    thi, kế hoạch bài dạy, tài liệu tham khảo có chất lượng trên website của của đơn
    vị…
    2.4. Triển khai chuyên đề cụ thể: GDCD lớp 8
    CHỦ ĐỀ: QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CÔNG DÂN VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN
    XÃ HỘI, BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
    Tiết 21 – Bài 14:
    PHÒNG, CHỐNG NHIỄM HIV/AIDS
    I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
    1. Kiến thức
    – Hiểu được tính chất nguy hiểm của HIV/AIDS đối với loàingười:
    + Hủy hoại sức khỏe, cướp đi tính mạng con người.
    + Phá hoại hạnh phúc gia đình.
    + Hủy hoại tương lai, nòi giống dân tộc.
    + Ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, xã hội đất nước.
    – Nêu được một số quy định của pháp luật và trách nhiệm của công dân trong
    việc phòng chống nhiễmHIV/AIDS.
    – Nêu được các biện pháp phòng, chống nhiễm HIV/AIDS, nhất là các biện
    pháp đối với bảnthân:
    + Sống an toàn, lành mạnh, tránh xa các tệ nạn xã hội, đặc biệt là ma túy,
    mại dâm.
    + Không phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS và gia đình của họ.
    + Tích cực tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS ở nhà trường và
    cộng đồng.
    11
    2. Kĩnăng
    – Biết tự phòng, chống nhiễm HIV/AIDS và giúp người khác phòng,chống.
    + Sống lành mạnh, không tiêm chích ma túy.
    + Yêu cầu xét nghiệm cẩn thận trước khi cho hoặc được truyền máu.
    + Yêu cầu tiệt trùng các dụng cụ khi đi khám, chữa bệnh, nhổ răng, xâu lỗ tai…
    + Không quan hệ tình dục bừa bãi.
    – Biết chia sẻ, giúp đỡ, động viên người nhiễmHIV/AIDS
    – Tham gia các hoạt động do nhà trường, cộng đồng tổ chức để phòng, chống
    nhiễmHIV/AIDS.
    3. Tháiđộ
    – Tích cực phòng, chống nhiễmHIV/AIDS
    – Quan tâm, chia sẻ và không phân biệt, đối xử với người cóHIV/AIDS.
    II. PHƢƠNG TIỆN, THIẾT BỊ SỬ DỤNG, PHƢƠNG PHÁP VÀ ĐỊNH
    HƢỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
    1. Phƣơng tiện, thiết bi ṣ ƣ̉ duṇ g, phƣơng phá p
    a. Phương tiện, thiết bị:
    – SGK, SGV GDCD 8, chuẩn kiến thức kĩ năng môn GDCD.
    – Hình ảnh, đoạn phim vềHIV/AIDS
    – Bảng số liệu về HIV/AIDS năm 2018
    – Máy tính, máychiếu
    – Phiếu học tập
    b. Phương pháp:
    – Dạy học dự án
    – Đóng vai, giải quyết tình huống
    – Đàm thoại
    – Dạy học nhóm
    -Độngnão
    – Tròchơi
    – Nghiên cứu trường hợp điển hình
    12
    – Trải nghiệm, khám phá
    2. Điṇ h hƣớ ng phá t triển năng lƣc̣ , phẩm chất
    a. Năng lực:
    – Những năng lực chung: giải quyết vấn đề và sáng tạo; giao tiếp và hợp tác;
    tự chủ và tự học.
    – Năng lực chuyên biệt: tự nhận thức và tự điều chỉnh hành vi; giải quyết vấn
    đề cá nhân và hợp tác giải quyết vấn đề xã hội; tự chịu trách nhiệm và thực hiện
    trách nhiệm công dân với cộng đồng, đấtnước.
    b. Phẩm chất:
    – Yêu gia đình, quê hương, đất nước
    – Nhân ái
    – Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại
    – Tôn trọng chấp hành pháp luật
    III. XÂY DỰNG BẢNG MÔ TẢ CÁC MỨC ĐỘ NHẬN THỨC

    Nôị dungNhận biếtThông hiểuVận dụngVận dụng cao
    HIV/AIDS
    là gì?
    Nêu được khái
    niệm
    HIV/AIDS
    Hiểu được các
    giai đoạn của
    HIV/AIDS và
    biểu hiện của
    từng giai đoạn
    Tán thành hay
    không tán thành
    với ý kiến:
    người trông
    khỏe mạnh
    không thể
    nhiễm HIV
    Hậu quảNêu được hậu
    quả của
    HIV/AIDS đối
    với người bệnh,
    gia đình và xã
    hội
    – Giải thích
    được vì sao
    HIV/AIDS là
    căn bệnh vô
    cùng nguy
    hiểm
    -Hiểu được tính
    chất nguy hiểm
    của HIV/AIDS
    Đánh giá
    được mức độ
    lây lan của
    HIV/AIDS
    Các quy
    định của
    Nêu đươc̣ các
    quy định của
    Giải thích
    được vì sao
    Vận dụng được
    các quy định của

    13

    pháp luậtpháp luật trong
    việc phòng,
    chống
    HIV/AIDS
    pháp luật
    nghiêm cấm
    các hành vi
    mua bán dâm,
    tiêm chích ma
    túy
    pháp luật trong
    đời sống hàng
    ngày để phòng
    chốngHIV/AIDS
    Trách
    nhiệm của
    công dân
    – Nêu được
    trách nhiệm của
    công dân trong
    phòng, chống
    HIV/AIDS.
    – Nêu được các
    biện pháp
    phòng, chống
    nhất là các biện
    pháp đối với
    bảnthân.
    Lý giải được vì
    sao HIV/AIDS
    nguy hiểm
    nhưng thực sự
    không đáng sợ.
    Giải quyết
    được các tình
    huống trong đời
    sống thực tế.

    IV. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
    1. Ổn định tổ chức
    2. Kiểm tra:
    Kiểm tra việc chuẩn bị của học sinh.
    3. Bài mới:
    * Hoạt động 1: Khởi động
    * Phương pháp dạy học:
    – Phương pháp dạy học dự án.
    – Phương pháp đóng vai, giải quyết tình huống.
    – Phương pháp động não.
    – Phương pháp đàm thoại.
    * Kĩ thuậ

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa