Category: SKKN Luận Văn Luận Án

  • SKKN Vận dụng phương pháp dạy học dự án vào việc dạy học môn ngữ văn ở trường THPT áp dụng cụ thể vào dạy học bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử

    SKKN Vận dụng phương pháp dạy học dự án vào việc dạy học môn ngữ văn ở trường THPT áp dụng cụ thể vào dạy học bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương
    pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng
    Đổi mới phương pháp dạy học là một trọng tâm của đổi mới giáo dục. Việc
    đổi mới giáo dục Trung học dựa trên những đường lối, quan điểm chỉ đạo giáo dục
    của nhà nước, đó là những định hướng quan trọng về chính sách và quan điểm
    trong việc phát triển và đổi mới giáo dục Trung học. Việc đổi mới phương pháp
    dạy học cần phù hợp với những định hướng đổi mới chung của chương trình giáo
    dục trung học.
    Những quan điểm và đường lối chỉ đạo của nhà nước về đổi mới giáo dục nói
    chung và giáo dục trung học nói riêng được thể hiện trong nhiều văn bản, đặc biệt
    trong các văn bản sau:
    – Luật giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28 quy định: “Phương pháp giáo
    dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học
    sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự
    học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
    tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
    – Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI “Đổi mới chương
    trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng
    hiện đại; nâng cao chất lượng toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo
    dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng
    thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”.
    – Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện
    giáo dục và đào tạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
    hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ
    năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.
    Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự
    cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu
    trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại
    2
    khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền
    thông trong dạy và học”; “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản
    của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người
    học”; “Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công
    dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh.
    Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền
    thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận
    dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích
    học tập suốt đời”. Theo tinh thần đó, các yếu tố của quá trình giáo dục trong nhà
    trường trung học cần được tiếp cận theo hướng đổi mới.
    – Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo
    quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng chính phủ chỉ rõ:
    “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện
    theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học
    của người học”.
    – Nghị quyết số 44/NQ-CP, ngày 09/6/2014 ban hành Chương trình hành động
    của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013
    Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn
    diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
    kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế xác định
    “Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục theo
    hướng đánh giá năng lực của người học; kết hợp đánh giá cả quá trình với đánh
    giá cuối kỳ học, cuối năm học theo mô hình của các nước có nền giáo dục phát
    triển”…
    Những quan điểm, định hướng nêu trên là cơ sở thực tiễn và môi trường pháp
    lí thuận lợi cho việc đổi mới giáo dục phổ thông nói chung, đổi mới phương pháp
    dạy học (viết tắt PPDH) theo định hướng năng lực người học nói riêng.
    2. Xuất phát từ vai trò quan trọng của bộ môn Ngữ văn trong nhà trường
    phổ thông
    Bản chất văn chương là sáng tạo. “Cái nghề văn, kỵ nhất cái lối thấy người ăn
    3
    khoai cũng vác mai đi đào” (Trích tác phẩm “Những truyện không muốn viết”,
    Nam Cao); “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một
    vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết
    tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có…” (Câu
    nói của nhân vật Hộ trong tác phẩm “Đời thừa”, Nam Cao); Tác phẩm chân chính
    không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu
    chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn
    đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng sống nội tâm, như sự dằn vặt và
    ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật (Aimatop);
    Văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép hiện thực một
    cách hời hợt nông cạn. Nhà văn không bê nguyên si các sự kiện, con người vào
    trong sách một cách thụ động, giản đơn. Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của một
    quá trình nuôi dưỡng cảm hứng, thai nghén sáng tạo ra một thế giới hấp dẫn sinh
    động … thể hiện những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, bản chất của đời sống xã hội con
    người. Nhân vật trong tác phẩm của một thiên tài thật sự nhiều khi thật hơn cả con
    người ngoài đời bởi sức sống lâu bền, bởi ý nghĩa điển hình của nó. Qua nhân vật
    ta thấy cả một tầng lớp, một giai cấp, một thời đại, thậm chí có nhân vật vượt lên
    khỏi thời đại, có ý nghĩa nhân loại, vĩnh cửu sống mãi với thời gian (Lí luận văn
    học). Để thỏa niềm đam mê khám phá địa hạt văn chương, để tạo ra không khí,
    không gian lớp học mang đậm sắc màu văn chương, không có cách nào khác là
    phải thay đổi cách nhìn, tư duy, định kiến cho người dạy và người học mà mấu
    chốt thay đổi PPDH. Đây là vấn đề sống còn của dạy Văn – học Văn.
    3. Xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của thời đại
    – Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo (viết tắt GD & ĐT), các nhà trường phổ
    thông: PPDH phải nhằm phát triển tối đa sự suy nghĩ độc lập của HS, kĩ năng đạt
    đến và vận dụng tri thức, góp phần định hướng nghề nghiệp. Vì vậy, phát triển
    chương trình giáo dục phổ thông dựa trên tiếp cận năng lực (viết tắt NL): NL nhận
    thức, NL giải quyết vấn đề, NL hành động, NL sáng tạo, NL làm việc nhóm, NL
    thích ứng với môi trường, … là một lựa chọn tất yếu khách quan và phù hợp với xu
    thế phát triển của xã hội.
    4
    – Theo tâm lí phụ huynh và dư luận xã hội: trông mong ở mỗi con em/ công
    dân sự hoạt bát, nhanh nhạy, tinh tường, am hiểu, không rập khuôn, không là bản
    sao hay phiên bản sẵn có.
    – Theo yêu cầu nghề nghiệp: cần thiết mỗi người lao động chân tay hay trí óc
    có khả năng tự học, tự sáng tạo, phát huy sở trường, năng khiếu, làm theo năng lực,
    trả lương theo vị trí việc làm.
    Như vậy, trong quá trình dạy – học ở trường trung học phổ thông hiện nay,
    nhiệm vụ phát triển các NL cốt lõi cho học sinh (viết tắt HS) trở thành nhiệm vụ vô
    cùng quan trọng. Nhiệm vụ đó đòi hỏi tiến hành đồng bộ ở tất cả các cấp học, các
    môn học trong đó có bộ môn Ngữ văn. Do đó, việc đổi mới PPDH trong giáo dục,
    đào tạo ở nước ta đã trở thành một yêu cầu tất yếu và cấp thiết.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Thực trạng dạy của giáo viên môn Ngữ văn
    Giải pháp cũ thường làm – “truyền thụ một chiều” – phương pháp thuyết trình
    a. Ưu điểm
    – Giáo viên (viết tắt GV) chủ động trong giờ dạy (cung cấp kiến thức, sử dụng
    phương tiện dạy học, xử lý thời gian)
    – Tránh được thời gian “chết” hay quá mất thời gian cho một vấn đề trong giờ
    học.
    – Đẩm bảo tiến độ theo kế hoạch bài học: nội dung dạy học – thời lượng tiết
    học tương đối khớp nhau.
    – Hiệu suất giờ học, chất lượng giáo dục bình ổn đều.
    b. Nhược điểm
    – Theo lối mòn văn chương đã định sẵn trong thời gian qua, việc dạy học môn
    Ngữ Văn vẫn theo phương pháp truyền thống “truyền thụ một chiều” với PPDH
    chiếm ưu thế vẫn là các phương pháp thuyết trình tức là trong giờ học, GV giảng
    bài, HS lắng nghe, ghi chép, sau đó trả bài trong phần kiểm tra miệng hay trong
    các tiết kiểm tra và thi tập trung. Gần đây, theo yêu cầu đổi mới PPDH của Bộ GD
    & ĐT, việc dạy hộc bộ môn đã có một số thay đổi như đã chú ý đến đối tượng chủ
    5
    thể giờ học là HS, tăng cường đối thoại giữa GV và HS, tăng cường việc thảo luận
    nhóm… Tuy nhiên, “bình mới rượu cũ”, sự đổi mới ấy còn nặng nề, chiếu lệ về
    hình thức, việc hoạt động nhóm của HS chưa thực sự hiệu quả, GV vẫn vô cùng
    vất vả trong chọn, đọc tư liệu, soạn giáo án, nói nhiều, cho ghi chép dài khi đứng
    lớp; vẫn mang nặng áp lực chất lượng thi cử; chưa thực sự tin tưởng vào khả năng
    tự học và sáng tạo của HS, ít/ không trao cơ hội học tập, nghiên cứu tới HS.
    – Thiếu sự tương tác giữa giáo viên – học sinh, học sinh – học sinh: trong quá
    trình giảng dạy và học tập, giáo viên chỉ miệt mài quan tâm đến việc dạy, học sinh
    lại chăm chăm quan tâm đến việc ghi chép bài nên thiếu đi sự tương tác lẫn nhau.
    – Giờ học vì thế tẻ nhạt, thiếu sự sinh động, hấp dẫn.
    – Hiệu suất giờ học, chất lượng giáo dục thiếu bước đột phá, cải tiến.
    Để cụ thể hơn, tôi đã sử dụng Phiếu điều tra để khảo sát thực nghiệm việc
    dạy học trong chương trình Ngữ Văn 11 ở trường THPT Nguyễn Khuyến – Nam
    Định (Mẫu phiếu điềutra ở phần Phụ lục1)
    0
    20
    40
    60
    80
    100
    120
    Phương pháp
    thuyết trình
    Phương pháp
    thảo luận
    nhóm
    Phương pháp
    đóng vai
    Phương pháp
    dạy học dự án
    Phương pháp
    kích thích tư
    duy
    Phương pháp
    tình huống có
    vấn đề
    Phương pháp
    vấn đáp
    PHIẾU ĐIỀU TRA
    1.2. Thực trạng học của học sinh trong môn Ngữ văn
    a. Ưu điểm
    – HS ghi chép được, đặc biệt với HS ban A thường có tâm lí “ỷ nại” kiến thức
    thầy/ cô đã cung cấp, ngại đọc tài liệu tham khảo; đảm bảo độ an toàn kiến thức
    phục vụ thi cử.
    6
    – Theo đó, bộ môn khoa học nghệ thuật này ít/ không làm khó/ mệt HS, đặc
    biệt với HS thiếu tố chất văn chương.
    b. Nhược điểm
    – HS thụ động; thui chột/ làm mất khả năng sáng tạo; yếu các kĩ năng mềm:
    tranh biện, gieo và giải quyết vấn đề, hợp tác, …; không hình thành thói quen tự học.
    – Thiếu sự hứng thú và đam mê với việc học: học sinh không có hứng thú,
    niềm đam mê với tiết học ngữ văn, dẫn đến việc học tập không hiệu quả.
    – Thiếu đi những kỉ niệm học trò trong/ qua giờ học.
    Khi được hỏi về mức độ tích cực tham gia học tập của lớp 11A2 trường THPT
    Nguyễn Khuyến – Nam Định trong giờ học văn học Việt Nam – chương trình Ngữ
    Văn11, tôi thu được kết quả sau:
    PHIẾU ĐIỀU TRA CÁ NHÂN (Dành chohọc sinh)
    Thái độ đón nhận của anh/ chị với PPDH dự án?

    LớpSố HS
    Tỉ lệ %
    Mức độ
    Hào hứng
    tiếp nhận
    PP mới
    Bình thường,
    bản thân
    không có ý
    kiến gì
    Thờ ơ
    nhưng không làm
    ảnh hưởng đến
    lớp học
    Làm việc riêng
    11A250261752
    100%52%34%10%4%

    7
    1.3. Thực trạng khác
    – Bối cảnh của đời sống kinh tế xã hội thời kinh tế thị trường đã tác động
    mạnh mẽ đến quan niệm, nhận thức, thái độ và hành động của phụ huynh học sinh
    nói riêng và nhân dân nói chung. Cách nhìn về giáo dục, về bộ môn Ngữ văn có
    phần thực tế đến thực dụng. Họ chưa quan tâm nhiều đến chức năng mang tính
    nhân văn của việc học tập bộ môn này trong khi rất nặng nề về điểm số. Cùng với
    đó tâm lí phụ huynh HS, dư luận xã hội dành cho bộ môn cũng không mấy thiện
    cảm: giờ học Văn đọc chép, mệt mỏi, buồn ngủ, ngủ gật, nghe ù tai, chép nhừ tay,
    không đi học cũng không lo/ không mất gì cả, vẫn mượn vở bạn chép được đủ kiến
    thức, không phải động não tư duy …
    1.4. Sự cần thiết đề xuất giải pháp mới trước thực trạng dạy và học môn
    Ngữ văn hiện nay
    Xuất phát từ những thực trạng trên, để giúp GV và HS khắc phục được những
    hạn chế trong quá trình dạy – học môn Ngữ văn, tôi xin đề xuất giải pháp được
    trình bày cụ thể trong các phần sau đây.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    Đề xuất theo giải pháp mới: Dạy học dự án
    Xuất phát từ mục tiêu dạy học dự án:
    – Tất cả các nội dung của môn học đều hướng tới các vấn đề của thực tiễn,
    gắn kết nội dung học với cuộc sống thực. Có thể lí giải điều này qua
    (Sơ đồ về tỉ lệ tiếp thu trung bình)
    8
    – Rèn luyện cho người học phát triển kĩ năng phát hiện và giải quyết vấn đề
    liên quan đến nội dung học tập và cuộc sống.
    – Rèn luyện cho người học nhiều kĩ năng khác: tổ chức kiến thức, kĩ năng
    sống, làm việc theo nhóm.
    – Giúp người học nâng cao kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin vào quá trình
    học tập và tạo ra sản phẩm.
    – Tích hợp liên môn, kết nối nội môn giữa các trường ở cùng địa bàn hay địa
    phương khác nhau.
    Ví dụ: Kế hoạch bài học “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) tại trường THPT
    Nguyễn Khuyến – Nam Định
    + có thể nâng cao khả năng Hội họa, Âm nhạc, Điện ảnh, Báo chí, Tiếng Việt,
    Tin học, Địa lí, Lịch sử, Sinh học, Giáo dục công dân, …
    + có thể kết nối trường học cùng GV và HS ở Huế, đặc biệt ở Vĩ Dạ qua
    phòng máy tính được đầu tư chất lượng cao.
    Qua đó, học sinh vừa được bổ sung, làm sâu và mở rộng, phong phú hơn kiến
    thức trong sách vở, vừa có thêm kiến thức thực tiễn cuộc sống. Dạy học dự án
    không chỉ thay lời chối bỏ cho những tiết học đơn điệu, khô khan, nhàm chán,
    những bài học thuộc lòng máy móc vô nghĩa mà còn đem đến một không gian thực
    sự văn học để đánh thức cảm hứng văn chương, để những tâm hồn văn chương
    được khơi gợi và đốt cháy trong khát khao tìm hiểu cái đẹp.
    2.1. Tìm hiểu chung về phương pháp dạy học dự án
    2.1.1. Khái niệm dạy học dự án
    Thuật ngữ dự án trong tiếng Anh là “Project”, có nguồn gốc từ tiếng La tinh
    và ngày nay được hiểu theo nghĩa phổ thông là một đề án, một dự thảo hay một kế
    hoạch.
    Dự án là một dự định, một kế hoạch cần được thực hiện trong điều kiện thời
    gian, phương tiện, tài chính, nhân lực, vật lực xác định nhằm đạt được mục đích đã
    đề ra. Dự án có tính phức hợp, tổng thể, được thực hiện trong hình thức tổ chức dự
    án chuyên biệt.
    9
    2.1.1.1. Khái niệm
    Dạy học theo dự án là một hình thức dạy học, trong đó HS dưới sự điều khiển
    và giúp đỡ của GV tự lực giải quyết một nhiệm vụ học tập mang tính phức hợp
    không chỉ về mặt lý thuyết mà đặc biệt về mặt thực hành, thông qua đó tạo ra các
    sản phẩm thực hành có thể giới thiệu, công bố được.
    Như vậy dạy học dự án là một phương pháp dạy học lấy hoạt động của người
    học làm trung tâm. Bản chất của dạy học dự án là người học lĩnh hội kiến thức và
    kĩ năng thông qua việc giải quyết một bài tập tình huống gắn với thực tiễn (bài tập
    dự án). Kết thúc dự án người học phải cho ra sản phẩm gắn với thực tiễn cụ thể.
    Làm việc nhóm là hình thức cơ bản của dạy học dự án.
    2.1.1.2. Phân loại
    a) Phân loại theo quĩ thời gian thực hiện dự án
    •Dự án nhỏ: thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 02 đến 06 giờ.
    •Dự án trung bình: thực hiện trong một số ngày (còn gọi là ngày dự án)
    nhưng giới hạn trong một tuần hoặc 40 giờ học.
    •Dự án lớn: được thực hiện với quỹ thời gian lớn, tối thiểu là một tuần, có thể
    kéo dài trong nhiều tuần.
    b) Phân loại theo nhiệm vụ
    •Dự án tìm hiểu: là dự án khảo sát thực trạng đối tượng.
    •Dự án nghiên cứu: nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các hiện tượng,
    quá trình.
    •Dự án kiến tạo: tập trung vào việc tạo ra các sản phẩm vật chất hoặc thực
    hiện các hành động thực tiễn, nhằm thực hiện những nhiệm vụ như trang trí, trưng
    bày, biểu diễn, sáng tác.
    c) Phân loại theo mức độ phức hợp của nội dung học tập
    •Dự án mang tính thực hành: là dự án có trong tâm là việc thực hiện một
    nhiệm vụ thực hành mang tính phức hợp trên cơ sở vận dụng kiến thức, kỹ năng cơ
    bản đã học nhằm tạo ra một sản phẩm vật chất
    •Dự án mang tính tích hợp: là dự án mang nội dung tích hợp nhiều nội dung
    hoạt động như tìm hiểu thực tiễn, nghiên cứu lí thuyết, giải quyết vấn đề, thực hiện
    10
    các hoạt động thực hành, thực tiễn
    Ngoài các cách phân loại trên, còn có thể phân loại theo chuyên môn (dự án
    môn học, dự án liên môn, dự án ngoài môn học); theo sự tham gia của người học
    (dự án cá nhân, dự án nhóm, dự án lớp…).
    2.1.1.3. Đặc điểm
    Trong các tài liệu về dạy học dự án có rất nhiều đặc điểm được đưa ra. Các
    nhà sư phạm Mĩ đầu thế kỉ XX khi xác lập cơ sở lí thuyết cho phương pháp dạy
    học này đã nêu ra 03 đặc điểm cốt lõi của dạy học dự án: định hướng học sinh,
    định hướng thực tiễn và định hướng sản phẩm. Có thể cụ thể hoá các đặc điểm của
    dạy học dự án như sau:
    •Định hướng thực tiễn: chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống của
    thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống. Nhiệm của dự
    án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng nhận thức của
    người học. Các dự án học tập có ý nghĩa thực tiễn xã hội, góp phần gắn việc học
    tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội. Trong những trường hợp lí
    tưởng, việc thực hiện các dự án có thể mang lại những tác động xã hội tích cực.
    •Định hướng hứng thú người học: học sinh được tham gia chọn đề tài, nội
    dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của
    người học cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án.
    •Mang tính phức hợp, liên môn: nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của
    nhiều lĩnh vực hoặc nhiều môn học khác nhau nhằm giải quyết một nhiệm vụ, vấn
    đề mang tính phức hợp.
    •Định hướng hành động: trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa
    nghiên cứu lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực
    hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lý thuyết cũng như rèn
    luyện kỹ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học.
    Tính tự lực của người học: trong dạy học theo dự án, người học cần tham gia
    tích cực, tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và
    khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. Giáo viên chủ yếu đóng
    11
    vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên, mức độ tự lực cần phù hợp với kinh
    nghiệm, khả năng của học sin và mức độ khó khăn của nhiệm vụ.
    •Cộng tác làm việc: các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm,
    trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên
    trong nhóm. Dạy học theo dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng
    công tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa học sinh và giáo viên cũng
    như với các lực lượng xã hội khác tham gia trong dự án. Đặc điểm này còn được
    gọi là học tập mang tính xã hội (tính cộng đồng).
    •Định hướng sản phẩm: trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm được
    tạo ra không chỉ giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết, mà trong đa số trường
    hợp các dự án học tập tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực
    hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu.
    2.1.1.4. Lưu ý
    •Dự án học tập cần góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn
    đời sống, xã hội; có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào
    hoạt động thực tiễn, thực hành.
    •Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả
    năng của HS.
    •HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và
    hứng thú cá nhân.
    •Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác
    nhau nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp.
    •Dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng tác
    làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm.
    •Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lý thuyết; sản
    phẩm này có thể sử dụng, công bố, giới thiệu.
    •Dạy học dự án không phù hợp với các bài học đòi hỏi sự trình bày chính
    xác, chặt chẽ và hệ thống (đại lượng vật lí, định luật, thuyết vật lí).
    12
    2.1.2. Các bước tổ chức dạy học dự án

    BướcHoạt động của GVHoạt động của HS
    1. Chuẩn bị
    • Xây dựng
    ý tưởng,
    • Lựa chọn
    chủ đề, tiểu
    chủ đề
    • Lập kế
    hoạch các
    nhiệm vụ
    học tập
    • Xây dựng bộ câu hỏi định
    hướng: xuất phát từ nội dung
    học và mục tiêu cần đạt được.
    • Thiết kế dự án: xác định lĩnh
    vực thực tiễn ứng dụng nội
    dung học, ai cần, ý tưởng và tên
    dự án.
    • Thiết kế các nhiệm vụ cho
    HS: làm thế nào để HS thực
    hiện xong thì bộ câu hỏi được
    giải quyết và các mục tiêu đồng
    thời cũng đạt được.
    • Chuẩn bị các tài liệu hỗ trợ
    GV và HS cũng như các điều
    kiện thực hiện dự án trong thực
    tế.
    • Làm việc nhóm để lựa chọn chủ
    đề dự án.
    • Xây dựng kế hoạch dự án: xác
    định những công việc cần làm, thời
    gian dự kiến, vật liệu, kinh phí,
    phương pháp tiến hành và phân
    công công v iệc trong nhóm.
    • Chuẩn bị các nguồn thông tin đáng
    tin cậy để chuẩn bị thực hiện dự án.
    • Cùng GV thống nhất các tiêu chí
    đánh giá dự án.
    2. Thực
    hiện dự án
    • Thu thập
    thông tin
    • Thực hiện
    điều tra
    • Thảo luận
    với các
    thành viên
    khác
    • Tham vấn
    • Theo dõi, hướng dẫn, đánh
    giá HS trong quá trình thực
    hiện dự án
    • Liên hệ các cơ sở, khách mời
    cần thiết cho HS.
    • Chuẩn bị cơ sở vật chất, tạo
    điều kiện thuận lợi cho các em
    thực hiện dự án.
    • Bước đầu thông qua sản phẩm
    cuối của các nhóm HS.
    • Phân công nhiệm vụ các thành
    viên trong nhóm thực hiện dự án
    theo đúng kế hoạch.
    • Tiến hành thu thập, xử lý thông tin
    thu được.
    • Xây dựng sản phẩm hoặc bản báo
    cáo.
    • Liên hệ, tìm nguồn giúp đỡ khi
    cần.
    • Thường xuyên phản hồi, thông báo
    thông tin cho GV và các nhóm khác.

    13

    giáo viên
    hướng dẫn
    3. Kết thúc
    dự án
    • Tổng hợp
    các kết quả
    • Xây dựng
    sản phẩm
    • Trình bày
    kết quả
    • Phản ánh
    lại quá trình
    học tập
    • Chuẩn bị cơ sở vật chất cho
    buổi báo cáo dự án.
    • Theo dõi, đánh giá sản phẩm
    dự án của các nhóm.
    • Chuẩn bị tiến hành giới thiệu sản
    phẩm.
    • Tiến hành giới thiệu sản phẩm.
    • Tự đánh giá sản phẩm dự án của
    nhóm.
    • Đánh giá sản phẩm dự án của các
    nhóm khác theo tiêu chí đã đưa ra.

    2.2. Vận dụng phương pháp dạy học dự án vào dạy học bài thơ “Đây
    thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử)
    2.2.1. Mục tiêu cần đạt
    a. Kiến thức: Giúp học sinh
    •Hiểu:
    – Nắm được những nét cơ bản về cuộc đời và sự nghiệp thơ ca (đặc biệt phong
    cách sáng tác) của Hàn Mặc Tử.
    – Cảm nhận được những nét đặc sắc của bài thơ:
    + Bài thơ là bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh:
    ++ Bức tranh phong cảnh thôn Vĩ vừa thực, vừa mộng – ảo.
    ++ Bức tranh tâm cảnh: nỗi buồn, nỗi cô đơn, sự bất lực và tuyệt vọng trong
    cảnh ngộ bất hạnh (bệnh tật, tình yêu xa xăm, vô vọng) cùng tình yêu thiên nhiên,
    yêu con người, yêu sự sống tha thiết, những khao khát mãnh liệt hướng tới cái đẹp,
    cái thánh thiện trong cuộc đời.
    14
    – Phong cách thơ Hàn Mặc Tử qua một bài thơ: một hồn thơ luôn quằn quại
    yêu, đau; trí tưởng tượng phong phú; hình ảnh thơ có sự hòa quyện giữa thực và
    ảo; sự vận động của tứ thơ, của tâm trạng chủ thể trữ tình nhanh, lạ; bút pháp thơ
    tài hoa, độc đáo.
    •Tích hợp kiến thức Văn học với kiến thức liên môn, liên lĩnh vực:
    – Văn học:
    + Đến với con người thơ, phong cách sáng tác Hàn Mặc Tử; khám phá vẻ đẹp
    bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” (lớp 11)
    + Một số tiết Văn ở THCS về các tác phẩm của các tác giả người Huế
    + Tiếng Việt: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (lớp 10)
    – Địa lí: Vĩ Dạ – Huế – kiến trúc nhà vườn
    – Sinh học: Căn bệnh phong
    – GDCD: Tinh thần chiến thắng bệnh tật, hoàn cảnh
    – Tin học: Tra cứu tìm tài liệu, trình chiếu
    – Hội họa: Vẽ tranh Vĩ Dạ
    – Âm nhạc: Bài hát về Huế, Hàn Mặc Tử, Đây thôn Vĩ Dạ
    – Báo chí: Tiến hành phỏng vấn và trả lời phỏng vấn
    – Điện ảnh: Phim về cuộc đời Hàn Mặc Tử
    b. Kĩ năng
    – Đọc hiểu một bài thơ trữ tình theo đặc trưng thể loại.
    – Phân tích, cảm nhận được vẻ đẹp ngôn ngữ, hình tượng thơ.
    c. Thái độ, phẩm chất
    – Trân trọng tài năng nghệ thuật của tác giả Hàn Mặc Tử.
    – Bồi dưỡng lòng yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước, lòng yêu đời, nghị lực
    sống mạnh mẽ trước thử thách của hoàn cảnh.
    – Động viên, trân quí tinh thần đam mê nghệ thuật và sáng tạo của HS.
    d. Năng lực
    – Năng lực chung: tự chủ và tự học; giải quyết vấn đề và sáng tạo; giao tiếp và
    hợp tác.
    – Năng lực đặc thù: Năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học
    15
    + Biết cách đọc và nắm được những thông tin chính về bài thơ (kĩ năng đọc)
    + Biết viết một đoạn văn giới thiệu về tác giả, tác phẩm, giá trị của tác phẩm (kĩ
    năng viết)
    + Biết trình bày vấn đề liên quan đến các tác giả và tác phẩm (kĩ năng nói)
    + Nghe và nắm được thông tin chính; thảo luận về những vấn đề có liên quan
    đến tác phẩm (kĩ năng nghe)
    2.2.2. Phương pháp, phương tiện
    a. Phương pháp: thuyết trình, thảo luân nhóm, sơ đồ tư duy, đóng vai, mảnh
    ghép.
    Kĩ thuật dạy học: lồng ghép trò chơi, trò chơi Tiếp sức, khăn trải bàn, “hỏi và
    trả lời”, “trình bày một phút”.
    b. Phương tiện
    – Giáo viên: sách giáo khoa, sách giáo viên, tivi thông minh, biên bản họp
    nhóm/ video của các nhóm.
    – Học sinh: giấy A0, A3, bút dạ, bút màu, chì, bảng phân công nhiệm vụ
    nhóm.
    2.2.3. Tiến trình tổ chức dạy học
    Bước 1: Lập kế hoạch
    (Thời gian: 45 phút. Thực hiện ngoài giờ lên lớp)

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực trong giảng dạy các  bài phong cách ngôn ngữ ở chương trình Ngữ văn 11 chuẩn

    SKKN Vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực trong giảng dạy các  bài phong cách ngôn ngữ ở chương trình Ngữ văn 11 chuẩn

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ đổi mới, kinh tế phát triển nhanh và ổn định. Điều đó
    cũng ảnh hƣởng tích cực đến quá trình giảng dạy và học tập ở nhà trƣờng phổ thông nói
    chung, việc giảng dạy và học tập bộ môn Ngữ văn nói riêng.
    Việc đổi mới nội dung, chƣơng trình sách giáo khoa môn Ngữ Văn đã đƣợc Bộ Giáo dục
    cho áp dụng đại trà trên toàn quốc. Theo xu thế đó, nếu không muốn để mình lạc hậu với kiến
    thức khoa học đang phát triển nhƣ vũ bão trên toàn cầu, tụt hậu với chính bản thân mình, đồng
    nghiệp và thậm chí với cả học sinh – đối tƣợng mà mình đang trực tiếp giảng dạy, ngƣời giáo viên
    buộc phải đặt mình vào tƣ thế thƣờng xuyên tiếp cận cái mới, tự trau dồi vốn kiến thức; linh hoạt,
    sáng tạo trong khâu tổ chức dạy học cũng nhƣ không ngừng phát hiện những phƣơng pháp dạy
    học tiên tiến hơn.
    2. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp và tƣ duy quan trọng nhất của con ngƣời. Trong quá
    trình sống của mỗi cá nhân, ngôn ngữ không ngừng đƣợc hoàn thiện, phát triển cùng với sự
    phát triển của trí tuệ. Học và nghiên cứu Tiếng Việt cũng là học và nghiên cứu về một ngôn
    ngữ. Vì thế, nội dung học tập tiếng Việt trong nhà trƣờng phổ thông không chỉ là trang bị kiến
    thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt một cách có ý thức và hệ thống mà đây còn là phần học có
    tính chất công cụ, liên quan và ảnh hƣởng trực tiếp đến chất lƣợng dạy học ở tất cả các môn
    học khác. Tuy nhiên hiện nay, học sinh chƣa thực sự say mê và dành thời gian đúng mức cho
    môn Ngữ văn nói chung và phân môn Tiếng Việt nói riêng. Sự thụ động mài mòn năng lực
    nhận thức và những khả năng sáng tạo tiềm tàng của các em. Một trong những biện pháp khắc
    phục tình trạng này là chú ý tới khâu tổ chức quá trình dạy học. Trong đó nhấn mạnh đến nội
    dung, phƣơng pháp cũng nhƣ vai trò điều khiển của giáo viên. Trong thực tiễn xây dựng kế
    hoạch và tiến hành dạy học, ngƣời giáo viên thƣờng xuyên phải đối diện với câu hỏi: làm thế
    nào để lựa chọn phương pháp phù hợp và có hiệu quả ? Do vậy, dạy học tiếng Việt nói chung,
    các bài phong cách ngôn ngữ nói riêng theo hƣớng tích cực là cần thiết để cải thiện tình trạng
    dạy và học chƣa tốt hiện nay.
    Trong quá trình giảng dạy và đúc rút kinh nghiệm bản thân, tôi muốn trao đổi với các
    bạn đồng nghiệp về vấn đề “Vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực trong
    giảng dạy các bài “Phong cách ngôn ngữ” ở chương trình Ngữ văn 11(chuẩn)” để nâng cao
    hơn nữa việc dạy và học phân môn Tiếng Việt trong nhà trƣờng hiện nay.
    II. THỰC TRẠNG (trƣớc khi tạo ra sáng kiến)
    1. Thực trạng dạy học của giáo viên
    Chúng tôi tiến hành khảo sát thực tiễn việc dạy học các bài “Phong cách ngôn ngữ” trong
    chƣơng trình Ngữ văn 11 của giáo viên qua phiếu số 1 (phụ lục). Các phƣơng án A,B,C,D tƣơng
    ứng với các mức độ: Tốt, Khá, Trung bình, Yếu Kém.
    6
    Phiếu điều tra chúng tôi thực hiện với 12 giáo viên Ngữ văn trƣờng THPT A Nghĩa
    Hƣng
    Kết quả thu được như sau:

    TTNội dung điều traÝ kiến của giáo viên
    TốtKháTrung bìnhYếu
    SL%SL%SL%SL%
    1Nhận thức của giáo viên về việc
    dạy học các bài phong cách
    ngôn ngữ theo hƣớng đổi mới
    325541,732518,3
    2Hứng thú của giáo viên khi dạy
    các bài phong cách ngôn ngữ
    216,7433,3541,718,3
    3Tài liệu phục vụ cho việc dạy học
    các bài phong cách ngôn ngữ
    theo hƣớng đổi mới
    18,3325650216,7
    4Các phƣơng tiện dạy học hiện đại
    khi tiến hành dạy các bài
    phong cách ngôn ngữ theo
    hƣớng đổi mới
    650541,718,300
    5Đánh giá về hứng thú của học
    sinh khi học các bài phong
    cách ngôn ngữ
    0018,3216,7975
    6Đánh giá của giáo viên về kết quả
    tiếp thu kiến thức của học
    sinh khi học các bài phong
    cách ngôn ngữ
    325541,732518,3
    7Đánh giá của giáo viên về kết quả
    rèn luyện các bài phong cách
    ngôn ngữ của học sinh
    433,3325325216,7
    8Đánh giá của giáo viên về hệ
    thống bài tập phong cách
    ngôn ngữ
    433,3650216,700

    Nhận xét: Qua bảng tổng hợp trên, chúng tôi nhận thấy:
    – Về hứng thú của giáo viên khi dạy học các bài phong cách ngôn ngữ: Đa số giáo viên
    đều không mấy hứng thú. Khi dạy học các bài phong cách ngôn ngữ, một bộ phận không nhỏ
    7
    giáo viên cho rằng, phong cách ngôn ngữ không phải là mảng kiến thức lớn nên chỉ cung cấp
    cho các em những kiến thức cơ bản là đƣợc. Hơn nữa, một trở ngại trong vấn đề nhận thức của
    giáo viên là một số giáo viên có tâm lí ngại tìm tòi, khám phá, chƣa nhiệt tình trong việc đổi
    mới phƣơng pháp giảng dạy. Chính vì vậy, chất lƣợng dạy học các bài phong cách ngôn ngữ
    vẫn còn là điều đáng lo ngại.
    – Đánh giá chất lƣợng tiếp thu kiến thức và rèn luyện kĩ năng phân tích, kĩ năng viết bài
    văn của học sinh, các thầy cô tỏ ra lo ngại về sự thờ ơ của học sinh với tiết học phong cách
    ngôn ngữ. Mặc dù các em tiếp thu tƣơng đối tốt nhƣng chƣa chịu rèn luyện kĩ năng.
    – Nhƣ vậy, khó khăn là giáo viên vẫn còn nhiều lúng túng vì phải thay đổi cách dạy
    theo hƣớng khác hẳn với phƣơng pháp truyền thống. Điều đó yêu cầu giáo viên phải có sự
    nghiên cứu, đầu tƣ về kiến thức, chuẩn bị khá kĩ càng cho tiết học. Quan trọng hơn, giáo viên
    phải là ngƣời có năng lực linh hoạt. Nhìn chung, dạy học theo hƣớng tích cực phải huy động
    nhiều kiến thức, kĩ năng tổng hợp của giáo viên. Khó khăn tiếp theo là thiếu tài liệu hƣớng
    dẫn về việc đổi mới nội dung, phƣơng pháp dạy học. Giáo viên chƣa theo kịp xu hƣớng đổi
    mới. Nhiều thầy cô loay hoay không biết truyền đạt thế nào mới là tích cực, làm thế nào để
    đổi mới đồng bộ cả nội dung và phƣơng pháp, làm thế nào để tạo đƣợc những giờ học sôi
    nổi, có chất lƣợng.
    Thực trạng ấy, rõ ràng đã và đang ảnh hƣởng đến hiệu quả của tiết dạy phong cách
    ngôn ngữ .
    2. Thực trạng học tập của học sinh lớp 11
    Chúng tôi tiến hành khảo sát 87 học sinh ở hai lớp 11A1 và 11A8 trƣờng THPT A
    Nghĩa Hƣng qua phiếu điều tra số 2 (phụ lục). Các phƣơng án A,B,C,D tƣơng ứng với các mức
    độ: Tốt, Khá, Trung bình, Yếu Kém.

    Tên trƣờngLớpSố HS
    tham
    gia
    Kết quảGhi chú
    Số phiếu
    phát ra
    Số phiếu
    thu về
    THPT A Nghĩa
    Hƣng
    Thực nghiệm
    11A1
    424242
    Đối chứng
    11A8
    454545

    Kết quả thu được như sau:

    TTNội dung đánh giáÝ kiến của học sinh
    TốtKháTrung bìnhYếu
    SL%SL%SL%SL%
    Kĩ năng phân tích và kĩ năng

    8

    1tạo lập văn bản1011,51517,22528,83742,5
    2Khả năng vận dụng sáng tạo
    của học sinh khi phân tích
    và tạo lập văn bản
    1416,13439,13034,5910,3
    3Hứng thú của học sinh khi học
    tập các bài phong cách ngôn
    ngữ
    33,420233034,53439,1
    4Yêu cầu về phƣơng pháp dạy
    học tích cực
    5563,23034,522,300

    Nhận xét: Qua bảng trên có thể thấy :
    – Học sinh không có hứng thú học tập các bài phong cách ngôn ngữ
    – Học sinh chƣa biết cách tìm hiểu tiếp thu các kiến thức về phong cách ngôn ngữ
    – Thói quen học thụ động vẫn còn khá phổ biến. Đa số các em không quan tâm đến
    hoạt động tự tìm đến tri thức mà quen nghe, chép và ghi nhớ, tái hiện một cách máy móc, rập
    khuôn những gì mà giáo viên đã giảng. Điều này làm triệt tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của ngƣời
    học, biến ngƣời học thành quen suy nghĩ, diễn đạt bằng ý vay mƣợn, lời sẵn có. Vì chƣa có
    hào hứng, chƣa quen bộc lộ suy nghĩ tình cảm của cá nhân trƣớc tập thể nên khi phải nói và
    viết, học sinh cảm thấy rất khó khăn.
    – Các em đều mong muốn các tiết dạy phong cách ngôn ngữ có sử dụng hiệu quả các
    phƣơng pháp dạy học tích cực.
    Trƣớc thực trạng còn nhiều tồn tại trên, vấn đề đặt ra cấp thiết là phải đổi mới phương
    pháp dạy học. Và cốt lõi của việc đổi mới này là chú trọng hơn nữa phƣơng pháp tự học cho
    học sinh, khả năng hợp tác, khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; đa dạng hóa các hình
    thức hoạt động học tập, xây dựng môi trƣờng học tập tích cực, tƣơng tác, thể hiện rõ đặc trƣng
    bộ môn; tạo động lực học tập Ngữ văn cho học sinh, giúp học sinh thực sự hứng thú, say mê
    với môn học.
    III. GIẢI PHÁP
    1. Các phƣơng pháp và kĩ thuật dạy học tích cực
    1.1. Quan niệm và đặc trưng của dạy học tích cực
    Phƣơng pháp dạy học hiện đại xuất hiện ở các nƣớc phƣơng Tây (Mỹ, Pháp…) từ đầu thế kỷ
    XX và đƣợc phát triển mạnh từ nửa sau của thế kỷ, có ảnh hƣởng sâu rộng tới các nƣớc trên
    thế giới, trong đó có Việt Nam. Đó là cách thức dạy học theo lối phát huy tính tích cực, chủ
    động của học sinh. Trên website summerschool.edu.vn có đề xuất mô hình 1.1:
    9
    Hình 1.1

    Environment: môi trƣờng
    Content: Nội dung
    Interactions: tƣơng tác
    Assessment: đánh giá
    Instructional Strategies: chiến lƣợc dạy
    học
    Engagement: tham gia
    Studen centerd learning: học sinh làm
    trung tâm

    Theo quan điểm này, quá trình dạy học là một hệ thống toàn vẹn, bao gồm nhiều yếu
    tố có mối quan hệ biện chứng với nhau. Phƣơng pháp dạy học hiện nay là phƣơng pháp dạy
    học tích cực; ở đó, giáo viên là ngƣời giữ vai trò hƣớng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho ngƣời
    học tự tìm kiếm, khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh luận, thảo luận nhóm. Ngƣời
    thầy có vai trò là trọng tài, cố vấn, điều khiển tiến trình giờ dạy. Phƣơng pháp dạy học này
    rất chú ý đến đối tƣợng học sinh, coi trọng vị thế chủ động, tích cực của ngƣời học. Giáo viên
    là ngƣời nêu tình huống, kích thích hứng thú, suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của học
    sinh; từ đó hệ thống hoá các vấn đề, tổng kết bài giảng, khắc sâu những tri thức cần nắm
    vững. Ƣu điểm của phƣơng pháp dạy học tích cực rất chú trọng kỹ năng thực hành, vận dụng
    giải quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học. Đặc điểm của dạy học theo
    phƣơng pháp này là giảm bớt thuyết trình, diễn giải; tăng cƣờng dẫn dắt, điều khiển, tổ chức,
    xử lý tình huống.
    Nhƣ vậy, “Tích cực” trong phƣơng pháp dạy học đƣợc dùng với nghĩa là hoạt động, chủ
    động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với nghĩa tiêu
    cực. Việc dùng thuật ngữ “Dạy và học tích cực” nhằm phân biệt với “Dạy và học thụ động”.
    1.2. Các phương pháp dạy học tích cực
    1.2.1. Phương pháp dạy học nhóm
    Dạy học nhóm còn đƣợc gọi bằng những tên khác nhau nhƣ: Dạy học hợp tác, dạy
    học theo nhóm nhỏ, trong đó học sinh của một lớp học đƣợc chia thành các nhóm nhỏ, trong
    khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân
    10
    công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó đƣợc trình bày và đánh giá
    trƣớc toàn lớp.
    Dạy học nhóm nếu đƣợc tổ chức tốt sẽ phát huy đƣợc tính tích cực, tính trách nhiệm;
    phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp của học sinh.
    1.2.2. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề
    Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là phƣơng pháp dạy học đặt ra trƣớc học sinh
    các vấn đề nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chƣa biết, chuyển học
    sinh vào tình huống có vấn đề, kích thích họ tự lực, chủ động và có nhu cầu mong muốn giải
    quyết vấn đề.
    1.2.3. Phương pháp trò chơi
    Là một hình thức học tập kết hợp với vui chơi dƣới sự tổ chức hƣớng dẫn của ngƣời
    giáo viên.
    Mục đích: Hình thành cho học sinh một hình thức tự củng cố kiến thức, kĩ năng, thói
    quen học tập một cách hứng thú, thói quen làm việc theo nhiều quy mô (cá nhân, nhóm, lớp)
    nhằm phát triển trí thông minh, óc sáng tạo để giải quyết các vấn đề các tình huống đặt ra,
    hình thành khả năng hợp tác giữa các cá nhân với nhau. Phƣơng pháp sử dụng trò chơi học tập
    này dƣợc dùng ở tất cả các cấp học ở nhà trƣờng phổ thông và sƣ phạm.
    1.2.4. Dạy học theo dự án ( Phương pháp dự án)
    Dạy học theo dự án còn gọi là phƣơng pháp dự án, trong đó học sinh thực hiện một
    nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp lí thuyết với thực hành.
    Nhiệm vụ này đƣợc ngƣời học thực hiện với tính tự lực cao, từ việc lập kế hoạch đến
    việc thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện dự án. Hình thức làm việc chủ yếu là theo nhóm.
    Kết quả dự án là những sản phẩm hành động có thể giới thiệu đƣợc.
    1.2.5. Phương pháp vấn đáp
    Vấn đáp là phƣơng pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc học
    sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên, qua đó học sinh lĩnh hội đƣợc nội dung bài
    học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, ngƣời ta phân biệt các loại phƣơng pháp vấn
    đáp:
    – Phương pháp vấn đáp tái hiện
    – Vấn đáp giải thích – minh họa
    – Phương pháp vấn đáp tìm tòi (đàm thoại Ơxrixtic)
    1.2.6. Phương pháp thuyết trình
    Để thu hút sự chú ý của ngƣời học và tích cực hóa phƣơng pháp thuyết trình ngay khi
    mở đầu bài học giáo viên có thể thông báo vấn đề dƣới hình thức những câu hỏi có tính chất
    định hƣớng hoặc có tính chất “xuyên tâm”. Trong quá trình thuyết trình bài giảng, giáo viên có
    thể thực hiện một số hình thức thuyết trình thu hút sự chú ý của học sinh nhƣ sau:
    – Trình bày kiểu nêu vấn đề
    11
    – Thuyết trình kiểu thuật chuyện
    – Thuyết trình kiểu mô tả, phân tích
    – Thuyết trình kiểu nêu vấn đề có tính giả thuyết
    – Thuyết trình kiểu so sánh, tổng hợp
    1.3. Các kĩ thuật dạy học tích cực
    1.3.1. Kĩ thuật đặt câu hỏi
    Là việc giáo viên chuẩn bị một hệ thống các câu hỏi để học sinh suy nghĩ và phát hiện
    kiến thức, phát triển nội dung bài học, đồng thời khuyến khích học sinh động não tham gia
    thảo luận xoay quanh những ý tƣởng trọng tâm của bài học theo trật tự logic. Kết quả là học
    sinh vừa lĩnh hội đƣợc kiến thức mới, đồng thời biết đƣợc cách thức đi đến kiến thức đó,
    trƣởng thành thêm một bƣớc về trình độ tƣ duy.
    – Kĩ thuật đặt câu hỏi 5W1H
    Khái niệm 5W1H đƣợc cho là có nguồn gốc từ bài thơ “The Elephant’s Child” của
    Rudyard Kipling. Bài thơ này nhƣ sau:
    “I have six honest serving – men
    They taught me all I knew
    Their name are What and Where anh When
    And How and Why and Who”.
    Tạm dịch nhƣ sau:
    “Tôi có sáu ngƣời đầy tớ trai trung thực
    Họ đã dạy cho tôi biết mọi thứ
    Tên của họ là What và Where và When
    Và How và Why và Who”.
    5W1H viết tắt từ các từ sau: What? (Cái gì?), Where? (Ở đâu?), When (Khi nào?), Why
    (Tại sao?), How (Nhƣ thế nào?), Who? (Ai?).
    1.3.2. Kĩ thuật khăn phủ bàn
    Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác, kết hợp giữa hoạt động cá nhân và
    hoạt động nhóm nhằm kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực; tăng cƣờng tính độc lập học
    tập, trách nhiệm của mỗi cá nhân học sinh, phát triển mô hình có sự tƣơng tác qua lại giữa học
    sinh với học sinh.
    Sơ đồ kĩ thuật khăn phủ bàn có thể được minh họa như sau:
    12
    Sơ đồ kĩ thuật “Khăn phủ bàn”
    1.3.3. Kĩ thuật mảnh ghép
    Là hình thức học tập có sự hợp tác giữa cá nhân, nhóm và sự liên kết giữa các nhóm
    nhằm giải quyết một nhiệm vụ phức hợp (có nhiều chủ đề); kích thích sự tham gia tích cực của
    học sinh; nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác (không chỉ hoàn thành nhiệm vụ
    ở vòng 1 mà còn phải truyền đạt kết quả vòng 1 và hoàn thành nhiệm vụ ở vòng 2).
    1.3.4. Kĩ thuật bể cá
    Là kĩ thuật dùng cho thảo luận nhóm, trong đó một nhóm học sinh ngồi trƣớc lớp và
    thảo luận với nhau, còn những học sinh khác theo dõi cuộc thảo luận đó và sau khi kết thúc
    cuộc thảo luận thì đƣa ra những nhận xét về cách ứng xử của những học sinh tham gia thảo
    luận.
    1.3.5. Kỹ thuật động não (tiếng Anh brainstorming: sự vận dụng trí tuệ (động não) tập
    thể để giải quyết một vấn đề phức tạp)
    Động não là kỹ thuật trong dạy học nhằm giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh
    đƣợc nhiều ý tƣởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.
    Để thực hiện kỹ thuật này, giáo viên cần đƣa ra một hệ thống các thông tin làm tiền đề cho
    buổi thảo luận.
    1.3.6. Kĩ thuật sơ đồ tư duy
    Sơ đồ tƣ duy là một hình thức ghi chép có thể sử dụng các màu sắc, hình ảnh để mở
    rộng và đào sâu các ý tƣởng. Các ý tƣởng đƣợc liên kết với nhau khiến sơ đồ tƣ duy có thể bao
    quát đƣợc các ý tƣởng trên một phạm vi rộng. Kĩ thuật này phù hợp với tâm sinh lí học sinh,
    đơn giản dễ hiểu thay cho việc ghi nhớ lí thuyết bằng ghi nhớ dƣới dạng sơ đồ hóa kiến thức.
    1.3.7. Kĩ thuật “KWL”
    Là sơ đồ liên kết các kiến thức đã biết liên quan đến bài học, các kiến thức muốn biết
    và các kiến thức học đƣợc sau bài học.
    Khái niệm “KWL” là sự viết tắt của các từ K (Know) – Những điều đã biết; W (Want
    to know) – Những điều muốn biết; L (Learned) – Những điều đã học đƣợc.
    13
    Nhƣ vậy, việc vận dụng các phƣơng pháp, kĩ thuật dạy học vào việc dạy học các bài
    phong cách ngôn ngữ là một yêu cầu của quá trình dạy học tích cực. Khi tiến hành tiết dạy,
    giáo viên cần vận dụng các phƣơng pháp và kĩ thuật dạy học tích cực một cách linh hoạt và
    sáng tạo.
    2. Vận dụng các phƣơng pháp và kĩ thuật dạy học tích cực trong giảng dạy các bài “Phong
    cách ngôn ngữ” ở chƣơng trình Ngữ văn 11 (chuẩn)
    2.1. Yêu cầu đối với giáo viên và học sinh
    2.1.1. Với giáo viên
    Nhƣ chúng tôi đã trình bày ở phần thực trạng, việc dạy học môn Ngữ văn nói chung, phân
    môn Tiếng Việt, đặc biệt các bài phong cách ngôn ngữ nói riêng rơi vào tình trạng khô khan,
    nhàm chán. Muốn khắc phục tình trạng đó, trƣớc hết yêu cầu ngƣời giáo viên phải thay đổi
    nhận thức, thói quen dạy học tiếng Việt, trong đó có các bài phong cách ngôn ngữ. Vậy thay
    đổi nhƣ thế nào? Ở bài viết này tôi xin đề xuất một số hƣớng nhƣ sau:
    a. Thứ nhất: Giáo viên phải tích cực tự học, tự đọc
    – Học cái gì? Câu hỏi này liên quan đến nội dung kiến thức mà giáo viên muốn truyền tải cho
    học sinh. Không thể đứng trên bục giảng và nói nhƣ một cái máy khi ngƣời giáo viên không
    hiểu bản chất của vấn đề. Tôi chỉ xin đi vào vấn đề mà sáng kiến muốn nghiên cứu đó là các
    bài phong cách ngôn ngữ. Vậy để có đƣợc một bài giảng tốt, trƣớc hết giáo viên cần trang bị
    các kiến thức chuyên môn liên quan đến phong cách ngôn ngữ. Ví dụ nhƣ:
    + Khái niệm “phong cách”:
    Theo “Từ điển tiếng Việt” (2002), do Hoàng Phê chủ biên, “phong cách” là “những
    lối, những cung cách sinh hoạt, làm việc, hoạt động, xử sự tạo nên cái riêng của một người
    hay một loại người nào đó”.
    Theo Tiến sĩ Trƣơng Thông Tuần (Giám đốc trung tâm Khoa học Xã hội và nhân văn –
    Trƣờng Đại học Tây Nguyên) cho rằng: “Phong cách học là một tổ chức hữu cơ của tất cả
    các kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình thành một cách lịch sử, và chứa đựng một giá trị lịch sử có
    thể cho phép ta nhận diện một thời đại, một thể loại, một tác phẩm hay một tác giả”.
    Từ đó có thể hiểu: Phong cách là những đặc điểm riêng của mỗi người (phong cách nói
    năng, phong cách thời trang…) những đặc điểm đó làm nên nét riêng biệt ở mỗi người, làm
    cho người này khác với người kia.
    + Phong cách ngôn ngữ
    Theo “Từ điển tiếng Việt” (2002), do Hoàng Phê chủ biên, “phong cách ngôn ngữ”
    là:“Dạng của ngôn ngữ sử dụng trong những yêu cầu chức năng điển hình nào đó, khác với
    những dạng khác về đặc điểm từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm. Phong cách ngôn ngữ khoa học.
    Phong cách ngôn ngữ chính luận. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật”.
    Cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” (2007) do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
    Phi đồng chủ biên viết: “Trong ngôn ngữ, do thực hiện những chức năng khác nhau, do được
    14
    sử dụng trong những tập đoàn xã hội hoặc những giới nghề nghiệp khác nhau, dần dần hình
    thành những “phong cách ngôn ngữ” khác nhau. Chẳng hạn phong cách ngôn ngữ khoa học,
    phong cách ngôn ngữ hành chính, phong cách ngôn ngữ văn học…”
    Từ những khái niệm trên, có thể hiểu về phong cách ngôn ngữ nhƣ sau: “Phong cách
    ngôn ngữ là một dạng của ngôn ngữ được sử dụng trong những yêu cầu và chức năng điển
    hình nhất định. Phong cách ngôn ngữ rất đa dạng, có phong cách ngôn ngữ chính luận, phong
    cách ngôn ngữ sinh hoạt, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật…”
    Giáo viên cần trang bị cho mình những hiểu biết về các vấn đề liên quan tới phong
    cách, phong cách ngôn ngữ, các loại phong cách ngôn ngữ và những đặc trƣng của nó. “Biết
    mười nhưng chỉ nói một”, chỉ khi có kiến thức phong phú, ngƣời giáo viên mới có thể chọn lọc
    để truyền tải đến học sinh những kiến thức trọng tâm nhất, cốt lõi nhất.
    – Học bằng cách nào?
    + Nguồn sách chính thống theo quy định:
    Sách giáo khoa Ngữ văn 11 tập 1, 2 của Bộ GD & ĐT
    Sách giáo viên Ngữ văn 11 tập 1, 2 của Bộ GD & ĐT
    Sách bài tập Ngữ văn 11 tập 1, 2 của Bộ GD & ĐT
    + Nguồn sách tham khảo: Hiện nay trên thị trƣờng, sách tham khảo rất nhiều, nếu không
    muốn nói là tràn lan. Do vậy, lựa chọn những cuốn sách uy tín, có chất lƣợng là điều cần thiết,
    tránh tình trạng đọc ồ ạt, dễ dãi. Để giảng dạy các bài phong cách ngôn ngữ theo hƣớng đổi
    mới, các bạn đồng nghiệp có thể tìm đọc các cuốn sách nhƣ:
    “Từ điển tiếng Việt” (2002) do Hoàng Phê chủ biên
    “Từ điển thuật ngữ văn học” (2007) do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng
    chủ biên.
    Đây là những tài liệu đáng tin cậy trong quá trình tìm hiểu các khái niệm và thuật ngữ
    thƣờng sử dụng trong các bài tiếng Việt.
    Về vấn đề đổi mới phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực, giáo viên có thể tìm đọc một
    số tƣ liệu nhƣ:
    Giáo trình “ Phương pháp dạy học tiếng Việt” của tác giả Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi
    Minh Toán
    Cuốn sách “Áp dụng dạy và học tích cực bộ môn Tiếng Việt”, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà
    Nội, 2002, của các tác giả Trần Bá Hoành, Nguyễn Thị Hạnh, Lê Phƣơng Nga
    Và gần đây nhất, một bộ sách quý Đổi mới phương pháp dạy học gồm các cuốn Nghệ thuật
    và khoa học dạy học – tác giả Robert J. Marzano; Những phẩm chất của người giáo viên
    hiệu quả – tác giả James H. Stronge; Tám đổi mới để trở thành người giáo viên giỏi – tác giả
    Giselle O. Martin-Kniep; Quản lí hiệu quả lớp học – tác giả Robert J. Marzano, Jana S.
    Marzano & Debra J. Pickering; Đa trí tuệ trong lớp học – tác giả Thomas Armtrong; Các
    phương pháp dạy học hiệu quả – tác giả Robert J. Marzano, Debra J. Pickering, Jane E.
    15
    Pollock;… Bộ sách này do NXB Giáo dục, Hà Nội dịch và xuất bản trong hai năm 2013 và
    2014 đã mở ra những hƣớng nghiên cứu mới và là tiền đề quan trọng cho việc vận dụng các
    phƣơng pháp dạy học tích cực vào dạy học nói chung và dạy học Tiếng Việt nói riêng.
    + Nguồn internet và các phương tiện thông tin đại chúng: Đó là một thế giới tri thức khổng lồ
    mà bất cứ ai cũng có thể tìm kiếm. Tuy nhiên, các kiến thức trên internet chỉ nên coi là sự
    tham khảo và cần có chọn lọc. Ở đây, tôi xin giới thiệu một số trang bài có thể tham khảo
    đƣợc trong quá trình dạy học các bài phong cách ngôn ngữ:
    Bài giảng về phong cách học của TS Trƣơng Thông Tuần – Đại hoc Tây Nguyên, trên trang
    web: truongthongtuan.com
    Bài giảng “phương pháp dạy học tiếng Việt cho học sinh THPT” của giáo viên Nguyễn Đăng
    Châu – Khoa Ngữ văn – Đại học sƣ phạm – Đại học Đà Nẵng trên trang web:
    nguvan.ued.udn.vn
    Bài giảng học phần “Ngữ dụng và phong cách học tiếng Việt” của Khoa Ngữ văn trƣờng Đại
    học Tây Bắc trên trang web: nguvan.utb.edu.vn
    Ngoài ra giáo viên cần tiếp cận và thu thập thông tin từ các phƣơng tiện nhƣ báo chí,
    truyền hình để có đƣợc sự hiểu biết phong phú về các vấn đề liên quan đến phong cách.
    + Nguồn từ thực tiễn đời sống
    Trong quá trình giao tiếp hàng ngày, quá trình giảng dạy trên lớp hay từ thực tiễn công
    việc cụ thể nhƣ: xin giấy tờ, chuẩn bị bài thuyết trình, viết sáng kiến…giáo viên có thể tự đúc
    rút kinh nghiệm cho bản thân về kiến thức phong cách học. Đó cũng là hình thức giáo viên tự
    học, tự bồi dƣỡng kiến thức chuyên môn. Lý thuyết chỉ có thể sâu sắc khi đƣợc áp dụng vào
    thực tiễn đời sống.
    b. Thứ hai: Giáo viên phải đổi mới cách dạy
    – Cần vận dụng các phƣơng pháp và kĩ thuật dạy học tích cực trong quá trình dạy học (các
    phƣơng pháp và kĩ thuật này chúng tôi đã trình bày ở trên)
    – Trong quá trình tổ chức dạy học: Giáo viên là ngƣời khơi gợi, dẫn dắt, định hƣớng để học sinh
    chủ động lĩnh hội kiến thức
    – Tổ chức dạy học thực hành: cần linh hoạt, đa dạng nhằm tạo hứng thú cho học sinh
    – Đổi mới kiểm tra đánh giá: Kiểm tra đánh giá phải theo đặc thù của phân môn tiếng Việt nói
    chung và các bài phong cách ngôn ngữ nói riêng. Hình thức kiểm tra: trắc nghiệm hoặc tự
    luận, lý thuyết kết hợp với bài tập.
    2.1.2. Với học sinh
    – Yêu cầu chuẩn bị bài ở nhà: Đọc sách giáo khoa, tìm kiếm các thông tin liên quan đến phong
    cách ngôn ngữ
    – Tích cực tham gia các hoạt động trong giờ học để chủ động lĩnh hội kiến thức
    – Biết cách sử dụng ngôn ngữ và tạo lập văn bản đúng đặc trƣng phong cách ngôn ngữ
    16
    2.2. Vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực trong giảng dạy các bài “Phong
    cách ngôn ngữ” ở chương trình Ngữ văn 11 (chuẩn)
    Chƣơng trình Ngữ văn 11 (chuẩn) gồm hai bài phong cách ngôn ngữ:
    – Phong cách ngôn ngữ báo chí (2 tiết), Ngữ văn 11, tập 1
    – Phong cách ngôn ngữ chính luận (2 tiết), Ngữ văn 11, tập 2
    2.2.1. Dạy học lý thuyết
    2.2.1.1.Phương pháp dạy học lí thuyết
    Trong tiết dạy học lí thuyết, chúng tôi lựa chọn các phƣơng pháp dạy học tích cực:
    * Phương pháp vấn đáp
    Khi dạy học các bài phong cách ngôn ngữ, giáo viên nên tận dụng hệ thống câu hỏi
    trong SGK, SGV và sách thiết kế bài giảng kết hợp với việc bổ sung các câu hỏi nhằm khái
    quát kiến thức. Ví dụ:
    Với bài “Phong cách ngôn ngữ chính luận”
    – Câu hỏi trong SGK: Đọc các đoạn trích trong các văn bản chính luận sau và tìm hiểu
    về: Thể loại của văn bản? Mục đích viết văn bản? Thái độ, quan điểm của ngƣời viết đối với
    những vấn đề đƣợc đề cập đến?
    – Câu hỏi trong SGV: Câu văn trong bài bình luận thời sự đƣợc sắp đặt nhƣ thế nào?
    Tìm các biện pháp tu từ trong đoạn trích Việt Nam đi tới?
    – Câu hỏi trong sách thiết kế bài giảng: Phong cách ngôn ngữ chính luận là gì? Phân
    tích các khái niệm ở mục I.1 trong SGK để làm rõ khái niệm trên? Nhận xét chung về văn bản
    chính luận và ngôn ngữ chính luận? Cho biết các phƣơng tiện diễn đạt của phong cách ngôn
    ngữ chính luận? Phong cách ngôn ngữ chính luận có mấy đặc trƣng cơ bản? Là những đặc
    trƣng nào?

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm trong dạy học môn Ngữ văn THPT

    SKKN Nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm trong dạy học môn Ngữ văn THPT

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới “căn bản toàn diện” giáo dục và đào tạo
    Đổi mới giáo dục là một yêu cầu tất yếu đang đặt ra đối với tất cả các
    ngành học, cấp học của hệ thống giáo dục trong những thập kỉ đầu thế kỉ
    XXI.Ngày 4 tháng 11năm 2013, Ban chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị
    quyết 29-NQ/TW vềĐổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đã nêu rõ
    định hướng đổi mới giáo dục là “chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu chú
    trọng trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người
    học”, “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường
    kết hợp với gia đình và giáo dục xã hội”, đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân
    lực trong giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
    và hội nhập quốc tế của đất nước. Để thực hiện tư tưởng đó, cần “tiếp tục đổi
    mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích
    cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc
    phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học,
    cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới
    tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”, “nội dung hình thức kiểm tra thi và đánh
    giá kết quả giáo dục phải chú trọng đánh giá việc hiểu, vận dụng kiến thức kĩ
    năng vào giải quyết các vấn đề trong học tập và thực tiễn…”.Ngày 08-10-2014,
    Bộ GD và ĐT ban hành công văn số 5555/BGDĐT-GDTrH hướng dẫn sinh
    hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá, tổ chức
    và quản lí các hoạt động chuyên môn của trường trung học/ trung tâm giáo dục
    thường xuyên qua mạng. Cuối năm 2014, Quốc hội cũng đã thông qua Nghị
    quyết số 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa GDPT, nhằm
    mục đích “tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo
    dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp
    phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát
    triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hoà trí, đức, thể, mỹ và phát huy
    tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh”. Đến cuối năm 2018, Bộ Giáo dục và đào
    tạo đã ban hành Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT về việc ban hành chương trình
    giáo dục phổ thông. Đứng trước yêu cầu đổi mới giáo dục thì đổi mới phương
    2
    pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học là một
    giải pháp được xem là then chốt, có tính đột phá cho việc thực hiện đổi mới căn
    bản, toàn diện giáo dục và nâng cao hiệu quả giáo dục.
    Đổi mới phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không
    chỉ chú ý tích cực hóa học sinhvề hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng
    lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp,
    đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Đổi mới
    phương pháp dạy học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người
    học, hình thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi
    chép, tìm kiếm thông tin,…), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc
    lập, sáng tạo của tư duy. Việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực phải
    đảm bảo nguyên tắc “học sinh được tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với
    sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
    Đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn là chuyển những kết quả về
    đổi mới phương pháp dạy học cả chương trình Ngữ văn hiện hành từ “mặt bên
    ngoài” vào “mặt bên trong” để phát huy hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học,
    đáp ứng mục tiêu hình thành và phát triển năng lực của học sinh. Các lý thuyết
    hiện đại thường được nhắc đến: lý thuyết đa trí tuệ (Howard Gardner), lý thuyết
    hoạt động (Leonchiev), lý thuyết kiến tạo (đại diện là Piagiê, Vưgốtki),… và
    quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm” chính là cơ sở để xác định các nội dung
    đổi mới phương pháp dạy học.
    Bên cạnh những phương pháp dạy học theo đặc trưng của bộ môn Ngữ
    văn như dạy học đọc hiểu, dạy học tích hợp thì việc phát huy các phương pháp
    dạy học tích cực cũng góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn
    đạt hiệu quả, nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn. Trong đó phương pháp
    thảo luận nhóm được sử dụng phổ biến. Thảo luận nhóm là một trong những
    phương pháp dạy học tạo được sự tham gia tích cực của học sinh trong học tập.
    Trong thảo luận nhóm, học sinh được tham gia trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến
    về một vấn đề mà cả nhóm cùng quan tâm. Phương pháp thảo luận nhóm được
    sử dụng hiệu quả sẽ hình thành những năng lực cần thiết cho người học.
    3
    2. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống
    Xã hội ngày càng phát triển, đòi hỏi mỗi người cần phải có nền tảng kĩ
    năng nhất định để trở thành những “công dân toàn cầu”. Mục tiêu giáo dục của
    chúng ta hiện nay đang tích cực rèn luyện kĩ năng sống, phát triển năng lực cho
    học sinh. Rời ghế nhà trường để bước vào đời, các em không phải chỉ là những
    người có trình độ, có kiến thức mà còn cần là người có kĩ năng sống, có năng
    lực giải quyết các vấn đề. Đó là “khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho
    phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc
    sống hàng ngày” (WHO). Có năng lực, kĩ năng sống giúp chúng ta giải quyết
    những nhu cầu và thách thức khi phải đối mặt một cách có hiệu quả. Sống trong
    xã hội hiện đại, người có năng lực, có kĩ năng sống sẽ cho phép họ sự tự do,
    rộng rãi trong việc lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với khả năng của cá nhân
    mình và khi đã chọn được nghề nghiệp phù hợp thì năng lực, kĩ năng của họ
    ngày càng được hoàn thiện hơn và hoạt động của họ luôn luôn có kết quả hơn.
    Hoạt động nhóm là hoạt động hình thành nhiều kĩ năng và năng lực cần thiết cho
    học để họ tự tin bước vào cuộc sống hiện đại ngày nay.
    3. Xuất phát từ thực tế dạy học hiện nay
    Thực hiện đổi mới Chương trình và SGK, trong đó có hoạt động dạy
    học Ngữ văn theo hướng hình thành và phát triển năng lực, các kĩ năng cho
    HS, tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học hình thành những kĩ năng và năng
    lực nào cho người học?
    Hoạt động nhóm kích thích lòng ham mê học tập, tìm tòi, sáng tạo của
    học sinh, tránh lối học thụ động. Giúp học sinh phát triển kĩ năng giải quuyết
    vấn đề theo nhóm, có tinh thần đoàn kết cao. Học sinh hợp tác hỗ trợ lẫn nhau
    trong quá trình học tập, tự đánh giá, tự điều chỉnh vốn tri thức của bản thân
    bằng phương pháp tự học và khám phá thêm những kiến thức liên quan từ
    thực tiễn. Khi hoạt động nhóm dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ
    phát huy được tính tích cực, chủ động của mình trong việc chiếm lĩnh tri thức
    bài học. Điều này giúp người học ghi nhớ kiến thức sâu sắc hơn. Năng lực
    giao tiếp và hợp tác được phát triển mạnh trong hoạt động nhóm.
    Tuy nhiên, hiện nay nhiều giáo viên vẫn còn lúng túng khi tổ chức hoạt
    động nhóm trong dạy học môn Ngữ văn khiến cho hoạt động này không đạt
    4
    được hiệu quả như mong muốn, không tạo được hứng thú học tập cho người
    học, không hình thành và phát triển được các kĩ năng, năng lực thiết yếu cho
    người học.
    Xuất phát từ những lí do: dạy học hiện đại là dạy học hướng đến việc phát
    triển năng lực, kĩ năng cho người học; hoạt động nhóm có nhiều lợi thế trong
    việc rèn luyện kĩ năng và phát triển năng lực cho người học. Đây là một trong
    những hình thức tổ chức dạy học phát huy cao tính tích cực, năng động, tự lực,
    sáng tạo cho học sinh đồng thời rèn luyện kĩ năng hợp tác, phân tích, lắng nghe,
    suy nghĩ, phản hồi và giải quyết vấn đề một cách hiệu quả. Đây là những năng
    lực và kĩ năng cần có trong xã hội hiện đại khi các em tự mình bước đi trong
    cuộc sống với những công việc của mình. Từ những kinh nghiệm của bản thân
    sau những năm tham gia giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong chương trình THPT,
    chúng tôi xin trình bày những điều đúc rút được từ thực tiễn qua đề tài: “Nâng
    cao hiệu quả hoạt động nhóm trong dạy học môn Ngữ vănTHPT”.Chúng tôi
    nhận thấy đây là những điều thiết thực và bổ ích có thể góp phần vào việc nâng
    cao chất lượng giảng dạy và rèn luyện kĩ năng, năng lực cần thiết cho học sinh
    THPT.
    5
    PHẦN II: MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    A. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
    Đổi mới phương pháp dạy học không còn là điều xa lạ đối với giáo viên.
    Bên cạnh các phương pháp dạy học tích cực mang tính chất đặc thù cho bộ môn
    Ngữ văn như phương pháp dạy học đọc hiểu, đóng vai,… thì phương pháp thảo
    luận nhóm cũng đem lại hiệu quả giáo dục cao và được giáo viên sử dụng nhiều
    trong giờ học. Bởi lẽ phương pháp này huy động được tất cả học sinh tham gia
    vào hoạt động học tập, nâng cao tính tương tác giữa các thành viên, người học
    có cơ hội được trao đổi, thảo luận, lắng nghe, học hỏi kiến thức của nhau, người
    học được rèn luyện và phát triển kĩ năng giao tiếp, thuyết trình… Tuy nhiên,
    trong quá trình tổ chức hoạt động nhóm vẫn còn nhiều hạn chế khiến hiệu quả
    hoạt động nhóm chưa đạt hiệu quả cao.Để có thêm cơ sở thực tiễn, chúng tôi
    tiến hành điều tra, khảo sát thực trạng tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học
    môn Ngữ văn cho học sinh ở trường THPT. Tôi tiến hành tìm hiểu thực tế việc
    tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học môn Ngữ văn thông qua những hình thức
    như: phỏng vấn, trao đổi với giáo viên, trò chuyện với học sinh, sử dụng phiếu
    thăm dò ý kiến đối với giáo viên và học sinh ở trường THPT Trần Văn Lan –
    Huyện Mỹ Lộc – Tỉnh Nam Định.
    1. Khảo sát tình hình tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học môn Ngữ vănở
    nhà trường phổ thông đối với giáo viên
    Như chúng tôi đã đề cập, trong nhiều năm trở lại đây, dạy học theo định
    hướng phát triển năng lực cho HS là mục tiêu trọng tâm hàng đầu của ngành
    giáo dục Việt Nam. Riêng đối với bộ môn Ngữ văn, ngoài năng lực đọc – hiểu
    văn bản thì năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực học và tự chủ,… cũng được
    các nhà sư phạm rất chú trọng. Tôi đã tiến hành khảo sát 58 GV Ngữ văn của
    một số trường THPT trên địa bàn tỉnh Nam Định.
    1.1. Phiếu khảo sát giáo viên
    Hãy cho biết ý kiến của thầy (cô) bằng cách khoanh tròn vào chữ số tương
    ứng theo quy ước trong từng câu hỏi hoặc đánh dấu X vào ô tương ứng:
    6
    Câu 1: Trong quá trình dạy học môn Ngữ văn, thầy/ cô có thường xuyên tổ
    chức hoạt động nhóm cho học sinh không?

    a. Rất thường xuyênb. Thường xuyên
    c. Không thường xuyênd. Không khi nào

    Câu 2: Theo thầy/ cô hoạt động nhóm góp phần hình thành và phát triển
    những năng lực như thế nào cho học sinh không?

    a. Rất quan trọngb. Quan trọng
    c. Bình thườngd. Không quan trọng

    Câu 3: Thầy/ cô đánh giá như thế nào về kĩ năng làm việc nhóm của học
    sinh?

    a. Rất tốtb. Tốt
    c. Bình thườngd. Không tốt

    Câu 4: Trong quá trình tổ chức hoạt động nhóm, thầy/ cô gặp những khó
    khăn gì?

    Những khó khănMức độ khó khăn (%)
    Cực kì
    khó
    khăn
    Nhiều
    khó
    khăn
    Ít
    khó
    khăn
    Không
    khó
    khăn
    Quản lí lớp học (lớp học ồn ào,…)
    Thời lượng tiết học (không đủ thời gian 1 tiết
    học…)
    Cách chia nhóm
    Thu hút học sinh tham gia hoạt động nhóm một
    cách tích cực
    Giao nhiệm vụ học tập
    Đánh giá hiệu quả hoạt động nhóm
    Không gian lớp học
    Các trang thiết bị dạy học (máy tính, máy chiếu,
    hệ thống âm thanh,…)

    7
    1.2. Kết quả khảo sát

    Câu
    hỏi
    Các mức độ
    1234
    SL%SL%SL%SL%
    158,64068,91322,500
    2915,54374,1610,300
    300915,52746,62237,9

    Câu 4:

    Những khó khănMức độ khó khăn (%)
    Cực kì
    khó
    khăn
    Nhiều
    khó
    khăn
    Ít
    khó
    khăn
    Không
    khó
    khăn
    Quản lí lớp học (lớp học ồn ào,…)20,760,319,00
    Thời lượng tiết học (không đủ thời gian 1 tiết
    học…)
    43,146,610,30
    Cách chia nhóm12,18,610,369,0
    Thu hút học sinh tham gia hoạt động nhóm một
    cách tích cực
    44,836,212,16,9
    Giao nhiệm vụ học tập024,122,453,4
    Đánh giá hiệu quả hoạt động nhóm13,829,348,38,6
    Không gian lớp học31,329,322,417,0
    Các trang thiết bị dạy học (máy tính, máy chiếu,
    hệ thống âm thanh,…)
    6,920,720,751,7

    8
    1.3. Phân tích số liệu và đưa ra nhận xét
    Ở câu hỏi số 1: đa số giáo viên thường xuyên tổ chức hoạt động nhóm
    trong dạy học cho học sinh và không có giáo viên nào chưa từng ứng dụng tổ
    chức hoạt động nhóm trong dạy học. Đây là điều đáng mừng. Bởi lẽ các thầy cô
    đều tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy
    và phát triển các năng lực, kĩ năng vốn có của người học.
    Đối với câu hỏi số 2, đa số giáo viên đều khẳng định họat động nhóm góp
    phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho
    học sinh thông qua hoạt động nhóm. Nhưng cũng đáng buồn là có10,3% giáo
    viên chưa thấy được tầm quan trọng của hoạt động nhóm trong việc hình thành
    và phát triển các kĩ năng cần thiết cho người học đáp ứng nhu cầu của xã hội.
    Đánh giá về kĩ năng làm việc nhóm của học sinh, đã phần giáo viên đều
    đánh giá học sinh chưa có kĩ năng làm việc nhóm tốt: 37,9% giáo viên cho rằng
    học sinh có kĩ năng làm việc nhóm không tốt, 46,6% giáo viên đánh giá học sinh
    có kĩ năng làm việc nhóm ở mức bình thường. Thực tế này cho thấy việc tổ chức
    hoạt động nhóm chưa thực sự hiệu quả, học sinh chưa được hình thành những kĩ
    năng cơ bản cho việc làm việc nhóm.
    Chia sẻ về những khó khăn khi tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học
    môn Ngữ văn, tôi nhận thấy: Đa số giáo viên đều không gặp khó khăn trong việc
    chia nhóm thảo luận và giao nhiệm vụ học tập cho học sinh. Đặc biệt, trang thiết
    bị lớp học hiện nay cũng được nhà trường chú trọng đầu tư. Vì vậy giáo viên có
    điều kiện ứng dụng đa dạng các phương pháp dạy học tích cực cho học sinh.
    Tuy nhiên, việc tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học lại gặp không ít khó
    khăn. Cụ thể:
    – Hoạt động nhóm đòi hỏi học sinh phải trao đổi, thảo luận trong nhóm
    nên sẽ gay ra tiếng ồn, chưa kể có những học sinh ý thức chưa tốt sẽ lợi dụng cơ
    hội để nói chuyện riêng. Vì thế 60,3% giáo viên cảm thấy khó khăn thậm chí có
    20,7% giáo viên thấy rất khó khăn trong việc quản lí lớp học khi tổ chức hoạt
    động nhóm.
    – Để tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh đòi hỏi phải có thời gian để
    cho học sinh hoạt động nhóm, trình bày kết quả hoạt động. Nếu giáo viên chia
    thành nhiều nhóm nhỏ thì việc đánh giá kết quả của học sinh cũng gặp không ít
    9
    khó khăn. Do đó 43,1% giáo viên thấy rất khó khăn và 46,6% giáo viên tháy khó
    khăn khi điều chỉnh hoạt động cho phù hợp thời lượng của tiết dạy 45 phút.
    – Thu hút học sinh tích cực tham gia hoạt động nhóm cũng không phải là
    điều dễ dàng. Có tới 80% giáo viên gặp khó khăn khi tạo hứng thú để học sinh
    tham gia tích cực hoạt động nhóm.
    – Một khó khăn nữa trong việc tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh đó là
    không gian lớp học. 60,6% giáo viên gặp khó khăn ở vấn đề này. Hiện nay,
    nhiều trường THPT, không gian lớp học hạn hẹp khiến việc tổ chức hoạt động
    nhóm gặp nhiều khó khăn trong việc di chuyển, xếp bàn ghế ghép nhóm,…
    2. Khảo sát tình hình tham gia hoạt động nhóm trong giờ học môn Ngữ
    vănở nhà trường phổ thông đối với học sinh
    Chúng tôi sử dụng 150 phiếu điều tra cho 05 lớp 11 ban khoa học cơ bản
    trường THPT Trần Văn Lan – Huyện Mỹ Lộc – Tỉnh Nam Định.
    2.1. Phiếu khảo sát học sinh
    Hãy cho biết ý kiến của anh/ chị bằng cách khoanh tròn vào chữ số tương
    ứng theo quy ước trong từng câu hỏi hoặc đánh dấu X vào ô tương ứng:
    Câu 1: Lớp anh/ chị có thường xuyên được tham gia hoạt động nhóm trong
    giờ học môn Ngữ văn không?

    a. Rất thường xuyênb. Thường xuyên
    c. Không thường xuyênd. Không khi nào

    Câu 2: Khi học tập theo nhóm, anh/ chị tham gia hoạt động nhóm một cách:

    a. Rất tích cựcb. Tích cực
    c. Chưa tích cựcd. Không tham gia

    Câu 3: Khi học tập theo nhóm, việc phân công công việc ở nhóm anh/ chị
    thường diễn ra theo hướng nào?
    a. Tập trung vào cá nhân xuất sắc
    b. Mỗi người một việc rồi tập hợp lại
    c. Trải đều công việc cho các thành viên
    d. Cách riêng của nhóm anh/ chị:……………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………………………………..
    10
    Câu 4: Khi tham gia hoạt động nhóm anh/ chị gặp những khó khăn nào?

    Những khó khănMức độ khó khăn (%)
    Cực kì
    khó
    khăn
    Nhiều
    khó
    khăn
    Ít
    khó
    khăn
    Không
    khó
    khăn
    Bày tỏ quan điểm của bản thân
    Lắng nghe ý kiến các thành viên trong nhóm
    Ghi chép ý kiến các thành viên trong nhóm
    Phản hồi các thành viên trong nhóm
    Thống nhất ý kiến trong nhóm
    Hợp tác để thực hiện nhiệm vụ học tập

    Câu 5: Anh/ chị có thích học tập theo nhóm trong giờ học môn Ngữ văn
    không?

    a. Cób. Không
    2.2. Kết quả khảo sát
    Câu
    hỏi
    Các mức độ
    1234
    SL%SL%SL%SL%
    13221,39865,42013,300
    2003724,77348,74026,7
    Các lựa chọn
    abcd
    39664,02818,7149,3128,0

    11
    Câu 4:

    Những khó khănMức độ khó khăn (%)
    Cực kì
    khó
    khăn
    Nhiều
    khó
    khăn
    Ít
    khó
    khăn
    Không
    khó
    khăn
    Bày tỏ quan điểm của bản thân20,057,318,74,0
    Lắng nghe ý kiến các thành viên trong nhóm10,017,345,327,3
    Ghi chép ý kiến các thành viên trong nhóm18,728,731,321,3
    Phản hồi các thành viên trong nhóm50,024,021,34,7
    Thống nhất ý kiến trong nhóm8,022,737,332,0

    Câu 5: Lựa chọn có: 56 HS – 37,3%
    Lựa chọn không: 94 HS – 62,7%
    2.3. Phân tích số liệu và đưa ra nhận xét
    Ở câu hỏi số 1: Học sinh khẳng định thường xuyên được tham gia các
    hoạt động nhóm trong giờ học môn Ngữ văn (86,7%). Mặc dù thường xuyên
    được tham gia các hoạt động nhóm trong giờ học, tuy nhiên học sinh lại chưa
    tham gia tích cực các hoạt động nhóm. Có tới 48,7% học sinh tham gia hoạt
    động nhóm với thái độ chưa tích cực. Thậm chí 26,7% học sinh không tham gia.
    Đây là điều đáng lo ngại. Bởi lẽ điều đó chứng tỏ hoạt động nhóm trong giờ học
    chưa đạt hiệu quả, giáo viên chưa tạo được hứng thú cho học sinh tham gia vào
    các hoạt động nhóm. Cũng chính vì thế, khi hoạt động nhóm, công việc được
    phân công chủ yếu vào cá nhân xuất sắc (64,0%) mà không được phân công một
    cách hợp lí cho các thành viên khác trong nhóm.
    Chia sẻ những khó khăn khi tham gia hoạt động nhóm, học sinh đều gặp
    khó khăn trong việc bày tỏ quan điểm của cá nhân (77,7% gặp nhiều và rất nhiều
    khó khăn, 18,7% gặp ít khó khăn trong việc diễn đạt suy nghĩ của bản thân). Bên
    cạnh đó việc ghi chép ý kiến của các thành viên trong nhóm khi thảo luận cũng
    là một vấn đề không hề đơn giản. 76,7% học sinh gặp khó khăn khi chưa biết
    cách ghi chép lại nội dung ý kiến của các bạn. Từ đó việc ghi nhớ kiến thức và
    12
    phản biện của học sinh không được rèn luyện và phát triển. Và học sinh không
    thích tham gia các hoạt động nhóm trong giờ học môn Ngữ văn (62,7%).
    3. Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân hạn chế việc tổ chức hoạt
    động nhóm trong dạy học môn Ngữ văn THPT
    3.1. Ưu điểm
    – Tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ
    thông được giáo viên sử dụng thường xuyên nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
    dục, nâng cao chất lượng giảng dạy và rèn luyện, phát triển năng lực phẩm chất
    cho người học.
    – Trong cách thức tổ chức hoạt động nhóm, các thầy cô đã đa dạng hóa
    cách chia nhóm, cụ thể hóa việc giao nhiệm vụ học tập cho học sinh.
    3.2. Hạn chế
    3.2.1. Về phía học sinh
    Đa phần học sinh trường THPT Trần Văn Lan có học lực trung bình khá.
    Nhiều học sinh còn lười học, mải chơi, ý thức học tập và rèn luyện chưa tốt. Đối
    với các hoạt động học tập, các em còn ỷ lại, thụ động, chưa có ý thức chủ động
    trong việc tiếp nhân kiến thức. Vì vậy, khi giáo viên tổ chức hoạt động nhóm
    còn nhiều hạn chế. Cụ thể:
    – Trong hoạt động nhóm chỉ có một số em tham gia (chủ yếu là học sinh
    khá giỏi), số còn lại không tham gia hoặc tham gia không tích cực.
    – Các thành viên trong nhóm chưamạnh dạn bày tỏ quan điểm của bản
    thân, nhiệm vụ học tập thường chỉ do một vài cá nhân chăm chỉ thực hiện.
    – Nhóm hoạt động tự do, nhóm trưởng chưa biết điều hành hoặc còn rụt
    rè, nhút nhát.
    – Việc báo cáo kết quả thường chỉ do một học sinh thường xuyên thực
    hiện không luân phiên thay đổi.
    3.2.2. Về phía giáo viên
    – Việc dạy học theo nhóm còn mang nặng tính hình thức, chưa thực sự
    chú ý đến hiệu quả của hoạt động đến tất cả học sinh.
    – Giáo viên quy định thời lượng chưa phù hợp với dung lượng kiến thức
    và năng lực học sinh nên hiệu quả hoạt động nhóm chưa cao.
    13
    – Giáo viên ít quan tâm sâu sát đến hoạt động của nhóm, của cá nhân yếu
    kém trong nhóm.
    – Giờ học còn lộn xộn, ồn ào.
    – Việc đánh giá sản phẩm hoạt động nhóm chưa hiệu quả nên chưa thúc
    đẩy được sự tiến bộ của người học.
    3.2.3. Nguyên nhân hạn chế
    Những hạn chế trên xuất phát từ nguyên nhân khách quan và chủ quan.
    * Nguyên nhân khách quan:
    – Do không gian lớp học còn hạn hẹp mà sĩ số học sinh đông nên việc tổ
    chức hoạt động lớn gặp nhiều khó khăn.
    – Để thực hiện hoạt động nhóm cần thời gian cho mỗi cá nhân thực hiện
    và thời gian thảo luận để đưa ra ý kiến chung của nhóm nên tốn thời gian, đôi
    khi vượt quá thời gian quy định của một tiết học.
    * Nguyên nhân chủ quan
    – Về phía học sinh:
    + Kĩ năng hợp tác học sinh của học sinh chưa tốt, học sinh chưa mạnh
    dạn, tự tin.
    +Học sinh chưa biết tìm kiếm sự trợ giúp của thầy cô hoặc bè bạn khi
    gặp khó khăn.
    +Học sinh chưa biết lắng nghe ý kiến của bạn và chưa tích cực chủ
    động suy nghĩ đưa ra ý kiến của riêng mình.
    + Học sinh còn ỷ lại, thụ động, chưa có ý thức tốt trong học tập và rèn
    luyện.
    – Về phía giáo viên
    + Giáo viên giao nhiệm vụ học tập chưa cụ thể, rõ ràng, chưa phù hợp
    với đối tượng học sinh.
    +Giáo viên chưa sử dụng linh hoạt, đa dạng các kĩ thuật dạy học trong
    phương pháp thảo luận nhóm để thay đổi trạng thái người học, duy trì sự tập
    trung cao độ trong học tập.
    + Giáo viên chưa đa dạng hóa các hình thức đánh giá kết quả các hoạt
    động nhóm để ghi nhận, khích lệ, thúc đẩy sự tiến bộ của người học.
    14
    + Giáo viên chưa tạo được không khí lớp học sôi nổi, tạo cảm hứng
    học tập cho người học.
    B. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN
    1. Giải pháp chung: Một số vấn đề lí luận
    Để nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm trong dạy học môn Ngữ văn, giáo
    viên cần phải nắm được một số vấn đề chung về lí luận sau:
    1.1. Khái niệm hoạt động nhóm
    Theo Đại từ điển Tiếng Việt, nhóm là “tập hợp các cá thể lại với nhau
    theo những nguyên tắc nhất định”. Hiểu theo cách trên, nhóm là tập hợp những
    con gnười có hành vi tương tác lẫn nhau để thực hiện các mục tiêu (chung và
    riêng) và thỏa mãn các nhu cầu cá nhân.
    Hoạt động nhóm trong dạy học (hay còn gọi là dạy học hợp tác) là một
    hình thức tổ chức dạy học mà trong đó học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo
    viên làm việc cùng nhau trong những nhóm nhỏ để hoàn thành mục đích học tập
    chung của nhóm đặt ra. Trong hoạt động nhóm có nhiều mối quan hệ giao tiếp:
    giữa các học sinh với nhau, giữa giáo viên với từng học sinh.
    Hoạt động nhóm cho phép các thành viên trong nhóm chia sẻ những băn
    khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng phương pháp nhận thức
    mới.
    Trong hoạt động nhóm, quá trình học tập trở thành quá trình học hỏi lẫn
    nhau về kiến thức, kĩ năng và phương pháp học tập, kĩ năng giao tiếp và các kĩ
    năng xã hội khác.
    1.2. Những nét đặc trưng của hoạt động nhóm
    Hoạt động nhóm có 4 nét đặc trưng cơ bản:
    – Hoạt động xây dựng nhóm: luôn đòi hỏi sự nỗ lực của từng cá nhân và
    cùng chia sẻ trách nhiệm lãnh đạo nhóm, trao đổi trực diện.
    – Có sự phụ thuộc tích cực giữa các cá nhân: cá nhân phải nỗ lực hoàn
    thành phần việc của mình. Thành công của cá nhân tạo nên thành công của cả
    nhóm.
    15
    – Có sự ràng buộc trách nhiệm cá nhân – trách nhiệm nhóm: các thành
    viên cùng nhau hỗ trợ trong việc thực hiện nhiệm vụ chung của nhóm và tự đánh
    giá kết quả công việc của mình, của các thành viên khác.
    – Có kĩ năng hợp tác trong hoạt động học tập: học sinh không chỉ lĩnh hội
    kiến thức mà còn được học, được thực hành và thể hiện mình, phát triển và củng
    cố các kĩ năng xã hội như lắng nghe, đặt câu hỏi, trả lời, giảng bài cho nhau, giải
    quyết xung đột…
    1.3. Những yêu cầu cần rèn luyện cho học sinh khi tổ chức hoạt động nhóm
    Khi tổ chức hoạt động nhóm trong dạy học, cần chú ý tới việc phát triển
    các kĩ năng sau cho học sinh:
    – Phát triển kĩ năng hợp tác:
    + Hoạt động nhóm là hình thức dạy học có chiến lược giáo dục mạnh
    mẽ và linh hoạt, có những nét đặc trưng cơ bản của dạy học hiện đại, làm cho
    học sinh thích ứng với xã hội hiện đại.
    + Sau khi làm việc nhóm, tình đoàn kết, ý thức tập thể sẽ được tăng lên
    nhờ sự thông hiểu nhau. Đồng thời các thành viên trong nhóm sẽ biết tuân thủ
    các quy định, trước hết là của nhóm. Đây là tiền đề để sau này học sinh là những
    công dân tuân thủ pháp luật tốt.
    – Phát triển kĩ năng giao tiếp và các kĩ năng xã hội khác:
    + Học sinh có nhiều cơ hội thảo luận, tranh luận, phát biểu bình đẳng,
    thể hiện sự hiểu biết của mình và học hỏi kinh nghiệm từ bạn. Qua đó rèn luyện
    cho học sinh cách trình bày, bảo vệ quan điểm của mình, cách thuyết phục và
    thương lượng trong việc giải quyết vấn đề và biết cách lắng nghe người khác
    cũng như phát triển kĩ năng như phê bình, phân tích, giải quyết vấn đề.
    + Qua hoạt động nhóm, bên cạnh sự hình thành và phát triển cho học
    sinh khả năng làm việc nhóm còn có các năng lực xã hội khác như năng lực lãnh
    đạo, đưa ra quyết định, xây dựng lòng tin, xử lí xung đột, cổ vũ, động viên,…
    học sinh trở nên mềm dẻo và linh hoạt hơn trong giao tiếp.
    2. Giải pháp cụ thể: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhóm
    trong dạy học môn Ngữ văn
    16
    2.1. Giải pháp 1: Tạo không khí lớp học
    Để đạt hiệu quả cao trong giờ học và phát huy tính tích cực của học sinh,
    việc tạo không khí lớp học vui vẻ, hứng khởi là điều không thể thiếu. Trong giờ
    học, dù giáo viên sử dụng phương pháp dạy học nào đi nữa mà không tạo được
    không khí lớp học thì hoạt động dạy học cũng sẽ không đạt được kết quả như
    mong đợi và không thể thu hút học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động dạy
    học mà mình tổ chức. Bởi lẽ khi cảm xúc được khơi nguồn thì những kiến thức
    bài học sẽ được lưu giữ trong trí nhớ một cách tự nhiên. Có nhiều cách để tạo
    không khi lớp học trong đó người viết giới thiệu hai cách như sau:
    – Giáo viên sử dụng thẻ tên. Thẻ tên này được làm trong buổi đầu tiên
    của năm học mới. Giáo viên phát cho học sinh một tờ giấy nhỏ, yêu cầu học sinh
    ghi tên của mình lên đó và trang trí theo sở thích của mình. Tên trên thẻ có thể
    không phải là họ tên đầy đủ của học sinh mà có thể là nickname hay biệt danh
    thú vị của học trò. Trên thẻ tên, học sinh có thể viết thêm những câu danh ngôn,
    slogan của bản thân mình. Giáo viên sử dụng thẻ tên để gọi học sinh trả lời hoặc
    kiểm tra bài cũ. Việc sử dụng thẻ tên vừa khiến cho không khí lớp vui vẻ khi
    giáo viên đọc những biệt danh hài hước của học trò lại vừa đặt học sinh vào tâm
    thế luôn sẵn sàng trong giờ học, học sinh không thể không tập trung vào bài
    giảng của giáo viên. Thẻ tên cũng có thể được sử dụng để ghi chú quá trình học
    tập của bản thân học sinh ở mặt sau của thẻ tên. Đây là một trong số những căn
    cứ để giáo viên đánh giá kết quả học tập và quá trình tiến bộ của người học.
    17
    Ảnh: Thẻ tên của học sinh
    – Giáo viên sử dụng âm nhạc trong giờ học. Giáo viên có thể sử dụng
    các bản nhạc không lời để tạo không khí lớp học. Ví dụ: khi học sinh thảo luận
    nhóm về nội dung bài học, giáo viên có thể sử dụng bản nhạc không lời với tiết
    tấu nhẹ nhàng để kích thích tư duy người học. Hoặc khi giáo viên tổ chức cho
    học sinh hoạt động theo nhóm ghép thì sử dụng bản nhạc có tiết tấu nhanh, dồn
    dập trong quá trình học sinh di chuyển về nhóm ghép,… Việc sử dụng âm nhạc
    trong giờ học đòi hỏi giáo viên phải lựa chọn được những bản nhạc phù hợp với
    nội dung hoạt động mà mình định tổ chức cho học sinh.
    2.2. Giải pháp 2: Giao nhiệm vụ cụ thể, phù hợp và có những quy định rõ
    ràng về thời gian, âm lượng
    Để hoạt động nhóm đạt hiệu quả, việc đầu tiên người giáo viên phải làm
    là giao nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng cho các nhóm học sinh. Việc giao nhiệm vụ cụ
    thể rõ ràng này sẽ giúp cho bản thân mỗi học sinh xác định được nội dung mà
    18
    mình cần chuẩn bị hoặc nghiên cứu. Từ đó học sinh sẽ chủ động trong quá trình
    tham gia thảo luận.
    Ví dụ: Khi dạy học bài Tác giả Nguyễn Đình Chiểu, giáo viên giao nhiệm
    vụ học tập như sau:
    – Nhóm 1: Tìm hiểu những nét cơ bản về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu.
    – Nhóm 2: Tìm hiểu những đặc điểm nội dung thơ văn Nguyễn Đình
    Chiểu trước khi thực dân Pháp xâm lược.
    – Nhóm 3: Tìm hiểu những đặc điểm nội dung thơ văn Nguyễn Đình
    Chiểu sau khi thực dân Pháp xâm lược.
    – Nhóm 4: Tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Đình
    Chiểu.
    Một trong số các nguyên nhân khiến cho hoạt động nhóm chưa hiệu quả
    đó là do giáo viên chưa quy định chặt chẽ về thời gian. Đôi khi giáo viên cần tạo
    áp lực về thời gian thảo luận cho học sinh, buộc học sinh phải làm việc hết công
    suất. Trong hoạt động này, giáo viên có thể sử dụng bộ công cụ
    https://www.online-stopwatch.com/ để quản lý thời gian hiệu quả hơn.
    Khi tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh, nhiều giáo viên e ngại việc
    thảo luận nhóm sẽ ảnh hưởng tới các lớp khác vì gây ồn ào, lộn xộn. Đó là do
    giáo viên chưa quản lý được âm lượng của học sinh. Trước khi hoạt động thảo
    luận nhóm diễn ra, giáo viên phải có quy định rõ ràng về mức âm lượng mà HS
    phải tuân thủ. Giáo viên có thể đưa ra các mức thang âm lượng cho người học
    như sau:
    Mức 2: Âm lượng vừa đủ cho 4
    người nghe (khi HS thảo luận theo
    nhóm 4 HS)
    … Mức n: Âm lượng
    vừa đủ cho cả lớp
    nghe (khi HS tham
    gia trình bày trước
    lớp).
    Mức 1: Âm lượng vừa đủ cho 2 người nghe
    (khi HS thảo luận theo nhóm cặp đôi)
    19
    Đồng thời, giáo viên cũng phải quy địnhhọc sinh nào vi phạm thang âm
    lượng sẽ bị trừ điểm không chỉ của cá nhân học sinh vi phạm mà còn bị trừ điểm
    cả nhóm tham gia thảo luận cùng học sinh. Hình thức trừ điểm này sẽ giúp cá
    nhân học sinh tự ý thức được về thang âm lượng mà mình sử dụng đồng thời
    cũng sẽ được các bạn cùng nhóm nhắc nhở khi có dấu hiệu vi phạm thang âm
    lượng.
    2.3. Giải pháp 3: Sử dụng linh hoạt các kỹ thuật dạy học tích cực trong việc tổ
    chức hoạt động nhóm
    Hoạt động nhóm đạt hiệu quả khi mỗi thành viên trong nhóm đều được
    tham gia bàn luận, được lắng nghe và tôn trọng; mọi học sinh đều tích cực làm
    việc, cá nhân người học được rèn luyện kĩ năng cơ bản như hợp tác, lắng nghe
    tích cực, đặt câu hỏi, phản biện, thuyết trình, ghi chép,… Để đạt được điều đó
    đòi hỏi mỗi giáo viên phải luôn luôn tìm tòi và đưa ra các kĩ thuật day học tích
    cực để thu hút, lôi cuốn học sinh tham gia thảo luận nhóm hiệu quả. Trong phạm
    vi bài viết, người viết đưa ra một số kĩ thuật dạy học tích cực tạo hiệu quả hoạt
    động nhóm như sau:
    2.3.1. Kỹ thuật “Hẹn hò”
    a. Chuẩn bị
    – HS tự thiết kế cho mình một chiếc đồng hồ trên giấy học sinh, ghi rõ các
    khung giờ.
    – Trên trang giấy ghi rõ họ và tên học sinh. Đồng hồ hẹn hò này cũng
    đồng thời là phiếu học tập để học sinh ghi chép những nội dung đã trao đổi được
    với đối tác.
    20
    Ảnh: Phiếu hẹn hò của học sinh
    21
    Ảnh: Phiếu hẹn hò đồng thời là phiếu học tập,
    học sinh ghi chép những thông tin cần thiết trong quá trình hẹn hò.
    – HS được giao nhiệm vụ tìm hiểu các nội dung bài học.
    b. Thực hiện
    – Bước 1: Tìm đối tác. Học sinh có 1 phút 30 giây để tìm đối tác cho mình
    tại các khung giờ trên đồng hồ. Số lượng đối tác được tìm phải nhiều hơn số
    lượng nhiệm vụ được giao để tạo tính bất ngờ trong các cuộc hẹn.
    Ví dụ: Khi dạy học bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (Ngữ văn
    11), giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh tìm hiểu 2 nội dung: Nội dung 1:
    Ngôn ngữ – tài sản chung của xã hội. Nội dung 2: Lời nói – sản phẩm riêng của
    cá nhân. Giáo viên phải yêu cầu học sinh tìm 3 đối tác.
    – Bước 2: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm đối tác vào 1 khung giờ nhất
    định. học sinh có 10 giây để tìm đối tác hẹn hò.
    – Bước 3: Trao đổi thông tin hẹn hò. học sinh có khoảng thời gian phù hợp
    với nhiệm vụ được giao để trình bày trước đối tác. Trong khi nghe đối tác trình
    bày, học sinh phải ghi chép vào trong Phiếu học tập của mình. Có thể sử dụng
    22
    các cách ghi chú khác nhau. Ví dụ: dấu tích đồng ý khi đồng tình quan điểm với
    đối tác, dấu hỏi khi chưa hiểu nội dung đối tác trình bày,…
    c. Lưu ý
    – Khi thực hiện kỹ thuật này, giáo viên phải quy định chặt chẽ về thời gian
    di chuyển tìm đối tác, thời gian trao đổi thông tin. Đặc biệt việc học sinh quản lý
    âm lượng của mình khi di chuyển tìm đối tác. Giáo viên có thể đưa ra quy định
    tìm đối tác: “Từ ánh mắt đến trái tim”. Tức là học sinh chỉ được tìm nhau bằng
    ánh mắt chứ không được phát ra âm thanh. Cặp nào phát ra âm thanh sẽ bị trừ
    điểm.
    – Mỗi học sinh chỉ được hẹn với 1 đối tác tại 1 thời điểm.
    Ngoài việc tạo đồng hồ hẹn hò thì giáo viên có thể thay đổi bằng các địa
    điểm hẹn hò. Ví dụ địa điểm hành lang lớp học, ghế đá dưới gốc cây bàng,… để
    tăng thêm phần thú vị trong giờ dạy.
    2.3.2. Kỹ thuật “Mảnh ghép”
    a. Chuẩn bị
    Giáo viên chia lớp thành các nhóm tùy thuộc vào số nội dung giáo viên dự
    định tiến hành cho học sinh thảo luận. Số học sinh trong nhóm tương ứng với số
    nội dung thảo luận.
    Ví dụ: Khi dạy bài Tác giả Nguyễn Đình Chiểu, giáo viên xây dựng nội
    dung thảo luận gồm 4 nội dung:
    Nội dung 1: Những nét cơ bản về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu.
    Nội dung 2: Những đặc điểm nội dung thơ văn Nguyễn Đình Chiểu trước
    khi thực dân Pháp xâm lược.
    Nội dung 3: Những đặc điểm nội dung thơ văn Nguyễn Đình Chiểu sau
    khi thực dân Pháp xâm lược.
    Nội dung 4: Những đặc điểm nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
    Khi chia nhóm thảo luận, giáo viên chia thành các nhóm, mỗi nhóm gồm
    4 thành viên để khi thực hiện nhóm ghép thì mỗi nhóm ghép đều có một chuyên
    gia về nội dung nghiên cứu.
    b. Thực hiện
    * Vòng 1: Chuyên gia
    23
    – Các nhóm thảo luận nhiệm vụ chung của mỗi nhóm để ai cũng có thể trở
    thành “chuyên gia”. Mỗi chuyên gia mang một số thứ tự từ 1 đến hết số người
    trong nhóm.
    Ví dụ:
    * Vòng 2: Di chuyển – Nhóm ghép
    – Trong vòng 30 giây, các chuyên gia cùng số thứ tự sẽ di chuyển ghép
    với nhau tạo thành một nhóm mới. Ví dụ theo sơ đồ:
    – Các chuyên gia trong nhóm ghép tiến hành trao đổi thông tin lần lượt
    với nhau trong một khoảng thời gian quy định. Có quyền đặt câu hỏi cho chuyên
    gia nếu còn thắc mắc.
    c. Lưu ý
    – Giáo viên quy định chặt chẽ về thời gian và việc quản lý âm lượng của
    học sinh.
    – Số thành viên trong nhóm ghép bằng hoặc dư so với số nội dung thảo
    luận để khi thực hiện nhóm ghép thì mỗi nhóm ghép đều có một chuyên gia về
    nội dung nghiên cứu.
    Chuyên
    gia số 1
    (Nhóm 1)
    Chuyên
    gia số 3
    (Nhóm 3)
    Chuyên
    gia số 2
    (Nhóm 2)
    Nhóm 1
    1-2-3
    Nhóm 2
    1-2-3
    Nhóm 3
    1-2-3
    24
    – Đối với những lớp lần đầu thực hiện kỹ thuật mảnh ghép thì giáo viên có
    thể sử dụng thẻ màu phát cho học sinh để học sinh dễ nhận biết nhóm ghép của
    mình. Những học sinh có cùng thẻ màu thì về một nhóm.
    – Kỹ thuật mảnh ghép phù hợp với những bài có hệ thống kiến thức độc
    lập như văn học sử, tiếng việt.
    2.3.3. Kỹ thuật THINK – PAIR – SHARE
    THINK – PAIR – SHARE là kỹ thuật dạy học do giáo sư Frank Lyman
    trường đại học Maryland giới thiệu năm 1981.
    -Think: người học suy nghĩ độc lập về vấn đề được nêu ra từ đó tự hình
    thành nên ý tưởng của mình.
    – Pair: người học được ghép đôi với nhau để thảo luận về những ý tưởng
    của mình.
    – Share: Chia sẻ ý tưởng của mình với nhóm khác.
    Kỹ thuật THINK – PAIR – SHARE có hiệu quả cao trong việc hoạt
    động nhóm. Bởi lẽ, học sinh có thời gian suy nghĩ về câu trả lời, sau đó được
    chia sẻ với bạn. Người học có cơ hội trình bày, cụ thể hóa ý tưởng của mình.
    Nhờ đó việc nắm bắt, thấu hiểu và giải quyết vấn đề của người học được củng
    cố và trở nên tốt hơn. Do học sinhđược chia sẻ với bạn và tiếp thu được quan
    điểm khác từ bạn bè, họ sẽ sẵn sàng và ít e ngại hơn khi chia sẻ với một nhóm
    lớn hơn. Như vậy, không chỉ học hiệu quả hơn mà kĩ năng năng giao tiếp của
    người học cũng được cải thiện. Hơn nữa, khi chia sẻ ý tưởng thì người học chủ
    động hơn với việc học, biết tiếp thu, phản hồi ý tưởng từ bạn khác thay vì thụ
    động dựa vào lời giảng của giáo viên.
    Kỹ thuật THINK – PAIR – SHARE được tiến hành trong giờ học như sau:
    – Bước 1: THINK (suy nghĩ cá nhân) – học sinh suy nghĩ cá nhân giải
    quyết nhiệm vụ học tập mà giáo viên đưa ra. Thời gian tổ chức: tùy thuộc vào
    mục tiêu, độ khó, độ phức tạp của nhiệm vụ, có thể kéo dài từ 1′, 2′, 5′,…hoặc
    làm việc trước ở nhà.
    – Bước 2: PAIR (chia sẻ cặp đôi) – Giáo viên cho học sinhtrao đổi theo
    cặp đôi chia sẻ thông tin. Trong quá trình trao đổi, học sinh lần lượt trình bày
    hướng giải quyết của mình, người còn lại sử dụng kỹ năng ghi chú để ghi chép
    thông tin và đặ

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Nâng cao hiệu quả hoạt động vận dụng trong dạy học đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10

    SKKN Nâng cao hiệu quả hoạt động vận dụng trong dạy học đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Thế giới đang bước vào thời đại 4.0, trong đó giáo dục đóng vai trò là động
    lực thúc đẩy cuộc cách mạng này đạt được mục tiêu của nó. Vì vậy, tư duy giáo
    dục hiện nay cũng phải thay đổi. Giáo dục không chỉ có sứ mệnh cung cấp kiến
    thức, rèn luyện kĩ năng mà quan trọng là phát triển tư duy và sự sáng tạo cho
    người học. Xu hướng chung của những nền giáo dục tiến bộ trên thế giới là xây
    dựng một nền giáo dục thực sự dân chủ. Giáo dục phổ thông nước ta cũng thực
    hiện bước chuyển mình từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận
    năng lực người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì
    đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Hơn bao giờ hết,
    các nhà giáo dục đã tìm tòi những cách thức, phương pháp, phương tiện, kĩ thuật
    dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, hình thành và
    phát triển ở người học những kĩ năng, năng lực cần thiết, biết cách vận dụng nó
    để tự tin bước vào cuộc sống.
    Một trong những hoạt động học phát huy được vai trò chủ động, tích cực,
    sáng tạo của người học là hoạt động vận dụng. Bản chất của hoạt động học tập
    này là tạo cơ hội cho học sinh tổng kết những kiến thức, kĩ năng đã học thông
    qua việc phản hồi, chiêm nghiệm, ứng dụng những gì đã tiếp thu vào tình huống
    mới, giải quyết các vấn đề trong thực tiễn đòi hỏi vận dụng cao. Đây cũng là
    hoạt động mang tính sáng tạo nhằm phát triển cho học sinh những năng lực
    chung và năng lực chuyên biệt như: Năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng
    tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân, năng lực cảm thụ thẩm mĩ,
    năng lực giao tiếp Tiếng Việt. Học sinh có thể thực hiện hoạt động vận dụng
    trên lớp, ngoài lớp, ở nhà hoặc cộng đồng. Tùy theo tính chất, giáo viên cũng có
    thể lồng ghép hoạt động vận dụng vào hoạt động luyện tập hoặc hoạt động mở
    rộng qua một số hình thức như: liên hệ với thực tế đời sống để làm rõ thông điệp
    tác giả gửi gắm trong tác phẩm, làm cho học sinh thấy gần gũi hơn và thấy rõ ý
    2
    nghĩa của tác phẩm vẫn ảnh hưởng đến đời sống hiện đại bằng cách tạo tình
    huống có vấn đề qua một video clip và hệ thống câu hỏi nêu vấn đề…
    Tuy nhiên các hoạt động vận dụng trong tiết học vẫn còn mang tính hình
    thức, qua loa, chưa được quan tâm đúng mức, nên giờ học chưa đạt được hiệu quả
    như mong muốn. Thực trạng ấy dẫn đến hệ quả lànhiều học sinh còn thụ động
    trong việc tiếp nhận văn bản; kĩ năng còn hạn chế và năng lực vận dụng tri thức đã
    học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống chưa cao. Chúng tôi cho rằng
    cần phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc, chính xác hơn về hoạt động vận dụng vào
    dạy học nói chung, bộ môn Ngữ văn nói riêng ở trường phổ thông sao cho có
    hiệu quả.
    Từ những lí do trên, tôi lựa chọn vấn đề Nâng cao hiệu quả hoạt động vận
    dụng trong dạy học Đọc hiểu văn bản (Ngữ văn 10) làm Sáng kiến kinh nghiệm
    nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn học với mong muốn khắc phục thực
    trạng dạy học thiên về lí thuyết, “học gì biết nấy” trong trường phổ thông hiện
    nay, hướng tới mục đích “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để
    khẳng định mình” và lấy người học làm trung tâm.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Yêu cầu của chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn
    Qua việc khảo sát yêu cầu Chương trình Ngữ văn nói chung và Ngữ văn
    10 nói riêng, tôi nhận thấy chương trình giáo dục phổ thông xác định mục tiêu
    chung của việc dạy học Đọc hiểu văn bản (Ngữ văn 10)như sau:
    – Có những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, hệ thống về những tác
    phẩm tiêu biểu cho các thể loại cơ bản của văn học Việt Nam và một số tác
    phẩm, đoạn trích của văn học nước ngoài.
    – Hình thành và phát triển các năng lực cơ bản với yêu cầu cao hơn cấp
    Trung học cơ sở, bao gồm: năng lực sử dụng tiến Việt thể hiện ở bốn kĩ năng cơ
    bản (đọc, viết, nghe, nói), năng lực tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ, năng
    lực tự học và năng lực thực hành, ứng dụng.
    3
    – Có tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa; tình yêu gia đình, thiên nhiên;
    lòng tự hào dân tộc; ý chí tự lập, tự cường; tinh thần dân chủ, nhân văn ; nâng
    cao ý thức trách nhiệm công dân; ý thức tôn trọng, phát huy các giá trị văn hóa
    của dân tộc và nhân loại.
    Chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài của
    tất cả các văn bản Đọc hiểu (Ngữ văn 10). Dưới đây là một ví dụ:
    Bảng: 1.2. Hệ thống câu hỏi trong mục hướng dẫn học bài
    (Chủ đề Thơ trữ tình trung đại)

    Tỏ lòng
    (Phạm Ngũ Lão)
    Cảnh ngày hè
    (Nguyễn Trãi)
    Nhàn(Nguyễn
    Bỉnh Khiêm)
    Đọc Tiểu Thanh
    kí (Nguyễn Du)
    Câu 1: Chỉ ra
    điểm khác nhau
    giữa câu thơ đầu
    trong nguyên tác
    chữ Hán (qua
    phần dịch nghĩa)
    với câu thơ dịch.
    Có gì đáng lưu ý
    về không gian,
    thời gian trong đó
    con người xuất
    hiện? Con người
    ở đây mang tư
    thế, vóc dáng như
    thế nào?
    Câu 2: Anh (chị
    cảm nhận như thế
    nào về sức mạnh
    của quân đội nhà
    Câu 1: Trong bài
    thơ có nhiều động
    từ diễn tả trạng
    thái của cảnh
    ngày hè. Đó là
    những động từ,
    trạng thái của
    cảnh được diễn tả
    ra sao?
    Câu 2: Cảnh ở
    đây có sự hài hòa
    về âm thanh và
    Câu 1: Cách dùng
    số từ, danh từ
    trong câu thơ thứ
    nhất và nhịp điệu
    hai câu thơ đầu có
    gì đáng chú ý?
    Hai câu thơ ấy
    cho ta hiểu hoàn
    cảnh sống và tâm
    trạng tác giả như
    thế nào?
    Câu 2: Anh (chị)
    hiểu như thế nào
    là nơi vắng vẻ,
    chốn lao xao?
    Câu 1: Theo anh
    (chị) vì sao
    Nguyễn Du lại
    đồng cảm với số
    phận của nàng
    Tiểu Thanh?
    Câu 2: Câu Nỗi
    hờn kim cổ trời
    khôn hỏi có nghĩa
    gì? Nỗi hờn (hận)

    4

    Trần qua câu thơ
    ‘‘Ba quân khí
    mạnh nuốt trôi
    trâu’’)?
    Câu 3: ‘‘Nợ’’
    công danh mà tác
    giả nói tới trong
    bài thơ có thể
    hiểu theo nghĩa
    nào dưới đây:
    – Thể hiện chí
    làm trai theo tinh
    thần Nho giáo:
    lập công (để lại
    sự nghiệp), lập
    danh (để lại tiếng
    thơm)
    – Chưa hoàn
    thành nghĩa vụ
    đối với dân, với
    nước.
    – Cả hai nghĩa
    trên
    Câu 4: Phân tích
    ý nghĩa của nỗi
    màu sắc, cảnh vật
    và con người.
    Anh (chị) hãy
    phân tích và làm
    sáng tỏ.
    Câu 3: Nhà thơ
    đã cảm nhận cảnh
    vật bằng những
    giác quan nào?
    Qua sự cảm nhận
    ấy, anh (chị) thấy
    Nguyễn Trãi là
    người có tấm lòng
    như thế nào đối
    với thiên nhiên?
    Câu 4: Hai câu
    thơ cuối cho ta
    thấy tấm lòng của
    Nguyễn Trãi đối
    Quan điểm của
    tác giả về dại và
    khôn như thế
    nào? Tác dụng
    biểu đạt ý của
    nghệ thuật đối
    trong hai câu thơ
    3 và 4?
    Câu 3: Các sản
    vật và khung cảnh
    sinh hoạt trong
    hai câu 5 và 6 có
    gì đáng chú ý?
    Hai câu thơ cho
    thấy cuộc sống
    sinh hoạt của
    Nguyễn Bỉnh
    Khiêm như thế
    nào? (Quê mùa,
    khổ cực? Đạm
    bạc mà thanh
    cao? Hòa hợp với
    tự nhiên?) Phân
    tích giá trị nghệ
    thuật của hai câu
    thơ này?
    Câu 4: Đọc chú
    thích 4 để hiểu
    điển tích được
    ở đây là gì? Tại
    soa tá cgiar cho là
    không thể hỏi trời
    được?
    Câu 3: Nguyễn
    Du thương xót và
    đồng cảm với
    người phụ nữ có
    tài văn chương
    mà bất hạnh.
    Điều đó nói gì về
    tấm lòng của nhà
    thơ?
    Câu 4: Phân tích
    vai trò của mỗi
    đoạn thơ (đề,
    thực, luận kết) đối

    5

    ‘‘thẹn’’ trong hai
    câu thơ cuối
    Câu 5: Qua
    những lời thơ tỏ
    lòng, anh (chị)
    thấy trang nam
    nhi thời Trần
    mang vẻ đẹp thế
    nào? Điều đó có ý
    nghĩa gì đối với
    tuổi trẻ hôm nay
    và ngày mai
    với người dân
    như thế nào? Âm
    điệu câu thơ lục
    ngôn (sáu chữ)
    kết thúc bài thơ
    khác âm điệu
    những câu thất
    ngôn (bảy chữ)
    như thế nào? Sự
    thay đổi âm điệu
    như vậy có tác
    dụn gì trong việc
    thể hiện tình cảm
    của tác giả?
    vận dụng trong
    hai câu thơ cuối.
    Anh (chị) cảm
    nhận như thế nào
    về nhân cách
    nguyễn Bỉnh
    Khiêm?
    Câu 5:Quan niệm
    sông nhàn của
    Nguyễn Bỉnh
    Khiêm là gì?
    – Không vất vả
    cực nhọc
    – Không quan tâm
    đến xã hội, chỉ lo
    cho cuộc sống
    nhàn tản của bản
    thân.
    – Xa lánh chốn
    quyền quý để giữ
    cốt cách thanh
    với chủ đề toàn
    bài.

    6

    cao
    – Hòa hợp với tự
    nhiên
    Quan niệm sống
    đó tích cực hay
    tiêu cực? Vì sao?
    Câu hỏi phần
    luyện tập:
    Học thuộc bài thơ
    (bản phiên âm và
    bản dịch thơ)
    Câu hỏi phần
    luyện tập:
    Cảm hứng chủ
    đạo của bài thơ là
    gì?
    – Lòng yêu thiên
    nhiên.
    – Lòng yêu đời,
    yêu cuộc sống.
    – Khát vọng về
    cuộc sống thái
    bình, hạnh phúc
    cho nhân dân
    Từ việc lí giải
    cách lựa chọn của
    mình, anh (chị)
    hãy làm nổi bật
    vẻ đẹp tâm hồn
    của Nguyễn Trãi
    qua bài thơ
    Câu hỏi phần
    luyện tập:
    Nêu cảm nhận
    chung của anh
    (chị) về cuộc
    sống, nhân cách
    của nguyễn Bỉnh
    Khiêm qua bài
    thơ Nhàn
    Câu hỏi phần
    luyện tập:
    Đọc đoạn thơ sau
    đây trong Truyện
    Kiều (từ câu 107
    đến câu 110) và
    chỉ ra điểm tương
    đồng với bài
    ĐọcTiểu Thanh
    kí:
    Rằng: Hồng nhan
    tự thuở xưa,
    Cái điều bạc
    mệnh có chừa ai
    đâu.
    Nỗi niềm nghĩ
    đến mà đau,
    Thấy người nằm
    đó biết sau thế
    nào?

    Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy: chương trình đã có sự quan tâm đến
    việc “học sinh vận dụng được gì” qua mỗi tiết học Đọc hiểu văn bản. Tuy
    7
    nhiên, câu hỏi trong phần hướng dẫn học bài quan tâm nhiều tới nội dung kiến
    thức mà chưa chú ý đến việc đặt ra những tình huống có vấn đề để học sinh sáng
    tạo. Hệ thống câu hỏi, bài tập chưa đa dạng, cũng không có nhiều gợi mở cho
    học sinh về những hình thức vận dụng sau khi học Đọc hiểu văn bản. Do vậy,
    giáo viên rất vất vả để tổ chức hoạt động vận dụng trong giờ học Đọc hiểu văn
    bản (Ngữ văn 10) nhằm hướng tới mục tiêu phát triển năng lực và phẩm chất
    người học theo định hướng đổi mới giáo dục.
    1.2. Thực trạng của việc tổ chức hoạt động vận dụng trong giờ học Đọc hiểu
    văn bản
    Để có thêm cơ sở thực tiễn về việc dạy học Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
    theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh thông qua các hoạt độngvận
    dụng, tôi tiến hành điều tra, khảo sát thực trạng dạy học đọc hiểu văn bản cho học
    sinh ở các trường THPT thuộc địa bàn tỉnh Nam Định thông qua hình thức sử
    dụng phiếu hỏi đối với giáo viên dạy khối 10 của các huyện Ý Yên, Vụ Bản,; dùng
    phiếu thăm dò ý kiến đối với học sinh ở các trường THPT trong huyện Ý Yên, tỉnh
    Nam Định. Đó là THPT Đại An, THPT Mỹ Tho, THPT Lý Nhân Tông.
    a. Khảo sát tình hình giảng dạy chương trình Ngữ văn 10 của GV ở
    trường THPT
    – Số GV được phỏng vấn: 135.
    – Thời gian phỏng vấn: 25/10/2019
    – Mục đích khảo sát: Tìm hiểu thực tế dạy học Đọc hiểu các văn bản trong
    chương trình Ngữ văn 10 của GV hiện nay ở các trường THPT trong địa bàn
    tỉnh Nam Định để làm cơ sở thực tiễn cho Báo cáo Nâng cao hiệu quả hoạt động
    vận dụng trong dạy học Đọc hiểu văn bản của khối học này.
    – Nội dung khảo sát:(Phụ lục 3)
    – Kết quả khảo sát:
    Bảng: 1.3. Kết quả khảo sát GV ở câu hỏi từ 1- 7

    Câu
    hỏi
    Kết quả đánh giá của GV
    ABCD

    8

    SL%SL%SL%SL%
    1000012391,1128,9
    200004533,39066,7
    33525,94029,63828,12216,3
    4128,93525,95339,24029,6
    52014,850374029,62518,5
    6004331,88059,25128,9
    7128,96044,44331,92014,8

    Qua phân tích kết quả khảo sát thực trạng dạy học đọc hiểu văn bản Ngữ
    văn 10 của 135 giáo viên Ngữ văn trên địa bàn các huyện Ý Yên, Vụ Bản, như
    trên, có thể đưa ra kết luận: Hầu hết giáo viên đều ý thức được tầm quan trọng
    của việc rèn luyện kỹ năng, tăng cường trải nghiệm cho học sinh thông qua hoạt
    động vận dụng trong mỗi giờ ngữ văn. Vấn đề này đã được các nhà trường chỉ
    đạo thực hiện song vẫn mang tính hình thức như chỉ thể hiện trên giáo án hoặc ở
    các tiết dạy thanh tra, hội giảng. Học sinh chưa được giáo viên thường xuyên
    chú trọng giao nhiệm vụ qua hoạt động vận dụng. Vì vậy các em còn nhút nhát,
    thiếu tự tin. Khi gặp các tình huống phát sinh trong thi cử, đời sống hoặc tham
    gia các hoạt động tập thể, các em bộc lộ rất rõ điểm yếu này.
    b. Khảo sát tình hình học chương trình Ngữ văn 10 của học sinh ở trường
    THPT
    Tôi sử dụng 242 phiếu điều tra cho 06 lớp 10 ban khoa học cơ bản của 03
    trường THPT trong huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Đó là trường THPT Lý Nhân
    Tông, trường THPT Mỹ Tho, trường THPT Đại An, cụ thể như sau:
    Bảng: 1.4. Đối tượng khảo sát học sinh

    STTTên trườngLớpSố học sinh
    1Trường THPT Lý Nhân Tông – Tỉnh
    Nam Định
    10 A2
    10 A6
    40
    39
    2Trường THPT Mỹ Tho – Tỉnh Nam10 A440

    9

    Định10 A741
    3Trường THPT Đại An – Tỉnh Nam
    Định
    10 A3
    10 A8
    42
    40
    4Tổng6 lớp242

    – Mục đích khảo sát: Tìm hiểu thực tế học Đọc hiểu văn bản (Ngữ văn 10)
    của học sinh ở một số trường THPT hiện nay để làm cơ sở thực tiễn cho Sáng
    kiến.
    – Nội dung khảo sát: (Phụ lục 4)
    – Kết quả điều tra khảo sát:

    Câu hỏiKhôngThỉnh thoảngThường
    xuyên
    1. Em có hiểu thế nào là
    “hoạt động vận dụng” và các
    hình thức thức tổ chức hoạt
    động vận dụng không?
    168
    (69,4%)
    52
    (21,5%)
    22
    (9,1%)
    2. Trước khi vào giờ học Đọc
    hiểu văn bản (Ngữ văn 10),
    các em có được yêu cầu
    chuẩn bị bài ở nhà không?
    18
    (7,4%)
    150
    (62%)
    74
    (30,6%)
    3. Khi chuẩn bị bài ở nhà
    (nếu có), em có tìm thêm tài
    liệu tham khảo hoặc những
    đường link về bài học không?
    120
    (49,6%)
    92
    (38%)
    30
    (12,4%)
    4. Khi học Đọc hiểu văn bản
    (Ngữ văn 10), em có chú ý
    các đến kỹ năng mình cần đạt
    được không?
    22
    (9,1%)
    89
    (36,8%)
    131
    (54,1%)
    5. Trong quá trình tổ chức
    các hoạt động học, thầy (cô)
    11
    (4,5%)
    151
    (62,4%)
    80
    (33%)

    10

    có thường đặt các câu hỏi để
    khơi gợi cảm xúc và những
    liên tưởng, tưởng tượng hoặc
    đặt ra những tình huống có
    vấn đề cho các em không?
    6. Trong quá trình học Đọc
    hiểu văn bản (Ngữ văn 10),
    em có hay đưa ra nhận xét,
    đánh giá của cá nhân về
    những vấn đề, những thông
    điệp được thể hiện trong bài
    học không?
    25
    (10,3%)
    137
    56,6%)
    88
    (36,4%)
    7. Khi học Đọc hiểu văn bản
    (Ngữ văn 10), em có được
    tham gia các hình thức như
    trải nghiệm thực tế hay diễn
    hoạt cảnh không?
    13
    (5,4%)
    177
    (73,1)
    52
    (21,5%)
    8. Khi học Đọc hiểu các văn
    bản (Ngữ văn 10) xong, em
    có làm các bài tập vận dụng
    trong SGK hoặc thầy (cô)
    giao về nhà không?
    67
    (27,7%)
    130
    (53,7%)
    45
    (18,6%)

    Có thể thấy, kết quả khảo sát đã phần nào phác hoạ được bức tranh học tập
    Đọc hiểu văn bản (Ngữ văn 10), nhất là hoạt động vận dụng của phân môn này ở
    nhà trường phổ thông. Đọc hiểu văn bản vừa cung cấp cho học sinh tri thức
    phong phú về mọi lĩnh vực của đời sống, vừa bồi dưỡng năng lực cảm thụ thẩm
    mĩ, đồng thời rèn luyện những kĩ năng viết cần thiết có thể áp dụng trong làm
    bài kiểm tra hoặc giải quyết các vấn đề thực tiễn. Song, việc học phân môn này
    đang diễn ra một cách tự nhiên, không ý thức, chưa có tính mục đích rõ ràng,
    11
    không tạo được hứng thú cho học sinh. Do đó, tôi nhận thấy việc dạy học Đọc
    hiểu văn bản (Ngữ văn 10) thông qua tổ chức hoạt động vận dụng trong khuôn
    khổ thực hiện của sáng kiến là hoàn toàn có cơ sở thuyết phục về mặt thực tiễn.
    Điều này rất cần thiết trong việc hình thành cho các em những năng lực cơ bản,
    thái độ sống nhân văn, sâu sắc của một công dân trong xã hội hiện đại.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    Việc tổ chức hoạt động vận dụng cho học sinh có ý nghĩa vô cùng quan
    trọng trong việc giải quyết những nhiệm vụ đặt ra như: yêu cầu học sinh phải kết
    nối và sắp xếp lại các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết thành công tình
    huống/vấn đề tương tự như tình huống/vấn đề đã học; vận dụng kiến thức để làm
    các bài tập luyện tập, bài kiểm tra; tiếp thu và xây dựng tri thức cho những bài
    học mới hay cao hơn là vận dụng được các kiến thức, kĩ năng để giải quyết các
    tình huống/vấn đề mới; đưa ra những phản hồi hợp lý trước một tình huống/vấn
    đề mới trong học tập hoặc trong thực tiễn đời sống. Vì vậy, để tổ chức hiệu quả
    hoạt động vận dụng trong dạy học đọc hiểu văn bản nói chung và chương trình
    Ngữ văn 10 nói riêng, trước hết giáo viên cần phải xác định rõ mục tiêu của hoạt
    động này để từ đó đề xuất các câu hỏi/bài tập và cách thức tổ chức sao cho đạt
    hiệu quả cao nhất nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện và sâu sắc nền giáo
    dục nước nhà.
    2.1. Xác định rõ mục tiêu của hoạt động vận dụng trong bài học
    Qua các tài liệu tập huấn, các lớp bồi dưỡng năng lực chuyên môn, nghiệp
    vụ và thực tế dạy học tôi nhận thấy phát triển năng lực vận dụng kiến thức có thể
    giúp cho học sinh:
    – Nắm vững kiến thức đã học, trên cơ sở đó học sinh vận dụng kiến thức
    để giải quyết những bài tập hoặc xây dựng kiến thức cho bài học mới; nắm vững
    kiến thức đã học, có khả năng liên hệ, liên kết các kiến thức bởi những vấn đề
    thực tiễn liên quan
    – Vận dụng các kiến thức, kĩ năng vào trong học tập, trong cuộc sống giúp
    các em học đi đôi với hành. Giúp học sinh xây dựng thái độ học tập đúng đắn,
    12
    phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo; lòng ham học, ham hiểu biết,
    đặc biệt là năng lực tự học;…
    – Hình thành cho học sinh kĩ năng quan sát, thu thập, phân tích và xử lý
    thông tin, hình thành phương pháp nghiên cứu khoa học; hình thành và phát
    triển kĩ năng nghiên cứu thực tiễn; có tâm thế luôn luôn chủ động trong việc giải
    quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn.
    – Giúp cho học sinh có được những hiểu biết về cuộc sống, những tác
    động tích cực cũng như tiêu cực đối với con người cũng như ảnh hưởng của con
    người đến cuộc sống.
    – Thông qua việc hiểu biết về thế giới quanh mình bằng việc vận dụng
    kiến thức đã học để tìm hiểu, các em sẽ ý thức được hoạt động của bản thân, có
    trách nhiệm với chính mình, với gia đình, nhà trường và xã hội ngay trong cuộc
    sống hiện tại cũng như tương lai sau này của các em.
    – Đem lại niềm vui, tạo hứng thú học tập cho học sinh, phát triển ở các em tính
    tích cực, tự lập, sáng tạo để vượt qua khó khăn trên con đường dẫn tới thành
    công.
    2.2. Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập
    Để xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập cho hoạt động vận dụng khi dạy
    học Đọc hiểu các văn bản trong chương trình Ngữ văn 10, chúng tôi đã nghiên
    cứu kĩ đặc trưng của từng thể loại; xác định rõ mục tiêu của hoạt động vận dụng
    cho từng bài, từng chủ đề để làm căn cứ. Hệ thống câu hỏi, bài tập vận dụng
    phải đảm bảo phù hợp với mục tiêu của bài học đồng thời tạo hứng thú, phát huy
    tính tích cực chủ động của học sinh. Trên cơ sở đó, giáo viên tiến hành xây dựng
    hệ thống câu hỏi, bài tập để học sinh tổng kết và vận dụng những kiến thức, kĩ
    năng đã học thông qua việc phản hồi, chiêm nghiệm và giải quyết những tình
    huống mới. Dưới đây chúng tôi xin đề xuất một số dạng câu hỏi và bài tập minh
    họa tương ứng với mỗi chủ đề khi dạy học Đọc- hiểu văn bản Ngữ văn 10
    2.2.1. Văn học dân gian
    2.2.1.1. Tác phẩm tự sự dân gian
    a. Đặc trưng thể loại
    13
    Thể loại tự sự dân gian nổi bật với đặc điểm:
    + Các tác phẩm đều có cốt truyện, có thể kể lại hoặc tóm tắt được.
    + Tác phẩm tự sự với mức độ khái quát cao, hiện lên nhiều mặt của cuộc
    sống, chủ đề phong phú.
    + Cốt truyện nặng về hư cấu với hệ thống nhân vật được khắc họa nhiều
    mặt, chú trọng miêu tả hành động của nhân vật, nhân vật có xu hướng được xây
    dựng theo bút pháp lãng mạn, lý tưởng hóa.
    + Truyện dân gian có thời gian và không gian phiếm chỉ.
    b. Xác định rõ mục tiêu của hoạt động vận dụng khi dạy các tác phẩm tự sự
    dân gian
    Để hoạt động vận dụng mang tính định hướng, bám sát mục tiêu giáo
    dục, việc đầu tiên của mỗi giáo viên là phải xác định được mục tiêu cần phải
    hướng tới khi thiết kế hệ thống câu hỏi và bài tập vân dụng. Khi dạy các văn bản
    tự sự dân gian trong chương trình Ngữ văn 10, chúng tôi tổ chức các hoạt động
    vận dụng theo mục tiêu sau:
    + Nhớ được cốt truyện, những sự kiện, chi tiết tiêu biểu, phát hiện được
    các chi tiết nghệ thuật đặc sắc để vận dụng và kể lại một cách sáng tạo.
    + Nhận xét ý nghĩa, bài học hoặc thông điệp mà tác giả dân gian muốn
    gửi gắm
    + Vận dụng kĩ năng để đọc hiểu một văn bản cùng thể loại.
    + Từ văn bản được học, chuyển thể sang các loại hình nghệ thuật khác.
    c. Hệ thống câu hỏi, bài tập
    Dạng 1: Bài tập kể lại tác phẩm một cách sáng tạo trên cơ sở vận dụng
    cốt truyện, những sự kiện, chi tiết tiêu biểu
    14
    15
    Dạng 2: Bài tập liên hệ bản thân, rút ra bài học hoặc thông điệp ý
    nghĩa nhất
    Gợi ý:
    Nỗi đau đến hôm nay trong truyền thuyết Truyện An Dương Vương và Mị
    Châu Trọng Thủy nhắc nhở ta phải luôn đề cao tinh thần cảnh giác trước những
    16
    âm mưu thâm độc của kẻ thù đồng thời phải biết xử lí mối quan hệ giữa cái
    riêng, giữa nợ nước với tình nhà, giữa cá nhân với cộng đồng.
    Dạng 3: Bài tập nhận xét về vẻ đẹp của tác phẩm hoặc nhân vật trong
    tác phẩm đó
    Gợi ý:
    + Sức sống mãnh liệt của nhân vật Tấm trong cuộc chiến đấu không
    khoan nhượng chống lại cái xấu và cái ác.
    17
    + Tinh thần lạc quan của nhân dân lao động qua giấc mơ về công bằng
    xã hội, về chiến thắng tất yếu của cái thiện trong cuộc đấu tranh với cái xấu và
    cái ác.
    + Ý nghĩa của những yếu tố kì ảo được sử dụng trong truyện Tấm Cám.
    Dạng 4: Bài tập chuyển thể một phân cảnh, một nội dung của tác phẩm
    sang hình thức nghệ thuật khác: Vẽ tranh, đóng kịch, quay đoạn phim ngắn…
    Ví dụ 1: Em hãy đọc đoạn văn sau:
    Vua đặt Mị Châu ngồi đằng sau ngựa rồi cùng nhau chạy về phương Nam.
    Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng mà đuổi. Vua chạy tới bờ biển, đường cùng,
    không có thuyền qua bèn kêu lên rằng “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau
    mau lại cứu”. Rùa Vàng hiện lên mặt nước, thét lớn “Kẻ nào ngồi sau ngựa
    chính là giặc đó!”
    (Trích “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”, Ngữ văn
    10, tập một, NXB Giáo dục, 2016, tr.42)
    Em hãy tưởng tượng khung cảnh được tái hiện qua đoạn văn trên và vẽ
    thành một bức tranh hoàn chỉnh.
    Ví dụ 2 : Em hãy đọc đoạn văn bản sau:
    Cả miền Ê-đê, Ê-ga ca ngợi Đăm Săn là một dũng tướng chắc chết mười
    mươi cũng không lùi bước. Ngực quấn chéo một tấm mền chiến, mình khoác một
    tấm áo chiến, tai đeo nụ, sát bên mình nghênh ngang đủ giáo gươm, đôi mắt
    long lanh như mắt chim ghếch ăn hoa tre, Chàng Đăm Săn hiện lên là một trang
    tù trưởng mới giàu lên, đang đầy sức trai, tiếng tăm lừng lẫy. Bắp chân chàng to
    bằng cây xà ngang, bắp đùi chàng to bằng ống bễ, sức chàng ngang sức voi
    đực, hơi thở chàng ầm ầm tựa sấm dậy, chàng nằm sấp thì gãy rầm sàn, chàng
    nằm ngửa thì gãy xà dọc: Đăm Săn vốn đã ngang tàng từ trong bụng mẹ.
    (Trích “Đăm Săn”, Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục, 2016, tr.35)
    Em hãy tưởng tượng vẻ đẹp của Đăm Săn qua đoạn văn trên và vẽ thành
    một bức tranh hoàn chỉnh.
    2.2.1.2. Tác phẩm thơ trữ tình dân gian
    18
    a. Đặc trưng thể loại
    – Thơ ca dân gian là một thể loại nghệ thuật ngôn từ mang tính đặc
    trưng riêng biệt. Ngôn ngữ thơ ca dân gian có nguồn gốc dân dã, thể hiện bản
    chất bình dị, chất phác, hồn nhiên của người nông dân lao động.
    – Thơ ca dân gian diến tả đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm của
    nhân dân trong các quan hệ đôi lứa, gia đình, quê hương, đất nước…Trong đó
    chủ đề chính là những khúc hát than thân, những lời ca yêu thương tình nghĩa
    cất lên từ cuộc đời còn nhiều xót xa, cay đắng nhưng đằm thắm của con người
    Việt Nam và những ca dao hài hước thể hiện tinh thần lạc quan của người lao
    động. Thơ trữ tình dân gian giống như cây đàn muôn điệu rung lên những tiếng
    tơ lòng của người dân đất Việt với âm điệu thiết tha, sâu lắng cùng lối ví von, so
    sánh đặc trưng.
    – Những tác phẩm thơ ca dân gian được sáng tác dưới nhiều hình
    thức: song thất, song thất lục bát, bốn chữ, hỗn hợp…nhưng phổ biến nhất là thể
    thơ lục bát.
    – Thơ trữ tình dân gian bộc lộ trực tiếp những tâm tình nảy sinh từ
    thực tiễn đời sống, thể hiện từ những bức tranh lao động đến suy nghĩ về cuộc
    đời, từ khoảnh khắc vô tư hồn nhiên của con người đến những diễn biến tình
    cảm trữ tình phong phú. Thơ ca dân gian nhắc nhở nhẹ nhàng mà không khô
    khan, khuyên nhủ mà không giáo huấn. Ca dao chính là tiếng lòng mang chở cả
    tư tưởng, triết lí đạo đức của nhân dân. Thơ ca dân gian đã trở thành viên ngọc
    quý trong kho tàng văn học Việt Nam.
    b. Xác định rõ mục tiêu của hoạt động vận dụng khi dạy các tác phẩm thơ
    trữ tình dân gian
    Khi dạy các văn bản thơ trữ tình dân gian trong chương trình Ngữ văn 10,
    chúng tôi tổ chức các hoạt động vận dụng theo mục tiêu sau:
    + Vận dụng kĩ năng để đọc hiểu một bài ca dao theo đặc trưng thể loại:
    Thể thơ, cấu tứ, cách diễn đạt và lập ý, ngôn ngữ, một số hình ảnh mang tính
    biểu tượng thường gặp…
    19
    + Nhận xét được tư tưởng, tình cảm hoặc rút ra thông điệp mà các tác giả
    dân gian muốn gửi gắm.
    + Có thể biểu diễn các tác phẩm thơ trữ tình dân gian trong môi trường
    diễn xướng.
    c.Hệ thống câu hỏi, bài tập
    Dạng 1: Bài tập vận dụng kĩ năng để đọc hiểu một bài ca dao theo đặc
    trưng thể loại hoặc đọc hiểu những văn bản mang “hơi thở” của ca dao.
    Ví dụ 1: Trong kho tàng ca dao vô cùng phong phú của dân tộc, ta bắt gặp
    rất nhiều những bài ca dao với chủ đề “Thân em”:
    “ Thân em như giếng giữa đàng
    Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân”
    “Thân em như hạt mưa sa
    Hạt vào đài các, hạt sa ruộng cày”
    “Thân em như miếng cau khô
    Người thanh tham mỏng, kẻ thô tham dày”
    Em hãy chỉ ra điểm giống nhau giữa các bài ca dao trên và bài ca dao
    “Thân em như tấm lụa đào” em vừa tìm hiểu?
    Gợi ý:
    + Chủ đề: Đều là những câu hát than thân, nói về số phận người phụ nữ
    trong xã hội xưa
    + Thể thơ: Lục bát
    + Cách diễn đạt và lập ý: Đều diễn ý bằng các hình ảnh so sánh.
    Những hình ảnh so sánh đều mang đậm phong vị dân dã của một xã hội nông
    nghiệp cổ truyền với những hoàn cảnh sinh hoạt giản dị và chất phác (giếng giữa
    đàng, hạt mưa, miếng cau khô, tấm lụa đào)
    + Đều lập ý bằng một hình thức quen thuộc “Thân em như…”
    + Ngôn ngữ: Gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày
    Ví dụ 2:
    20
    Gợi ý:
    Đoạn thơ của Tố Hữu phảng phất phong vị, bóng dáng những câu ca dao
    quen thuộc trong kho tàng văn học dân gian của dân tộc
    + Thể hiện truyền thống ân nghĩa, thủy chung – một đạo lí tốt đẹp của
    dân tộc thường xuất hiện rất nhiều trong ca dao.
    + Thể thơ: Lục bát.
    + Cặp đại từ “Mình – ta” (Cặp đại từ nhân xưng thường thấy trong ca
    dao).
    + Hình ảnh thơ: Quen thuộc, gần gũi, tự nhiên (Công cha như núi Thái
    Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra).
    + Diễn ý bằng những hình ảnh so sánh theo mô- típ quen thuộc “bao
    nhiêu….bấy nhiêu…” (Qua cầu ngả nón trông cầu / Cầu bao nhiêu nhịp dạ em
    sầu bấy nhiêu; Qua đình ngả nón trông đình / Đình bao nhiêu ngói thương mình
    bấy nhiêu).
    + Giọng thơ ngọt ngào tha thiết.
    21

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 18-24 tháng tuổi ham thích đến lớp

    SKKN Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 18-24 tháng tuổi ham thích đến lớp

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN.
    Hiện nay giáo dục mầm non là một bậc học nằm trong hệ thống giáo dục
    quốc dân, là nền móng của quá trình giáo dục. Vì vậy giáo dục mầm non có tốt
    thì sau này giáo dục các cấp mới phát triển toàn diện được. Giáo dục mầm non
    hiện nay đang được các cấp các ngành đặc biệt quan tâm. Đa số các trường
    mầm non đều đạt chuẩn quốc gia và được xây dựng cơ sở vật chất khang trang.
    Càng ngày tỷ lệ trẻ mầm non tới trường càng tăng. Bước khởi đầu khi trẻ bước
    vào trường mầm non chính là nhóm trẻ. Nhóm trẻ là lớp trẻ nhỏ tuổi nhất trong
    trường mầm non, trẻ còn rất non nớt và có những đặc điểm tâm sinh lý riêng
    biệt so với tất cả các lứa tuổi khác trong trường mầm non: Trẻ lần đầu tiên đến
    lớp, đến trường, lần đầu tiên xa gia đình để ở cả ngày với cô và các bạn mới, trẻ
    đang quen ở nhà được mọi người trong gia đình chiều chuộng, trẻ chưa có thói
    quen và nề nếp ăn ngủ, vệ sinh, tham gia hoạt động theo giờ giấc của trường,
    của lớp…. Người giáo viên phải tâm huyết mới có thể tận tâm tận lực cho công
    tác chăm sóc và giáo dục trẻ trong độ tuổi này.
    Hầu hết các bậc phụ huynh có con học ở nhóm trẻ 18-24 tháng tuổi đều rất
    thương con vì đây là thời gian mà các con bước đầu rời xa vòng tay cha mẹ,
    đến với một môi trường mới với những người mà bé chưa từng gặp. Trẻ thì có
    cảm giác không an toàn vì phải rời xa vòng tay âu yếm của gia đình. Là giáo
    viên được phân công dạy nhóm trẻ 18-24 tháng tuổi tại trường Mầm non xã
    Nghĩa Thành, tôi rất yêu công việc của mình và quý mến trẻ như con của mình,
    luôn yêu thương và chăm sóc các con hết mình. Các con lần đầu tiên đến
    trường, lớp rất hay sợ và khóc vì ở lớp toàn là các bạn lạ và cô giáo cũng lạ.
    Nên làm thế nào để phụ huynh yên tâm, vui vẻ khi trao con cho các cô và trẻ
    thích đến lớp. Tôi đã thực hiện một số biện pháp để có thể giúp phụ huynh yên
    lòng và để trẻ đến lớp mà không khóc chỉ trong thời gian ngắn đã hòa nhập
    được môi trường mới và thích đến nhóm/lớp.
    Đối với trẻ nhà trẻ, việc chăm sóc trẻ là chính, ngay từ những ngày đầu
    2
    đến trường phải là thật nhẹ nhàng, mang đến cho trẻ một tâm thế thật thoải mái,
    học mà chơi, chơi mà học, trẻ phải thật yêu thích trường lớp. Để giúp trẻ sớm
    thích nghi với trường lớp đối với giáo viên là kỹ năng vô cùng quan trọng.
    Là một giáo viên có kinh nghiệm, có lòng say mê nhiệt huyết với nghề,
    với mong muốn làm sao để trẻ thích đến nhóm/lớp, không khóc nhè khi tới
    nhóm/lớp, vui vẻ khi vào lớp. Tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp
    trẻ nhà trẻ 18-24 tháng tuổi ham thích đến lớp”.
    *Mục tiêu nghiên cứu:
    Mục đích của đề tài: Nhằm giúp trẻ mới đi học không sợ sệt, không quấy
    khóc và trẻ thích đến nhóm/lớp để các bậc phụ huynh yên tâm làm việc trong
    những ngày con mình phải xa bố mẹ, ông bà. Tôi tìm ra các biện pháp giúp trẻ
    đến nhóm nhóm/lớp mạnh dạn tự tin hơn.
    Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 18-24 tháng tuổi
    thích đến lớp.
    Phạm vi áp dụng: Nhóm trẻ 18-24 tháng tuổi trong trường mầm non của
    tôi năm học: 2019-2020
    Phương pháp nghiên cứu: Áp dụng thực tiễn và tài liệu tâm lý học trẻ
    em…
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP.
    1. Mô tả biện pháp trước khi tạo ra sáng kiến.
    Bậc học mầm non là bậc thang đầu tiên, làm nền móng cho những bậc
    thang tiếp theo của cuộc đời mỗi con người. Trong bậc học mầm non thì lứa
    tuổi nhà trẻ cần được quan tâm nhiều hơn cả: Việc tạo ham thích cho trẻ khi
    đến nhóm/lớp là rất quan trọng. Trẻ hứng thú đi học sẽ tạo cho phụ huynh có
    tâm lý thoải mái, yên tâm giao con cho cô giáo, trẻ sẽ hòa đồng nhanh với môi
    trường tập thể tham gia tích cực vào các hoạt động của nhóm/lớp, cô giáo cũng
    dễ dàng tiếp cận với trẻ để hiểu được tâm lý của từng trẻ và có biện pháp giáo
    dục phù hợp. Để tạo ra một môi trường thoải mái, vui tươi, gần gũi, thân thiện
    giúp trẻ ham thích đến nhóm/lớp, vì thế là một giáo viên có nhiều năm kinh
    3
    nghiệm trong nghề, yêu nghề, mến trẻ tôi đã rút ra một số biện pháp cần thiết
    để chuẩn bị cho trẻ như:
    – Cô giáo cần tạo sự gần gũi và thân thiện.
    – Trang trí môi trường lớp đẹp, phù hợp với môi trường giáo dục và chủ
    đề.
    – Dựa vào các thói quen cũ của trẻ để rèn cho trẻ những nề nếp mới ở lớp.
    – Cô giáo cần hết lòng yêu nghề, mến trẻ yêu trẻ như con.
    – Tận dụng môi trường thiên nhiên, đồ chơi ngoài trời.
    – Cần chuẩn bị nhiều đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn, đồ chơi tự tạo đẹp, sáng
    tạo phù hợp với lứa tuổi cho trẻ chơi.
    – Giáo dục với hình thức lấy trẻ làm trung tâm.
    – Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh trong việc chuẩn bị cho trẻ
    đến nhóm/lớp.
    Để đáp ứng những yêu cầu trên đòi hỏi trước khi trẻ đến trường lớp các cô
    phải chuẩn bị sẵn môi trường phù hợp với trẻ 18-24 tháng tuổi. Bố mẹ của trẻ
    cũng phải tạo tâm lý cho trẻ là đến nhóm/lớp rất vui và có nhiều đồ chơi mới.
    1.1. Mô tả thực trạng.
    – Trường mầm non xã Nghĩa Thành có hai khu: Ngôi trường ở hai khu đều
    có khung cảnh sư phạm đẹp, sân chơi rộng rãi, sạch sẽ, được đầu tư nhiều đồ
    dùng, đồ chơi, các trang thiết bị và cơ sở vật chất phục vụ chăm sóc, nuôi
    dưỡng, giáo dục trẻ, được đầu tư tương đối đầy đủ.
    – Năm học 2019 – 2020 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công phụ
    trách nhóm/lớp nhà trẻ 18-24 tháng tuổi tại khu A. Nhóm/lớp do tôi phụ trách
    có 2 cô giáo, đều đạt chuẩn nghề nghiệp trở lên.
    – Nhóm/lớp 18- 24 tháng tuổi tôi phụ trách có tổng là 17 trẻ.
    Với tình hình thực trạng như trên trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã
    gặp một số thuận lợi và khó khăn như sau:
    1.2. Điều kiện thuận lợi.
    – Bản thân tôi là một giáo viên trẻ luôn nhiệt tình tâm huyết với nghề,
    4
    ham học hỏi, trau dồi kiến thức, có trình độ nghiệp vụ, chuyên môn vững vàng.
    – Lớp học rộng rãi, thoáng mát, đầy đủ cơ sở vật chất. Nhà trường đầu tư
    đồ dùng, đồ chơi, trang thiết bị và cơ sở vật chất phục vụ chăm sóc giáo dục trẻ
    tương đối đầy đủ.
    – Nhiều phụ huynh trẻ rất nhiệt tình quan tâm tới việc học tập của các con.
    Quan tâm ủng hộ và kết hợp chặt chẽ với giáo viên trong việc chăm sóc và giáo
    dục trẻ.
    1.3. Điều kiện khó khăn.
    – Nhóm nhà trẻ thì tuyển sinh quanh năm nên cứ trẻ cũ mới quen và thích
    đến lớp thì lại đón trẻ mới đi học.
    – Trẻ nhà trẻ thì mọi sự phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần và nhận thức
    tính theo tháng tuổi nên các con sinh đầu năm và cuối năm thì sẽ phát triển
    khác nhau.
    – Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc chăm sóc giáo dục trẻ
    được đầu tư tương đối đầy đủ tuy nhiên nhiều khi vẫn chưa đáp ứng đủ theo
    yêu cầu và điều kiện để chăm sóc và giáo dục trẻ và theo sự phát triển của trẻ.
    – Một số phụ huynh làm nghề công nhân, tiểu thương, bận nhiều công việc
    nên nhiều khi còn chưa quan tâm, chú trọng đến việc tới nhóm/lớp của trẻ. Sự
    phối hợp cùng cô giáo rèn nề nếp cho trẻ ở nhà còn hạn chế.
    Từ những thuận lợi và khó khăn trên, bản thân tôi đã trăn trở, tìm ra một
    số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 18-24 tháng tuổi thích đến nhóm/lớp. Bước đầu đã
    thu được những kết quả đáng khích lệ.
    Sau đây tôi xin trình bày một số biện pháp mà tôi đã áp dụng có hiệu quả đối
    với trẻ nhóm/lớp 18-24 tháng tuổi khu A tôi dạy :
    2. Mô tả biện pháp sau khi có sáng kiến.
    2.1. Biện pháp 1: Cô giáo cần tạo sự gần gũi và thân thiện với trẻ.
    Khi trẻ lần đầu đến lớp sẽ có rất nhiều cảm xúc đặc biệt vì đây là một môi
    trường mới, các cô đều lạ và các bạn cũng lạ nên cô giáo phải tạo được sự gần
    gũi và thân thiện với trẻ để trẻ dễ hòa nhập. Vì vậy bản thân tôi đã cố gắng
    5
    tạo sự gần gũi và thân thiện với tất cả trẻ.
    *Cách thực hiện:
    Khi đón trẻ vào nhóm/lớp tôi luôn đón trẻ nhẹ nhàng để trẻ thấy được cô
    giáo yêu quý mình nên mới đón mình như mẹ đón mình ở nhà và trò chuyện
    cởi mở ân cần với trẻ, khen ngợi trẻ để trẻ thấy vui vẻ vào lớp và có cảm giác
    an toàn khi ở với cô và các bạn.
    Cô đón trẻ, trò chuyện tươi cười cùng trẻ.
    Luôn cố gắng trở thành người bạn tin cậy của trẻ khi đến lớp, luôn thu hút
    trẻ vào những trò chơi vui nhộn, và cùng chơi với trẻ cho trẻ làm quen những
    câu truyện, bài thơ, ca dao, bài hát quen thuộc như trẻ đang ở nhà với mẹ và tạo
    điều kiện cho trẻ được kết bạn.
    6
    Trẻ hứng thú tham gia chơi đồ chơi
    Luôn hướng dẫn và giúp đỡ trẻ ân cần trong mọi hoạt động ở lớp.
    Giờ ngủ khi trẻ nào khó ngủ tôi ôm trẻ vào lòng vỗ về hát ru cho trẻ ngủ,
    với trẻ không muốn ngủ tôi gọi trẻ tới nằm cạnh chỗ tôi ngồi rồi vỗ về và nói
    chuyện nhẹ nhàng ân cần để trẻ yên tâm đi vào giấc ngủ dễ dàng hơn.
    Cô giáo bế và dỗ trẻ khó ngủ ở lớp.
    7
    Buổi đầu tiên đến lớp tôi tặng trẻ mỗi bạn một món đồ chơi tự tạo, chiều
    về cho các con cầm một món đồ chơi được tặng do các cô tự làm để trẻ hứng
    thú ngày mai đến lớp.
    *Kết quả:
    Trẻ lớp tôi rất yêu quý cô giáo coi cô giáo như người mẹ thứ hai, thích
    được đến lớp để chơi trò chơi cùng cô và các bạn, chỉ trong thời gian ngắn trẻ
    đã ngủ đúng giờ, thích nằm gần chỗ cô để ngủ.
    2.2. Biện pháp 2: Trang trí môi trường lớp đẹp phù hợp với môi trường
    giáo dục, chủ đề và thu hút sự chú ý của trẻ.
    Môi trường nhóm lớp là yếu tố cần thiết cho sự ham thích đi học của trẻ.
    Nhóm/lớp 18- 24 tháng tuổi khu A có không gian rộng rãi thoáng mát, có đầy
    đủ đồ dùng cá nhân cho trẻ, các góc chơi đẹp, phong phú. Để thu hút được trẻ
    cần có bàn tay của cô giáo.
    *Cách thực hiện:
    Trong lớp tôi luôn tìm tòi sáng tạo để làm thêm nhiều góc chơi đẹp: Góc
    thiên nhiên, góc vườn cổ tích, góc bé thông minh, góc bé vui múa hát, góc tài
    năng nhí, góc xếp hình, góc vận động, góc mừng sinh nhật bé yêu, góc bế em.
    Các góc tôi đều trang trí thật đẹp và ngộ nghĩnh, sáng tạo, hấp dẫn trưng bầy
    nhiều đồ chơi.
    Tôi luôn tạo môi trường đảm bảo, sạch sẽ, an toàn tuyệt đối cho trẻ, nhất
    là trẻ nhà trẻ 18-24 tháng tuổi để tạo cảm giác an toàn, trẻ được yêu thương như
    chính ở trong gia đình của mình.
    Tạo môi trường trong và ngoài lớp học luôn lấy trẻ làm trung tâm, luôn
    đặt trẻ làm trung tâm, trẻ được tìm tòi khám phá tất cả các đồ dùng, đồ chơi, cô
    không gò ép trẻ, để trẻ thỏa mãn nhu cầu vui chơi, khám phá, khuyến khích trẻ
    tích cực hoạt động, sáng tạo trong khi chơi.
    8
    Góc bé yêu văn học .
    Cô và trẻ múa hát trong góc âm nhạc. Bé chới với chai lọ cô sưu tầm
    9
    Bé hứng thú chơi trò chơi xâu hoa Bé tham quan góc sinh nhật
    Khi dắt trẻ vào lớp, tôi cùng trẻ dạo quanh lớp, gợi hỏi trẻ những đồ chơi,
    đồ dùng, các góc tên là gì để trẻ trả lời, nếu trẻ không trả lời được hoặc không
    thích trả lời, tôi sẽ gợi ý và giúp trẻ trả lời.
    Tôi trang trí nhóm/lớp theo từng chủ đề, cứ cuối chủ đề là tôi lại nghĩ ra
    những cách trang trí mới mẻ và làm các đồ chơi mới phù hợp với chủ đề đó.
    Trang trí lớp học theo chủ đề.
    10
    Mỗi khi tôi trang trí chủ đề mới trẻ lại đến xem, chạm tay vào và khám
    phá các đồ dùng đồ chơi.
    *Kết quả:
    Mỗi buổi đến trường trẻ đều vui thích vào lớp và đến ngay các góc để
    chơi, đến chủ đề mới tôi trang trí lại chủ đề trẻ ra đứng xem và khám phá các
    góc, ngắm tất cả môi trường trong lớp và đồ chơi, trẻ cầm đồ chơi để xem,
    khám phá và chơi luôn. Trẻ vui thích được đến lớp mỗi ngày để được chơi cùng
    cô và các bạn.
    2.3. Biện pháp 3: Cần chuẩn bị nhiều đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn, đồ chơi tự
    tạo đẹp, sáng tạo phù hợp với lứa tuổi cho trẻ chơi.
    Với trẻ nhà trẻ đến lớp là chủ yếu để vui chơi. Nên để trẻ thích đến lớp cô
    giáo phải chuẩn bị thật nhiều đồ chơi hấp dẫn, tìm tòi khám phá làm đồ chơi tự
    tạo thật sáng tạo, phong phú và phù hợp với lứa tuổi của trẻ nhà trẻ cho trẻ
    chơi.
    *Cách thực hiện:
    Ngoài đồ chơi của nhà trường có sẵn tôi luôn tìm hiểu cách làm các đồ
    chơi từ nguyên liệu thiên nhiên và các nguyên phế liệu để tạo ra thật nhiều đồ
    chơi đẹp, hấp dẫn, phù hợp và tuyệt đối an toàn với trẻ nhà trẻ.
    Đồ chơi tự làm bằng nguyên vật liệu sưu tầm tại địa phương
    11
    Có đồ chơi phù hợp rồi thì tôi tổ chức cho cả lớp cùng chơi một trò chơi
    nhỏ để gây hứng thú cho trẻ và quan sát biểu hiện của trẻ khi mới vào lớp.
    Tôi trưng bày ở các góc chơi những món đồ chơi hấp dẫn đó kích thích trẻ
    chú ý và thích chơi.
    Tôi nhập vai cùng chơi với trẻ để tạo sự thân thiện và gần gũi.
    *Kết quả:
    Trẻ rất thích được đến lớp để chơi đồ chơi, chỉ cần vào đến lớp nhìn thấy
    đồ chơi là trẻ muốn chơi luôn, với những đồ chơi mới lạ là trẻ nhìn ngắm rồi
    tìm ra cách chơi riêng luôn.
    Trẻ hứng thú khi chơi đồ chơi cô giáo tự làm.
    2.4. Biện pháp 4: Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
    Mỗi đứa trẻ là một cá thể riêng biệt, chúng khác nhau về môi trường, hoàn
    cảnh gia đình, hứng thú, kỹ năng nhận thức, giao tiếp, vận động, nhu cầu riêng
    biệt,… nên để trẻ thích đến lớp mọi hoạt động của cô giáo đều phải lấy trẻ làm
    trung tâm bao gồm: Giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục, xây dựng kế
    hoạch giáo dục lên kế hoạch cụ thể từng hoạt động xen kẽ giữa động và tĩnh
    đều phải lấy trẻ làm trung tâm.
    *Cách thực hiện:
    12
    Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm: Tôi tìm hiểu sở thích, năng lực và nhu cầu
    của từng trẻ. Tôi luôn tôn trọng sự đa dạng của từng trẻ và gia đình trẻ, chấp
    nhận sự khác biệt giữa các trẻ. Tôi luôn đánh giá cao từng trẻ, hãy tin tưởng
    rằng mỗi trẻ đều có thể thành công. Từ đó tôi rút ra những trải nghiệm trong
    những năm đầu đời nên phù hợp với mức độ phát triển của trẻ và được xây
    dựng trên cơ sở những gì trẻ đã biết và có thể làm được, không nên cố gắng dạy
    trẻ những gì quá khó và gò ép trẻ. Mỗi đứa trẻ đều có cơ hội tốt nhất để có thể
    thành công. Mỗi đứa trẻ đều có cơ hội để học bằng nhiều cách khác nhau. Đảm
    bảo trẻ hứng thú, nhu cầu, kỹ năng và thế mạnh của trẻ đều được hiểu, được
    đánh giá đúng và được tôn trọng.
    Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Hoạt động chủ đạo
    của trẻ nhà trẻ là hoạt động với đồ vật. Chính vì vậy tôi xây dựng các góc chơi
    đa dạng, phong phú và nhiều đồ chơi đẹp, sáng tạo hấp dẫn trẻ và đặc biệt là tôi
    để trẻ tự chọn góc chơi cho mình không ép buộc trẻ phải chơi ở đâu, chơi góc
    nào.
    Lập kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm: Tôi căn cứ vào việc quan sát
    nhu cầu học tập, hoạt động của trẻ xem những gì trẻ đã trải nghiệm, những gì
    trẻ muốn biết để xác định trẻ sẽ trở nên như thế nào, có thể làm được gì ở cuối
    ngày, cuối tuần, cuối chủ đề, cuối năm để tôi xác định mục tiêu và nội dung
    giáo dục. Từ đó mỗi trẻ được đảm bảo đều được hỗ trợ phát triển tốt tất cả lĩnh
    vực: Thể chất (vận động), tình cảm – xã hội và thẩm mỹ, ngôn ngữ, nhận thức.
    Ngay từ những buổi đầu trẻ đến lớp tôi luôn giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
    vào chương trình rèn nề nếp từ tháng 8 đầu năm học cho trẻ và trong cả năm
    học của trẻ nên trẻ rất thích các chương trình này, thích tham gia tất cả các hoạt
    đông ở lớp.
    *Kết quả:
    Trẻ rất thích tham gia tất cả các hoạt động trong chương trình giáo dục
    mầm non và đặc biệt là phương pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, 100% trẻ
    được đánh giá xếp loại đạt ở tất cả các lĩnh vực bằng các chỉ số theo giai đoạn

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số biện pháp duy trì trường xanh, sạch, đẹp, an toàn

    SKKN Một số biện pháp duy trì trường xanh, sạch, đẹp, an toàn

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
    Trẻ em là những mầm sống tương lai của đất nước. Để trẻ phát triển toàn
    diện về cả thể chất và tinh thần đòi hỏi trẻ phải có một môi trường tốt đẹp. Môi
    trường ấy là môi trường sống để con người và vạn vật phát triển. Đối với trẻ em
    ngoài gia đình, làng xóm, một môi trường không thể thiếu để các con trưởng
    thành đó là trường học.
    Trường học “Xanh – sạch – đẹp – an toàn” còn có ý nghĩa thiết thực trong
    việc giáo dục học sinh ý thức, thói quen giữ gìn bảo vệ môi trường và tạo sự lan
    tỏa đến môi trường gia đình, cộng đồng nơi các con đang sống, đồng thời góp
    phần hình thành nhân cách tốt đẹp và lối sống văn minh, văn hóa cho thế hệ trẻ
    ngay từ tuổi thơ. Trường học “Xanh – sạch – đẹp – an toàn” làm cho các con ham
    thích đến trường, làm cho các con thấy được “mỗi ngày đến trường là một ngày
    vui”.
    Tuy nhiên, để duy trì được một môi trường xanh – sạch – đẹp – an toàn
    trong điều kiện một vùng nông thôn là một việc rất khó đối với cán bộ quản lý,
    công việc vừa đòi hỏi phải có kinh phí, vừa phải có sự phối hợp đồng bộ của các
    ngành, các cấp, vừa phải có tầm nhìn chiến lược, vừa đòi hỏi nhân lực thực hiện.
    Theo kế hoạch năm học 2019-2020 Trường Mầm non Hải Tân công nhận
    lại trường chuẩn quốc gia mức độ II, Trường xanh – sạch – đẹp – an toàn và
    Kiểm định chất lượng cấp độ 3. Ngay từ đầu năm học nhà trường đã có kế hoạch
    cải tạo khuôn viên nhà trường. Được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp, sự phối
    hợp chặt chẽ giữa các ban ngành đoàn thể, của cha mẹ học sinh, sự nỗ lực của
    tập thể cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên nhân viên từ một ngôi trường ít màu
    xanh, khuôn viên chưa được quy hoạch khoa học, vườn rau, vườn hoa còn ít,
    diện tích chật hẹp, chưa thật sự sạch, đẹp, an toàn, thì đến nay trường đã có
    những bước chuyển biến mạnh mẽ trong công tác xây dựng trường xanh – sạch-
    đẹp – an toàn. Đúc rút từ thực tế đơn vị, bản thân mạnh dạn chia sẻ để tài: “Một
    số biện pháp duy trì trường xanh, sạch, đẹp, an toàn” nhằm cùng với các đồng
    nghiệp gần xa góp phần xây dựng vườn hoa giáo dục nhà trường ngày càng đua
    4
    hương khoe sắc xứng đáng là nơi ươm mầm cho thế hệ tương lai ngày càng hiệu
    quả.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1.Thuận lợi:
    Trường mầm non Hải Tân với 2 khu nhà cao tầng với 16 nhóm lớp nằm
    trên đường trục xã rất thuận tiện đi lại đưa đón học sinh.
    Đội ngũ giáo viên đa số là người địa phương, trình độ đều đạt chuẩn và
    trên chuẩn, có tâm huyết với nghề, được phụ huynh học sinh tin yêu.
    Học sinh ngoan ngoãn, chăm chỉ ham thích hoạt động văn nghệ, thể thao,
    hoạt động bề nổi…đa số các con có ý thức tốt trong việc giữ gìn bảo vệ môi
    trường.
    Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của cấp ủy, chính
    quyền địa phương và đặc biệt là của Phòng giáo dục và đào tạo huyện Hải Hậu.
    Ngoài ra, nhà trường được cha mẹ học sinh quan tâm và phối hợp nhiệt tình
    trong các hoạt động giáo dục, trong việc hỗ trợ kinh phí để tổ chức các hoạt
    động giáo dục cũng như việc xây dựng cảnh quan sự phạm nhà trường.
    1.2. Khó khăn:
    – Thực tế trường đã có màu xanh, nhưng màu xanh còn ít, trường được
    cấp 800m2 đất ruộng, mặt bằng chưa được san sửa, hệ thống cây xanh của nhà
    trường chưa được phong phú, sân cỏ còn ít, nhiều khu đất còn bỏ trống chưa
    được trồng cây phủ xanh ( Tiêu chí xanh).
    – Sân chơi chật hẹp, sân tập thể dục chưa lát gạch, cống rãnh thoát nước
    chưa được khơi thông thường xuyên, nhà vệ sinh vẫn có mùi hôi. Một số học
    sinh vẫn còn thói quen vứt rác ra sân trường (Tiêu chí sạch)
    – Khuôn viên trường chưa được quy hoạch theo một mô hình tổng thể,
    trồng cây theo tự phát, bồn hoa, cây cảnh, cây ăn quả có nhưng chưa đủ (Tiêu
    chí đẹp)
    – Khuôn viên trường ở 2 khu có lan can, tường rào nhưng chưa chắc chắn vì
    một số thanh lan can còn thấp, một số góc tường rào lung lay ( Tiêu chí an toàn)
    5
    – Hai khu nằm sát ngay tuyến đường trục xã, trục xóm, gần đường giao
    thông và gần sông vì vậy rất dễ xảy ra tai nạn giao thông và đuối nước nếu như
    các cô giáo sơ ý hoặc các con học sinh không chấp hành tốt luật giao thông
    đường bộ.
    – Hệ thống phòng cháy chữa cháy còn chưa dễ lấy, dễ thấy, dễ sử dụng.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
    Từ thực trạng của các tiêu chí trên tôi đã suy nghĩ làm thế nào để duy trì
    trường xanh, sạch, đẹp, an toàn một cách có hiệu quả nhất, tạo sự tin tưởng đối
    với phụ huynh học sinh khi gửi con em mình vào trường và trẻ được yên tâm coi
    đây là ngôi nhà thứ hai. Tôi đã tiến hành một số biện pháp sau:
    Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch cụ thể về yêu cầu của từng nội dung
    theo các tiêu chí:
    * Tiêu chí xanh: Phải trồng thêm cây có bóng mát, cây ăn quả theo lối đi,
    phải trồng vườn rau phân theo từng loại, từng luống, phải phủ xanh những khu
    đất trống bằng những loại cỏ phù hợp theo sơ đồ quy hoạch cụ thể,…
    * Tiêu chí sạch: Sân chơi mở rộng, sân tập lát gạch sạch sẽ. Nhà vệ sinh
    phải được vệ sinh sạch sẽ hàng ngày, thùng rác phải có nắp đậy để ở vị trí thuận
    lợi cho học sinh sử dụng, hệ thống cống rãnh xung quanh khu vực trường phải
    thường xuyên được khơi thông, có tấm đậy an toàn, đảm bảo không khí trong
    lành không bị ô nhiễm trong sân trường, lớp học sạch sẽ, đủ ánh sáng thoáng
    mát, có nội quy bảo vệ trường học, nhà vệ sinh,…
    * Tiêu chí đẹp: Cảnh quan sự phạm nhà trường phải được sắp xếp, bố trí
    hài hòa hợp lý, đảm bảo sự phát triển bền vững trong mô hình quy hoạch tổng
    thể lâu dài của nhà trường, phải có bồn hoa phải được trồng nhiều loại hoa khác
    nhau, chăm sóc chu đáo, cây cảnh có nhiều màu sắc rực rỡ, phải chọn hoa nở
    được nhiều mùa trong năm. Xây dựng được những quy định, biểu bảng, áp
    phích về nếp sống văn minh, lối sống tiết kiệm để nhắc nhở học sinh thực hiện.
    * Tiêu chí an toàn: Phải tuyệt đối đảm bảo an toàn về thân thể và tình cảm
    cho trẻ trong nhà trường, cô giáo đối xử công bằng với trẻ, không xử phạt trẻ
    dưới bất cứ hình thức nào, dạy trẻ đoàn kết yêu thương, giúp đỡ bạn bè, không
    6
    được xô đẩy nhau trên lan can, không có học sinh bị tai nạn, thương tích, phải có
    hệ thống phòng cháy, chữa cháy gắn ở nơi thuận tiện nhất.
    Biện pháp 2: Xây dựng sơ đồ tổng thể về cảnh quan môi trường.
    Làm tờ trình báo cáo với cấp trên về kế hoạch tổng thể xây dựng trường
    xanh, sạch, đẹp, an toàn. Khi kế hoạch tổng thể đã được lãnh đạo cấp trên phê
    duyệt, triển khai cho toàn thể CBGV, phụ huynh học sinh biết để góp ý, xây
    dựng những bước đi thích hợp, phù hợp theo tình hình kinh phí thực tế của đơn
    vị.Tổng hợp ý kiến góp ý, lên kế hoạch sửa chữa, xây dựng từng phần việc phần
    nào làm trước, phần nào làm sau phù hợp với thực tế đơn vị.
    Bàn bạc với phụ huynh học sinh kế hoạch thực hiện từng phần việc theo
    sơ đồ, ưu tiên những việc cần thiết nhất như sân chơi, bãi tập, vườn rau, vườn
    cây ăn quả thông qua họp phụ huynh đầu năm. Cụ thể theo từng thứ tự ưu tiên
    như sau:
    – Quy hoạch sân chơi cho học sinh để các con có chỗ vui chơi, tập luyện
    sạch sẽ: lát gạch đỏ, trồng cỏ nhật…
    Trồng cây bóng mát, cây ăn quả tạo bóng mát cho các con vui chơi.
    – Xây bồn hoa trước các lớp, trang trí lớp học.
    – Trồng cỏ ở những khu đất trống đã quy hoạch.
    – Lắp đặt hệ thống tưới nước để chăm sóc.
    Biện pháp 3: Huy động nguồn lực để có kinh phí thực hiện.
    – Lên dự toán thật chi tiết kinh phí thực hiện từng công việc sau đó bàn
    bạc với đại diện Hội phụ huynh học sinh, thảo luận góp ý, nhà trường tổng hợp ý
    kiến, bổ sung chỉnh sửa phù hợp với nguyện vọng của PHHS trình UBND,
    Phòng Giáo dục và đào tạo xin chủ trương vận động kêu gọi sự ủng hộ của các
    ban ngành đoàn thể, các nhà hảo tâm, các bậc phụ huynh,….
    – Sau khi vận động được tổng hợp kinh phí báo cáo kịp thời với ban đại
    diện cha mẹ học sinh, ban vận động để phối hợp thực hiện.
    – Công khai rộng rãi kịp thời chi tiết cho toàn thể CBGV, PHHS biết trên
    bảng tin nhà trường, văn phòng nhà trường và các cuộc họp hội đồng, họp phụ
    huynh
    7
    Biện pháp 4: Thành lập ban chỉ đạo, phân công và lên kế hoạch thực
    hiện.
    Thành lập ban chỉ đạo gồm ban giám hiệu, công đoàn, các tổ chuyên môn,
    đại diện phụ huynh.
    Trong các nội dung thực hiện, chúng tôi tập trung vào ba nội dung cấp
    bách để chỉ đạo thực hiện trước đó là:
    Thứ nhất: Lát sân gạch đỏ ở 2 khu để tạo sân tập thể dục và các hoạt động
    khác cho trẻ sạch sẽ, an toàn.
    Thứ hai: Có sân cỏ chơi, giữ gìn sân chơi, lớp học, khuôn viên nhà trường
    sạch đẹp, đường đi lối lại không có rác.
    Thứ ba: Sân trường phải có bồn hoa, vườn rau, vườn cây ăn quả, thảm cỏ
    xanh, không để đất trống.
    Thứ tư: An toàn trong giờ học, giờ chơi, giờ ăn, giờ ngủ, khi tham gia
    giao thông trên đường bộ, trật tự khi đưa đón con em ở khu vực cổng trường.
    Dựa vào các nội dung trên, phân công rõ trách nhiệm cho từng bộ phận,
    từng thành viên một cách phù hợp, hiệu quả thì mọi công vệc sẽ nhanh chóng
    hoàn thiện.
    8
    Biện pháp 5: Phát động các phong trào bảo vệ cảnh quan sư phạm
    nhà trường phù hợp với lứa tuổi.
    5.1 Phong trào “Sân trường em không có rác”
    Nội dung này nhà trường giao cho khối 4, 5 tuổi trực tiếp thực hiện.
    Để thực hiện phong trào này nhà trường bố trí hợp lý các thùng đựng rác
    tại sân trường, trên các phòng học, hành lang. Ở từng thùng đựng rác được dán
    các khẩu hiệu tuyên truyền như “Hãy bỏ rác vào đúng nơi quy định”, “Cho tôi
    xin rác”, “Hãy bảo vệ môi trường”.
    Giáo viên chủ nhiệm trực tiếp tổ chức cho trẻ lao động vệ sinh theo lịch,
    chịu trách nhiệm về những công việc được giao của lớp mình. Kịp thời phát
    hiện, nhắc nhở những học sinh thực hiện chưa tốt, nhà trường theo dõi, đánh giá
    trong các đợt sinh hoạt chuyên môn, họp Hội đồng sư phạm nhà trường, phân
    loại, xếp hạng, tuyên dương những lớp điển hình, nhắc nhở kịp thời các lớp còn
    vi phạm và yêu cầu cam kết thời gian tiếp theo thực hiện.
    Học sinh nhặt lá cây và rác
    5.2 Phong trào “Trường em an toàn”
    9
    Phòng chống tai nạn thương tích cho học sinh là nghĩa vụ và trách nhiệm
    của nhà trường đối với các con học sinh và cha mẹ của các em.
    Trường mầm non Hải Tân có 2 khu, cả 2 khu đều gần sông và đường trục,
    do đó tôi xác định nội dung quan trong hàng đầu để thực hiện tốt phong trào đó
    là thực hiện an toàn khu vực cổng trường. Vì vậy tôi tập trung thực hiện các biện
    pháp cụ thể sau:
    Thứ nhất: Treo bảng “Nội quy trường lớp”, “Không tụ tập buôn bán trước
    cổng trường”, “Nơi để xe của phụ huynh” để phụ huynh học sinh thực hiện.
    Đảm bảo cổng trường không ách tắc giao thông khi tan học.
    Thứ hai: Giao cho bảo vệ trực tiếp thường trực và thực hiện công tác ổn
    định và trật tự giao thông khu vực cổng trường vào giờ đưa, đón học sinh.
    Thứ ba: Giao cho bảo vệ, giáo viên thường xuyên kiểm tra hệ thống điện,
    hệ thống cửa nếu có hư hỏng về đường dây, ổ cắm, cửa phải báo cáo hiệu trưởng
    dự trù kinh phí sửa chữa, khắc phục ngay.
    Thứ tư: Ban giám hiệu thường xuyên rà soát đồ dùng, đồ chơi trên sân
    trường, trong lớp học, lan can cạnh sông để khịp thời sửa chữa.
    Ngoài việc chú trọng nội dung trên thì nhà trường cũng thường xuyên
    hướng dẫn các con kỹ năng vui chơi, sinh hoạt, kỹ năng khi tham gia giao thông
    trên đường bộ đúng cách để không xảy ra tai nạn. Công việc này được giao cho
    giáo viên chủ nhiệm phối hợp với nhân viên y tế tuyên truyền, hướng dẫn nhắc
    nhở các con thực hiện.
    Bên cạnh đó, giáo viên chủ nhiệm thường xuyên nhắc nhở các con học
    sinh không sờ tay vào ổ cắm điện; không leo lên lan can của nhà cao tầng;
    không xô đẩy nhau khi lên xuống cầu thang; không chơi dao, kéo và các đồ vật
    sắc nhọn, không tự ý xuống ao hồ tắm khi chưa được sự cho phép của người
    lớn… Hay giáo dục học sinh một số kỹ năng xử lý tình huống thường gặp trong
    trường như: Kỹ năng xử lý tình huống khi thấy bạn bị ngã chảy máu, nếu gặp
    tình huống này thì các con phải báo ngay cho cô giáo biết. Như vậy khi gặp tình
    huống này xảy ra vì các con đã học nên các con có thể xử lý được ngay.
    5.3 Phong trào “Màu xanh sân trường, lớp học”
    10
    Một trường học, lớp học xanh mát, ngập tràn sắc màu thiên nhiên, để mỗi
    ngày đến lớp các con học sinh đều có cảm giác mình đang ở công viên quả là
    một tâm trạng tuyệt vời. Nhìn ở phương diện khoa học: cây cỏ, lá hoa được ví
    như lá phổi thanh lọc những khí chất độc hại cho cơ thể. Ở góc độ đời sống tinh
    thần, màu xanh thiên nhiên có tác dụng giúp tâm hồn thư giãn, sảng khoái…
    Để thực hiện phong trào này, sau khi lát gạch đỏ sân trường ở 2 khu, nhà
    trường tập trung huy động mọi nguồn lực để hoàn thành thảm cỏ, vườn đồi,
    vườn hoa, hút cát trồng cây ăn quả, cấy cỏ, làm thành vườn rau ở khu 8/3. Trồng
    đã khó nhưng giữ cho cây cối phát triển lại càng khó, đòi hỏi khâu chăm sóc chu
    đáo, tưới dội thường xuyên. Nhà trường giao cho mỗi lớp phụ trách một khu vực
    vườn đồi…., dưới sự tổ chức, nhắc nhở của các cô giáo, các con phấn khởi tự
    giác cùng chung tay góp sức vào việc chăm sóc, nhặt cỏ, bảo vệ khu vực của lớp
    mình mỗi ngày sạch sẽ.
    11
    Hợp đồng giao khoán cho nhân viên bảo vệ thực hiện việc tưới cây vào
    ngày thứ 7, chủ nhật hàng tuần, bón phân chăm sóc cây nhất là vào mùa nắng,
    đảm bảo các bồn hoa luôn xanh tốt.
    Vườn hoa, cây ăn quả đang phát triển tốt
    Phong trào đã giúp cho hệ thống, cây xanh của nhà trường luôn được bảo
    vệ chăm sóc xanh tốt. Tạo nên khuôn viên nhà trường xanh mát, tươi tắn quanh
    năm.
    5.4 Phong trào “Lớp em gọn gàng, sạch đẹp”
    Không chỉ trú trọng phát triển mảng xanh trong khuôn viên trường, xây
    12
    dựng môi trường học tập hiệu quả còn được đặt ra ở từng lớp học. Nhà trường
    đã triển khai tất cả các nhóm lớp thực hiện trang trí lớp học theo hướng đổi mới,
    tích hợp chủ đề, chủ điểm. Nhà trường tham mưu với cấp trên cấp phát tủ, giá đồ
    chơi cho các nhóm lớp đồ dùng, trang thiết bị dạy học, còn việc trang trí chủ đề
    năm học, tranh ảnh theo chủ đề, chủ điểm, trồng cây xanh là do giáo viên chủ
    nhiệm và học sinh hỗ trợ cùng cô.
    Hàng ngày, giáo viên chủ nhiệm rèn luyện cho học sinh thói quen quan
    tâm bảo vệ môi trường, thiên nhiên, làm sao cho các con có thể cảm nhận được
    trường có thêm chậu cây như lớp học có thêm bạn mới. Hoa lá tại các góc thiên
    nhiên trong lớp dần trở thành góc khám phá vô tận của các em, có thêm một
    mầm non, một chiếc lá sắp nhú, có chiếc là già cỗi, bắt đầu ngả vàng, thân cây
    đã già thêm được một đoạn… tất cả chan hòa cùng sắc màu thiên nhiên giúp các
    em khám phá, cảm nhận. Yêu cầu các lớp thực hiện sắp xếp bàn ghế ngay ngắn
    hàng ngày. Thứ sáu hàng tuần thực hiện lau sạch sẽ bàn ghế; định kỳ lau đồ
    dùng, đồ chơi, quét mạng nhện…
    Giao cho y tế học đường, giáo dục sức khỏe, kiểm tra việc thực hiện của
    các lớp, nhắc nhở các con ăn mặc gọn gàng, sạch đẹp, đầu tóc gọn gàng, móng
    tay, móng chân cắt ngắn, vệ sinh thân thể hàng ngày sạch sẽ. Bởi trong một môi
    trường đẹp thì con người ở đó cũng đòi hỏi phải đẹp, môi trường đẹp, học sinh
    đẹp, thì lớp mới đẹp. Phong trào đã rèn luyện tinh thần vì tập thể cho học sinh để
    các em cùng nhau xây dựng lớp học gọn gàng, sạch đẹp như chính ngôi nhà của
    các em.
    13
    Giờ chơi, giờ học của các con học sinh
    5.5. Phong trào “Nhà vệ sinh của em sạch sẽ”
    – Xây dựng nội quy sử dụng công trình vệ sinh của học sinh với các nội
    dung cụ thể như: học sinh mẫu giáo đi đúng khu vực vệ sinh dành cho nam và
    nữ, xả nước và rửa tay sạch sẽ sau khi đi vệ sinh, sử dụng giấy vệ sinh xong phải
    bỏ vào sọt đựng. Học sinh nhà trẻ do cô giáo hướng dẫn và tổ chức vệ sinh cho
    trẻ… Thao tác rửa mặt, rửa tay được dán ngay trươc các khu vệ sinh của nhóm
    lớp.
    – Chỉ đạo giáo viên tăng cường giáo dục ý thức chấp hành nội quy sử
    dụng công trình vệ sinh (tránh mang rác vào nhà vệ sinh), tạo thành thói quen có
    văn hóa khi đi vệ sinh.
    – Kiểm tra, nhắc nhờ thường xuyên việc quét dọn nhà vệ sinh của giáo
    viên phụ trách lớp, đảm bảo không để nhà vệ sinh dơ bẩn. Ít nhất một ngày phải
    thực hiện ba lượt vệ sinh, cụ thể mẫu giáo là sau giờ hoạt động góc, hoạt động
    ngoài trời buổi sáng, sau giờ ngủ dậy buổi chiều và sau khi học sinh ra về.
    Biện pháp 6: Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục ý thức của
    học sinh.
    14
    Tuyên truyền giáo dục là một phương pháp không thể thiếu trong quá
    trình
    giáo dục, nó có vai trò và tác dụng lớn góp phần thực hiện thành công nội dung
    giáo dục. Vào đầu sáng thứ 2 hàng tuần, sau khi tập thể dục buổi sáng xong, Ban
    giám hiệu cũng như giáo viên trực tiếp nhắc nhở trẻ sự cần thiết phải bảo vệ môi
    trường.
    Công tác tuyên truyền giáo dục thực hiện phong trào xây dựng: “Trường
    học xanh, sạch, đẹp, an toàn” được thực hiện với các hình thức cụ thể như:
    – Tuyên truyền vào sáng thứ 2 đầu tuần: nhận xét, đánh giá, nhắc nhở,
    khen thưởng, động viên.
    – Tuyên truyền trên bảng tin, ở trên cac giờ dạy, giờ chơi trên lớp
    – Truyên truyền thông qua các ngày lễ hội của bé.
    – Phát động cho học sinh chăm sóc cây xanh trong lớp và cùng cô giáo
    trang trí lớp học.
    – Nhà trường treo các khẩu hiệu tuyên truyền: “Xây dựng trường học thân
    thiện, học sinh tích cực”, “Trường em sạch đẹp, an toàn”, “Ngôi trường là nhà,
    cô giáo là mẹ, các cháu là con”,… giáo viên là người trực tiếp tuyên truyền cho
    các con hiểu ý nghĩa của các khẩu hiểu và hướng dẫn các con thực hiện theo.
    Việc tuyên truyền là một trong các biện pháp mang lại hiệu quả cao vì nó
    tác động vào ý thức giữ gìn môi trường, bảo vệ cây xanh, bảo vệ lớp học, của
    từng con học sinh trong mọi lúc, mọi nơi. Đa số các con học sinh thông qua
    tuyên truyền giáo dục ý thức các con sẽ thực hiện theo nội dung tuyên truyền
    một cách nghiêm túc.
    Biện pháp 7: Công tác giáo dục lồng ghép của nhà trường
    Hầu hết giáo viên đã có ý thức cao trong việc giáo dục các con thực hiện
    bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động có tích hợp giáo dục môi trường,
    thông qua các hoạt động thực tế như: quét lớp, lau cửa, chăm sóc vườn trường…
    Qua mỗi lần thực hiện, nắm bắt ưu điểm tồn tại từng hoạt động trong việc
    thực hiện nội dung duy trì trường học: “Xanh, sạch, đẹp, an toàn” đưa ra một số
    biện pháp trọng tâm nhằm thúc đẩy, phát huy hết các ưu điểm mà nhà trường đã
    15
    đạt được, và khắc phục các tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện nội dung này để
    đem lại hiệu quả cao nhất.
    Biện pháp 8. Tổ chức lao động thường xuyên, định kỳ.
    Ngay từ đầu năm học nhà trường xây dụng kế hoạch lao động, kế hoạch
    chăm sóc cây tới toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên. Phân công trách nhiệm
    cụ thể cho từng lớp phụ trách từng khu vực, giáo viên các lớp chịu trách nhiệm
    trước nhà trường về nhiệm vụ được giao.
    Các lớp vừa có trách nhiệm lao động, vệ sinh khu vực được phân công
    hàng ngày, đồng thời cũng thực hiện bảo vệ khu vực của mình. Ngoài ra mỗi
    tháng một lần các nhóm, lớp thực hiện vệ sinh toàn bộ lớp học như:
    Học sinh cùng cô giáo lau dọn đồ dùng đồ chơi, lau bàn ghế, chăm sóc
    vườn hoa, vườn rau, thực hiện tổng vệ sinh chung toàn trường. Giao cho học
    sinh khối mẫu giáo thực hiện cùng cô, nhặt cỏ trong các bồn hoa, vườn rau để
    các con giữ gìn môi trường nhà trường luôn sạch.
    Các phòng hành chính và các phòng chức năng của nhà trường cũng được
    chỉ đạo vệ sinh, bố trí sắp xếp hợp lý tủ, bàn, trang trí hoa lá để tạo môi trường
    thoải mái, sạch đẹp cho cán bộ, giáo viên, học sinh học tập, làm việc.
    Cùng với việc hướng dẫn học sinh lao động, tập thể cán bộ – giáo viện –
    nhân viên cùng ra sức đóng góp công sức vào việc cải tạo, xây dựng cảnh quan
    sư phạm nhà trường vì một số công việc học sinh mầm non không thể làm được,
    đội ngũ cán bộ – giáo viên – nhân viên của đơn vị coi nhà trường là ngôi nhà
    chung của cả tập thể sư phạm từ đó ra sức cống hiến.
    16
    Việc tổ chức lao động thường xuyên, định kỳ đảm bảo cho khuôn viên
    trường, phòng học, phòng chức năng và các phòng hành chính luôn luôn được
    giữ gìn sạch sẽ hàng ngày, vườn hoa, cây cảnh luôn được xanh tốt.
    Cô vệ sinh đồ dùng, đồ chơi
    17
    Cô sắp xếp lại đồ dùng, đồ chơi
    Biện pháp 9. Giáo dục môi trường, giáo dục kỹ năng sống trong các
    môn học và các hoạt động.
    Hiện nay việc tích hợp bảo vệ môi trường, giáo dục kỹ năng sống trong
    một số tiết học là bắt buộc. Nếu các thầy cô giáo biết cách lồng ghép thường
    xuyên vấn đề này trong các bài giảng của mình thì hiệu quả chắc chắn không
    phải là nhỏ. Sở dĩ như vậy vì thầy cô giáo vừa là những tấm gương rất thuyết
    phục, vừa là những người có sức lay động cảm hóa sâu sắc. Một lời nói của thầy
    cô có thể tác động trực tiếp và lớn lao hơn cả những chương trình truyền thống
    khô cứng.
    Để chỉ đạo thực hiện có hiệu quả nội dung trên thị nhà trường tổ chức tập
    huấn các chuyên đề bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng cho giáo viên về giáo dục
    môi trường nhằm nâng cao khả năng tích hợp, lồng ghép giáo dục môi trường
    trong các giờ học chính khóa.
    18
    Tổ chức hội giảng mẫu giáo cho giáo viên toàn trường rút kinh nghiệm.
    Tổ
    chức hội giảng cho các tổ khối để giáo viên trong tổ cùng bàn bạc để đưa ra
    những phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh từng khối.
    Giờ hội giảng của các cô
    Ban giám hiệu thường xuyên dự giờ và góp ý cho giáo viên cách thực
    hiện để đạt mục tiêu đề ra. Đặc biệt chú ý giáo viên đến việc giáo dục bằng
    những tình huống cụ thể tránh nói lý thuyết suông. Qua các giờ học và các hoạt
    động giáo viên lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh.

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trong trường mầm non

    SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trong trường mầm non

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Như chúng ta đã biết bậc học Mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống
    giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, hình thành cho
    trẻ cơ sở ban đầu của nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của
    giáo dục Mầm non là chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ từ 0- 6 tuổi, tạo cơ sở ban đầu để
    trẻ phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ. Những kỹ năng mà
    trẻ được tiếp thu qua chương trình chăm sóc giáo dục mầm non sẽ là nền tảng cho
    việc học tập và thành công sau này của trẻ.
    Để quá trình giáo dục mầm non đạt hiệu quả đòi hỏi phải có đội ngũ giáo
    viên mầm non có đầy đủ phẩm chất đạo đức, năng lực sư phạm và trình độ chuyên
    môn nghiệp vụ vững vàng đáp ứng với yêu cầu đổi mới hiện nay của ngành học đó
    là nỗi trăn trở, suy nghĩ của nhiều cấp quản lý giáo dục bởi đội ngũ giáo viên chính
    là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục.
    Muốn có được đội ngũ giáo viên vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ,
    người cán bộ quản lý phải luôn luôn có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Bên
    cạnh đó tính đa dạng, phức tạp đặc trưng của ngành học mầm non đó là: Vai trò
    của người giáo viên mầm non rất quan trọng, là người đặt nền móng cho sự phát
    triển toàn diện của trẻ và là người mẹ thứ 2 của các cháu. Lao động của giáo viên
    mầm non là lao động mang tính khoa học và nghệ thuật đòi hỏi công phu vì cô
    giáo là tấm gương cho trẻ học và bắt chước. Chính vì thể mà cô giáo mầm non phải
    hội tụ đầy đủ những yêu cầu về phẩm chất và năng lực chuyên môn để thực hiện
    mục tiêu chương trình giáo dục mầm non trong giai đoạn hiện nay.
    Qua thực trạng về đội ngũ giáo viên ở trường mầm non thị trấn Rạng Đông
    nơi tôi đang công tác, tôi thấy rằng 100% viên mầm non đều được đào tạo theo
    đúng chuyên môn của ngành học, song do chưa đồng đều về trình độ chuyên môn,
    còn nhiều giáo viên có tuổi đời, tuổi nghề cao có nhiều kinh nghiệm nhưng việc
    đổi mới phương pháp giáo dục và vận dụng các kiến thức mới trong các hoạt động
    2
    giáo dục trẻ còn hạn chế, một số giáo viên trẻ mới ra trường kinh nghiệm còn non
    trẻ lại có con nhỏ nên việc thích ứng với chương trình mới còn chậm chạp, qua loa,
    chưa đồng bộ, chưa chủ động, mạnh dạn, tự tin trong các hoạt động chăm sóc giáo
    dục trẻ; một số giáo viên theo học các lớp đào tạo của hệ liên kết, tại chức nên
    phương pháp dạy trẻ còn nhiều hạn chế, nghệ thuật và kinh nghiệm giảng dạy chưa
    thực sự đáp ứng được yêu cầu đổi mới, dẫn đến chất lượng giáo dục chưa đồng đều
    do đó chưa đáp ứng kịp thời với yêu cầu giáo dục mầm non trong giai đoạn hiện
    nay.
    Nhận thức của giáo viên mầm non về công tác bồi dưỡng chuyên môn còn
    hạn chế, nhiều giáo viên chưa tích cực trong công tác tự học, tự bồi dưỡng chuyên
    môn, nội dung của công tác bồi dưỡng chuyên môn của nhà trường nhiều khi thực
    hiện chưa đầy đủ, thiếu kế hoạch, còn chung chung, nặng về lý thuyết; biện pháp
    chỉ đạo triển khai công tác bồi dưỡng chuyên môn chưa thực sự khoa học, bên
    cạnh đó thời lượng làm việc trên lớp của giáo viên quá nhiều … Đó là nguyên
    nhân thực tiễn dẫn đến kết quả công tác bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo
    viên trong trường còn hạn chế.
    Bên cạnh đó một số phụ huynh thiếu quan tâm đến sự phát triển toàn diện
    của trẻ do điều kiện kinh tế khó khăn hoặc không có nhiều thời gian để chăm sóc
    giáo dục con. Mặt khác cơ sở vật chất của nhà trường còn hạn chế do diện tích
    điểm trường khu trung tâm chặt hẹp, chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới giáo dục.
    Vì vậy việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ nhằm thực hiện tốt chất lượng giáo
    dục, tiếp cận đổi mới giáo dục mầm non, giúp trẻ phát triển một cách toàn diện là
    hết sức cần thiết.
    Đứng trước yêu cầu nội dung chương trình giáo dục mầm non, đòi hỏi mỗi
    giáo viên phải thực sự say mê với công việc, luôn luôn tìm tòi khám phá cái mới để
    phù hợp với chủ đề, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của từng lứa tuổi, với đặc
    điểm tỉnh hình của trường, lớp… vì đây chỉ là chương trình khung. Trong thời đại
    công nghệ 4.0, yêu cầu giáo dục mầm non phải luôn luôn đổi mới, đòi hỏi đội ngũ
    giáo viên phải được bồi dưỡng thường xuyên về mọi mặt để đáp ứng thực tiễn. Đội
    ngũ giáo viên Mầm non là lực lượng chăm sóc giáo dục trẻ, mọi thành công hay
    3
    thất bại phụ thuộc hoàn toàn vào chất lượng của đội ngũ giáo viên. Do vậy việc bồi
    dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đòi hỏi người quản lý phải chủ động
    xây dựng kế hoạch từng năm, bồi dưỡng định kì, bồi dưỡng thường xuyên… làm
    thế nào để người giáo viên thấy được nhu cầu cần thiết phải tự bồi dưỡng chuyên
    môn nghiệp vụ.
    Vậy làm thế nào để giúp giáo viên đội ngũ giáo viên có phẩm chất đạo đức
    tốt, có năng lực chuyên môn vững vàng, có lòng nhân ái và có lý tưởng nghề
    nghiệp, chủ động, sáng tạo, linh hoạt, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức
    trong các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ nhằm nâng cao trình độ chuyên môn
    nghiệp vụ? Chính vì thế bản thân tôi là phó hiệu trưởng phụ trách chỉ đạo chuyên
    môn toàn trường nên tôi mạnh dạn chọn đề tài SKKN “ Một số biện pháp nâng
    cao chất lượng bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trong trường mầm
    non”. Làm đề tài nghiên cứu và áp dụng vào đơn vị trường mầm non thị trấn Rạng
    Đông năm học 2019- 2020.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến.
    Trường mầm non thị trấn Rạng Đông có 3 điểm trường, các phòng học, phòng
    chức năng đều cao tầng kiên cố hóa, năm học 2019- 2020 toàn trường có 22 nhóm
    lớp với tổng số học sinh là 757 trẻ.
    Trường có tổng số 44 CBGV, NV: trong đó có 3 cán bộ quản lý và 1 nhân viên
    kế toán và 40 giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy, chăm sóc, giáo dục trẻ.
    – Sè CBGV có trình độ đại học: 7/44= 15,9%
    – Số CBGV có trình độ cao đẳng: 26/48= 59,1%
    – Số CBGV, nhân viên có trình độ đạt chuẩn: 11/44= 25%
    Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên trường mầm non thị trấn Rạng Đông
    nhiệt tình, yêu nghề, luôn đoàn kết, đồng lòng, hăng say trong công việc, có ý
    thức trách nhiệm cao, có trình độ chuyên môn vững vàng, tích cực học hỏi, tự bồi
    dưỡng để làm tốt việc chăm sóc giáo dục trẻ.
    4
    Nhà trường có chi bộ Đảng gồm 24 đảng viên luôn đoàn kết, gương mẫu đi
    đầu trong các phong trào thi đua của nhà trường. Chi bộ luôn được Đảng ủy thị
    trấn Rạng Đông công nhận và đánh giá là chi bộ trong sạch – vững mạnh xuất sắc.
    Chi đoàn thanh niên có 22 đoàn viên, các đoàn viên đều tham gia tích cực,
    sôi nổi, luôn là lực lượng xung kích đi đầu trong các phong trào thi đua của ngành,
    trường và địa phương là nhân tố quyết định tiên phong trong các hoạt động của nhà
    trường. Tổ trưởng, tổ phó chuyên môn là bí thư, phó bí thư chi đoàn. Chi đoàn
    thanh niên nhiều năm liền được Đoàn thị trấn công nhận là chi đoàn vững mạnh.
    Căn cứ vào tình hình thực tế của nhà trường tôi nhận thấy có những thuận
    lợi, khó khăn sau:
    1.1 Thuận lợi:
    Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện của các cấp lãnh đạo
    địa phương cũng như sự chỉ đạo sát sao về chuyên môn của Phòng Giáo dục và
    Đào tạo huyện Nghĩa Hưng
    Ban giám hiệu nhà trường đoàn kết, tích cực, chủ động tham mưu với các
    cấp lãnh đạo đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tạo nguồn kinh phí cho hoạt động
    chuyên môn, thúc đẩy nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
    Đội ngũ tổ trưởng, tổ phó chuyên môn có trình độ chuyên môn khá vững
    vàng, tích cực chịu khó học hỏi để hoàn thành tốt nhiệm vụ đựơc giao. Đội ngũ
    giáo viên trong nhà trường “yêu nghề, mến trẻ”, nhiệt tình, trách nhiệm, chịu khó
    học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
    Bản thân tôi nhiệt tình, tâm huyết với nghề, có trình độ chuyên môn đạt trên
    chuẩn, biết lắng nghe ý kiến đóng góp của đồng nghiệp để xây dựng kế hoạch
    chuyên môn kịp thời, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường.
    Năm học 2019- 2020 là một năm học đặc biệt đối với các cấp học ngành học
    do bệnh dịch Covid 19 bùng phát nên học sinh phải nghỉ học ở nhà, Mặc dù trẻ
    không đến trường nhưng đội ngũ giáo viên vẫn ngày đêm miệt mài sinh hoạt tổ
    nhóm chuyên môn để xây dựng các nội dung tuyên truyền về bệnh dịch, xây dựng
    các bài giảng theo từng độ tuổi chuyển tải tới các bậc phụ huynh ôn luyện cho con
    5
    ở nhà trên kệ thống, Zalo nhóm lớp, Facebook ,….và đây cũng là thời gian thích
    hợp để nhà trường tập trung bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ cán bộ giáo viên
    1.2 Khó khăn: Bên cạnh những mặt thuận lợi nhà trường cũng gặp không
    ít những khó khăn như:
    Trường còn thiếu phòng chức năng và trang thiết bị các phòng chức năng,
    các phòng học xây dựng lâu nên đã xuống cấp chưa đáp ứng về CSVC trong giai
    đoạn hiện nay.
    Trường có 3 điểm trường nằm cách xa nhau ảnh hưởng đến công tác quản lý
    và trao đổi học tập chuyên môn của giáo viên. Số học sinh trên lớp đông, thiếu
    giáo viên nên cường độ lao động của giáo viên cao, thời gian bố trí cho giáo viên
    học tập trao đổi chuyên môn còn gặp nhiều khó khăn.
    Đội ngũ giáo viên tuổi đời không đồng đều: một bộ phận giáo viên có tuổi
    đời cao, một bộ phận giáo viên mới tuyển chưa có nhiều kinh nghiệm, năng lực
    còn hạn chế nên việc tiếp thu về cải tiến, đổi mới phương pháp còn chậm.
    Nhận thức về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của công tác tự bồi dưỡng chuyên
    môn của đội ngũ giáo viên chưa đầy đủ, chưa thực sự phấn khích tham gia hoạt
    động chuyên môn, chưa thấy rõ vai trò của bồi dưỡng chuyên môn đối với công tác
    của mình
    Nhiều giáo viên việc cập nhật, ứng dụng các thiết bị dạy học, ứng dụng công
    nghệ thông tin còn hạn chế, số lượng phụ huynh học sinh kết nối với nhà trường,
    nhóm lớp trên các kênh thông tin như Zalo, Facebook, trường xanh… còn ít do vậy
    việc chuyển tải các thông tin trao đổi với phụ huynh trong mùa dịch Corona còn
    gặp nhiều khó khăn.
    Bài soạn đưa ra mục đích yêu cầu còn chung chung, hệ thống câu hỏi đóng,
    thiếu tính gợi mở, hình thức tổ chức bị khô cứng, xử lý tình huống sư phạm chưa
    thật sự linh hoạt, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong các hoạt động còn
    hạn chế.
    Nội dung sinh hoạt chuyên môn của tổ chuyên môn chưa phong phú, đa
    dạng về hình thức sinh hoạt, khi tham gia sinh hoạt chuyên môn giáo viên trong tổ
    còn chưa mạnh dạn tham gia đóng góp ý kiến riêng của mình.
    6
    Để thực hiện tốt công tác bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên mầm
    non, tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng trình độ chuyên môn nghiệp vụ của giáo
    viên thông qua việc đánh giá năng lực sư phạm thực tiễn và theo chuẩn nghề
    nghiệp giáo viện mầm non, kết quả khảo sát cụ thể như sau:
    KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ TRÌNH ĐỘ CMNV CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
    NĂM HỌC 2018- 2019
    Biểu 1: Đánh giá trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên theo
    chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non .

    STTTiêu chuẩnĐánh giá, xếp loại
    TốtKháTB
    1Đạo đức nhà giáo44//
    2Phong cách làm việc395/
    3Phát triển chuyên môn bản thân26144
    4Xây dựng kế hoạch CSGD trẻ theo hướng phát
    triển toàn diện trẻ em
    2816
    5Kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục.27143
    6Kỹ năng quản lý lớp học.18197
    7Quan sát và đánh giá sự phát triển của trẻ em22175
    8Xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành
    mạnh, thân thiện
    3212
    9Ứng dụng công nghệ thông tin42812
    10Thể hiện khả năng nghệ thuật trong hoạt động
    chăm sóc giáo dục trẻ.
    122210
    11Kỹ năng giao tiếp, ứng xử với trẻ, đồng nghiệp,
    phụ huynh và cộng đồng.
    3212

    7
    Biểu 2: Trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên thông qua các hoạt động
    chăm sóc giáo dục trẻ tại trường.

    STTNội dungSố giáo viên đạt /tỷ lệ %
    TốtKhá
    1Xây dựng kế hoạch giáo dục trẻ theo
    quan điểm “lấy trẻ làm trung tâm”.
    33/44=75%11/44=25%
    2Kết quả tham gia Hội giảng cấp
    trường
    32/44=72,7%12/44=27,3%
    3Kết qủa kiểm tra chuyên đề, kiểm tra
    toàn diện
    KTTD:10/10=100%
    KTCĐ:24/33=72,7%
    KTTD: 0
    KTCĐ:9/33=27,3%
    4Trang trí đổi mới không gian lớp học,
    tạo môi trường học tập cho trẻ.
    32/44=72,7%12/44=27,2%
    5Làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo bằng các
    nguyên vật liệu sẵn có.
    29/44=65,9%15/44=34,1%

    1.3. Nguyên nhân của thực trạng:
    – Do năng lực, trình độ nhận thức, tuổi đời, của giáo viên trong nhà trường
    chưa đồng đều, giáo viên còn rập khuân, máy móc, cứng nhắc trong việc thực hiện
    giảng dạy. Số giáo viên trẻ phần đa là giáo viên mới tuyển dụng nên phần nào ảnh
    hưởng đến chất lượng giảng dạy. Nhà trường chưa chú trọng đầu tư nhiều thời gian
    cho việc tổ chức tập huấn chuyên môn cho đội ngũ giáo viên. Giáo viên chưa chủ
    động trong công tác tự bồi dưỡng chuyên môn, đang mang tính ỷ lại phụ thuộc vào
    nhà trường. Giáo viên chưa chịu khó nghiên cứu các tài liệu liên quan đến công tác
    chuyên môn, chỉ thực hiện theo quán tính… sợ khó, sợ sai nên chưa có tính sáng
    tạo trong tổ chức các hoạt động.
    Thực tế trên đã đặt ra yêu cầu cấp thiết cho cán bộ quản lý nhà trường: Phải
    tích cực tổ chức bồi dưỡng chuyên môn ngay và lâu dài để có đội ngũ giáo viên
    8
    vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng với yêu cầu chăm sóc giáo dục trẻ
    hiện nay.
    2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến:
    Đứng trước thực trạng của nhà trường và căn cứ vào yêu cầu của ngành học
    đề ra, bản thân là một cán bộ quản lý chuyên môn trường mầm non có nhiệm vụ
    bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trong trường. Để thực hiện được
    nhiệm vụ đó tôi thường xuyên theo dõi, giám sát, nhắc nhở việc thực hiện nền nếp
    chuyên môn trong nhà trường để nắm bắt được giáo viên nào giỏi về năng lực
    chuyên môn nghiệp vụ và giáo viên nào còn hạn chế về năng lực để có kế hoạch
    tham mưu với Đ/c Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên sao cho
    phù hợp với tình hình thực tế và tận dụng mọi điều kiện, cơ hội để giáo viên tham
    gia học tập bồi dưỡng chuyên môn mọi lúc, mọi nơi và đạt hiệu quả. Tôi luôn ý
    thức được rằng muốn xây dựng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp
    vụ vững vàng để nâng cao hơn nữa chất lượng thực hiện chương trình chăm sóc
    giáo dục trẻ thì trước hết nhà trường phải có một cơ sở vật chất tương đối, toàn
    diện về mọi mặt. Để bồi dưỡng tốt chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trong nhà
    trường tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp sau:
    3. Các biện pháp bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên
    Đối với giáo viên mầm non, bồi dưỡng là phải bám sát mục tiêu cơ bản của
    giáo dục mầm non hiện nay và hướng tới những đổi mới của giáo dục mầm
    non. Để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, là Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên
    môn, bản thân tôi đã nghiên cứu tài liệu, bám sát thực tế của nhà trường, học hỏi
    kinh nghiệm quản lý trường bạn để đưa ra một số biện pháp bồi dưỡng chuyên
    môn cho đội ngũ giáo viên trong trường mầm non cụ thể như sau:
    3.1.Biện pháp 1: Bồi dưỡng nâng cao nhận thức về phẩm chất chính trị và
    đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ giáo viên:
    – Ngay từ đầu năm học tôi đã tham mưu cho đồng chí Hiệu trưởng tổ chức
    cho giáo viên học tập, trao đổi, thảo luận nội quy, quy chế của nhà trường trong đó
    chú trọng đến quy chế chuyên môn, quy chế dân chủ, bộ quy tắc ứng xử…, nội quy
    đón trẻ trẻ của nhà trường…Mọi thành viên trong nhà trường đều nắm được một số
    9
    văn bản cơ bản, chủ yếu như: Điều lệ trường mầm non, Luật giáo dục sửa đổi…,
    các quy định về nền nếp chuyên môn, sinh hoạt tổ nhóm, mục tiêu, kế hoạch đào
    tạo, mục tiêu, nội dung chương trình, kết quả mong đợi của từng độ tuổi, chế độ
    sinh hoạt một ngày ở trường mầm non, các quy tắc ứng xử giữa đồng nghiệp với
    đồng nghiệp, giữa cô với trẻ, giáo viên với phụ huynh, trẻ với trẻ, trao đổi thảo
    luận các tiêu chí đánh giá trẻ, tiêu chí đánh giá thi đua nhóm lớp… để mọi giáo
    viên nắm bắt được và thực hiện.
    Ngoài việc phổ biến trực tiếp trên các hội nghị, in tài liệu cho giáo nghiên
    cứu nhà trường còn khuyến cáo giáo viên tìm hiểu trên các phương tiện thông tin
    đại chúng. Hình thức tổ chức bồi dưỡng như sau:
    Thứ nhất: Vào đầu năm học nhà trường đã tổ chức cho các cán bộ giáo viên
    được tham gia học tập lớp bồi dưỡng chính trị hè, tổ chức hội nghị công chức, viên
    chức cho giáo viên ký cam kết với nhà trường đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ,
    không vi phạm đạo đức nhà giáo, tuyên truyền đến 100% cán bộ giáo viên, nhân
    viên thực hiện tốt các cuộc vận động và các phong trào thi đua do ngành phát
    động. Xây dựng kế hoạch phát động phong trào thi đua chào mừng các ngày lễ lớn
    trong năm như: 20/10, 15-8 âm lịch, 20/11, 22/12, 3/2, 8/3, 30/4, 1/5, 19/5, 01/6…
    Hội nghị cán bộ, công chức, viên chức trường mầm non thị trấn Rạng Đông
    10
    Năm học 2019- 2020
    Thứ hai: Trong các cuộc họp hội đồng định kỳ vào thứ 7 tuần 4 hàng tháng
    nhà trường luôn tổ chức học tập, triển khai đầy đủ mọi thông tư, chỉ thị, quyết định
    của ngành và cấp trên. Triển khai các yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp giáo viên
    mầm non, điều lệ giáo viên mầm non, nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của người
    giáo viên mầm non, những điều giáo viên được làm và không được làm, đặc biệt
    chú ý đến vấn đề vi phạm đạo đức nhà giáo….thông qua đó nhằm nâng cao nhận
    thức chính trị cho đội ngũ cán bộ giáo viên.
    Một buổi học tập bồi dưỡng chuyên môn
    của cán bộ giáo viên nhà trường đầu năm học2019- 2020
    Thứ ba: Tổ chức cho toàn thể đội ngũ cán bộ giáo viên tham gia các cuộc thi
    tìm hiểu 90 năm ngày thành lập Đảng, thi tìm hiểu về pháp luật, những đổi mới
    trong ngành giáo dục, thi tìm hiểu 90 ngành truyền thống tuyên giáo.. . Xây dựng
    tủ sách pháp luật tại trường, khuyến khích giáo viên thường xuyên đọc báo, chú
    trọng tới báo Đảng, báo giáo dục thời đại, các tạp chí giáo dục mầm non…
    11
    Tổng kết thực hiện chuyên đề: “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
    phong cách Hồ Chí Minh”, Nhà trường tổ chức cho cán bộ giáo viên,
    nhân viên đi thăm và viếng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
    Thứ tư: Tổ chức tốt các ngày hội, ngày lễ trong năm (5/9, tết trung thu,
    20/10, 20/11, 22/12, 8/3, 1/6…), chú trọng các hoạt động ngoại khóa của cô và trò,
    như tổ chức cho trẻ 4, 5 tuổi đi thăm quan nghĩa trang liệt sỹ…thông qua đó giáo
    dục nâng cao phẩm chất đạo đức, tác phong nghề nghiệp cho giáo viên.
    Thứ năm: Thực hiện nghiêm túc, công khai công tác kiểm tra, đánh giá, tổ
    chức xét thi đua dựa theo các yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non,
    đưa lĩnh vực phẫm chất chính trị, đạo đức, lối sống là một trong những lĩnh vực
    quan trọng để xét thi đua hàng tháng, học kỳ và năm học.
    – Bản thân tôi luôn đi đầu trong việc thực hiện kỷ cương, nền nếp, nội quy,
    quy chế cũng như học tập bồi dưỡng chuyên môn, cùng các đ/c chí trong ban giám
    hiệu nhà trường phát động phong trào thi đua và thực hiện cuộc vận động: Thực
    hiện chỉ thị số 05- CT/TW của Bộ Chính trị về về “ Đẩy mạnh học tập và làm theo
    tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; các cuộc vận động lớn của ngành:
    12
    “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”; Các phong trào
    thi đua như: “ Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”: “ Xây dựng
    trường mầm non lấy trẻ là trung tâm”; Xây dựng trường học hạnh phúc, Xây dựng
    mô hình trường học văn minh, học sinh thân thiện, không có ma túy và bạo lực học
    đường…
    – Bản thân tôi thường xuyên kiểm tra theo dõi và giám sát chặt chẽ việc thực
    hiện nền nếp chuyên môn của giáo viên và của trẻ trong nhà trường. Tích cực thăm
    lớp, dự giờ để rút kinh nghiệm, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho giáo viên
    trong quá trình thực hiện chuyên môn, đồng thời phát hiện giáo viên đầu mạnh,
    đầu yếu để có kế hoạch bồi dưỡng.
    – Chỉ đạo các nhóm lớp tổ chức họp phụ huynh học sinh, mời phụ huynh dự
    giờ, thảo luận, tìm hiểu nền nếp học tập của trẻ ở trường đồng thời tuyên truyền
    cho các phụ huynh nắm bắt được và phối kết hợp với nhà trường trong công tác
    chăm sóc giáo dục trẻ qua đó giúp giáo viên mạnh dạn, tự tin khi lên lớp.
    3.2.Biện pháp 2: Đổi mới công tác xây dựng kế hoạch chuyên môn:
    Việc xây dựng kế hoạch hoạt động của tổ nhóm chuyên môn và cá nhân mỗi
    giáo viên là không thể thiếu trong quá trình giáo dục trẻ của mỗi giáo viên trong
    trường mầm non. Song việc xây dựng kế hoạch như thế nào cho phù hợp với trình
    độ chuyên môn chung của giáo viên trong trường để đạt kết quả cao là việc làm
    không đơn giản.
    Xác định được nhiệm vụ trọng tâm của năm học 2019-2020 là tiếp tục xây
    dựng “trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm”, “ Xây dựng trường học hạnh
    phúc”, “ Xây dựng mô hình trường học văn minh, học sinh thân thiện, không có
    matúy và bạo lực học đường”, gắn với việc nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo
    dục trẻ nhằm thực hiện tốt Chỉ thị 05/CT-TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy
    mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
    Trên cơ sở kế hoạch nhiệm vụ năm học các cấp đã chỉ đạo và hướng dẫn từ
    đó tôi đã xây dựng kế hoạch chuyên môn: kế hoạch tháng; kế hoạch tuần, cụ thể
    hóa kế hoạch chuyên môn sát với tình hình của trường.
    * VD: Xây dựng lịch trình hoạt động ngoài trời, tổ chức các ngày hội, ngày lễ:
    13
    Do diện tích điểm trường khu trung tâm nhỏ hẹp, học sinh đông nhưng
    không vì thế mà chúng tôi cắt xén bớt các hoạt động của trẻ, để khắc phục khó
    khăn này. Tôi đã cùng các đồng chí trong tổ chuyên môn thông nhất thời gian biểu
    hoạt động của nhà trường hợp lý. Tôi sắp xếp thời khoá biểu của các tổ, lớp so le
    nhau, chỉ đạo các lớp chia lớp khi tổ chức hoạt động học, hoạt động ngoài trời.
    Làm như thế sẽ giảm tải được số học sinh tham gia hoạt động ngoài trời cùng một
    lúc mà vẫn đảm bảo hoạt động.
    Có thể nói, việc xây dựng kế hoạch chuyên môn tốt cho ta được nhiều kết
    quả cao trong việc nâng cáo chất lượng giảng dạy cũng như kết quả giáo dục trẻ
    mầm non. Giúp cho giáo viên không bị gò bó trong quá trình dạy trẻ lĩnh hội kiến
    thức. Khi thực hiện việc “đổi mới” sinh hoạt chuyên môn của trường, tôi đã đúc
    kết được một số kinh nghiệm nhỏ như sau:
    Một là: Xây dựng kế hoạch chuyên môn sát với nhiệm vụ trọng tâm năm học
    của ngành, nhà trường và địa phương. Kế hoạch chuyên môn phải cụ thể chi tiết
    theo từng tuần, từng tháng, từng giai đoạn hoạt động.
    Hai là:Tổ trưởng chuyên môn phải xác định rõ vai trò trách nhiệm của
    mình trong việc chỉ đạo tổ chuyên môn hoạt động một cách toàn diện trên tất cả
    mọi lĩnh vực nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ năm học.
    Ba là: Căn cứ vào nhiệm vụ năm học phân công trách nhiệm một cách hợp
    lý theo năng lực, sở trường của từng thành viên trong tổ, phát huy tối đa năng lực
    của giáo viên.
    Bốn là: Xây dựng nội dung và hình thức sinh hoạt chuyên môn đa dạng và
    phong phú, đáp ứng được những vấn đề đổi mới trong giáo dục hiện nay cũng như
    phương pháp dạy học tích cực trong giáo dục mầm non.
    3.3.Biện pháp 3: Nâng cao trình độ trên chuẩn của giáo viên.
    Thực tế nhà trường vẫn còn 10 giáo viên trình độ đạt chuẩn trong đó phần
    đa là giáo viên mới tuyển và một số giáo viên có tuổi đời cao không có nhu cầu
    học tập. Do đó nhà trường phải xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên dài hạn,
    mỗi năm học tạo điều kiện cho mấy giáo viên đi học, ưu tiên các giáo viên có tuổi
    đời cao đi học trước, đồng thời vận động, động viên giáo viên đi học nâng cao
    14
    trình độ. Tham mưu với hiệu trưởng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giáo viên đi
    học nâng, cung cấp các tài liệu cần thiết cho giáo viên. Có như vậy mới đảm bảo
    nhà trường có một đội ngũ giáo viên, có đủ năng lực, trình độ chuyên môn đáp ứng
    nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ trong giai đoạn hiện nay.
    Tập thể cán bộ giáo viên nhà trường năm học 2019- 2020. Có 44 cán bộ
    giáo viên, nhân viên: Trình độ Đại học SP: 07Đ/c; Trình dộ CĐ SP: 26đ/c; Trình
    độ TC SP là 11
    Hiện nay số giáo viên có trình độ CĐSP, TCSP của nhà trường đang theo
    học các lớp Cao đẳng Đại học SP là 10 giáo viên, vẫn còn 1 giáo viên có trình độ
    trung cấp sư phạm do tuổi đời cao không có nhu cầu đi học và một nhân viên kế
    toán
    3.4.Biện pháp 4: Bồi dưỡng nâng cao kĩ năng sư phạm cho giáo viên mầm
    non:
    Dạy học là hoạt động đặc thù cần nhiều kỹ năng. Chính vì vậy, người giáo
    viên mầm non cần trang bị cho mình nhiều kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng sư phạm
    để đáp ứng với thực tế đổi mới ngày càng cao trong công tác chăm sóc giáo dục
    15
    trẻ. Một giáo viên giỏi phải có hệ thống kỹ năng sư phạm được chuyên môn hóa
    cao, sâu sắc và luôn thích ứng với nhiều hoàn cảnh khác nhau. Khi tiến hành bồi
    dưỡng kỹ năng sư phạm cần thiết cho đội ngũ giáo viên tại trường, tôi đã thực hiện
    việc tách rời, cụ thể hóa từng kỹ năng sư phạm để bồi dưỡng cho giáo viên đạt hiệu
    quả cao nhất.
    Kỹ năng sư phạm bắt buộc: Lợi thế của cô giáo mầm non chính là biết hát,
    biết múa và đọc truyện, biết cách sử dụng biến tấu nhạc cụ, biết cách làm đồ
    chơi… Đây là những kỹ năng bắt buộc các cô giáo tương lai cần nắm một cách
    thành thạo nếu muốn duy trì con đường “cô nuôi dạy trẻ”. Trong các cuộc thi do
    ngành phát động nhà trường luôn tham gia và có giải cao, bên cạnh đó còn thường
    xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, tổ chức thi đua giữa các tổ chuyên
    môn, hội giảng chào mừng các ngày lễ lớn trong năm như: 20/10, 20/11, 8/3…vừa
    tạo được không khí vui vẻ, vừa là dịp để mỗi giáo viên rèn luyện năng khiếu, trau
    dồi chuyên môn của mỗi giáo viên trong nhà trường.
    Màn chào hỏi của giáo viên tham gia hội thi giáo viên tài năng duyên dáng
    Trau dồi kỹ năng giao tiếp và ứng xử với trẻ nhỏ: Một cô giáo mầm non dạy
    tốt là người luôn có trình độ chuyên môn và lòng yêu nghề. Là người yêu thương
    con trẻ giống như người mẹ thứ 2 của chúng. Chính bởi vậy, tôi luôn yêu cầu đội
    16
    ngũ giáo viên cần thường xuyên trau dồi nhiều hơn để hoàn thiện bản thân mình
    trong cách ứng xử với trẻ nhỏ, học được cách giao tiếp với trẻ, thực sự hiểu trẻ,
    luôn là tấm gương cho trẻ noi theo. Đây là một trong những kỹ năng quan trọnnhất
    và thường xuyên được sử dụng xuyên suốt quá trình dạy học.
    Kỹ năng giao tiếp với đồng nghiệp, phụ huynh của trẻ: Thiết lập mối quan
    hệ thân thiện cùng đồng nghiệp, phụ huynh học sinh rất quan trọng đối với giáo
    viên mầm non. Những mối quan hệ với đồng nghiệp, phụ huynh tốt đẹp sẽ giúp
    cho công việc trở nên nhẹ nhàng, sẽ làm cho bản thân họ thấy yêu nơi mà mình
    công tác gắn bó hơn, làm việc hiệu quả hơn và hơn tất cả là bạn sẽ thấy yêu con trẻ
    hơn. Do vậy chúng tôi có biện pháp kiểm tra, giám sát chéo lẫn nhau giữa các giáo
    viên trong lớp, cạnh lớp, bên cạnh đó Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên
    kiểm tra đột xuất, định kỳ.
    Kỹ năng soạn giáo án và tổ chức các trò chơi: Với nghề sư phạm mầm
    non không chỉ là sáng đến lớp rồi tối đi về mà còn đòi hỏi những giáo viên mầm
    non phải soạn trước giáo án kỹ càng, lựa chọn trò chơi, hoạt động cụ thể cho các
    con từng ngày để trẻ không thấy nhàm chán và giúp trẻ phát triển tốt một cách toàn
    diện. Là một giáo viên sư phạm giỏi cần phải biết cách đổi mới phương pháp giảng
    dạy mỗi ngày. Ban giám hiệu nhà trường lên lịch duyệt giáo án hàng tháng cho
    giáo viên theo tổ chuyên môn vào ngày mùng1, 15 của tuần 1 và tuần 3 hàng
    tháng, đưa nội dung soạn giáo án vào sinh hoạt chuyên môn hàng tháng, bồi dưỡng
    kỹ năng soạn giáo án và tổ chức trò chơi vào các đợt thi giáo viên dạy giỏi cấp
    trường, cấp huyện.
    Kỹ năng sơ cứu và hướng dẫn trẻ khi có những tai nạn xảy ra: Để chỉ đạo
    tốt công tác phòng chống tai nạn thương tích trong nhà trường, bản thân tôi đã
    cùng BGH đưa việc rèn kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt động, yêu cầu giáo viên
    cần trợ giúp các em biết cách xử lý những tình huống thường gặp trong cuộc sống
    như làm sao khi bị đứt tay, bị lạc đường…dùng những trò chơi đóng giả y tá để trẻ
    có thể hình dung được sự việc xảy ra và cách giải quyết, từ đó nâng dần ý thức tự
    lập cho trẻ.
    17
    Kỹ năng sử dụng thành thạo máy vi tính: Nhà trường động viên, tạo điều
    kiện cho giáo viên trong nhà trường tự học để có chứng chỉ về tin học, mở các lớp
    bồi dưỡng tại trường để những giáo viên biết sử dụng thành thạo hướng dẫn những
    giáo viên chưa thành thạo CNTT. Đến nay 100% cán bộ, giáo viên, nhân viên
    trong nhà trường có chứng chỉ về tin học, khai thác thông tin trên mạng internet, sử
    dụng thành thạo CNTT trong các hoạt động giảng dạy.
    Đội ngũ giáo viên đang tích cực học ứng dụng công nghệ thông tin vào
    trong các hoạt động giáo dục trẻ
    Chỉ đạo đội ngũ giáo viên tích cực tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ
    nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là nâng cao trình độ ứng dụng
    công nghệ thông tin, liên hệ chặt chẽ và trao đổi thường xuyên với phụ huynh học
    sinh về chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ của nhà trường, của nhóm lớp qua hệ
    thống Zalo nhóm lớp, trường xanh… , không ngừng nghiên cứu học hỏi để từng
    bước đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao nhất lượng giáo dục đáp ứng
    với yêu cầu đổi mới của chương trình giáo dục mầm non mới và sự nghiệp “Trồng
    người” trong giai đoạn hiện nay./.
    Trong thời gian học sinh nghỉ dịch Covid 19, tôi đã chỉ đạo các tổ khối
    chuyên môn xây dựng các tiết dạy tập trung vào rèn các kỹ năng sống, kyỹ năng

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm

    SKKN Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Khi triển khai thực hiện chuyên đề: “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ
    làm trung tâm”, là cán bộ quản lý bản thân tôi xác định để thực hiện tốt chuyên
    đề thì việc chỉ đạo xây dựng môi trường giáo dục có vai trò hết sức quan trọng.
    Tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định 80/2017/NĐ-CP ngày 17 tháng 7 năm 2017 của
    Chính phủ có hiệu lực ngày 05 tháng 9 năm 2017 nêu rõ: “Môi trường giáo dục
    là tất cả các điều kiện về vật chất và tinh thần có ảnh hưởng đến hoạt động giáo
    dục, học tập, rèn luyện và phát triển của người học”. Môi trường trong giáo dục
    không chỉ góp phần quyết định đến sự hình thành và phát triển nhân cách con
    người mà quan trọng hơn là yếu tố môi trường thực tế đã kích thích chủ thể (con
    người) hoạt động năng động và sáng tạo hơn. Việc tạo lập, xây dựng và phát
    triển môi trường giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng của các nhà giáo dục
    trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
    Có thể nói việc xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non là
    thực sự cần thiết và quan trọng. Nó giúp giáo viên trong công tác tổ chức, hướng
    dẫn cho trẻ nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi và hoạt động của trẻ, thông qua đó
    nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển toàn diện. Một môi trường sạch
    sẽ, an toàn, có sự bố trí khu vực chơi và học trong lớp và ngoài trời phù hợp,
    thuận tiện có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với sự phát triển thể chất của trẻ, mà
    còn thỏa mãn nhu cầu nhận thức, mở rộng hiểu biết của trẻ, kích thích trẻ hoạt
    động tích cực, sáng tạo. Môi trường giao tiếp cởi mở, thân thiện giữa cô với trẻ,
    giữa trẻ với trẻ và giữa trẻ với môi trường xung quanh sẽ tạo cơ hội cho trẻ được
    chia sẻ, giãi bày tâm sự, nguyện vọng, mong ước của trẻ với cô, với bạn bè, nhờ
    vậy mà cô hiểu trẻ hơn, trẻ hiểu nhau hơn, hoạt động phối hợp nhịp nhàng hơn
    nên hiệu quả hoạt động cũng cao hơn, trẻ yêu trường, yêu lớp, yêu cô giáo và
    bạn bè hơn. Đối với mỗi giáo viên mầm non, việc xây dựng môi trường giáo dục
    phù hợp sẽ là phương tiện, là điều kiện để họ phát triển phù hợp với từng trẻ và
    từng lứa tuổi. Đối với phụ huynh học sinh và cộng đồng xã hội, quá trình xây
    2
    dựng môi trường giáo dục sẽ thu hút được sự tham gia của các phụ huynh và sự
    đóng góp của cộng đồng xã hội để thỏa mãn mong đợi của họ đối với sự phát
    triển của trẻ trong từng giai đoạn, trong từng thời kì.
    Thực tế trong công tác chỉ đạo thực hiện chuyên đề: “Xây dựng trường
    mầm non lấy trẻ làm trung tâm” của trường mầm non thị trấn Rạng Đông trong
    nhiều năm qua đã có những thành công đáng kể. Môi trường giáo dục trong nhà
    trường được cải thiện, môi trường đã thực sự là yếu tố tham gia trực tiếp đến quá
    trình chăm sóc giáo dục chứ không đơn thuần chỉ là nơi diễn ra hoạt động học.
    Với trăn trở, làm thế nào để công tác xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm
    trung tâm ngày càng phát triển bền vững tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp
    chỉ đạo nâmg cao chất lượng xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung
    tâm” để đúc rút kinh nghiệm với mục đích đóng góp một số biện pháp, nhằm
    thực hiện tốt công tác xây dựng môi trường giáo dục tại đơn vị tôi công tác và
    góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Thuận lợi:
    đạo của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Nghĩa Hưng, của Đảng uỷ, Hội đồng
    nhân dân, Uỷ ban nhân dân thị trấn Rạng Đông, sự phối kết hợp chặt chẽ của các
    ban ngành đoàn thể, sự đồng thuận tin tưởng của nhân dân thị trấn và sự ủng hộ
    nhiệt tình trách nhiệm của phụ huynh học sinh.
    Trường có 44 cán bộ giáo viên và nhân viên, 100% cán bộ giáo viên và
    nhân viên có trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên chuẩn, có 24 cán bộ giáo
    viên là đảng viên. Đội ngũ cán bộ giáo viên luôn đoàn kết, có tinh thần trách
    nhiệm cao và có trình độ, kinh nghiệm chuyên môn vững vàng; có sức khỏe tốt,
    có khả năng tiếp cận khoa học công nghệ thông tin nhanh.
    Cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi được đầu tư đồng bộ, tương
    đối đầy đủ, có sự quan tâm ưu tiên cho chuyên đề “Xây dựng trường mầm non
    Trường Mầm non thị trấn Rạng Đông luôn nhận được sự quan tâm chỉ
    3
    lấy trẻ làm trung tâm”, trường là đơn vị trọng điểm thực hiện chuyên đề của
    giáo dục mầm non huyện Nghĩa Hưng.
    Trường có 3 điểm trường gồm 22 nhóm lớp với tổng số 757 trẻ. Trẻ luôn
    đi học chuyên cần, mạnh dạn, tự tin. Chất lượng giáo dục của nhà trường luôn
    dẫn đầu phong trào giáo dục mầm non của huyện. Nhà trường giữ vững danh
    hiệu “Tập thể lao động xuất sắc” 15 năm liên tục.
    1.2. Khó khăn:
    Trường thuộc địa bàn nông thôn, cách xa trung tâm văn hóa, dân cư sống
    thưa, kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Các hoạt
    động giao lưu văn hóa chủ yếu mang tính chất thuần nông ảnh hưởng đến việc
    tiếp cận khoa học công nghiệp mới.
    Nhận thức của một số phụ huynh về công tác phối kết hợp giữa nhà
    trường – gia đình – xã hội trong việc xây dựng môi trường xã hội cho trẻ ở mọi
    lúc mọi nơi còn hạn chế.
    Diện tích điểm trường khu trung tâm còn chật hẹp, số học sinh trên lớp
    đông ảnh hưởng không nhỏ đến công tác xây dựng môi trường ngoài lớp học và
    việc tổ chức hoạt động tại các góc chơi trong lớp học.
    Một số giáo viên cao tuổi tiếp cận thiết kế môi trường cho trẻ hoạt động
    chưa phong phú, bố trí các góc hoạt động chưa linh hoạt, chưa khai thác triệt để
    hiệu quả môi trường trong lớp học.
    Mặt khác, trong quá trình thực hiện chuyên đề một số giáo viên tiếp cận
    việc xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm vẫn tồn tại nhiều khó
    khăn, bất cập. Mỗi giáo viên thực hện theo cách thức quan điểm riêng, chưa có
    chiều sâu.
    Môi trường cho trẻ hoạt động chưa phong phú, còn mang tính áp đặt, cách
    bố trí các góc hoạt động đôi lúc chưa linh hoạt, chưa khai thác hiệu quả của các
    góc, các mảng tường, đồ dùng đồ chơi; chưa đầu tư suy nghĩ, tìm tòi, ngại đổi
    mới, ngại sáng tạo nên thực hiện xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung
    tâm chưa chưa đáp ứng được so với yêu cầu phát triển của giáo dục mầm non
    hiện nay.
    4
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1. Xây dựng kế hoạch chỉ đạo nâng cao chất lượng xây dựng môi
    trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
    Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của người hiệu trưởng là xây
    dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch. Kế hoạch cụ thể giúp việc điều hành công
    việc khoa học theo đúng kế hoạch đề ra và có hiệu quả cao. Mặt khác, khi triển
    khai thực hiện kế hoạch giúp người hiệu trưởng có những điều chỉnh linh hoạt.
    Trước khi xây dựng kế hoạch, tôi đã dựa trên kết quả trong công tác xây dựng
    môi trường lấy trẻ làm trung tâm của những năm học trước, phân tích ưu điểm,
    tồn tại cần khắc phục. Phân tích đánh giá thực trạng nhà trường để tìm ra điểm
    mạnh, điểm yếu và các nguồn lực cần huy động hỗ trợ nâng cao hơn nữa chất
    lượng của công tác xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm. Phân tích tình
    hình nhà trường, xã hội để biết được cơ hội cần tận dụng và các nguy cơ thách
    thức cần tránh.
    BẢNG TỔNG HỢP ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI XÂY DỰNG MÔI TRƢỜNG
    TRONG 3 NĂM THỰC HIỆN CHUYÊN ĐỀ

    TTNội dung tiêu chí2016-20172017-20182018-2019
    Số
    nhóm
    lớp
    đạt
    Tỷ lệ
    %
    Số
    nhóm
    lớp
    đạt
    Tỷ lệ
    %
    Số
    nhóm
    lớp
    đạt
    Tỷ lệ
    %
    1Môi trường cơ sở vật chất an
    toàn
    15/2268,1817/2277,2719/2286,36
    2Môi trường giáo viên22/2210022/2210022/22100
    3Môi trường số lượng, chủng
    loại đồ dùng đồ chơi
    15/2268,1817/2277,2718/2281,81
    4Quy hoạch, trang trí, sắp xếp
    môi trường
    14/2263,6316/2272,7217/2277,27
    5Tính năng sử dụng môi
    trường cho trẻ
    13/2259,0915/2268,1817/2277,27
    6Tân dụng sử dụng tối đa môi
    trường hiện có
    13/2259,0915/2268,1817/2277,27

    5
    Căn cứ vào kế hoạch chỉ đạo chuyên đề của phòng Giáo dục và Đào tạo,
    căn cứ vào kết quả khảo sát thực tế và chất lượng việc xây dựng môi trường lấy
    trẻ làm trung tâm từ năm học trước, tôi nhận thấy đa số giáo viên đã biết cách
    xây dựng môi trường học tập cho trẻ phù hợp theo chủ đề, nhưng cách tạo các
    góc mở và cách khai thác các góc mở cho trẻ hoạt động còn hạn chế. Việc làm
    đồ dùng đồ chơi sáng tạo và khai thác có hiệu quả các đồ dùng, đồ chơi đã làm
    được đưa vào cho trẻ hoạt động còn lúng túng. Việc tận dụng triệt để sản phẩm
    của trẻ để trang trí môi trường chưa hiệu quả.
    Từ thực tế trên, tôi đã lồng ghép kế hoạch chỉ đạo xây dựng môi trường
    lấy trẻ làm trung tâm vào kế hoạch năm học, kế hoạch chuyên môn của nhà
    trường. Trong kế hoạch chỉ rõ những biệp pháp thực hiện nhằm nâng cao chất
    lượng công tác xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm. Chỉ đạo giáo viên
    căn cứ kế hoạch của nhà trường xây dựng kế hoạch cá nhân về nội dung xây
    dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm.
    Trong công tác chỉ đạo các bộ phận, tổ nhóm chuyên môn và giáo viên
    xây dựng kế hoạch, tôi chú trọng, quan tâm chỉ đạo sát sao, tỷ mỉ ngay từ việc
    cung cấp số liệu, chỉ tiêu cụ thể cho đồng chí phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên
    môn đến các đồng chí giáo viên, nhằm giúp họ xây dựng kế hoạch một cách cụ
    thể đúng hướng hơn. Đặc biệt là kế hoạch chỉ đạo chuyên môn của hiệu phó, tổ
    trưởng chuyên môn đây là nòng cốt quyết định đến chất lượng và hiệu quả công
    tác xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm của nhà trường cũng như thúc
    đẩy phong trào chung trong nhà trường.
    Trong công tác xây dựng kế hoạch và chỉ đạo xây dựng kế hoạch, tôi luôn
    quan tâm và coi trọng những giải pháp, số liệu, những chỉ tiêu nhiệm vụ theo
    từng thời kỳ, từng giai đoạn, tỷ mỉ đến từng tuần từ đó giúp từng thành viên xác
    định rõ mục tiêu cần đạt được của từng giai đoạn để phấn đấu, xác định các
    bước xây dựng kế hoạch có tính khả thi cao. Bên cạnh đó, tôi luôn động viên
    khích lệ mọi thành viên nêu cao tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm trong công
    việc thực hiện nhiệm vụ một cách tích cực, sáng tạo để tìm ra những biện pháp
    6
    hữu hiệu mang tính đột phá, để thực hiện kế hoạch mà tổ khối đề ra trên cơ sở
    kế hoạch năm học của nhà trường.
    Chỉ đạo hai đồng chí phó hiệu trưởng phối hợp với các đồng chí tổ trưởng
    chuyên môn xây dựng kế hoạch cụ thể cả hình thức tổ chức cũng như chỉ đạo về
    nội dung trong các buổi sinh hoạt chuyên môn theo quy định. Buổi sinh hoạt
    phải thực sự phong phú và bổ ích, có tác dụng thúc đẩy phong trào xây dựng
    trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm của nhà trường, đặc biệt chú trọng giúp
    đỡ nhau nhận thức sâu sắc về việc đổi mới phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ.
    Phân công nhiệm vụ một cách rõ ràng do đó đã giúp cho mọi thành viên trong tổ
    nâng cao tinh thần làm chủ, ý thức trách nhiệm trong công tác nâng cao chất
    lượng chăm sóc giáo dục trẻ đạt hiệu quả cao.
    2.2. Chỉ đạo sinh hoạt chuyên môn tổ nhóm, bồi dưỡng kỹ năng xây
    dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm
    Chỉ đạo duy trì nền nếp sinh hoạt chuyên môn tổ nhóm nhằm thực hiện
    mục tiêu kế hoạch xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm đạt hiệu quả cao
    là một trong nhiệm vụ quyết định quan trọng khi thực hiện chuyên đề. Điều lệ
    trường mầm non (Ban hành kèm theo Quyết định số 04/VBHN-BGDĐT ngày 24
    tháng 12 năm 2015 của Bộ Giáo dục và Đào tạo), tại điều 14 mục 2 khoản b nêu
    rõ nhiệm vụ của tổ chuyên môn là: “Thực hiện bồi bưỡng chuyên môn, nghiệp
    vụ, kiểm tra, đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
    dục trẻ và quản lý sử dụng tài liệu, đồ dùng, đồ chơi, thiết bị giáo dục của các
    thành viên trong tổ theo kế hoạch của nhà trường”. Với nhiệm vụ đó, bản thân
    tôi đã xác định rõ vai trò của người hiệu trưởng trong việc giúp họ hành động
    theo mục tiêu thống nhất, tạo điều kiện cho họ hoàn thành nhiệm vụ của mình
    trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Thông qua tổ chuyên môn,
    hiệu trưởng sẽ nắm được hoạt động của giáo viên, phát huy cao độ sự thống nhất
    giữa hiệu trưởng với các thành viên trong nhà trường. Do đó, để quản lý tốt các
    hoạt động của tổ chuyên môn, người hiệu trưởng phải làm tốt chức năng của
    mình nhất là công tác chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, đánh giá; tập trung làm tốt
    7
    công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn tổ nhóm để hoàn
    thành thắng lợi mục tiêu giáo dục đề ra.
    (Hình ảnh buổi sinh hoạt chuyên môn tổ nhóm)
    Ngay từ năm đầu thực hiện chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ
    làm trung tâm”, tôi luôn chú ý đến việc tổ chức tập huấn chuyên đề để giáo viên
    nắm chắc quan điểm chỉ đạo, mục đích, ý nghĩa, nội dung của chuyên đề. Để
    giúp giáo viên nắm chắc nội dung chuyên đề, tôi đã chỉ đạo tổ nhóm chuyên
    môn lựa chọn nội dung sinh hoạt, lồng ghép nội dung của chuyên đề. Tạo điều
    kiện tổ chức các lớp học tập chuyên môn toàn trường triển khai đầy đủ các văn
    bản chỉ đạo của các cấp về nội dung chuyên đề như: Mục tiêu tổng quát của
    chuyên đề là “Xây dựng trường mầm non bảo đảm các yêu cầu về môi trường giáo
    dục; đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo; đổi mới hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ theo
    quan điểm giáo dục lấy người học làm trung tâm”; Kế hoạch số 56/KHBGDĐT ngày 25 tháng 01 năm 2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành về
    triển khai chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” giai
    đoạn 2016-2020; Kế hoạch 166/SGDĐT ngày 22/02/2017 của Sở Giáo dục –
    Đào tạo Nam Định về triển khai chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ
    làm trung tâm”, giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch số 72/KH-PGDĐT ngày
    01/3/2017 của phòng GD&ĐT Nghĩa Hưng về việc hướng dẫn xây dựng kế
    hoạch thực hiện chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm”,
    giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch số 02/KH-TrMN ngày 10/3/2017 của trường
    8
    mầm non thị trấn Rạng Đông về thực hiện chuyên đề “Xây dựng trường mầm
    non lấy trẻ làm trung tâm” giai đoạn 2016-2020.
    Hình thức tổ chức bồi dưỡng trong sinh hoạt chuyên môn thường xuyên
    được thay đổi, phong phú về nội dung và hình thức:
    – Tổ chức cho giáo viên thảo luận, trao đổi, đưa ý tưởng xây dựng môi
    trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong từng nhóm lớp, phù hợp với cảnh
    quan khuôn viên lớp học mình phụ trách nhằm trao đổi kinh nghiệm.
    – Tổ chức cho giáo viên trình bày đề xuất, kiến nghị khó khăn trong thực
    hiện xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm của nhóm lớp mình
    chia sẻ cùng đồng nghiệp, cùng thảo luận tìm giải pháp khắc phục khó khăn
    trong tổ nhóm.
    – Tổ chức cho giáo viên tham gia đầy đủ các buổi tập huấn chuyên môn về
    chuyên đề do Phòng, cụm chuyên môn, nhà trường tổ chức.
    – Tổ chức các hoạt động thực hành, tiết dạy mẫu, tham quan mô hình
    điểm trong trường, cụm trường và trong huyện về công tác xây dựng môi trường
    lấy trẻ làm trung tâm.
    – Bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin, tự khai thác tìm hiểu
    trên mạng internet, qua sách báo, tự nghiên cứu 6 nội dung, 56 tiêu chí của
    chuyên đề và đề ra mục tiêu phấn đấu của nhóm lớp. Sau mỗi đợt học tập bồi
    dưỡng và tự bồi dưỡng tôi thường tổ chức cho giáo viên viết bài thu hoạch, đúc
    rút kinh nghiệm và áp dụng thực hành tại nhóm lớp mình phụ trách.
    (Hình ảnh CBGV tham gia học tập bồi dưỡng chuyên môn cấp cụm trường)
    9
    2.2.2. Bồi dưỡng về kỹ năng thực hành xây dựng môi trường lấy trẻ làm
    trung tâm
    * Bồi dưỡng kỹ năng xây dựng môi trường trong lớp học
    Môi trường trong lớp học là nơi gần gũi nhất với trẻ trong các hoạt động
    theo thời gian biểu một ngày của trẻ. Việc xây dựng môi trường vật chất trong
    lớp học cho trẻ hoạt động phải đáp ứng nhu cầu, hứng thú chơi của trẻ, tạo điều
    kiện cho trẻ chơi mà học, học bằng chơi.
    Xác định được vị trí vai trò của môi trường trong lớp học, tôi đã chỉ đạo
    bộ phận chuyên môn, giáo viên nhóm lớp bám sát các tiêu chí, chỉ số về xây
    dựng môi trường trong lớp học để thực hiện. Bồi dưỡng cho giáo viên kỹ năng
    tạo không gian lớp học với những màu sắc sinh động, cách sắp xếp phù hợp, gần
    gũi, quen thuộc với cuộc sống thực hàng ngày của trẻ, thể hiện các nét văn hoá
    riêng của cộng đồng và của địa phương; luôn thay đổi để tạo ra sự hấp dẫn mới
    lạ đối với trẻ. Xây dựng môi trường trong lớp học đặc biệt chú ý đến điều kiện
    đảm bảo yêu cầu an toàn, hệ thống vệ sinh, hệ thống điện, nước, thiết bị phòng
    chống cháy nổ. Chỉ đạo giáo viên phân chia không gian và vị trí các khu vực
    phải phù hợp với diện tích, vị trí cửa ra vào, cửa sổ, các góc hoạt động trong lớp
    được xác định rõ ràng, có không gian riêng để cất giữ đồ đạc cá nhân của cô và
    trẻ. Việc sắp xếp các góc chơi đòi hỏi giáo viên cần cân nhắc kỹ càng, cẩn thận
    và phải rất linh hoạt. Trong bố trí góc chơi phải kết hợp hài hòa giữa hoạt động
    góc tĩnh và góc động, giữa việc tận dụng không gian trong nội dung các hoạt
    động chơi khi thay đổi.
    Khi chỉ đạo bồi dưỡng các kỹ năng bố trí các góc chơi trong lớp, tôi đã tổ
    chức cho tổ nhóm thiết kế mẫu trên nhóm lớp theo tổ chuyên môn để cùng nhau
    trao đổi thảo luận rút kinh nghiệm và vận dụng vào thực tế vào lớp mình, theo
    khả năng của mỗi giáo viên. Việc thiết kế bố trí các góc trên nguyên tắc: góc
    chơi cho trẻ và để trẻ hoạt động được, đặc biệt lưu ý một số nguyên tắc cơ bản
    các góc hoạt động được bố trí hợp lí, thuận tiện, linh hoạt như:
    – Góc hoạt động cần yên tĩnh bố trí xa góc hoạt động ồn ào, góc thư viện,
    sử dụng sách, tranh bố trí ở những nơi nhiều ánh sáng.
    10
    – Các góc hoạt động có “ranh giới” rõ ràng, có lối đi cho trẻ di chuyển
    thuận tiện khi liên kết giữa các góc chơi.
    – Các góc dễ dàng sắp xếp lại tùy theo yêu cầu hoạt động của trẻ và thiết
    kế hoạt động của giáo viên.
    – Tên hoặc ký hiệu các góc đơn giản, gần gũi với trẻ, được viết theo đúng
    quy định mẫu chữ hiện hành mà trẻ đang được làm quen.
    – Sắp xếp các góc để giáo viên có thể dễ dàng quan sát, giám sát được
    toàn bộ hoạt động của trẻ.
    Với trẻ mầm non, hoạt động chủ đạo là hoạt động vui chơi. Môi trường
    vui chơi của trẻ trong lớp học ở trường mầm non là các mảng tường, các góc
    chơi, đồ chơi được sắp xếp, trang trí nổi bật nhằm thu hút sự chú ý của trẻ; là
    không gian lớp học gần gũi thân thiện, là bầu không khí lớp học vui tươi tràn
    ngập tiếng cười nói, chan hòa, cởi mở giữa cô và trẻ, giữa trẻ và trẻ. Vì vậy việc
    chỉ đạo giáo viên trang trí trong lớp học, chuẩn bị đồ dùng đồ chơi cho trẻ phù
    hợp với độ tuổi, đúng với mục tiêu của chuyên đề đóng vai trò không nhỏ trong
    quá trình học và chơi của trẻ. Bản thân tôi đã cùng giáo viên tìm tòi nguyên vật
    liệu, cách trang trí mảng tường có tính chất mở, phù hợp với lứa tuổi. Và ở đó là
    nơi trẻ mẫu giáo có thể thỏa thích trang trí theo ý tưởng, theo chủ đề, theo hoạt
    động học. Cách trang trí, sắp xếp đồ dùng đồ chơi hướng tới tạo cơ hội cho trẻ
    tìm tòi, khám phá, phát hiện nhiều điều mới lạ, hấp dẫn trong mỗi buổi học, trẻ
    tự lựa chọn hoạt động cá nhân hoặc theo nhóm một cách tích cực, không gò bó
    qua đó kiến thức và kỹ năng ở trẻ dần được hình thành.
    Giáo viên thường xuyên được hỗ trợ việc lập kế hoạch học tập cho trẻ,
    kích thích trẻ tham gia và làm phong phú hoạt động học, hoạt động chơi của trẻ.
    Đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu, học liệu có giá đựng ngăn nắp, gọn gàng, để
    ở nơi trẻ dễ thấy, dễ lấy, dễ dùng, dễ cất.
    Khi trang trí môi trường trong lớp học cần phù hợp với tính chất của các
    hoạt động, phù hợp với từng lứa tuổi. Trong lớp cần bố trí không gian phù hợp
    dành cho hoạt động chung của lớp và hoạt động theo sở thích, khả năng của
    nhóm nhỏ hoặc cá nhân. Chú ý đến sự phong phú của các loại đồ chơi đặc biệt là
    11
    những nguyên vật liệu mở và phương tiện cho trẻ được sáng tạo, tự làm đồ chơi
    phục vụ cho ý tưởng chơi của trẻ.
    (Hình ảnh trang trí mảng tường, góc lớp)
    Đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu được thay đổi và bổ sung phù hợp với
    mục tiêu chủ đề, của hoạt động và hứng thú của trẻ. Có nguyên vật liệu mang
    tính mở (lá cây, hột hạt…), sản phẩm hoàn thiện, sản phẩm chưa hoàn thiện…
    Có sản phẩm mua sẵn, sản phẩm cô và trẻ tự làm, sản phẩm của địa phương đặc
    trưng văn hóa vùng miền (trang phục, dụng cụ lao động…). Đồ dùng, đồ chơi,
    nguyên vật liệu phải đảm bảo an toàn, vệ sinh, phù hợp với thể chất và tâm lí
    của trẻ mầm non. Có thể thay đổi tùy theo giáo viên dự định và tùy vào hứng
    thú, khả năng của trẻ; phong phú, đa dạng và được bổ sung khi cần.
    Tôi đã chỉ đạo giáo viên chú ý đến đến độ tuổi để tạo môi trường, mỗi lớp
    có cách trang trí tạo môi trường với những nét riêng, cần đảm bảo tính mục đích:
    môi trường giáo dục phải hướng vào việc phát triển toàn diện của trẻ nhằm đạt
    được mục tiêu giáo dục mầm non nói chung và mục tiêu cuối độ tuổi nói riêng.
    Muốn đạt được điều đó thì khi thiết kế môi trường phải phù hợp với mục đích tổ
    chức các hoạt động; cần thu hút sự tham gia của trẻ vào việc xây dựng môi
    trường giáo dục càng nhiều càng tốt. Đây là những cơ hội quý báu để trẻ ứng
    12
    dụng kiến thức và kỹ năng trẻ đã được học theo cách của mình mà không bị gò
    bó, đặc biệt vào các thời điểm như chơi và hoạt động ở các góc vào buổi sáng và
    vào giờ hoạt động chiều.
    (Hình ảnh bé sử dụng nguyên liệu phế thải làm đồ chơi sáng tạo)
    (Hình ảnh hoạt động với đồ vật của các bé nhà trẻ)
    13
    (Hoạt động biểu diễn văn nghệ của các bé lớp mẫu giáo 4 tuổi)
    Trong việc trang trí xây dựng môi trường giáo viên luôn phải điều chỉnh
    kế hoạch giáo dục. Kế hoạch đảm bảo không áp đặt, không cung cấp cho trẻ
    những kiến thức kĩ năng đơn lẻ mà cung cấp kiến thức theo hướng tích hợp, rèn
    luyện hình thành và phát triển các năng lực, kĩ năng sống cho trẻ, tạo sự gắn kết,
    tác động một cách thống nhất đồng bộ đến sự phát triển của trẻ, khuyến khích trẻ
    tham gia tích cực vào các hoạt động giáo dục bằng nhiều hình thức khác nhau.
    Kế hoạch trước khi thực hiện được góp ý của tổ nhóm và ký duyệt của Ban giám
    hiệu nhà trường.
    (Hoạt động giao lưu ngôn ngữ, chơi bán hàng tại góc chơi lớp MG 5 tuổi)
    14
    Bên cạnh công tác chỉ đạo bồi dưỡng trang trí môi trường trong lớp học,
    tôi đã quan tâm và chỉ rõ cho giáo viên thiết kế môi trường giáo dục hoạt động
    trong lớp và ngoài trời phù hợp, thuận tiện cho việc sử dụng của cô và trẻ. Quan
    tâm đến điều kiện thực tế không gian từng điểm trường để cân đối diện tích và
    các khu vực chơi.
    * Bồi dưỡng kỹ năng xây dựng môi trường ngoài lớp học

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học trong trường mầm non

    SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học trong trường mầm non

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN ẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
    Nhà khoa hoc Deodatta V. Shenai-Khatkhate người không chỉ có những
    công trình nghiên cứu mà ông còn có một kho tàng danh ngôn đời sống sâu sắc
    đầy ý nghĩa . Ông từng nói: “Một lời bất cẩn có thể nhóm lên xung đột. Một lời
    tàn nhẫn có thể phá hỏng một cuộc đời. Một lời đúng lúc có thể xua đi căng
    thẳng. Nhưng một lời yêu thương có thể chữa lành và chúc phúc”.
    Đúng vậy! Ngôn ngữ thực sự rất quan trọng đối với đời sống con người.
    Nó chính là phương thức biểu đạt ý muốn cho người khác hiểu được những suy
    nghĩ, nhu cầu, mong muốn của bản thân thông qua lời nói. Con người từ khi sinh
    ra mất 3 năm để học nói và cả đời để học cách sống làm người. Ngôn ngữ khi
    được nói ra đã thể hiện tính cách và đạo đức của con người đó. Phát triển ngôn
    ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục mầm non.
    Vì ngôn ngữ sẽ giúp trẻ bày tỏ, trao đổi và giao tiếp với nhau trong học tập cũng
    như vui chơi. Đặc biệt hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học sẽ thu
    hút sự chú ý của trẻ hơn. Các tác phẩm văn học, nhân cách, ngôn ngữ của trẻ
    được hình thành, phát triển và dần hoàn thiện. Hoạt động làm quen văn học làm
    phong phú thêm vốn từ của trẻ, trẻ biết dùng từ chính xác, có biểu cảm phù hợp
    với lời nói, từ đó giúp cho ngôn ngữ của trẻ phát triển. Văn học còn giúp cho trẻ
    nhận biết được cái hay, cái đẹp, cái thiện, cái ác. Thông qua các bài thơ, câu
    chuyện trẻ đã học tập được những điều hay lẽ phải và có những hành vi đúng
    đắn trong giao tiếp với mọi người.
    Ngày nay cuộc sống con người ngày càng hiện đại hơn, trẻ tiếp xúc nhiều
    với tivi, điện thoại, máy tính…Trẻ nhanh chóng bắt chước học theo ngôn ngữ
    trên mạng cả tốt và xấu mà trẻ chưa biết phân biệt được. Trong quá trình dạy
    học, tiếp xúc nhiều với các bậc phụ huynh tôi nhận thấy nhận thức của một số
    3
    bậc phụ huynh học sinh về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ còn hạn chế chưa
    quan tâm đến việc rèn rũa, dạy con mình nói năng chuẩn mực, lễ phép. Một bộ
    phận phụ huynh quan niệm rằng: Trẻ 5-6 tuổi đến trường phải được học viết,
    học đọc, học tính toán…để chuẩn bị vào lớp 1. Vì vậy vốn từ của trẻ chưa nhiều,
    khả năng giao tiếp còn kém…Đa số trẻ còn lúng túng chưa biết dùng từ phù hợp
    để diễn đạt ý muốn của mình trong các hoàn cảnh giao tiếp.
    Ở trường mầm non phát triển ngôn ngữ cho trẻ là nhiệm vụ hết sức quan
    trọng, nó giúp trẻ dần hình thành cả 3 thành phần của ngôn ngữ: Phát âm, vốn
    từ, ngôn ngữ. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuổi mầm non chính là giúp trẻ nói
    mạch lạc, nói đủ câu có chủ ngữ vị ngữ, nói đủ từ. Người giáo viên mầm non có
    vai trò chủ đạo trong việc giúp trẻ phát âm đúng bởi ngay từ khi đi học trẻ được
    cô chăm sóc, nuôi dưỡng dạy dỗ cả ngày. Cô chính là người dạy cho trẻ tập nói
    và hiểu được nói như thế nào là đúng. Việc ghi nhớ này diễn ra một cách tự phát
    trong quá trình bắt trước lời nói của ông bà, bố mẹ, cô giáo…Kết quả là ngôn
    ngữ của trẻ được hình thành. Do đó nhiệm vụ của người giáo viên là tổ chức xây
    dựng môi trường thuận lợi cho việc phát triển ngôn ngữ để góp phần thúc đẩy
    quá trình hình thành nhân cách cho trẻ.
    Trong quá trình nhiều năm phụ trách lớp 5 tuổi, tôi nhận thấy được đặc
    điểm của bộ môn văn học rất phù hợp với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Văn
    học giúp trẻ tích lũy được vốn từ ngữ phong phú, đa dạng, giúp trẻ nói dễ dàng,
    nói chuẩn tiếng Việt, diễn đạt ngôn ngữ mạch lạc rõ ràng hơn. Chính vì vậy mà
    tôi đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu “ Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ
    cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học ở
    trường mầm non” để phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách tốt nhất tạo tiền đề
    cho trẻ bước vào lớp 1.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP:
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
    Phát triển ngôn ngữ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất
    của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui
    4
    chơi, ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển tâm lí của trẻ. Bên cạnh đó,
    ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát
    triển về đạo đức và chuẩn mực văn hóa. Như Usinxkin cũng đã từng nói: “ Ngôn
    ngữ là cơ sở của mọi sự phát triển trí tuệ và là kho tàng của mọi kiến thức. Tất
    cả mọi sự hiểu biết đều bắt đầu từ ngôn ngữ, thông qua ngôn ngữ và trở lại
    cũng bằng ngôn ngữ.”
    Thông qua hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học giúp trẻ 5-
    6 tuổi phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất. Bởi vì qua câu truyện có hình ảnh,
    nội dung đối thoại giữa các nhân vật trong truyện gây ấn tượng, thu hút trẻ và
    phù hợp với chủ đề giảng dạy. Trong thơ ca, ca dao tục ngữ, vè có giai điệu ấm
    áp, vui tươi, dí dỏm, có hình tượng các nhân vật, phản ánh chân thực đời sống
    xung quanh trẻ. Hàng ngày, trẻ được cô giáo kể chuyện, đọc thơ…trong các hoạt
    động trong ngày của trẻ ở trường mầm non. Chính vì vậy thông qua các tác
    phẩm văn học phong phú trẻ học tập được những đức tính tốt đẹp của con người
    như: Yêu quê hương đất nước, yêu quí những người thân trong gia đình, sự
    trung thực, lòng dũng cảm, lòng biết ơn… và mở rộng thêm kiến thức về môi
    trường xung quanh. Đồng thời cung cấp thêm vốn từ vựng, rèn luyện trẻ phát âm
    đúng và diễn đạt câu từ rõ ràng mạch lạc hơn. Vai trò của người giáo viên mầm
    non đối với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các tác phẩm văn học là
    rất quan trọng. Tôi nhận thấy cần phải tìm tòi, học tập thêm, phát huy hơn nữa
    để nâng cao hoạt động giảng dạy, giúp trẻ phát triển toàn diện cả về ngôn ngữ và
    thể lực.
    Đối với trẻ mầm non, khả năng hoàn chỉnh về ngôn ngữ được tăng dần
    theo từng độ tuổi. Thông qua việc dạy trẻ đóng kịch sẽ giúp trẻ phát triển khả
    năng tư duy, óc tưởng tượng sáng tạo, biết yêu quí cái đẹp, hướng tới cái đẹp.
    Khi trẻ kể chuyện, ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng, mạch lạc,
    vốn từ phong phú. Trẻ biết bày tỏ ý kiến, suy nghĩ, kể về một sự việc hay sự
    kiện nào đó bằng chính ngôn ngữ của trẻ. Qua đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ
    mạch lạc hơn, nói rõ ràng và đầy đủ câu hơn, tạo tiền đề cho trẻ bước vào tiểu
    học được thuận lợi hơn.
    5
    Đồ dùng đồ chơi tự tạo đã được quan tâm nhưng chủ yếu là ở hoạt động
    góc. Các đồ dùng cho trẻ đóng kịch, diễn rối, kể chuyện, đọc thơ… còn nghèo
    nàn và chưa đẹp mắt, chưa tăng được sự hứng thú trong hoạt động của trẻ dẫn
    đến giờ học chưa đạt kết quả cao.
    Trường mầm non 8-3 là đơn vị được công nhận là trường mầm non đạt
    chuẩn quốc gia, luôn luôn đề cao việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ giữ vai trò
    hàng đầu trong việc giúp trẻ phát triển toàn diện . Do đó là một giáo viên trẻ dạy
    trẻ 5-6 tuổi, tôi luôn xác định rõ việc thực hiện các hoạt động cho trẻ, đặc biệt là
    hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ, luôn đề cao việc đưa các hoạt động lấy
    trẻ làm trung tâm. Tôi đã nhận thức được rõ tầm quan trọng của việc phát triển
    ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động dạy trẻ làm quen với các tác phẩm văn
    học. Với điều kiện cơ sở vật chất tương đối đầy đủ cùng sự quan tâm sát sao của
    ban giám hiệu nhà trường, sự giúp đỡ của tổ chuyên môn, của đồng nghiệp tôi
    đã luôn cố gắng để tìm ra những biện pháp hiệu quả nhất trong việc phát triển
    ngôn ngữ cho trẻ thong qua hoạt động làm quen với các tác phẩm văn học.
    Trước khi thực hiện đề tài này tôi đã điều tra, khảo sát khả năng phát âm,
    khả năng diễn đạt ngôn ngữ, khả năng sử dụng ngôn ngữ của trẻ trong cuộc sống
    trên 47 trẻ với 5 nội dung có kết quả như sau:
    Bảng theo dõi, đánh giá 47 trẻ đầu năm

    TTNội dungTổng
    số
    trẻ
    Kết quả được khảo sát
    ĐạtChưa
    đạt
    TốtKháTrung
    bình
    Số
    trẻ
    Tỉ
    lệ
    %
    Số
    trẻ
    Tỉ
    lệ
    %
    Số
    trẻ
    Tỉ
    lệ
    %
    Số
    trẻ
    Tỉ
    lệ
    %
    1Trẻ phát âm đúng,
    to, rõ ràng.
    47510,61838,32246,824,3
    Trẻ sử dụng từ ngữ

    6

    2phong phú, linh
    hoạt trong giao
    tiếp
    47617.11528.62245.748.6
    3Trẻ tự tin giao tiếp
    với mọi người
    xung quanh.
    47138.617201560211.4
    4Trẻ biết đọc thơ
    diễn cảm
    471514.317201354.3211.4
    5Trẻ biết thể hiện
    ngôn ngữ, giọng
    điệu trong kể
    chuyện sáng tạo và
    kể chuyện theo trí
    nhớ.
    47125.81411.41851.4331.4

    Dựa vào bảng khảo sát trên tôi nhận thấy:
    Kết quả cho thấy số trẻ khá giỏi về ngôn ngữ còn thấp. Vốn từ vựng của
    trẻ còn hạn chế. Vì thế dẫn đến việc khi giao tiếp trẻ còn ít nói, không biết diễn
    đạt ý của mình như thế nào. Đặc biệt là trẻ nói còn chưa rõ ràng, mạch lạc dẫn
    đến việc người nghe khó hiểu và phải suy luận thì mới hiểu ra ý định của trẻ.
    Sau khi đánh giá thực trạng trẻ lớp mình, thông qua các tư liệu tham khảo
    cùng những kinh nghiệm của bản thân, tôi đã nghiên cứu và đưa ra một số biện
    pháp sau:
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
    Biện pháp 1: Tìm hiểu đặc điểm tâm lý của trẻ
    Để giúp trẻ phát triển ngữ tốt, đầu tiên tôi phải tìm hiểu thật kĩ tâm sinh lý
    của trẻ ở lứa tuổi này để lên kế hoạch có các biện pháp phù hợp. Qua quá trình
    tìm hiểu tôi thấy: Trẻ ở độ tuổi này rất thích nghe các câu chuyện cổ tích, thần
    thoại, thích các bài thơ, ca dao, vè gần gũi vui tươi, thích được thể hiện theo
    7
    tính cách cũng như ngôn từ của những nhân vật trong các câu chuyện mà trẻ
    được nghe, được xem, thích biểu diễn những bài thơ, ca dao, vè hay, diễn cảm
    giống cô giáo… Vì vậy, tôi luôn lựa chọn những câu chuyện, bài thơ, ca dao, vè
    phù hợp với tâm lý của trẻ để đưa vào hoạt động nhằm thu hút sự chú ý của trẻ.
    Ví dụ: Với chủ đề “ Gia đình”tôi đã lựa chọn các tác phẩm văn học như:
    Truyện “ Quả bầu tiên”, “ Bông hoa cúc trắng”, “Quà tặng mẹ”, “Kiến trinh
    sát kể chuyện”, bài thơ “ Em yêu nhà em”, “ Giữa vòng gió thơm”, “ Mẹ ốm”,
    “ Giúp mẹ”, “Bữa ăn của bé”, đồng dao “ Chú cuội”, “ Chữ hiếu”, “ Gia
    đình”.
    Các tác phẩm văn học nêu trên đều được tôi lên kế hoạch cho trẻ làm quen
    một số tác phẩm vào hoạt động làm quen với văn học và lồng ghép các tác
    phẩm còn lại vào các hoạt động khác trong ngày như: Đón trẻ, hoạt động ngoài
    trời, hoạt động góc, trả trẻ…Các truyện: “ Quả bầu tiên”, “ Bông hoa cúc
    trắng” có các tình tiết: Vợ chồng người anh giàu có tham lam, vợ chồng người
    em siêng năng, quả bầu tiên, bà tiên hiện ra chỉ đường cho bạn nhỏ tìm bông
    hoa cúc trắng cứu mẹ…rất li kỳ, kịch tính, hấp dẫn, thu hút trẻ. Bên cạnh đó
    còn có các câu truyện, bài thơ, ca dao khác: “ Quà tặng mẹ”,
    “ Kiến trinh sát kể chuyện”, “ Giúp mẹ”, “ Bữa ăn của bé”, “ Gia đình”có
    nội dung bố và bạn nhỏ chuẩn bị quà sinh nhật tặng mẹ, em biếng ăn nên cả
    nhà cùng dỗ dành đóng kịch để em bé ăn ngoan hơn, gia đình có ông, bà, bố,
    mẹ… giai điệu , lời ca nhịp nhàng, thân quen, gần gũi với cuộc sống gia đình
    thực tại của trẻ. Trẻ lớp tôi rất thích thú, nhanh chóng thuộc được tên tác giả,
    nội dung, lời thoại của các nhân vật trong các tác phẩm, lời ca của bài thơ, ca
    dao. Thông qua các tác phẩm trên, trẻ học được tình thương yêu gia đình, kính
    yêu với ông bà cha mẹ, các bác, anh chị em…Trẻ biết nhường nhịn, đùm bọc
    anh em, biết thể hiện tình yêu của mình: Tặng quà cho mẹ nhân ngày sinh nhật,
    lấy tăm cho ông bà, nói những từ ngữ thể hiện sự kính trọng biết ơn. Từ đó vốn
    từ của trẻ được tăng lên. Trẻ biết dùng nhiều câu từ trong việc giao tiếp với
    những người xung quanh, thể hiện được ý nói và tình thương yêu với mọi
    người.
    8
    Bé làm quen với các câu chuyện chủ đề “ Gia Đình”
    Là người gần gũi với trẻ trong các hoạt động vui chơi cũng như học ở
    trên lớp, ngay từ đầu năm học tôi luôn theo dõi quan sát từng trẻ để nắm bắt đặc
    điểm tâm sinh lý và khả năng ngôn ngữ của từng cháu: như cháu nào hoạt bát,
    nhanh nhẹn, cháu nào còn nhút nhát, rụt rè; cháu nào nõi rõ, nói chuẩn, cháu
    nào còn hạn chế về ngôn ngữ… Bởi vì vấn đề tâm lý có ảnh hưởng lớn đến sự
    phát triển ngôn ngữ của trẻ. Từ đó sẽ có những biện pháp tích cực nhất và hiệu
    quả nhất để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
    Ví dụ: Đầu năm học theo điều tra tôi nhận thấy trẻ lớp mình đa số các
    con đều nhanh nhẹn, phát âm tương đối chuẩn còn hạn chế về giao tiếp với mọi
    người xung quanh. Lớp tôi có một số bạn rất nổi trội, nói rõ ràng, lưu loát,
    dùng được nhiều loại câu thể hiện được tình cảm, tâm tư nguyện vọng của mình
    khi giao tiếp với mọi người. Bên cạnh đó còn một số bạn còn rụt rè, ít nói, ít
    giao lưu giao tiếp với các bạn trong lớp. Nhiều lúc các con không biết nói lên ý
    muốn của mình đến lúc cô hỏi han thì lại khóc.Vì vậy với chủ đề đầu tiên “
    Trường mầm non” tôi đã lựa chọn các tác phẩm hay, có nội dung thật gần gũi
    với trường lớp mình, có độ dài vừa phải như: Bài thơ “ Cô dạy”, “ Cô giáo của
    em”, “Em vẽ”, “ Bé tập đếm”, “Làm quen chữ số”, truyện “ Anh chàng mèo
    9
    mướp”, “ Món quà của cô giáo”, “ Thỏ trắng đi học”, ca dao “ Nghé ọ, nghé
    ơ!”. Khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, tôi chú ý bao quát cả lớp, đến
    phần đàm thoại và cho trẻ lên đọc thơ hay kể chuyện cùng cô giáo, tôi động
    viên những trẻ nhút nhát lên trả lời các câu hỏi dễ sau đó tôi và cả lớp cùng
    khen trẻ để trẻ thấy vui vẻ, hứng thú hơn, tiếp thu bài nhanh hơn. Còn các câu
    hỏi khó mang tính sáng tạo tôi dành cho những trẻ thông minh, nhanh nhẹn hơn.
    Khi đọc thơ, kể chuyện tôi lồng ghép trẻ nhút nhát và trẻ mạnh dạn cùng lên thể
    hiện, tôi luôn động viên, giúp đỡ và sửa sai cho trẻ kịp thời. Sau quá trình thực
    hiện như vậy, tôi thấy trẻ luôn được học vừa sức, phù hợp với đặc điểm tâm lý
    của mình. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ trong lớp đồng đều hơn, không còn
    bạn nhút nhát, trẻ vui chơi, học tập vui vẻ, hồn nhiên giao tiếp ngày càng linh
    hoạt hơn.
    Trẻ hứng thú đọc thơ “ Quà tặng mẹ”
    10
    Cô và cả lớp khen ngợi bạn
    Trẻ ở độ tuổi 5-6 tuổi vốn từ của trẻ chưa nhiều. Câu trẻ dùng đã chính
    xác và dài hơn trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi, 4-5 tuổi. Tuy nhiên tôi nhận thấy, ở độ tuổi
    này mặc dù trẻ đã phát âm tốt hơn, rõ hơn, ít ê a, ậm ừ, nhưng trẻ phát âm chưa
    chuẩn như là các từ láy: chiêm chiếp, liêm-liếp…; trẻ vẫn nói tiếng địa phương
    và phát âm sai những âm khó, những từ có 2-3 âm tiết như: hiếu-híu, hươu- hiu,
    sách – xách; một số trẻ vẫn nói ngọng âm “ l” thành “ n” ví dụ như “ lá non”
    thành “ ná non”…Trẻ sử dụng chủ yếu là các loại danh từ và động từ, thể loại từ
    khác trẻ có sử dụng nhưng không chiếm ưu thế. Tôi thấy rằng: Khi trẻ đọc thơ,
    hay kể chuyện, trả lời câu hỏi của cô là lúc trẻ sẽ hay thể hiện các lỗi sai về ngôn
    ngữ như nói ngọng, nói sai từ khó. Lúc này tôi sẽ giải thích cho con hiểu về ý
    nghĩa của từ khó và sửa sai cho trẻ. Trong quá trình thực hiện tôi thấy biện pháp
    này rất hiệu quả. Trẻ rất nhanh hiểu và sau vài lần đã sửa sai được . Từ đó mà
    vốn từ của trẻ được tăng lên, trẻ giao tiếp rõ ràng, mạnh dạn, nói chuẩn câu từ
    hơn.
    Ví dụ: Khi cho cả lớp làm quen với câu chuyện “ Vịt con đi học” Chủ đề
    trường mầm non. Các con rất thích thú lắng nghe và kể chuyện cùng cô. Bỗng
    bạn Quốc Bảo giơ tay phát biểu: Con thưa cô! “ Các bạn phải đoàn kết, ngoan
    ngoãn” Là như thế nào ạ? Lúc đó tôi nhẹ nhàng giải thích cho các con hiểu:
    11
    Các con ạ! “ Đoàn kết” là các con cùng học tập, vui chơi, cùng làm việc giúp cô
    giáo như lau dọn đồ chơi trong lớp này, kê bàn ăn, phơi khăn…Trong quá trình
    làm các con không tranh dành, không cãi nhau, không đánh nhau giúp đỡ nhau
    cùng hoàn thành tốt công việc mà cô đã phân công. Các con luôn vui vẻ với các
    bạn trong lớp. Các con đã hiểu chưa nào!
    Ví dụ: Khi cho cả lớp làm quen với bài thơ “ Cánh đồng lúa vàng”. Tôi
    thấy có một số bạn : Quốc Bảo, Ngọc Nhi, Hiền Mai, Bảo Ngọc còn nói ngọng
    từ “ lúa chín” thành “ núa chín”, từ “ làn hương” thành “ nàn hương”, từ “
    lững thững” thành “ nững thững”. Tôi đã mời các con lên đọc lại bài thơ cho cả
    lớp nghe và sửa luôn lỗi ngọng cho trẻ. Tôi hướng dẫn trẻ: “ Con hãy cong lưỡi
    và nói bật ra lúa chín, làn hương, lững thững”. Tôi cho trẻ nói hai ba lần từ
    ngọng và cho trẻ đọc lại bài thơ một lần nữa.
    Với biện pháp này chỉ sau ba tháng tôi thấy ngôn ngữ của trẻ phát triển rõ
    rệt. Trẻ nói được nhiều câu nhiều từ và rất ít khi trẻ nói ngọng nữa.
    Trong qua trình chăm sóc nuôi dưỡng, và giáo dục trẻ tôi đã nắm rõ tâm sinh
    lý của trẻ hơn, qua đó tôi đã có những biện pháp tích cực nhất và hiệu quả nhất
    để phát triển ngôn ngữ cho trẻ như: phân luồng học sinh, rút ngắn khoảng cách
    tâm lý giữa các trẻ trong lớp, hay tạo các tình huống để trẻ được nói nhiều hơn.
    Ví dụ: Trong giờ hoạt động góc, tôi luôn tạo không khí vui tươi, hào
    hứng kích thích các bạn trong lớp giao tiếp với nhau.Tôi khuyến khích, tạo tình
    huống để các con giao tiếp với nhau như người mua hàng phải hỏi, người bán
    hàng phải chào khách giới thiệu hàng bán, khi chơi tổ chức sinh nhật thì gửi lời
    chúc sinh nhật tới bạn, hay hát tặng bạn và khi được bạn chúc mừng hay tặng
    quà thì dạy các con nói lời cảm ơn với bạn.
    12
    Bé 5E chơi góc phân vai
    Bé 5E chơi góc phân vai
    Biện pháp 2: Xây dựng kế hoạch phát triển ngôn ngữ.
    Sau khi tìm hiểu kĩ và nắm rõ về đặc điểm tâm lý trẻ. Tôi đã tiến hành xây
    dựng kế hoạch phát triển ngôn ngữ vào các hoạt động theo từng chủ đề như sau:
    Chủ đề “ Trường mầm non” và “ Bản thân” Tôi rèn luyện tai nghe cho trẻ
    nhằm phát triển thính giác âm vị ( Cho trẻ nghe những bài hát , câu chuyện, ca
    13
    dao..) tôi tạo điều kiện cho trẻ tập trung chú ý luyện khả năng thính giác thông
    qua các bài tập trò chơi: (Tai ai tinh, ai đoán giỏi) sửa sai cho trẻ về lỗi phát âm.
    Ví dụ: Ở chủ đề “ Bản thân”, trước đây tôi cho trẻ làm quen với các tác
    phẩm: Truyện “ Mỗi người một việc”, thơ “ Vì con”, “ Mười em bé ngoan”,
    đồng dao “ Nu na nu nống”. Các tác phẩm này đã có từ lâu nên trẻ cũng đã
    phần nào được làm quen ở các lớp trước hoặc qua sách truyện, tivi. Năm nay tôi
    mạnh dạn lược bỏ bớt những tác phẩm cũ, bổ xung thêm các tác phẩm mới lạ,
    phù hợp hơn như: Truyện “ Giấc mơ kỳ lạ”, “ Ngôi nhà ngọt ngào”, thơ “ Tập
    thể dục”, “ Bàn tay của bé”. Trong các hoạt động đón, trả trẻ, hoạt động góc, tôi
    cho trẻ làm quen, lắng nghe những bài hát câu truyện đó trước qua tivi hoặc cô
    kể, hát cho trẻ nghe.sau đó trong quá trình giảng dạy tôi lồng ghép cho trẻ chơi
    các trò chơi “ tai ai tinh”, “ ai đoán giỏi”.
    * Trò chơi “ tai ai tinh”
    Cách chơi: Cô mời cá nhân, nhóm, tổ lên biểu diễn đọc thơ, ca dao, đồng dao,
    kể chuyện cho cả lớp nghe.
    Luật chơi: Những bạn ở dưới chú ý lắng nghe nhận xét và phát hiện được lỗi
    sai của bạn sẽ được thưởng quà.
    Thông qua các hoạt động trên tôi thấy trẻ tập trung chú ý hơn, biết phân biệt
    được phát âm sai- đúng. Từ đó trẻ phát âm chuẩn hơn, giao tiếp rõ ràng, mạch
    lạc hơn.
    14
    Trẻ chơi trò chơi “ Tai ai tinh”
    Các chủ đề “ Gia đình”, “ Ngành nghề” tôi tập trung vào tăng vốn từ nói
    diễn cảm, rõ ràng ,giải thích nghĩa của từ khó , cho trẻ các bài tập luyện cơ quan
    phát âm thích hợp: Bà bế bé đi bộ, bé búp bê, bé hồng, bé bé, búp bê ngoan nào.
    Phát triển vốn từ cho trẻ thông qua trò chơi: đố con gì kêu, đố ai kể được nhiều
    nhất, đố ai nhanh, đố ai đoán giỏi, đố ai nói ngược.
    Ví dụ: Ở chủ đề “ Ngành nghề”tôi cho trẻ làm quen với các tác phẩm:
    Truyện “ Hai anh em”, “ Ngôi nhà tránh rét”, thơ “ Bố em làm thợ mộc”, “ Đi
    cày”, “ Làm nghề như bố”, “ Ước mơ của bé”.
    Khi tôi cho trẻ làm quen với bài thơ “ Bố em làm thợ mộc”giúp cho trẻ hiểu
    được bác thợ mộc làm rất nhiều việc như cưa gỗ, bào gỗ, đục gỗ để đóng thành
    bàn, ghế, giường, tủ, bàn cho mọi người sử dụng. Các con phải biết biết ơn, trân
    trọng và phải giữ gìn đồ đạc trong nhà nhé.Trẻ biết thêm và hiểu được ý nghĩa
    các từ nói về nghề thợ mộc như “ Lưỡi bào”, “ Đục đẽo”, “ Lách cách lách
    cách”, “ Xoèn xoẹt”, “ Miệt mài”, “ Say sưa”, “ Lưỡi cưa”, “ Đều đặn”… Tôi
    giảng giải thêm cho trẻ hiểu từ “ Lách cách lách cách” là từ láy mô phỏng tiếng
    dùi đục rất nhanh , gọn của bác thợ mộc khi đục gỗ. “ Say sưa”, “ Miệt mài” là
    từ chỉ sự ham mê làm việc của bác thợ mộc, làm mà không mệt mỏi. Khi cho
    nhóm trẻ đọc thơ, tôi lồng ghép cho trẻ vừa đọc và chơi trò chơi “ Vuốt ve” cùng
    15
    với tiếng nhạc, trẻ rất thích thú, nhanh chóng thuộc thơ và biết mô phỏng lại
    công việc của bác thợ mộc. Từ đó vốn từ của trẻ được tăng lên rõ rệt.
    Chủ đề “ Động vật” và “ Thực vật” tôi đào sâu vấn đề luyện trí nhớ thông
    qua các bài thơ, đồng dao,đặc biệt về những câu chuyện kể nôi cuốn và hấp dẫn
    gợi cho trẻ sử dụng câu đơn giản, đủ nghĩa.
    Ví dụ: Ở chủ đề “ Thế giới thực vật” tôi cho trẻ làm quen những tác
    phẩm hay, dễ thuộc, có nhiều hình ảnh, biểu cảm như: “ Quả”, “ Hoa đào hoa
    mai”,
    “ Mùa xuân”, “ Tết đang vào nhà”, “ Đồng dao về củ”, đồng dao “ Mười hai
    tháng gió”, “ Nhà tôi có một cây rau”, “ Đi cầu đi quán”, “ Trồng đậu trồng
    cà” truyện “ Sự tích cây nêu ngày tết”, “ Sự tích bánh chưng bánh giày” , “
    Truyền thuyết về trái đào”, “ Cây lúa mạch”. Tôi tổ chức nhiều cuộc thi như
    “ Bé yêu thơ”, “ Bé kể chuyện hay”, trẻ được biểu diễn kể chuyện, đọc thơ, ca
    dao diễn cảm nhiều hơn và tôi luôn tặng một món quà nhỏ để động viên khuyến
    khích trẻ. Qua các cuộc thi như vậy khả năng ghi nhớ của trẻ được rèn luyện và
    tăng lên. Tất cả trẻ trong lớp đều thuộc được các bài thơ, đồng dao nêu trên.
    Trẻ còn biết sử dụng các câu đơn giản kể lại câu chuyện đã học. Truyện “ Sự
    tích cây nêu ngày tết” trong chuyện “ Ngày ấy, không biết từ bao giờ và cũng
    không biết bằng cách gì quỷ chiếm đoạt tất cả đất nước. Người chỉ ở đậu và làm
    rẽ ruộng đất cho quỷ. Quỷ đối với người ngày càng quá tay…”. Khi kể lại trẻ lại
    dùng các câu đơn giản để diễn đạt lại câu chuyện : “ Ngày trước, lũ quỷ chiếm
    đoạt tất cả đất nước. Con người chỉ ở nhờ và làm thuê cho quỷ. Lũ quỷ đối xử
    với người ngày càng quá tay hơn…”. Tôi nhận thấy trẻ bắt đầu biết tóm tắt, sử
    dụng các câu đơn giản để kể lại câu chuyện theo cách hiểu của mình. Qua đó
    góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
    Các chủ đề còn lại của năm học tôi xây dựng những trò chơi giúp cho trẻ
    nói đúng ngữ pháp, nói mạch lạc. Tôi lưu ý thay đổi mẫu câu khác nhau từ câu
    đơn giản đến câu phức tạp, đặt câu từ kết nối truyện để trẻ có khả năng nói đúng
    ngữ pháp, phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo của trẻ. Một khi đã có một số vốn
    từ phong phú trẻ sẽ tự tin kể chuyện, đóng kịch một cách hứng thú hơn.
    16
    Ví dụ: Trò chơi “ Bé kể chuyện theo tranh vẽ”
    Khi cho trẻ làm quen với tác phẩm “ Vì sao thỏ cụt đuôi” tôi chuẩn bị một
    cuốn truyện tranh thể hiện nội dung của câu chuyện.
    Cách chơi: Tôi tổ chức cho nhóm trẻ( 3-4 trẻ) chơi. Một bạn sẽ kể lại câu
    chuyện theo ngôn ngữ của mình. Các bạn khác cùng lắng nghe và hỏi thêm bạn
    về câu chuyện vừa kể. Trong quá trình chơi tôi luôn chú ý, bao quát giúp đỡ trẻ.
    Trẻ tập nói những câu đơn giản: “ Thỏ và Nhím là một đôi bạn thân”, “ Một
    hôm, Thỏ rủ Nhím ra ven rừng chơi”đến các câu phức nhiều vế hơn: “ Cạnh
    rừng có một con đường đất đỏ chạy qua, có nhiều hoa thơm bướm lượn rất
    thích…Vừa lúc ấy có một chiếc ô tô chạy đến, ô tô vội phanh đánh két, chú Thỏ
    bé nhỏ chui tọt vào gầm xe.Tôi cho trẻ lần lượt thay nhau kể chuyện để rèn
    luyện cho trẻ nói lưu loát, đúng ngữ pháp hơn.
    *Trò chơi “ Bé điền từ”
    Khi cho trẻ làm quen với tác phẩm “Cô dạy con”
    Cách chơi: Cô có thể tổ chức cả lớp chơi hoặc nhóm trẻ chơi. Cô đọc trước
    đoạn đầu và dừng lại cho trẻ đọc những từ cuối chẳng hạn, cô đọc:
    Mẹ! Mẹ ơi! …( Trẻ đáp “ Cô dạy”).
    Bài…( Trẻ đáp “ Bài phương tiện giao thông”). Cứ như vậy đến hết.
    *Trò chơi “ Đối đáp”
    Cách chơi: Cô chọn các bài thơ, bài ca dao có đối đáp hay. Cô có thể tổ chức
    cho cả lớp đối đáp lại với cô hoặc cho trẻ đối đáp với trẻ như:
    Cô: Cốc cốc cốc
    Trẻ: Ai gọi đó?
    Cô: Tôi là thỏ
    Trẻ: Nếu là thỏ cho xem tai… Cứ như vậy đến hết bài.

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa