ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Tiếng Anh ngày càng trở nên quan trọng trong đời sống , xã hội hiện đại, có tầm ảnh hƣởng rất lớn đối với sự phát triển kinh tế của đất nƣớc trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Ngƣời sử dụng thành thạo Tiếng Anh đƣợc xem nhƣ nắm giữ chìa khóa thành công. Chính vì vậy mà việc dạy và học Tiếng Anh đƣợc chú trọng ở mọi cấp học. Ở bậc tiểu học, học sinh đƣợc hình thành và phát triển 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Anh, trong đó tập trung phát triển hai kỹ năng nghe và nói. Thực hiện tinh thần Nghị Quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung Ƣơng Đảng về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có định hƣớng chiến lƣợc cho việc tổ chức dạy học môn Tiếng Anh trong trƣờng tiểu học nhằm cung cấp kiến thức, hình thành và phát triển các kỹ năng cơ bản tạo tiền đề cho việc sử dụng thành thạo Tiếng Anh của học sinh. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Anh ở cấp tiểu học, ý thức đƣợc vai trò quan trọng của mình là ngƣời tạo nền tảng cho việc sử dụng một ngoại ngữ của học sinh, tôi luôn trăn trở, tìm tòi những phƣơng pháp hay giúp học sinh có thể học Tiếng Anh một cách hiệu quả nhất. Trong những năm gần đây, với định hƣớng mục tiêu dạy học lấy ngƣời học làm trung tâm, phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực ngƣời học, các phƣơng pháp mới , khoa học, tiến bộ đƣợc áp dụng vào giảng dạy . Các hoạt động ứng dụng, trải nghiệm sáng tạo đƣợc tổ chức ở các nhà trƣờng với tất cả các môn học, thực sự tạo ra một bƣớc đột phá lớn trong đổi mới phƣơng pháp dạy học.Với môn Tiếng Anh, các hoạt động ứng dụng, trải nghiệm sáng tạo đã giúp học sinh phát hiện, hình thành, củng cố kiến thức và kỹ năng giao tiếp một cách hiệu quả, giúp học sinh có môi trƣờng giao tiếp Tiếng Anh tích cực, mở rộng, thay đổi không gian giao tiếp khiến học sinh hứng thú với môn học, tích 2 cực tham gia các hoạt động, từ đó phát triển năng lực giao tiếp xã hội. Nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của các hoạt động ứng dụng, trải nghiệm sáng tạo, tôi thƣờng xuyên nghiên cứu, tìm tòi và tổ chức các hoạt động này nhằm khích lệ, tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em mạnh dạn, chủ động trong các hoạt động học tập, để từ đó các em có thể sử dụng Tiếng Anh trong giao tiếp hàng ngày. Tuy nhiên, tổ chức thành công các hoạt động ứng dụng, trải nghiệm sáng tạo và mang lại hiệu quả cao không hề đơn giản, nó đòi hỏi ngƣời dạy phải rất tâm huyết, kiên trì, phát huy tất cả những năng lực và sự sáng tạo của bản thân đồng thời cần có sự đồng hành, giúp đỡ của nhà trƣờng, đồng nghiệp, phụ huynh, học sinh và cả cộng đồng. Qua 3 năm kiên trì áp dụng các hoạt động ứng dụng, trải nghiệm sáng tạo vào giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh đã có tiến bộ rõ rệt về kiến thức và kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh. Điều này khiến tôi thêm tin tƣởng vào hƣớng đi đúng đắn của mình và tổng hợp, phát triển các giải pháp của mình thành báo cáo sáng kiến với mong muốn chia sẻ, nhân rộng các giải pháp của mình, góp phần nâng cao chất lƣợng dạy học môn Tiếng Anh. Trong báo cáo này tôi xin trình bày chi tiết “Một số biện pháp giúp học sinh tiểu học thực hành và nâng cao năng lực giao tiếp Tiếng Anh thông qua các hoạt động ứng dụng”. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến. Phân tích, đánh giá lại các hoạt động dạy học trên lớp mà tôi đã từng áp dụng trƣớc đây, tôi nhận thấy đƣợc những ƣu điểm và những hạn chế sau: 1.1. Ưu điểm – Đảm bảo dạy đúng, đủ nội dung kiến thức trong giáo trình SGK. – Các phƣơng pháp mới đƣợc áp dụng, học sinh tiếp thu kiến thức tốt. – Học sinh đƣợc thực hành, rèn luyện các kỹ năng ngôn ngữ cơ bản. – Các hoạt động củng cố kiến thức và giao nhiệm vụ học tập về nhà đƣợc giáo viên thực hiện thƣờng xuyên sau mỗi tiết học. – Học sinh chăm chỉ học từ vựng và mẫu câu, tích cực làm các bài tập thực hành giáo viên giao sau mỗi bài học. 3 1.2. Hạn chế – Giáo viên chƣa chú trọng tới việc tổ chức đa dạng các hoạt động ứng dụng, các hoạt động chỉ dừng lại ở việc giao bài tập củng cố kiến thức cho học sinh làm việc cá nhân. – Hoạt động củng cố và thực hành vẫn còn theo lối tƣ duy truyền thống, Các hoạt động còn đơn điệu, chƣa phát huy đƣợc hiệu quả cao: Chƣa phát huy đƣợc tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh . + Các bài tập đƣợc giao cho học sinh về nhà làm giống nhau về nội dung và số lƣợng, chủ yếu là trong sách bài tập Tiếng Anh đi kèm bộ sách giáo khoa. + Các hoạt động ứng dụng tổ chức cho học sinh hầu hết là giao cho học sinh tự học thuộc từ vựng và mẫu câu theo cá nhân tại nhà, học sinh nhanh quên kiến thức. – Chƣa tạo đƣợc môi trƣờng giao tiếp Tiếng Anh tích cực. Kiến thức ngôn ngữ của học sinh chƣa đƣợc khắc sâu và các kỹ năng ngôn ngữ chƣa đƣợc ứng dụng nhiều trong giao tiếp xã hội. – Chƣa tạo cho học sinh cơ hội để học tập cùng đội, nhóm, học cùng cha mẹ, chƣa phát huy đƣợc tình đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa các học sinh cũng nhƣ chƣa tạo đƣợc cộng đồng học tập. Dựa vào những phân tích trên, và đứng trƣớc thực trạng học sinh các khối lớp 3, 4,5 tại trƣờng Tiểu học Yên Tân có năng lực sử dụng Tiếng Anh còn thấp, học sinh vận dụng kiến thức đã học vào giao tiếp trong đời sống chƣa đạt hiệu quả cao, tôi đã áp dụng các giải pháp giúp học sinh thực hành và nâng cao năng lực Tiếng Anh. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến Bên cạnh việc phát huy những ƣu điểm của các hoạt động dạy học trƣớc đây, tôi đã tiến hành khắc phục những hạn chế bằng một số biện pháp sau: – Tìm hiểu, lựa chọn, xây dựng kế hoạch thực hiện các hoạt động ứng dụng phù hợp với học sinh tại đơn vị. 4 – Tổng hợp, phân loại các hoạt động ứng dụng sẽ áp dụng với học sinh tại các khối lớp theo nội dung kiến thức và theo năng lực học sinh. – Áp dụng linh hoạt các hình thức tổ chức hoạt động ứng dụng. – Tạo dựng xã hội học tập thông qua các hoạt động ứng dụng. 2.1. Tìm hiểu, lựa chọn, xây dựng kế hoạch thực hiện các hoạt động ứng dụng phù hợp với học sinh tại đơn vị Hoạt động ứng dụng là hoạt động giáo dục trong đó dƣới sự hƣớng dẫn và tổ chức của giáo viên, từng cá nhân học sinh đƣợc trực tiếp sử dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, phẩm chất, nhân cách, các năng lực và tích lũy kinh nghiệm riêng cũng nhƣ phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân. Hoạt động ứng dụng trong môn tiếng Anh là sự vận dụng kiến thức ngôn ngữ đã học và áp dụng trong thực tế giao tiếp đời sống, giúp học sinh hình thành tƣ duy ngôn ngữ, củng cố kiến thức, kỹ năng một cách hiệu quả. Có rất nhiều hoạt động ứng dụng mà giáo viên có thể áp dụng. Tuy nhiên cần phải có sự tìm tòi, lựa chọn sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của đơn vị và phù hợp với đối tƣợng học sinh mình giảng dạy. Tôi hiểu rõ rằng để thực hiện tốt các hoạt động ứng dụng thì học sinh phải nắm chắc kiến thức . Vì thế tôi đã áp dụng các phƣơng pháp dạy học tích cực để trang bị tốt kiến thức và hình thành những kỹ năng ngôn ngữ cơ bản cho học sinh. Kế tiếp mới là các hoạt động ứng dụng. Đối với học sinh tiểu học, tôi vẫn phát huy ƣu điểm của các hoạt động mà trƣớc đây vẫn áp dụng nhƣ : Học sinh làm việc theo cặp, nhóm thực hành hỏi đáp các mẫu câu đã học, học sinh làm các bài tập ôn luyện, các trò chơi , bài hát, các hoạt động role-play, tell story,…Nhƣng tôi đã sáng tạo thêm một số hoạt động hấp dẫn khác tạo hứng thú hơn cho học sinh tham gia và thu đƣợc kết quả cao. Các hoạt động mới đƣợc tổ chức là: Khảo sát, điều tra ( survey), thuyết trình, phỏng vấn, làm video, dự án ( project), nhật ký,…Các hoạt động đƣợc lên kế hoạch chi tiết cho các tiết học, có hƣớng dẫn cụ thể, dễ hiểu để học sinh thực hiện đạt hiệu quả. 5 2.2. Tổng hợp, phân loại các hoạt động ứng dụng sẽ áp dụng với học sinh tại các khối lớp theo nội dung kiến thức và theo năng lực học sinh Ngay từ đầu năm học, tôi đã sử dụng một số kỹ thuật để nhận biết, phân loại học sinh thành các mức (level) để áp dụng các phƣơng pháp dạy học khác nhau , phù hợp với năng lực học sinh. Các hoạt động ứng dụng cũng đƣợc tôi phân loại và áp dụng ở các tiết học cho đa dạng, linh hoạt, khoa học. Tôi phân loại các hoạt động thành: – Các hoạt động ứng dụng theo nội dung bài học – Các hoạt động ứng dụng phát triển năng lực học sinh 2.2.1. Các hoạt động ứng dụng theo nội dung bài học 2.2.1.1. Các hoạt động ứng dụng theo chủ đề kiến thức trong SGK Khi tổng hợp, phân loại và lên kế hoạch tổ chức các hoạt động ứng dụng, tôi bám sát nội dung kiến thức trong chƣơng trình . Ngoài những hoạt động áp dụng ngay sau mỗi tiết học thì tôi chú trọng tổ chức các hoạt động trọng tâm theo chủ đề kiến thức của từng khối lớp. VD: – Khối lớp 3 học sinh đƣợc học các chủ đề: Me and my friends ( từ unit 1 tới unit 5), Me and my school ( từ unit 6 – unit 10), Me and my family ( từ unit 11-unit 15), Me and the world around ( từ unit 16- unit 20) Sau mỗi 5 unit thì có 1 hoạt động ứng dụng tổ chức dƣới dạng cuộc thi hùng biện, giúp học sinh tổng hợp kiến thức, thực hành kỹ năng viết, nói, thuyết trình. Trọng tâm của hoạt động này là hƣớng dẫn học sinh biết cách hệ thống kiến thức bằng sơ đồ tƣ duy ( mind map). Tất cả các bài thuyết trình của học sinh đều phải sử dụng mind map mình tự làm và diễn tả theo ý tƣởng mình thiết kế. Học sinh có thể lựa chọn trình bày kiến thức theo chủ đề hoặc có thể lựa chọn diễn đạt chi tiết một unit trong chủ đề. Điều này phát triển nhiều kỹ năng cho học sinh nhƣ quan sát, tổng hợp, viết, vẽ, tƣ duy logic, trình bày khoa học, đồng thời cũng khơi dậy khả năng sáng tạo của mỗi học sinh, tạo nên sự sinh động, hấp dẫn vào cuối cuộc thi khi các sản phẩm của học sinh đƣợc trƣng bày.Phƣơng pháp học theo mind map cũng giúp học sinh ghi nhớ nhanh và nhớ lâu hơn. 6 Một số mind map học sinh lớp 3 thực hiện hoạt động ứng dụng 2.2.1.2. Các hoạt động ứng dụng theo chủ đề trải nghiệm Song song với các hoạt động ứng dụng, tôi thƣờng xuyên tạo cơ hội cho học sinh đƣợc tham gia các hoạt động trải nghiệm. Và theo kinh nghiệm của mình tôi nhận thấy ứng dụng và trải nghiệm có sự liên kết chặt chẽ, bổ trợ cho nhau cùng tạo ra sự tiến bộ cho học sinh. Các hoạt động trải nghiệm, hình thức tổ chức câu lạc bộ, cuộc thi rung chuông vàng phát huy tác dụng rất lớn trong việc thực hành, ứng dụng kiến thức và rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh. Tôi xây dựng kế hoạch khác nhau cho các hoạt động tổ chức tại trƣờng và các hoạt động trải nghiệm ngoài không gian lớp học, ngoài nhà trƣờng. Các hoạt động trải nghiệm đƣợc lên kế hoạch cụ thể, khoa học, bám sát chủ đề kiến thức theo chƣơng trình hoặc theo tháng, theo các ngày lễ nhƣ Christmas, New Year, Birthday Party, Teachers’ Day, Womens’ Day……Dựa theo chủ đề của các hoạt động trải nghiệm, giáo viên hƣớng dẫn học sinh ứng dụng các từ vựng và mẫu câu để làm thiệp chúc mừng, nói lời yêu thƣơng, bày tỏ tình cảm của mình tới thầy cô, bạn bè và ngƣời thân. Các hoạt động trải 7 nghiệm đƣợc yêu cầu sử dụng hoàn toàn Tiếng Anh. Vì thế, để các hoạt động thành công thì giáo viên phải cung cấp hệ thống kiến thức có liên quan tới chủ đề và có sự hình dung, dự đoán các tình huống sẽ xảy ra tại hoạt động để lên kế hoạch, xây dựng kịch bản chi tiết rồi giới thiệu trƣớc cho học sinh để tiến trình diễn ra nhịp nhàng, hiệu quả. Birthday party Women’s Day – Đối với các hoạt động trải nghiệm tổ chức ngoài không gian lớp học thì hoạt động ứng dụng phải gắn với mục tiêu đƣa kiến thức vào đời sống, để cho học sinh đƣợc hòa trong các tình huống giao tiếp thực tế. Đây là cơ hội tốt nhất để học sinh phát triển năng lực sử dụng Tiếng Anh. Hoạt động này đòi hỏi giáo viên phải thiết kế theo các bƣớc để tổ chức trải nghiệm cho học sinh, phải có sự phối kết hợp của Ban giám hiệu nhà trƣờng, các tổ chức Đoàn, Đội, đồng nghiệp và cả cha mẹ học sinh. Trong phạm vi báo cáo này tôi chỉ xin tập trung vào hoạt động ứng dụng khi học sinh đi trải nghiệm. Đối với môn Tiếng Anh, tôi xem chuyến đi trải nghiệm của học sinh giống nhƣ là cuộc đi “săn Tây”, yêu cầu tôi đặt ra cho học sinh là ngoài việc khám phá thiên nhiên, học hỏi điều mới lạ ngoài SGK, ngoài không gian lớp học thì các con phải tiếp cận, bắt chuyện với ngƣời nƣớc ngoài để thực hành Tiếng Anh. Chính vì thế các địa điểm trải nghiệm đều là các điểm tham quan, du lịch, bến xe, ga tàu, nơi có nhiều khách du lịch nƣớc ngoài. Và nội dung cần các con thực hành tôi cũng chuẩn bị rất chi tiết, hƣớng dẫn các con cụ thể trƣớc khi xuất phát. Nhiệm vụ đặt ra cũng cần phù hợp với đối tƣợng học sinh cụ thể để các con có thể hoàn thành. 8 VD: Năm học 2017-2018, tôi tổ chức cho học sinh sinh hoạt trong câu lạc bộ Tiếng Anh 5 của trƣờng đi trải nghiệm tại Ninh Bình, các địa điểm trải nghiệm là Tam Cốc- Bích Động và Ga Ninh Bình. Học sinh làm nhiệm vụ ”săn Tây” và hoàn thành phiếu học tập bằng cách giao tiếp, lấy thông tin, ghi chú nhanh vào phiếu và viết thu hoạch sau chuyến đi, báo cáo trƣớc lớp. Hoạt động này khiến học sinh phải huy động kiến thức đã học, thực hành kỹ năng giao tiếp, kỹ năng quan sát, lắng nghe, ghi chép, tổng hợp, viết báo cáo, thuyết trình,…Sau chuyến đi, học sinh rất thích thú, hào hứng học tập, kỹ năng giao tiếp tiến bộ rõ rệt. Dƣới đây là mẫu phiếu học tập trải nghiệm học sinh sử dụng trọng hoạt động ứng dụng. Trƣớc buổi trải nghiệm, giáo viên hƣớng dẫn kỹ các bƣớc thực hiện hoạt động và có dựng tình huống mẫu để học sinh luyện tập. Trong phiếu cũng in sẵn các mẫu câu hỏi gợi ý để học sinh tham khảo, sử dụng khi giao tiếp với ngƣời nƣớc ngoài: PHIẾU HỌC TẬP TRẢI NGHIỆM Student:………………………………………………………………………………………………… class:………………………………………………………………………………………………………
Name
Age
Country
hobby
ability
job
1
2
3
4
5
Clue: Hello, excuse me, I’m a student. Could you talk to me some minutes? .What’s your name?, How old are you? Where are you from?, What’s your hobby? What can you do? What’s your job?/ What do you do?/ How long have you been Vietnam? Do you like Vietnam? Thanks so much. Goodbye 9 Trải nghiệm tại Ga Ninh Bình 2.2.2.Các hoat động ứng dụng phát triển năng lực học sinh Mục tiêu cốt lõi của đổi mới giáo dục hiện nay là dạy học theo hƣớng phát triển năng lực ngƣời học. Trong các bài giảng của mình, tôi luôn bám sát vào việc thực hiện mục tiêu chiến lƣợc đó. Trƣớc khi thiết kế các hoạt động ứng dụng, tôi đã dành thời gian nghiên cứu để hiểu rõ thế nào là năng lực của học sinh và thế nào là dạy học phát triển năng lực học sinh. Theo bài viết trên trang web https://hoatieu.vn/nang-luc-va-nang-luc-tu-hoccua-hoc-sinh-la-gi-182723 : ” Từ điển tâm lý học đƣa ra khái niệm, năng lực là tập hợp các tính chất hay phẩm chất của tâm lý cá nhân, đóng vai trò là điều kiện bên trong tạo thuận lợi cho việc thực hiện tốt một dạng hoạt động nhất định. Theo Cosmovici thì: “năng lực là tổ hợp đặc điểm của cá nhân, giải thích sự khác biệt giữa ngƣời này với ngƣời khác ở khả năng đạt đƣợc những kiến thức và hành vi nhất định”. Còn A.N.Leonchiev cho rằng: “năng lực là đặc điểm cá nhân quy định việc thực hiện thành công một hoạt động nhất định”. Nhà tâm lý học A.Rudich đƣa ra quan niệm về năng lực nhƣ sau: năng lực đó là tính chất tâm sinh lý của con ngƣời chi phối quá trình tiếp thu các kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo cũng nhƣ hiệu quả thực hiện một hoạt động nhất định. Năng lực của con ngƣời không chỉ là kết quả của sự phát triển và giáo dục mà còn là kết quả hoạt động của các đặc điểm bẩm sinh hay còn gọi là năng khiếu. Năng lực đó là năng khiếu đã đƣợc phát triển, có năng khiếu chƣa có nghĩa là nhất thiết sẽ biến thành năng lực. Muốn vậy phải có môi trƣờng xung quanh tƣơng ứng và phải có sự giáo dục có chủ đích.” 10 Nhƣ vậy, mỗi cá nhân học sinh có năng lực khác nhau và giáo viên cần phát hiện, hƣớng dẫn, giúp đỡ học sinh hình thành, phát triển năng lực của mình để có thể lĩnh hội và sử dụng kiến thức nhằm đạt đƣợc mục tiêu đề ra. Ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành phân loại, nhận diện học sinh, bƣớc đầu phát hiện khả năng vƣợt trội của một số em và những hạn chế về năng lực cần cải thiện cho các em. Những năng lực tôi đặc biệt quan tâm phát triển cho học sinh là khả năng tự học và năng lực hợp tác, làm việc theo đội, nhóm. Tôi đã tiến hành tổ chức rất nhiều hoạt động ứng dụng mới lạ, thu hút, lôi cuốn ngƣời học tham gia dƣới nhiều hình thức phong phú, cách thức tổ chức linh hoạt . Qua quá trìnhthực hiện, sau đó đánh giá, rút kinh nghiệm , tôi thấy tâm đắc với hai hoạt động ứng dụng nhất, đó là: Hoạt động ứng dụng liên hoàn và Diary ( Nhật ký). – Hoạt động ứng dụng liên hoàn mà tôi áp dụng là sự triển khai liền mạch các nhiệm vụ giao cho học sinh thực hiện sau khi học xong ngữ liệu mới. Hoạt động bao gồm các nhiệm vụ trên lớp, rồi về nhà, rồi lại tiếp tục tại lớp vào tiết học sau. Hoạt động này học sinh vừa làm việc cá nhân vừa phải làm việc với ngƣời khác, vừa phát huy năng lực tự học, vừa phải có sự hợp tác . VD: Một hoạt động ứng dụng tôi đã áp dụng với học sinh lớp 4 Sau khi học sinh học xong mẫu câu nói về hình dáng của ngƣời trong bài Unit 14: What does he look like? – Tiếng Anh 4, tôi tổ chức hoạt động Guessing ( đoán) để học sinh đƣợc sử dụng từ vựng và mẫu câu đã học vào miêu tả các bạn trong lớp thông qua hình thức tự nhiên, hấp dẫn: Mỗi học sinh chọn một bạn trong lớp, suy nghĩ trong đầu về những đặc điểm của bạn đó và đố cả lớp tìm ra bạn đó. Các bạn khác đặt câu hỏi với các mẫu câu : Is he/she tall?, Is he/she shorter than me?,… Học sinh đƣa ra câu đố sẽ trả lời các câu hỏi để gợi ý cho các bạn mình đoán ra đáp án. Sau khi học sinh đã thực hành nhuần nhuyễn các mẫu câu đã học, tôi hƣớng dẫn học sinh thực hiện hoạt động ứng dụng ở nhà với yêu cầu: Miêu tả, so sánh hình dáng của những thành viên trong gia đình.Học sinh về nhà quan sát và đặt câu miêu tả, viết ra vở. VD: My father is tall and fat. 11 My grandfather is old. My father is taller than my mother. My brother is younger than my grandpa. … Vào tiết học sau, tôi tổ chức hoạt động Survey( điều tra, khảo sát) tại phần warm-up ( khởi động) với nội dung sau: Học sinh đi vòng quanh lớp, sử dụng mẫu câu đã học để hỏi bạn mình về hình dáng của các thành viên trong gia đình bạn, ghi vào phiếu khảo sát.Phiếu khảo sát có thể thiết kế theo mẫu sau:
Name
grandpa
grandma
father
mother
brother
sister
Hoa
tall, old
fatter than mom
young
Phong
fat
short
Lan
pretty
…
Hết thời gian hỏi – đáp, tôi gọi 3 đến 5 học sinh báo cáo kết quả trƣớc lớp VD: Hoa’s father is tall. Hoa’s grandpa is old. Hoa’s grandma is older than her mother. … – Hoạt động Diary ( nhật ký): Đây là hoạt động phát triển năng lực tự học, năng lực thẩm mỹ, sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề theo nhiều cách khác nhau một cách sáng tạo và triệt để. Hoạt động ứng dụng này đƣợc học sinh thực hiện xuyên suốt quá trình học tập, ở tất cả các tiết học. Giáo viên hƣớng dẫn học sinh ngay từ đầu năm học: Học sinh có 1 cuốn sổ riêng để làm sổ nhật ký, có thể mua mới hoặc tự làm, trang trí hình thức cho đẹp, sinh động, có thể theo phong cách ngộ nghĩnh, dễ thƣơng hoặc nghiêm nghị tùy theo sở thích và trí tƣởng tƣợng của học sinh. Trong mỗi trang nhật ký học sinh sẽ phải thể hiện những điều mình thu hoạch đƣợc sau mỗi tiết học, mỗi unit và mỗi chủ đề, chủ điểm, theo học kỳ, theo năm học. Nội dung bao gồm càng nhiều chi tiết các tốt, từ kiến 12 thức , từ vựng, mẫu câu, ngữ pháp, đến những đoạn văn, mẩu chuyện, những dự án, hoặc những ngôi sao phần thƣởng mà cô giáo trao tặng ( để khen ngợi học sinh tôi thƣờng thƣởng sao và yêu cầu học sinh ghi lại, thi đua với các bạn trong lớp, cuối năm học có trao quà cho những học sinh đạt nhiều sao nhất, nhì, ba của lớp). Hình thức trình bày trong mỗi trang nhật ký của học sinh cũng không bắt buộc theo một mô tuýp nào hết, để học sinh thỏa sức sáng tạo. Hoạt động này học sinh có thể làm vào thời gian rảnh ở lớp hoặc ở nhà nhƣng để đạt hiệu quả thì giáo viên phải thƣờng xuyên gần gũi hƣớng dẫn, định hƣớng cho học sinh đồng thời phải liên tục khích lệ, động viên, khen ngợi học sinh để các con hứng thú , nâng niu cuốn nhật ký của mình. VD: Một số trang nhật ký của học sinh Kinh nghiệm bản thân tôi rút ra khi tổ chức các hoạt động ứng dụng cho học sinh là giáo viên phải luôn sát sao, gần gũi, hỗ trợ học sinh kịp thời thì hoạt động mới thành công. Muốn học s
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Từ tháng 11 năm 2013 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Trong thời đại công nghiệp 4.0 hiện nay, để lĩnh hội được những tinh hoa văn hóa, khoa học kĩ thuật tiến bộ, hiện đại của các quốc gia phát triển thì ngoại ngữ, đặc biệt Tiếng Anh là một phương tiện hết sức cần thiết. Hiểu rõ được tầm quan trọng của giáo dục hiện đại là đào tạo ra những con người có thể bắt kịp với xu thế toàn cầu mà ngoại ngữ nói chung, Tiếng Anh nói riêng là công cụ đắc lực trong quá trình hội nhập, Bộ GD-ĐT đã, đang và không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ thông qua việc đổi mới toàn diện ngay ở bậc tiểu học. Trong những năm qua, sở GD và ĐT Nam Định đã chỉ đạo các Phòng GD và ĐT, các trường tiểu học triển khai hiệu quả “Đề á n Dạy và học ngoại ngữ trong cá c cơ sở giá o dục phổ thông tỉnh Nam Đi ̣nh giai đoạn 2011-2020”, “Đề án Thí điểm tăng cường giảng dạy tiếng Anh với người nước ngoài trong các trường phổ thông tỉnh Nam Định giai đoạn 2015-2020”. Chất lượng dạy học tiếng Anh tại các nhà trường được nâng cao. Nhiều sân chơi Tiếng Anh cho học sinh tiểu học như: CLB tiếng Anh, Hội thi hùng biện tiếng Anh, Rung chuông vàng … đã tạo môi trường lành mạnh giúp học sinh phát triển khả năng giao tiếp, rèn luyện tính mạnh dạn, tự tin trong học tập, đồng thời giúp các em rèn luyện kĩ năng sống, phát triển toàn diện. Như vậy, mục tiêu chính của việc dạy và học ngoại ngữ chính là giúp người học có khả năng thiết lập và thành công trong giao tiếp. Và kiến thức từ vựng là cầu nối giữa các kĩ năng nghe, nói, đọc và viết. Khi trẻ em cải thiện 4 vốn từ vựng của mình, sự tự tin và năng lực trong học tập và xã hội của các em cũng được cải thiện. Đổi lại, nếu không có một vốn từ vựng cần thiết thì các em không thể sử dụng các cấu trúc câu và các chức năng ngôn ngữ trong giao tiếp. Với mong muốn khơi dậy được sự hứng thú, say mê học tập của học sinh; giúp học sinh ghi nhớ từ vựng một cách tự nhiên, tự tin hơn trong giao tiếp; đồng thời phát hiện, bồi dưỡng học sinh có năng lực để tham gia vào hội thi: “Hùng biện Tiếng Anh” cấp Thành phố và cấp Tỉnh, tôi đã nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp giúp phát triển vốn từ vựng Tiếng Anh cho học sinh tiểu học” 5 II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực đã phát huy tính chủ động, sáng tạo và tạo được hứng thú học tập cho học sinh. Tuy nhiên, do học sinh tiểu học đang hình thành và phát triển năng lực nhận thức trên cơ sở tư duy cụ thể nên việc dạy từ vựng cần bắt nguồn từ hệ thống chủ điểm, chủ đề thú vị, gần gũi với trải nghiệm của các em. Điều này đòi hỏi mỗi giáo viên phải vận dụng, linh hoạt, mềm dẻo các phương pháp và kỹ thuật dạy từ nhằm đáp ứng nhu cầu và điều kiện dạy học khác nhau ở các địa phương. Trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy còn một số vấn đề sau: 1.1. Về phía giáo viên + Vì quỹ thời gian trên lớp có hạn, trình độ nhận thức của học sinh có nhiều mức độ khác nhau nên trong các giờ học chính khóa giáo viên Tiếng Anh thường chỉ đảm bảo được chương trình sách giáo khoa của BGD, các hoạt động học chưa được tổ chức linh hoạt, tạo được sự hấp dẫn với học sinh. + Đa số giáo viên đã biết vận dụng quy trình biên soạn để xây dựng hệ thống phiếu bài tập nhưng hiệu quả mang lại chưa cao. 1.2. Về phía học sinh + Học sinh tiểu học rất hiếu động, các em rất thích tìm tòi, khám phá những điều mới lạ, nhất là những hình ảnh gây ấn tượng và cảm xúc mạnh nhưng các em lại dễ mất tập trung, mau quên, thích học nhưng nhanh chán. + Một số em còn nhút nhát, thiếu tự tin, ngại phát âm và thực hành giao tiếp. Thêm vào đó, cấu tạo âm tiết của ngoại ngữ có nhiều khác biệt, do đó khả năng ghi nhớ từ, cấu trúc câu … của các em còn hạn chế. 1.3. Về chương trình và sách giáo khoa Chương trình và sách giáo khoa đang được thay đổi. Sách được trình bày khá đẹp và công phu. Nội dung phong phú. Tuy nhiên, việc đưa các bài tập dạng vận dụng vào chương trình còn hạn chế, chưa thật phù hợp với từng đối tượng học sinh. 6 Để khảo sát thực tế năng lực và mức độ hứng thú với môn Tiếng Anh của học sinh, tôi đã cho học sinh khối 5 do tôi giảng dạy hoàn thành “Phiếu khảo sát” sau: Lưu ý: Từ câu hỏi số 2, học sinh có thể chọn nhiều đáp án. 7 Phân tích kết quả khảo sát: Tổng số bài: 138 Bảng 1. Ý kiến của học sinh về thích hay không thích học Tiếng Anh
Em có thích học tiếng Anh không?
Số lượng
Tỷ lệ %
Thích
76
55
Không thích
25
18
Lúc thích lúc không
32
23,4
Không ý kiến
5
3,6
Kết quả bảng 1 cho thấy 55% số học sinh thích học Tiếng Anh, 18% không thích học và 23,4% còn lưỡng lự. Lý do cụ thể được trình bày ở bảng 3 và bảng 4 dưới đây. Bảng 2. Lý do học sinh thích học Tiếng Anh
Vì sao em thích học Tiếng Anh?
Số lượng
Tỷ lệ %
Bổ ích, vui nhộn và thú vị
103
75
Giáo viên giảng bài thu hút và có nhiều trò chơi hay
92
67
Được hát, kể chuyện và vui chơi bằng Tiếng Anh
74
54
Có thể giao tiếp những câu ngắn bằng Tiếng Anh
67
48,7
Kết quả bảng 2 cho thấy những bài học vui nhộn, thú vị và dễ hiểu gắn liền với cuộc sống luôn cuốn hút học sinh. Tuy nhiên chỉ 48,7% học sinh tự tin khẳng định có thể giao tiếp những câu ngắn bằng tiếng Anh. Điều đó cho thấy kỹ năng nghe – nói của học sinh cần hạn chế, vì vậy giáo viên cần chú ý sử dụng các hình thức học tập vận động và vui chơi nhẹ nhàng để tạo môi trường giao tiếp hiệu quả cho học sinh. Bảng 3. Lý do học sinh không thích học Tiếng Anh
Vì sao em không thích học Tiếng Anh?
Số lượng
Tỷ lệ %
Em không hiểu bài và bài khó học
11
7,9
Giáo viên không vui vẻ, chỉ cho em chép bài
4
2,8
Bài học dài và khó nghe
123
89,3
8 Kết quả bảng 3 cho thấy, đa số học sinh sợ học những bài học dài và khó nghe. Bởi vậy, các bài học cần được biên soạn phù hợp với khả năng của học sinh và người giáo viên cần chủ động biến hóa bài học thành các hoạt động gần gũi, dễ hiểu với học sinh. Bảng 4. Phương tiện dạy học mà học sinh hứng thú
Em thích phương tiện dạy học nào mà giáo viên sử dụng?
Số lượng
Tỷ lệ %
Tranh ảnh
42
32
Vật thật
58
42
Giáo án điện tử, video
93
67.5
Đồ dùng tự làm
70
51
Kết quả của bảng 5 cho thấy, học sinh hứng thú với với những thiết bị hiện đại có những hiệu ứng ánh sáng, màu sắc và âm thanh … Bảng 5. Học sinh tự đánh giá các kỹ năng học Tiếng Anh của bản thân
Em tự đánh giá về kỹ năng học Tiếng Anh của bản thân
Số lượng
Tỷ lệ %
Nghe được một số câu đơn giản
87
63,1
Nói được một số câu đơn giản
84
61
Viết được một số câu đơn giản
96
69,4
Tự làm được bài tập về nhà
90
65
Không khể nghe, nói hoặc viết bằng Tiếng Anh
3
2,1
Kết quả bảng 5 cho thấy tỉ lệ trên 50% học sinh có khả năng tự làm bài tập về nhà. Tuy nhiên tỷ lệ học sinh có thể nghe và nói những câu đơn giản còn thấp. Điều này cho thấy học sinh còn thiếu môi trường giao tiếp. Vì vậy, giáo viên cần tạo môi trường học tập tích cực để hứng thú với môn học.học sinh có thể giao tiếp tự nhiên và thêm hứng thú với môn học. 9 2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến Từ thực trạng trên, để giúp học sinh ghi nhớ từ vựng một cách tự nhiên, tự tin hơn trong giao tiếp bằng tiếng Anh, tôi đã thực hiện một số giải pháp sau: Giải pháp 1: Vận dụng đa dạng các kỹ thuật dạy từ vựng. Giải pháp 2: Xây dựng hệ thống bài tập phát triển từ vựng. Giải pháp 3: Kết hợp hiệu quả với giáo viên bản xứ trong các tiết học Tiếng Anh có yếu tố nước ngoài. Giải pháp 4: Phát huy hiệu quả hoạt động của Câu lạc bộ Tiếng Anh. Các giải pháp được thực hiện cụ thể như sau: 2.1.Giải pháp 1: Vận dụng đa dạng các kỹ thuật dạy từ vựng. 2.1.1. Xác định nguồn từ vựng học sinh được cung cấp trong lớp học. Lựa chọn nguồn từ vựng, chủ đề từ vựng căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn học và khả năng nhận thức, tiếp thu của học sinh. Word lists (Mục từ vựng cần đạt theo từng giáo trình được khuyến nghị) Cousrebooks (Giáo trình học tập thông qua các bài khóa, các dạng bài tập phát triển từ vựng) Vocabulary books (Các sách từ vựng được biên soạn theo chủ đề) Teacher ( Từ giáo viên) Other students (Từ các bạn học trong lớp thông qua giao tiếp và trao đổi ngôn ngữ) 2.1.2. Giới thiệu ngữ liệu mới. Giới thiệu ngữ liệu mới là làm rõ nghĩa, cách phát âm, cấu trúc hình thái, và cách dùng của một mục dạy nào đó trong một ngữ cảnh nhất định. Mục dạy có thể là các mẫu lời nói, từ vựng hay chủ điểm nào đó, thường được giới thiệu thông qua một bài hội, một bài khoá, hoặc những tình huống có sự hỗ trợ của giáo cụ trực quan. Với phương pháp dạy học mới, công việc giới thiệu ngữ liệu không còn thuần tuý chỉ là việc giải thích nghĩa của từ mới và giải thích các mẫu câu mà người giáo viên còn cần phải làm rõ cách sử dụng của các mẫu câu hoặc từ mới 10 đó trong ngữ cảnh. Chỉ khi được giới thiệu trong ngữ cảnh, nghĩa và cách sử dụng của các ngữ liệu cần dạy mới được làm sáng tỏ. Như vậy, nội dung cần giới thiệu ở bước giới thiệu ngữ liệu là: Hình thái (Form: pronunciation; spelling; grammar) Ngữ nghĩa (Meaning) Cách sử dụng (Use) Một đặc điểm nổi bật của phương pháp mới trong việc giới thiệu ngữ liệu là phương pháp mới rất chú trọng tới việc phải làm sao cho học sinh tiếp thụ bài học không chỉ qua nghe thụ động mà còn được vận động trí óc, chủ động tham gia vào quá trình của họat động này qua nhiều hoạt động ngôn ngữ khác nhau. Tóm tắt các bước giới thiệu ngữ liệu mới Các bước giới thiệu ngữ liệu mới có thể được tóm tắt theo một tiến trình như sau: Bước 1. Giới thiệu ngữ nghĩa và cách sử dụng của ngữ liệu: cấu trúc ngữ pháp/ từ mới/ mẫu câu chức năng qua tình huống, ngữ cảnh, mẫu hội thoại, tranh ảnh… Bước 2. Nêu bật cấu trúc/ từ/ mẫu câu chức năng mới bằng cách đọc to cho học sinh nghe nhắc lại hoặc bằng các thủ thuật khác nhằm hướng sự chú ý của học sinh vào những mục dạy đó. Bước 3. Viết các cấu trúc/ từ mới lên bảng, làm rõ hình thái cấu trúc, giải thích nếu cần. Bước 4. Làm rõ thêm nghĩa và cách sử dụng bằng cách tiếp tục đưa thêm các tình huống hoặc các ví dụ khác. Bước 5. Lặp lại tương tự bước 2 hoặc cho học sinh tái tạo theo gợi ý. Bước 6. Kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh sử dụng các thủ thuật kiểm tra hiểu như gợí ý ở mục 2.1.3. Khi giáo viên nhận thấy học sinh đã làm tốt được bước 6 thì có thể chuyển sang phần luyện tập sáng tạo hơn với các loại bài tập mang tính giao tiếp hơn. 11 Có nhiều cách giới thiệu ngữ liệu. Sau đây là một số thủ thuật giới thiệu ngữ liệu mà các giáo viên có thể tham khảo để ứng dụng cho bài dạy cụ thể của mình. Các thủ thuật tạo dựng tình huống. Sử dụng tranh, ảnh, giáo cụ trực quan. Sử dụng ngôn ngữ học sinh đã biết. Sử dụng các bài hội thoại ngắn. Sử dụng các bảng biểu, bản đồ, bảng tin, báo chí, video. Sử dụng những tình huống thật trong lớp. Dùng môi trường, đồ vật thật trong lớp, trong trường. Dùng các câu chuyện có thật, các hiện tượng thật trong thực tế. Sử dụng tiếng mẹ đẻ. Phối hợp hai hay nhiều cách trên. Các thủ thuật làm rõ nghĩa từ vựng. Ngoài những thủ thuật giới thiệu nghĩa trong ngữ cảnh đã đề cập ở phần giới thiệu ngữ liệu chung, có thể sử dụng một số thủ thuật đặc thù như: Dùng trực quan như: đồ vật thật trên lớp, tranh ảnh, hình vẽ phác hoạ, hình cắt dán từ tạp chí, cử chỉ điệu bộ… Ví dụ: Khi dạy các từ chỉ đồ dùng học tập, giáo viên có thể chỉ vào những đồ vật này. Để dạy từ “chicken” giáo viên treo bức tranh con gà lên bảng và đặt câu hỏi “what’s this? Hoặc khi dạy các tính từ chỉ cảm xúc như “vui, buồn, tức giận….” hay khi dạy về các từ chỉ hoạt động như “hát, nhảy máu, chạy….” thì dùng cử chỉ, nét mặt, điệu bộ. Dùng ngôn ngữ đã học để định nghĩa, miêu tả: Ví dụ: Dạy từ “fish” + Giáo viên: It has no legs. It has no ears. It lives in water. What’s is it? + Học sinh: Is it a snake? + Giáo viên: Yes! Dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa 12 a. Từ đồng nghĩa (synonyms)
Ví dụ:
thin – slim eraser – rubber
finish – end film – movie
big – large pretty – beautiful
b. Từ trái nghĩa (antonyms)
Ví dụ:
young – old noisy – quiet
new – old thick – thin
tall – short; long – short
Dựa vào các quy tắc hình thành từ, tạo từ: Học sinh có thể đoán được nghĩa của từ nhờ từ gốc. Với quy tắc này giáo viên không những giúp học sinh nắm kiến thức mà còn mở rộng vốn từ cho học sinh.
Ví dụ 1:
teach – teacher sea – seafood
work – worker happy – unhappy
write – writer like – dislike
Ví dụ 2: Tạo tình huống: Giáo viên thiết lập tình huống thật đơn giản, dễ hiểu bằng Tiếng Anh, học sinh đoán nghĩa qua tình huống, có thể bắt chước và sử dụng từ vào ngữ cảnh giao tiếp và rèn kĩ năng nghe. Ví dụ: My brother often gets up late at 8 A.M. I say to him, “Get up early! Don’t get up late!” Đoán nghĩa của từ trong ngữ cảnh: Giáo viên đưa ra ví dụ có chứa từ cần dạy, yêu cầu học sinh dựa vào ngữ cảnh để tìm ra nghĩa và cách sử dụng. Ví dụ: This T.shirt is cheap. It is 100 000 VND. That T.shirt is expensive. It is 500 000 VND. 13 Dịch sang tiếng mẹ đẻ: Đây là giải pháp cuối cùng giáo viên cần dùng khi những biện pháp kia không mang lại hiệu quả. Bên cạnh đó, giáo viên cũng có thể sưu tầm các bộ phim hoạt hình ngắn, các bài hát Tiếng Anh đơn giản; sưu tầm và và tự biên soạn các bộ game học tập khác nhau thiết kế trên nền tảng powerpoint để phục vụ cho việc dạy và học. Một số ứng dụng game powerpoint dành cho học sinh tiểu học: Một số bài hát, phim hoạt hình có phụ đề bằng Tiếng Anh và đường link tham khảo: + https://www.thesingingwalrus.tv/ + http://goo.gl/Hs3M6P + http://bit.ly/yUEnUA + http://www.youtube.com/Pinkfong + http://bit.ly/WizzLearn 14 2.1.3. Kiểm tra mức độ tiếp thu của học sinh. Sau khi giáo viên đã giới thiệu làm rõ nghĩa và cách sử dụng của ngữ liệu mới, cần thực hiện việc kiểm tra mức độ tiếp thu bài của học sinh để qua đó biết được học sinh đã thực sự hiểu bài chưa, mức độ hiểu đến đâu, để trên cơ sở đó có thể kịp thời bổ sung bài giảng nếu cần. Việc kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh ở phần giới thiệu ngữ liệu này có thể được thực hiện thông qua một số bài tập thực hành như: Học sinh ứng dụng mẫu câu vừa học vào các tình huống tương tự khác giáo viên đưa ra. Thực hiện một số bài tập lắp ghép. Xây dựng các bài hội thoại ngắn theo mẫu bằng cách lắp ghép những từ, đoạn câu gợi ý; thực hiện các bài tập hỏi /trả lời theo dạng câu hỏi đóng hoặc các câu hỏi trắc nghiệm đúng sai (comprehensive questions, True/False questions). 2.1.4. Hướng dẫn học sinh tự thực hành luyện tập từ vựng tại nhà. Sau mỗi bài học, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà ôn luyện từ mới. Số lượng từ và độ khó của từ có thể tăng dần. Qua hoạt động này học sinh tiểu học có thể rèn cả kỹ năng nói và viết. Giáo viên sẽ kiểm tra lại từ vào tiết học sau để đánh giá hiệu quả luyện tập ở nhà của học sinh. Học sinh nên học thường xuyên, mỗi ngày nên học một vài từ tùy theo khả năng ghi nhớ của mình. Mỗi học sinh nên trang bị cho mình một sổ tay nhỏ để có thể thường xuyên luyện viết từ kết hợp với đọc từ để có thể ghi nhớ từ lâu hơn. Học sinh cũng có thể tự học từ thông qua các bài hát, bài thơ ngắn. Giáo viên hướng dẫn học sinh tự làm các thẻ từ bằng giấy bìa, một mặt ghi từ mặt còn lại có thể ghi nghĩa hoặc tranh minh họa… để thường xuyên tự học và tự ôn luyện từ vựng khi ở nhà và cả những lúc vui chơi với bạn bè. Thực tế cho thấy, chỉ có trải nghiệm và thưc hành mới tạo nên ̣ sư ̣ hoàn hảo, đúng như câu ngạn ngữ Anh “Practice makes perfect.” 15 Kết luận: Để tạo hứng thú học tập cho học sinh và mang lại hiệu quả cao nhất thì giáo viên cần chủ động tìm hiểu, lựa chọn, thiết kế các hoạt động dạy phù hợp với nội dung bài học và đối tượng học sinh. Sự thân thiện, cởi mở và tính hài hước của người giáo viên cũng là yếu tố quan trọng tạo không khí lớp học sôi nổi, sinh động, giúp học sinh tiếp thu, khắc sâu và vận dụng kiến thức ngôn ngữ tốt hơn. Hay nói cách khác, trong dạy học người giáo viên cần đảm bảo quy tắc 4L: Learn – Live – Love – Laugh (Học – Sống – Yêu – Cười). 2.2. Giải pháp 2: Xây dựng các Bài tập phát triển từ vựng cho học sinh tiểu học. 2.2.1. Các bài tập TÌNH HUỐNG. Các loại hình bài tập này dùng để phát triển kĩ năng NGHE – NÓI; có thể là một tình huống bằng tranh thuộc chủ đề của bài dạy; đưa những từ mục tiêu (là từ mới sẽ dạy trong bài) vào trong tình huống đó. Ví dụ 1: Như trong hình 1 là bối cảnh vườn thú có rất nhiều loại động vật như lion, zebra, giraffe, kangaroo … để dạy về chủ đề Zoo animals. HÌNH 1 Mục đích: Giúp học sinh nhận diện và gọi tên được các đối tượng xuất hiện trong tranh. Bao gồm âm đúng (correct sound) và trọng âm đúng của từ (correct stress). Phát âm đúng được tên các đối tượng. 16 Quy trình chung Nêu nhiệm vụ: Học sinh nghe băng hoặc giáo viên đọc một từ. Nhiệm vụ của học sinh là lựa chọn và đưa ra được bức tranh đúng tương ứng trong sách. Sau khi thông báo, tiến hành các bước như sau: Identify (Nhận diện tranh) Học sinh có 1-2 phút quan sát tranh để cho từng cá nhân học sinh có thời gian nhận diện trong tranh có gì. Teach vocabulary (Dạy từ) Khi dạy một từ mới, giáo viên không nên nói Tiếng Anh rồi dịch sang Tiếng Việt hoặc ngược lại mà nên tiết hành theo 4 bước:
Identify
Listen
Point
Repeat
Quy trình dạy từ một cách đầy đủ không phải chỉ dạy học sinh nhận biết từ mà còn phải đảm bảo các tiêu chí sau: Đọc đúng các âm Hiểu nghĩa của từ trong văn cảnh (contextual meaning) Nắm được khả năng kết hợp của từ (collocations). Sử dụng được các từ trong các tình huống khác nhau. Khi dạy một từ mới, chuẩn bị cho bước giới thiệu ngữ liệu như bài minh họa ở hình 1, giáo viên cần tiến hành dạy như sau: + Giơ từng flashcard, giáo viên đọc to từ tương ứng (Ví dụ: giáo viên giơ thẻ lion đọc tương ứng /’lai ən/.) + Học sinh nhìn flashcard trong tay giáo viên, đọc theo, tìm và đánh dấu vào con vật tương ứng trong tranh. + Giáo viên đi quanh lớp quan sát, giúp đỡ học sinh chọn tranh đúng. + Làm tương tự với tất cả những con vật trong tranh và lặp lại mỗi từ ít nhất ba lần cho học sinh ghi nhớ. 17 + Để tạo hứng thú cho học sinh, giáo viên có thể gắn tên các con vật với các tiếng kêu hoặc hành động tương ứng. Ví dụ: – Giơ flashcard “cat” đọc to CAT, bắt chước tiếng mèo kêu meow! meow! – Giơ flashcard “cow” đọc to COW, bắt chước tiếng bò kêu moo! moo! – Giơ flashcard “duck” đọc to DUCK và bắt chước động tác dang hai tay vỗ vỗ và kêu quack! quack! Ví dụ 2: Giáo viên tự nghĩ ra một câu chuyện đơn giản bằng Tiếng Việt để tạo hứng thú cho học sinh. Câu chuyện cần ngắn gọn, cố gắng bao hàm toàn bộ các từ trong tranh; như vậy là đã gắn các từ vào tình huống. + Chuẩn bị: flashcard các loài động vật ở trang trại, mỗi học sinh chuẩn bị giấy trắng, bút chì để vẽ phác thảo. Kể chuyện lần 1: “Sáng thứ bảy, Mai cùng các bạn trong lớp được đi trải nghiệm ở một trang trại nằm ven thành phố. Mai nhìn thấy một con COW (giơ flashcard COW đọc 2,3, lần) đang ăn cỏ. Nó kêu “Moo…! moo…!”. Đằng sau nó là một khóm FLOWER (giơ flashcard FLOWER đọc 2,3 lần), phía sau là một chú GOAT (giơ flashcard GOAT đọc 2,3, lần). Mai tới gần, nó nhả đám cỏ đang ăn ra chào “Baa! Baa!… Mai xoa đầu nó nói “Hi! Goat”. Đúng lúc đó có một cô BUTTERFLY bay đến (giơ flashcard BUTTERFLY đọc 2,3, lần) đậu trên đầu (làm động tác vẫy cánh bay). Mai reo lên “BUTTERFLY ! Hi! Butterfly” … Kể chuyện lần 2: Yêu cầu học sinh đặt tờ giấy trắng lên bàn. Thông báo nhiệm vụ của học sinh là nghe giáo viên kể lại câu chuyện. Khi nghe thấy tên con vật nào, học sinh đọc to và vẽ vào tờ giấy (vẽ phác thảo). Hoạt động này giúp học sinh tạo được mối liên kết bền vững giữa âm thanh và hình ảnh. Ngoài ra, giáo viên có thể kể lại câu chuyện, đến chỗ xuất hiện con vật nào sẽ giơ flashcard chỉ con vật đó, dừng lại một khoảng thời gian ngắn đủ để học sinh gọi to được tên con vật đó. 18 Ví dụ 3: Luyện tập phát âm và củng cố từ vựng. + Chuẩn bị: flashcards + Tiến hành: Một học sinh lên bảng, quay mặt vào bảng và nhắm mắt lại. Giáo viên đặt thẻ từ vào một chỗ dễ tìm trong lớp học rồi đọc to: “Find me….!” Học sinh quay lại và chạy đi tìm thẻ từ. Cả lớp cùng đồng thanh nhắc lại từ nhiều lần đến khi bạn tìm được thẻ từ đó. Âm lượng to nhỏ phụ thuộc vào khoảng cách của bạn đi tìm với tấm thẻ từ. (Bạn đi tìm càng tiến đến gần thẻ từ, cả lớp càng đọc to và ngược lại.) Khi tìm được học sinh cần thực hiện hô to tên con vật/ đồ vật… đó đồng thời phải miêu tả bằng hành động, cử chỉ hoặc âm thanh tương ứng với con vật/ đồ vật… được giáo viên nhắc đến. Ví dụ 4: + Chuẩn bị: các phù hiệu bằng giấy (cắt vẽ hình con vật/ đồ vật… là các từ mới học trong bài). Phân vai cho học sinh, đóng vai nào thì sẽ đeo phù hiệu hoặc dán biểu tượng tương ứng lên ngực trái. + Tiến hành: Gọi một nhóm học sinh lên bảng, số lượng học sinh trong nhóm tương ứng với số từ được học. Học sinh đứng thành một hàng, giáo viên đọc tên con vật/ đồ vật… nào thì học sinh mang phù hiệu tương ứng sẽ nhảy ra khỏi hàng làm điệu bộ, tiếng kêu… của đồ vật/ con vật… đó (ưu tiên học sinh sử dụng body languages với các đồ vật/ con vật… không có âm thanh hiển thị). Ví dụ: với từ kite học sinh có thể dùng hai tay làm động tác đang thả diều… Như vậy, để mở rộng vốn từ vựng và phát triển kỹ năng NGHE – NÓI cho học sinh, giáo viên cần tổ chức cho học sinh tham gia vào các hoạt động phù hợp; sử dụng thường xuyên những câu nói tiếng Anh đơn giản kết hợp với điê ̣u bộ cử chỉ để làm cho không khí lớp học sôi nổi, hào hứng hơn; chú trọng viê ̣c rèn phá t âm học sinh. Ngoài ra, giáo viên có thể áp dụng phương phá p đọc tá ch ghép âm, giúp học sinh phá t âm từ được chính xá c và dễ dàng hơn, đặc biê ̣t là cá c âm cuố i. 19 2.2.2. Hệ thống PHIẾU BÀI TẬP theo từng chủ điểm. Hệ thống phiếu bài tập này nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển kĩ năng ĐỌC- VIẾT. Các phiếu bài tập được xây dựng theo hướng phát triển năng lực và phù hợp với khả năng nhận thức của từng đối tượng học sinh. Nội dung các bài tập đa dạng và phong phú. Các chủ điểm quen thuộc, gần gũi, gắn với thực tiễn cuộc sống. Với đối tượng học sinh trung bình và dưới trung bình: Ôn lại cho học sinh kiến thức kiến thức cơ bản, trọng tâm để các em nắm vững trước khi làm bài tập. Số lương từ v ̣ ưng ít hơn, mức đ ̣ ô ̣ thưc hành, vận dụng và kiểm ̣ tra cũng giảm đô ̣ khó. Các từ vựng được sử dụng lặp lại nhiều lần và nâng dần mức độ của bài tập sau khi các em đã nhớ được các từ đó. Sơ đồ tư duy (mindmap) là công cụ hiệu quả giúp thực hành ôn tập và mở rộng từ vựng. Với đối tượng học sinh khá, giỏi: Ngoài việc củng cố kiến thức cơ bản, giáo viên cần mở rộng vốn từ vựng bám sát vào nội dung của từng đơn vị bài học. Có thể hướng dẫn, khuyến khích các em viết các đoạn văn ngắn theo các chủ điểm đơn giản, quen thuộc, gần gũi. Việc viết lúc đầu sẽ khiến học sinh gặp khó khăn đôi chút vì vốn từ không nhiều, nhưng càng về sau các bạn sẽ càng tiến bộ vì quá trình viết cũng là sự ghi nhớ từ mới. Để củng cố và mở rộng vốn từ vựng cho học sinh. Giáo viên có thể đưa thêm các phiếu học tập như sau: 20 Ví dụ 1: Phiếu bài tập Tiếng Anh 3 Dành cho học sinh trung bình và dưới trung bình.
WORKSHEET TOPIC: THE WEATHER I. Look and read aloud. II. Match the words to the pictures.
21
III. Look and write. 1. oht => ……….hot………… 5. ofgyg => …………………. 2. unsny => ………………….. 6. nsonyw => ……………….. 3. colduy => ………………… 7. nrayi => …………………. 4. wniyd => ………………… 8. oldc => …………………. IV. Look and complete. 1. It is …………………………… in Ha Noi today. 2. It is …………………………… in Sa Pa today. 3. It is …………………………… in Ho Chi Minh City today. 4. It is ………………..and ………………. in Nam Dinh today. 5. It is ………………..and ………………. in Da Nang today. THE END
22 Dành cho học sinh khá, giỏi.
WORKSHEET TOPIC: THE WEATHER I. Match a word to a picture.
23
III. Look and write. 1. ……….hot………… ……………………. 2. ……………………. ……………………. 3. ……………………. ……………………. 4. ……………………. ……………………. 5. ……………………. ……………………. IV. Look and complete. 1. It is ………………. and ……………….. in Ha Noi today. 2. It is ……………….. and ……………….. in Sa Pa today. 3. It is ………….. and ……………….. in Ho Chi Minh City today. 4. It is ………………. and ……………… in Hue today. 5. It is ………………. and ……………….. in Nam Dinh today. THE END
24 Ví dụ 2: Phiếu Bài tập Tiếng Anh 4 Dành cho học sinh trung bình và dưới trung bình.
WORKSHEET TOPIC: CLOTHES I. Look and read aloud. II. Look and match.
25
III. Do the crossword puzzle. IV. Read and complete. Nam wears different clothes for schooldays. On hot days, he often wears a blue ……………………., a red scarf, a white ……………………., a pair of blue ……………………. and a pair of …………………….. On cold days, he wears a cap, a scarf and a yellow …………………….. over a brown ………………….. and a pair of black ……………….. Nam likes hot days because he can wear light clothes to………………. THE END
26 Dành cho học sinh khá, giỏi.
WORKSHEET TOPIC: CLOTHES I. Look and read aloud. II. Circle then write. III. Read and complete. Nam wears different …………….. for schooldays. On hot days, he often wears a blue ……………………., a red ……………., a white ……………….., a pair of blue ……………………. and a pair of ……………………..
27
On cold days, he wears a cap, a scarf and a yellow …………………….. over a brown ………………….. and a pair of black ……………….. Nam likes hot days because he can wear light clothes to ………………. IV. What’s he/ she wearing? THE END
28 Ví dụ 3: Phiếu Bài tập Tiếng Anh 5 Dành cho học sinh trung bình và dưới trung bình.
WORKSHEET TOPIC: ZOO ANIMALS I. Look and read. II. Do the crossword puzzle.
29
III. Look at the pictures. Read and write one word for each gap. 1. A _______________ danced beautifully. 2. A ______________ ate a bamboo tree. 3. Two ________________ roared loudly. 4. I took photos of some __________ for my Science project. 5. I like __________ very much. IV. Order the words. 1. you / what / animal / want / to / do / see ___________________________________________? 2. to / he / tigers / see / wants / bears / and ___________________________________________. 3. like / fruit / eating / monkeys ___________________________________________. 4. they / because / she / zebras / likes / beautiful / are ___________________________________________. 5. animal / what’s / favourite / your ___________________________________________? THE END
30 Dành cho học sinh khá, giỏi.
WORKSHEET TOPIC: ZOO ANIMALS I. Look and read. II. Read and write ONE word in each blank. A: I didn’t see you yesterday. Where did you (1) ………………………? B: I went to the (2) ……………………… . A: What did you see there? B: I saw some (3) ………………………. I enjoyed looking at the baby elephant. A: What was it (4) ………………………? B: It was very (5) ……………………… . A: What did it do when you were there? B: It moved (6) ………………………and quietly. III. Look at the pictures. Read and write one word for each gap. 1. A _______________ danced beautifully.
31
2. A ______________ ate a bamboo tree. 3. Two ________________ roared loudly. 4. I took photos of some __________ for my Science project. 5. I like __________ ve ry much. IV. Look and write the correct words. 1. They have two long and two short legs. _________2. It lives in the Polar regions. _________3. It has a long trunk and two tusks. _________4. This bird have long and colourful tails. _________V. Write about a visit to the zoo. Use the questions. 1.. When did you go to the zoo?/ Who did you go with?2. What animals did you see first,…, finally?3. What did they do when you were there?4. Did you enjoy the school visit to the zoo? Why? I went to the zoo with my classmates last Sunday. We ………………….. ……………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………………… THE END
32 Kết luận: Việc xây dựng các dạng bài tập phát triển từ vựng góp phần tích cực trong công tác đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực. Hệ thống bài tập chính xác, đa dạng, vừa sức và gần gũi cuộc sống sẽ mang lại hiệu quả tích cực, phát huy hết khả năng sáng tạo của từng cá nhân học sinh theo các mức độ khác nhau; Đồng thời giúp giáo viên nâng cao năng lực của bản thân, thúc đẩy việc nghiên cứu, tự học và tính sáng tạo. 2.3. Giải pháp 3: Kết hợp hiệu quả với giáo viên bản ngữ trong các tiết học Tiếng Anh có yếu tố nước ngoài. Trong những năm gần đây, mô hình giảng dạy tiếng Anh kết hợp giáo viên nước ngoài với giáo viên trong nước của Trường tiểu học Hùng Vương nói riêng và toàn tỉnh Nam Định nói chung đã mang lại những kết quả thiết thực, vừa khuyến khích nhu cầu học tiếng Anh của họ
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Trong xã hội hiện nay sức khoẻ được ví như vàng, nhưng cũng có khi hơn vàng bởi sức khoẻ có thể làm ra vàng nhưng vàng lại không thể tạo ra một cơ thể khoẻ mạnh được. Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã nói “mỗi người dân khoẻ mạnh sẽ làm cho Đất nước khoẻ mạnh”. Trình độ dân trí và tiềm lực khoa học công nghệ đã và đang trở thành nhân tố quyết định sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia trên thế giới. Cũng như đất nước ta đang ở trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như kinh tế chính trị văn hóa xã hội vì vậy xã hội đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách đối với ngành giáo dục hiện nay. Hiện nay, hoạt động Giáo dục thể chất trong nhà trường có vai trò hết sức quan trọng, giúp học sinh phát triển một cách toàn diện về đức, trí, thể, mỹ… Môn Giáo dục thể chất ở cấp tiểu học giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất chủ yếu với các biểu hiện cụ thể như: Tham gia chơi tích cực các trò chơi vận động, rèn luyện tư thế, tác phong, phản xạ và bổ trợ môn thể thao yêu thích; nghiêm túc, tích cực trong tập luyện và hoạt động tập thể; bước đầu hình thành thói quen tập thể dục; thể hiện sự yêu thích tập luyện thể dục thể thao; có trách nhiệm với tập thể và ý thức giúp đỡ bạn bè trong tập luyện. Chương trình Giáo dục thể chất cấp tiểu học và đặc biệt là khối lớp 5 năm hiện nay bao gồm rất nhiều nội dung gồm: Đội hình đội ngũ, bài thể dục phát triển chung, bài tập rèn luyện tư thế cơ bản, bài tập về kỹ năng vận động cơ bản và trò chơi vận động. Tất cả những nội dung trên đều có tác động nên cơ thể các em làm cho cơ thể các em chuyển biến về hình thái theo hướng tích cực là một trong những mặt giáo dục có ý nghĩa nêu cao tầm vóc sức khỏe cho học sinh phát triển tốt hơn. Bài Thể dục phát triển chung trong chương trình học của môn Giáo dục thể chất khối lớp 5 là một trong những nội dung chính của chương trình học. Bài Thể dục phát triển chung giúp học sinh rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo, tinh tế cả về thể chất và tinh thần, qua đó trang bị cho học sinh kĩ năng chăm sóc sức khoẻ, hình thành thói quen luyện tập Thể dục thể thao thường xuyên giúp các em có trách nhiệm hơn đối với sức khoẻ của bản thân, gia đình và cộng đồng. Mặt khác, qua bài Thể dục phát triển chung học sinh trực tiếp hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu (yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách 2 nhiệm) và các năng lực chung gồm: Năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. – Nhằm phát triển thể lực, cơ thể, tạo sự hứng thú cho học sinh tập luyện, hình thành kĩ năng vận động, củng cố và nâng cao sức khoẻ, có sự tác động trực tiếp tích cực đến việc rèn luyện sức khoẻ và ý chí, phẩm chất đạo đức cho người học. – Tăng hiệu quả cho bài tập thể dục về nhiều mặt, kể cả đến tác dụng thực tế lao động và quốc phòng. Qua đó giúp người tập có cảm xúc tốt, tinh thần thoải mái và hào hứng trong các giờ học cũng như các hoạt động TDTT khác. – Bài Thể dục là một bài tập cơ bản, được thực hiện thường xuyên nhất cả khi ở trường cũng như ở nhà. Bài thể dục phát triển chung còn được sử dụng làm bài đồng diễn trong những dịp lễ nên việc rèn luyện tư thế chính xác đặc biệt là tư thế tay là rất quan trọng, tạo sự đồng nhất trong tập thể. Đặc biệt, thực hiện tư thế tay chính xác trong bài Thể dục phát triển chung tạo tiền đề giúp học sinh khi lên các cấp học trên có kĩ thuật chính xác trong tất cả các nội dung của môn Giáo dục thể chất, có ích trong việc rèn luyện sức khoẻ. – Đồng thời còn giáo dục cho các em học sinh hiểu rõ tầm quan trọng của bài Thể dục và việc cần thiết phải thực hiện tư thế chuẩn và đẹp nhất, nhất là đối với tư thế của tay. Giáo viên nêu rõ được những lợi ích khi thực hiện tư thế tay chuẩn và chính xác mang lại đó là nâng cao tính thẩm mỹ, tạo tư thế đẹp nhất khi thực hiện động tác và mang lại một thân hình đẹp, cân đối, sự tự tin khi tập luyện thể thao. Đối với học sinh Tiểu học, các em còn nhỏ, hệ xương chưa phát triển đầy đủ, hệ hô hấp ở độ tuổi này có đường hô hấp còn hẹp, hệ tuần hoàn hoạt động chưa được tốt, sự tập trung chú ý chưa bền vững, dễ bị phân tán, tính hưng phấn chưa cao, trí tưởng tượng đang phát triển song còn tương đối nghèo nàn. Từ thực tế giảng dạy, xuất phát từ những vấn đề nêu trên, với kiến thức và kinh nghiệm của bản thân trong những năm giảng dạy cùng với sự quan tâm giúp đỡ của đồng nghiệp cũng như mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả, độ chính xác khi thực hiện bài Thể dục phát triển chung của học sinh khối 5, tôi mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu và tìm ra : “Một số giải pháp nhằm giúp học sinh hoàn thiện tư thế tay trong bài Thể dục phát triển chung môn Giáo dục thể chất lớp 5”. 3 II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến. – Học sinh trong khối lớp 5 tôi dạy đều ngoan, nhận thức khá nhanh nhưng một số ít các em nhút nhát, e dè, hạn chế trong giao tiếp, thực hiện các động tác một cách thụ động, chủ yếu nghe và làm theo thầy cô giáo chứ các em ít tự tìm tòi, sáng tạo, tính tự giác chưa cao, các kiến thức thực tiễn, kĩ năng của các em còn hạn chế. Ngoài ra, cha mẹ học sinh có tâm lí bao bọc, chiều chuộng con khiến cho kĩ năng thực tế, kĩ năng phản xạ nhanh với các tình huống trong cuộc sống kém dẫn đến dần dần các em thụ động trong giờ tập luyện. – Học sinh thực hiện bài tập còn qua loa, nhất là tư thế của tay qua các động tác còn yếu kém, chưa chính xác, gặp bối rối, chưa linh hoạt khi chuyển qua các động tác khác nhau. – Tuy có sân bãi riêng để học Thể dục nhưng mặt sân không được bằng phẳng, vào mùa mưa sân bị đọng nước, mùa nắng lại thiếu cây che bóng mát khiến cho việc giảng dạy của giáo viên cũng như việc tập luyện của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, tranh ảnh, dụng cụ hỗ trợ cho việc giảng dạy chưa đầy đủ, giáo viên chưa chuẩn bị kĩ càng nên chất lượng buổi dạy chưa cao. Dưới đây là bảng số liệu tôi đã tổng hợp được trước khi áp dụng sáng kiến của học sinh khối lớp 5 như sau:
Lớp
Sĩ số
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
5A
32
20
63%
10
31%
2
6%
5B
31
24
77%
7
33%
0
0%
5C
30
19
63%
10
33%
1
4%
5D
32
20
63%
12
47%
0
0%
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: Sáng kiến: “Một số giải pháp giúp học sinh hoàn thiện tư thế tay trong bài Thể dục phát triển chung môn Giáo dục thể chất lớp 5’’ là sáng kiến được áp dụng lần đầu tiên tại đơn vị, giúp học sinh thực hiện tư thế của tay trong bài Thể dục phát triển chung một cách chuẩn và chính xác nhất từ biên độ động tác đến 4 hướng bàn tay cũng như tư thế chuẩn của cánh tay, đồng thời tạo tâm lí tự tin cho học sinh khi thực hiện các nội dung khác của môn học. Sau khi áp dụng sáng kiến vào quá trình giảng dạy bản thân tôi nhận thấy chất lượng giảng dạy có sự chuyển biến rõ rệt. Sáng kiến đã tìm ra được những nguyên nhân dẫn đến chất lượng bài tập Thể dục chưa cao và từ đó đã tìm ra được biện pháp và cách khắc phục tình trạng của tư thế tay phù hợp nhất. a. Biện pháp cụ thể: Qua thời gian giảng dạy nội dung bài Thể dục phát triển chung, để giúp học sinh hình thành được tư thế tay chính xác và đẹp nhất nâng cao chất lượng bài tập, bản thân tôi đã mạnh dạn áp dụng những biện pháp cụ thể sau: Biện pháp 1: Giáo dục cho học sinh hiểu rõ tầm quan trọng của việc tập thể dục Trong chương trình phân môn Giáo dục thể chất khối lớp 5, nội dung bài Thể dục phát triển chung bao gồm 8 động tác cơ bản: Động tác vươn thở, động tác tay, động tác chân, động tác vặn mình, động tác toàn thân, động tác thăng bằng, động tác nhảy và động tác điều hoà. Trong tất cả các động tác đó thì tư thế của tay là vô cùng quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến độ chính xác và tính thẩm mĩ của từng động tác. Dựa vào tầm quan trọng đó mà giáo viên cùng trao đổi với học sinh nhằm giúp các em có thể tự tìm hiểu, rút ra kết luận cho bản thân; tạo ra bầu không khí thân thiện, cởi mở, các em có thể cùng lắng nghe và chia sẻ với nhau. Tập luyện chính xác tư thế giúp các em phát triển toàn diện hơn, cân đối hơn. Ngoài việc phát triển cân đối tập luyện thể dục còn giúp cho các em nhanh nhẹn hơn, linh hoạt hơn, đầu óc minh mẫn hơn, giảm căng thẳng sau những giờ học mệt mỏi ở trong lớp. Hơn nữa việc rèn luyện tư thế tay chính xác ngay từ đầu giúp các em tự tin hơn khi thực hiện tất cả các nội dung khác nhau liên quan đến vận động. Trong quá trình trao đổi giáo viên cũng kịp thời động viên những suy nghĩ sáng tạo và tích cực của học sinh. Ví dụ: Đối với động tác vươn thở ở đây là động tác đầu tiên trong chuỗi các động tác của bài Thể dục phát triển chung giúp học sinh điều hòa được hơi thở và chuẩn bị một tâm thế tốt nhất cho những động tác tiếp theo. Khi học sinh hít thở theo đúng nhịp và thực hiện được chính xác các tư thế của động tác sẽ 5 mang lại tính thẩm mỹ cao, thể hiện được sự linh hoạt khéo léo của từng học sinh. Biện pháp 2: Xây dựng hệ thống các bài tập bổ trợ. * Mục đích: Nhằm giúp học sinh hình thành những kĩ năng cơ bản ban đầu chính xác về các tư thế của tay, tiếp đó giúp học sinh tạo thành kỹ năng thuần thục cho tất cả các nội dung vận động khác nhau của môn Giáo dục thể chất cũng như các hoạt động ứng dụng ngoài giờ lên lớp. Tôi đã nghiên cứu và xây dựng hệ thống các bài tập bổ trợ mang tính đặc thù chuyên môn đi từ đơn giản đến phức tạp. Đối với các bài tập cũ học sinh chỉ quan sát và làm theo giáo viên thì ở biện pháp này tôi chủ động tách nhỏ các bài tập riêng cho tư thế tay để học sinh chủ động hơn khi học các động tác bài thể dục. Đây là biện pháp mang tính mới mà tôi đã đầu tư nghiên cứu và thử nghiệm đã mang lại hiệu quả rõ rệt. * Các bài tập bổ trợ: – Bài tập cho bàn tay: Các tư thế của bàn tay bao gồm: + Bàn tay khép thẳng: Các ngón tay khép thẳng. 6 + Bàn tay mở: Các ngón tay xoè rộng. + Bàn tay nắm: Ngón tay nắm tròn. 7 + Bàn tay hoa: Ngón tay xoè, ngón út và ngón cái khép gần nhau tạo hình bông hoa. – Bài tập cho hướng bàn tay: Bài tập cho các hướng bàn tay bao gồm: + Bàn tay úp: Lòng bàn tay hướng xuống đất, ngón tay khép. 8 + Lòng bàn tay hướng vào nhau. + Lòng bàn tay hướng ra ngoài. 9 – Bài tập cho cánh tay: Bài tập cho cánh tay bao gồm tư thế: + Tay chống hông. +Tay chếch dưới: Cánh tay tạo với thân người một góc 45 độ. 10 + Tay ngang: Cánh tay tạo với vai thành một đường thẳng. + Tay chếch cao: 2 cánh tay mở tạo thành hình chữ V. 11 + Tay cao: 2 cánh tay khép thẳng áp sát tai. + Tay trước: Cánh tay thẳng song song nhau và song song mặt đất. 12 + Tay gập trước ngực: Cánh tay thẳng vai và vuông góc thân người. + Tay trước tay cao. 13 +Tay cao tay ngang. Biện pháp 3: Bài tập phối hợp, nâng cao các tư thế của tay. Sau khi học sinh đã hình thành kĩ năng cơ bản cho tư thế tay tôi đã áp dụng các bài tập mới bằng cách phối kết hợp giữa tư thế cánh tay, bàn tay và hướng bàn tay từ đơn giản đến tăng dần mức độ khó. Những bài tập này nhằm giúp học sinh hình thành kĩ xảo thuần thục cho tư thế tay, từ biên độ động tác đến hướng tay và kết hợp cùng bàn tay. Đối với những động tác cơ bản của bài thể dục phát triển chung không thể thiếu được các tư thế tay, tuy nhiên học sinh chủa hình dung được ở tư thế tay nào sử dụng hướng tay ra sao. Vì vậy các em gặp bối rối khi thực hiện các động tác liên hoàn. Giáo viên dừng lại sửa sai cho từng em mất quá nhiều thời gian. Tôi đã cho học sinh thực hiện bài tập chuyên môn dành riêng cho tư thế tay có kết hợp với các hướng bàn tay khác nhau để các em linh hoạt không chỉ trong khi thực hiện bài thể dục mà còn ở tất cả các hoạt động thể dục thể thao khác. Các bài tập tôi áp dụng bao gồm: 14 – Tay cao kết hợp bàn lòng bàn tay hướng vào nhau, hướng ra ngoài, hướng ra trước ngón tay khép. 15 – Tay trước kết hợp bàn tay úp, bàn tay ngửa các ngón tay. 16 – Tay ngang kết hợp bàn tay úp, bàn tay ngửa và bàn tay nắm. 17 – Tay chống hông kết hợp bàn tay úp và tay nắm. 18 Biện pháp 4: Hình thành phản xạ có điều kiện của tư thế tay Đây là biện pháp mang tính sáng tạo mà tôi đã thực hiện nhằm giúp học sinh hình thành phản xạ cho tư thế tay chuẩn xác nhất khi không có tác động của ngoại cảnh. Trước đây học sinh thực hiện động tác theo kiểu bắt chước là chinh, thầy cô làm mẫu học sinh làm theo. Tuy nhiên, theo chương trình Giáo dục phổ thông mới 2018 hiện hành thì học sinh sẽ tự chủ các hành vi và kiến thức của bản thân và giao viên chỉ đóng vai trò người hướng dẫn để các em tự hình thanh động tác chinh xác cho bản thân. Tôi cho học sinh nhắm mắt sau đó thực hiện các tư thế tay khác nhau theo nhịp hô của giáo viên. Hình thức tập luyện này đòi hỏi học sinh phải tư duy và nhận thức một cách chủ động để khi giáo viên dứt hiệu lệnh học sinh thực hiên ngay động tác chính xác mà không cần nhìn và chỉnh sửa. Thực hiện tốt giải pháp này là học sinh đ
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN. 1.Lý do chọn đề tài. Cũng như các môn học khác, môn GDTC là một trong những môn học bắt buộc ở trường tiểu học. Môn GDTC cùng với các môn khác trong nhà trường, có nhiệm vụ quan trọng trong hình thành ở người học những nhân cách sống của con người lao động mới, trong thời đại mới, mà mục tiêu giáo dục của Đảng ta là đào tạo con người: Tự chủ – năng động – sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra, tự do được việc làm, lập nghiệp và thăng tiến trong cuộc sống. Qua đó góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Không những thế, Giáo dục thể chất cho thế hệ thanh niên là một mặt của nền giáo dục tiến bộ, là nhu cầu tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của một xã hội văn minh nói chung và của công cuộc xây dựng XHCN, bảo vệ Tổ quốc nói riêng. Môn GDTC còn mang lại cho thế hệ trẻ cuộc sống vui tươi, lành mạnh và tác động mạnh mẽ đến các mặt giáo dục như: Giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, lao động thẩm mĩ nhằm góp phần đào tạo thế hệ thanh niên Việt Nam thành những người “phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Đối với học sinh Tiểu học, các em còn nhỏ, hệ xương chưa phát triển đầy đủ, tổ chức sụn chiếm tỷ lệ cao, cột sống yếu. Hệ hô hấp ở độ tuổi này có đường hô hấp còn hẹp, hệ tuần hoàn hoạt động còn kém (do tim còn nhỏ). Sự tập trung chú ý chưa bền vững, dễ phân tán, tính hưng phấn cao, trí tưởng tượng phát triển hơn song còn nghèo nàn, tản mạn, ít có tổ chức, tư duy logic chưa cao. Do đó làm thế nào để dạy môn GDTC trong trường Tiểu học thực sự thu hút được học sinh tập trung chú ý, tích cực tập luyện và tập luyện có hiệu quả, phù hợp với các em là một vấn đề đòi hỏi cần phải có sự đầu tư, nghiên cứu. Môn GDTC là một trong những bộ phận của nền giáo dục, góp phần làm thay đổi mọi mặt của giáo dục toàn diện có ảnh hưởng rất lớn tới các mặt giáo dục khác, có vị thế hết sức quan trọng trong việc chuẩn bị cho học sinh có đầy đủ khả năng, sức khỏe để tham gia vào cuộc sống sản xuất và bảo vệ tổ quốc. Trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng mục tiêu phát triển con người toàn diện, khẳng định tầm quan trọng “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp: công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, là điều kiện phát huy nguồn nhân lực”. Học sinh Tiểu học có tính vui tươi, hồn nhiên, hiếu động là không thể thiếu ở các em. Vì vậy môn GDTC không nên theo hướng thể dục đơn thuần, máy móc, gây cho các em sự mệt mỏi, căng thẳng, nhàm chán, dẫn đến phản tác dụng rèn luyện mà phải tác động một cách toàn diện, tạo nên sự hứng thú, giúp các em ham thích tập luyện. Mặt khác có em có sức khoẻ tốt, có em có sức khoẻ yếu, có em tật bẩm sinh. Vậy phải làm thế nào với những em không phải đứng nhìn các bạn tập luyện mà mình không cảm thấy buồn và thua thiệt các bạn? Với mục tiêu 3 của giáo dục, nền tảng giáo dục thể chất đặt ra, với những phương pháp được sử dụng hợp lý có tác dụng quan trọng đến đối tượng học sinh, kích thích hay động viên, nhiều phương pháp khác nhau để cho các em có thể tập luyện nâng cao sức khoẻ, phục vụ tốt cho công tác giảng dạy. Là giáo viên dạy môn GDTC qua nhiều năm, tôi thấy các em học môn GDTC còn miễn cưỡng, chưa chủ động trong việc tiếp thu kiến thức, học sinh chưa hứng thú với môn học nên hiệu quả học của học sinh còn ở mức độ. Đặc biệt năm học 2020-2021 là năm học bắt đầu thực hiện CTPT2018 với mục tiêu dạy học cho HS phát triển phẩm chất và năng lực. Vì đó tôi đi vào nghiên cứu chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển năng lực đặc thù nâng cao hiệu quả học môn GDTC cho HS ở trường tiểu học”. 2.Phạm vi nghiên cứu. Học sinh tiểu học. 3.Phương pháp nghiên cứu. -Phương pháp điều tra. -Phỏng vấn, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp. -Thực hiện giảng dạy thực tế với học sinh trong tiết GDTC. II.Mô tả giải pháp. 1.Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến. 1.1.Thực trạng của vấn đề dạy học môn GDTC. Qua thực tế giảng dạy ở trường cùng với việc dự giờ thăm lớp các đồng nghiệp khác ở cùng trường, ở trường bạn khi SHCM. Tôi nhận thấy có những ưu điểm, hạn chế sau: *Về phía học sinh: + Ưu điểm: Học sinh thường có quỹ thời gian học nhiều các môn Toán, Tiếng việt, đây là các môn học chiếm thời lượng số tiết nhiều và do cô giáo chủ nhiệm dạy rất nhiều môn, các cô có tâm lí chung “nhồi nhét” kiến thức Toán, Tiếng việt cho các em để thi các môn đạt kết quả cao. Vì thế khi đến học môn GDTC các em rất thích vì thoát ra khỏi 4 bức tường được ra sân rộng lớn chạy nhảy “như chim sổ lồng”. +Hạn chế: Nhiều em còn nhịn ăn sáng đi học nên có em bị lả đi trong quá trình tập luyện, có trạng thái mệt mỏi, uể oải khi học. 4 Có những em sự tập trung ở trong giờ học chưa được duy trì tốt từ đầu cho đến khi kết thúc. *Về phía giáo viên: +Ưu điểm: Tôi là một giáo viên được đào tạo qua trình độ Đại học chính quy nên nắm chắc về phương pháp giảng dạy. Ngoài ra tôi còn được học lớp “Tư vấn tâm lí” do Sở GD&ĐT Nam Định tổ chức ở năm học 2018-2019. Bản thân có nhiều năm kinh nghiệm trong dạy môn GDTC. +Hạn chế: Sự phối kết hợp với GVCN, CMHS còn ít. 1.2.Đánh giá về hiệu quả học môn GDTC năm học 2018-2019 (năm học chưa áp dụng sáng kiến). Ví dụ: Khi học sinh học bài tập thể dục theo chương trình GDPT 2018 (bài thể dục phát triển chung theo chương trình 2006) . Năm học 2019-2020 (đó chính là năng lực vận động).
Lớp
Sĩ số
Phối hợp đúng các động tác của bài tập thể dục
Phối hợp chưa đúng các động tác của bài tập thể dục
SL
%
SL
%
5D
32
19
59,4
13
40,6
5E
31
17
54,8
14
45,2
1.3.Nguyên nhân của những hạn chế. 1.3.1.Nguyên nhân từ phía học sinh: Do đặc điểm của học sinh ở vùng nông thôn, nhiều em bố mẹ đi xa thường ở với ông bà nên sự quan tâm chu đáo của bố mẹ về sức khoẻ chưa hết. Một số em có sức khoẻ yếu, tham gia giờ học uể oải, có trạng thái mệt mỏi. Có những em sự tập trung ở trong giờ học chưa được duy trì tốt từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc giờ học. 5 Khi kết thúc giờ học, một số em chưa nắm chắc các nội dung, kĩ thuật động tác, các nội dung vận động, các trò chơi của tiết học trong quy định của chương trình. 1.3.2.Nguyên nhân về phía giáo viên. Do tôi không phải là giáo viên địa phương nên việc quan tâm tìm hiểu được nhiều về hoàn cảnh gia đình, việc trao đổi với CMHS còn ở mức độ. 1.3.3.Một số nguyên nhân khác. Trường chưa có nhà đa năng nên các tiết học chủ yếu ngoài trời. Không gian bị loãng nên các em dễ phân tán tư tưởng. Các giờ học GDTC được tiến hành giảng dạy học tập ở ngoài trời. Nhiều em bố mẹ đi làm xa, đại đa số các em ở với ông bà, người thân nên các em thường tự phục vụ bản thân (nhiều em còn nhịn ăn khi đi học). Nhiều em chưa mạnh dạn tự tin, sự hứng thú tích cực tham gia còn ở mức độ. 2.Mô tả giải pháp khi có sáng kiến 2.1.Những vấn đề lí luận chung. Môn Giáo dục thể chất (GDTC) góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Trọng tâm là: Trang bị cho học sinh kiến thức và kỹ năng chăm sóc sức khỏe; kiến thức và kĩ năng vận động hình thành thói quen tập luyện, khả năng lựa chọn môn thể thao phù hợp để luyện tập nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực và tố chất vận động.Trên cơ sở đó giúp học sinh có ý thức, trách nhiệm đối với sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng, thích ứng với các điều kiện sống, sống vui vẻ, hòa đồng với mọi người. Môn Giáo dục thể chất giúp học sinh biết cách chăm sóc sức khỏe, vệ sinh thân thể, hình thành thói quen tập luyện nâng cao sức khỏe thông qua các trò chơi vận động và tập luyện thể dục, thể thao hình thành các kỹ năng vận động cơ bản, phát triển các tố chất thể lực làm cơ sở để phát triển toàn diện. Môn GDTC cũng như nhưng môn học khác với mục tiêu chung là hình thành, phát triển những năng lực, phẩm chất cho học sinh. Đồng thời hình thành, phát triển năng lực đặc thù của môn học đó là năng lực chăm sóc sức khoẻ, năng lực vận động cơ bản, năng lực hoạt động thể dục thể thao. Để học sinh đạt được các 6 yêu cầu của môn GDTC thì GV phải có những biện pháp để nâng cao hiệu quả học môn GDTC cho học sinh. Trong dạy học môn GDTC theo CTGDPT 2018, GV cần chú trọng phát triển các năng lực cho HS như sau: + Hình thành, phát triển năng lực chăm sóc sức khoẻ: Giáo viên tạo cơ hội cho học sinh huy động những hiểu biết, kinh nghiệm sẵn có để hình thành ý thức và kiến thức về chăm sóc sức khỏe, đồng thời tăng cường giao nhiệm vụ ở nhà, đồng thời phối hợp với cha mẹ học sinh giúp đỡ học sinh thực hiện nền nếp giữ gìn vệ sinh, chăm sóc sức khỏe bản thân. + Hình thành, phát triển năng lực vận động cơ bản: Giáo viên khai thác ưu thế của giáo dục thể chất là một loại hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học vận động (động tác) và sự phát triển có chủ định các tố chất vận động của con người. Các giai đoạn dạy học động tác nhằm hình thành ở học sinh kĩ năng vận động, khả năng vận dụng vào thực tế. Việc tổ chức các hoạt động vận động (bài tập và trò chơi vận động) giúp cho học sinh hình thành và phát triển được các tố chất thể lực cơ bản như: nhanh, mạnh, bền, khéo léo, mềm dẻo…. cũng như khả năng thích ứng của cơ thể và trí nhớ vận động. + Hình thành, phát triển năng lực hoạt động thể dục thể thao: Giáo viên vận dụng nguyên tắc giáo dục cá biệt, quan tâm phát hiện và hướng dẫn học sinh tập luyện các môn thể dục thể thao phù hợp với sở thích, sở trường; tạo cơ hội cho học sinh được quan sát và tham gia các trò chơi, các hoạt động cổ vũ và thi đấu thể thao, từ đó khơi dậy niềm đam mê hoạt động thể dục thể thao, khả năng hoạt động thể dục thể thao, phát triển khả năng trình diễn và thi đấu. Để học sinh đạt được những năng lực trên, người GV cần nắm bắt được thực trạng của từng học sinh, từng khối lớp và có những phương pháp riêng góp phần cho học sinh đạt được yêu cầu của môn học, phát triển những năng lực và phẩm chất cần thiết cho học sinh. 2.2.Cơ sở thực tiễn. 7 Trong môn GDTC cần chú trọng phát triển thể chất, thể lực vận động tạo cho các em các kỹ năng vận động, xử lí tình huống trong cuộc sống đồng thời trang bị các kiến thức cơ bản để các em rèn luyện sức khoẻ, có một tinh thần tốt để học tập các môn học khác. Để phát triển các năng lực, phẩm chất cần thiết nhất cho học sinh, là một người giáo viên dạy môn GDTC cần quan tâm tới từng học sinh, nắm bắt tình hình sức khoẻ, đặc điểm tâm lí tạo động cơ, hứng thú học tập cho các em. Tất cả những yếu tố đó đòi hỏi người giáo viên phải có những phương pháp tối đa hoá các tiềm năng ở học sinh có như thế mới nâng cao chất lượng cho học sinh trong quá trình học môn GDTC. Từ những thực trạng trên, để nâng cao chất lượng môn GDTC cho học sinh tiểu học, ngoài việc giáo viên vận dụng tốt các phương pháp, hình thức dạy học theo đặc thù môn học, tôi đã đưa ra biện pháp: “Một số biện pháp phát triển năng lực đặc thù nâng cao hiệu quả học môn GDTC cho HS ở trường tiểu học” và có những biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng môn GDTC ở trường tiểu học. 2.3.Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề. 2.3.1.Nội dung các biện pháp. Biện pháp thứ nhất: Giáo viên cần có bước lập kế hoạch bài dạy chu đáo, tỉ mỉ. Càng tỉ mỉ bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Biện pháp thứ hai: Tìm hiểu sức khoẻ thông qua phiếu hỏi để tác động tâm lí tạo sự “tự tin” cho học sinh. Biện pháp thứ ba: Rèn kĩ năng làm cán sự lớp. Biện pháp thứ tư: Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tạo cho học sinh sự hứng thú, ý thức, thái độ tích cực tập luyện trong mỗi tiết học ở từng chủ đề khác nhau. Biện pháp thứ năm: Tích hợp liên môn các môn học ở trường tiểu học. Biện pháp thứ sáu: Đánh giá, nhận xét, tuyên dương học sinh không bằng điểm số mà bằng những hình thức khác nhau. Biện pháp thứ bảy: Phối kết hợp với CMHS trong việc giáo dục chế độ dinh dưỡng nâng cao sức khoẻ cho học sinh. Biện pháp thứ tám: Tổ chức các hoạt động trải nghiệm, giao lưu với các trường bạn. 2.3.2.Thực nghiệm sư phạm. Mô tả cách thực hiện: 8 Biện pháp thứ nhất: Giáo viên cần có bước lập kế hoạch bài dạy chu đáo, tỉ mỉ. Càng tỉ mỉ bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. 2.3.2.1. Biện pháp thứ nhất: Lập kế hoạch bài dạy chu đáo. Vì sao phải lập kế hoạch bài dạy chu đáo? Vì đây là yêu cầu bắt buộc, cần thiết, quan trọng với tất cả giáo viên. Vì khi chúng ta lập kế hoạch bài dạy chu đáo là chúng ta đã làm nên một nửa thành công của tiết dạy. Căn cứ vào khả năng của bản thân, điều kiện CSVC của nhà trường, khả năng tiếp thu của học sinh, dự kiến tình huống xảy ra cùng với thực tế về điều kiện thời tiết, không gian, thời gian để kế hoạch bài dạy có tính khả thi đồng thời phát triển được năng lực cho học sinh theo CT GDPT 2018. Môn Giáo dục Thể chất (GDTC) vận dụng phương pháp giáo dục tích cực, lấy học sinh làm trung tâm, thực hiện chuyển quá trình giáo dục thành tự giáo dục, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, cố vấn, trọng tài, hướng dẫn hoạt động tập luyện cho học sinh, tạo môi trường học tập thân thiện để khuyến khích học sinh tích cực tham gia các hoạt động tập luyện, tự mình trải nghiệm tự phát hiện bản thân và phát triển thể chất. Giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học đặc trưng như: Trực quan, sử dụng lời nói, tập luyện, sửa sai, trò chơi, thi đua, trình diễn,…..;sử dụng nguyên tắc đối xử cá biệt, phù hợp sức khoẻ học sinh; kết hợp dụng cụ, thiết bị phù hợp, sử dụng hiệu quả các thành tựu của công nghệ thông tin để tạo ra các giờ học sinh động, hiệu quả. Đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học, cân đối giữa hoạt động tập thể lớp, hoạt động nhóm nhỏ và cá nhân, giữa dạy học bắt buộc và dạy học tự chọn, để đảm bảo và phát triển năng lực thể chất, và phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung. Tích hợp kiến thức một số môn học khác, một số bài hát, bản nhạc,…..để tạo không khí vui tươi, hưng phấn trong tập luyện, làm cho học sinh yêu thích và đam mê tập luyện thể thao. Mỗi bài học gồm 4 phần tương ứng 4 hoạt động cơ bản: +Khởi động / Mở đầu / ……. +Hình thành kiến thức / Khám phá / Cung cấp nội dung bài học/ …… +Luyện tập / Thực hành / …… 9 +Vận dụng / Ứng dụng – Sáng tạo / ……. Kế hoạch bài dạy (giáo án) minh hoạ theo Phụ lục I 2.3.2.2. Biện pháp thứ hai: Tìm hiểu sức khoẻ thông qua phiếu hỏi để tác động tâm lí tạo sự “tự tin” cho học sinh. Trước hết chúng ta phải đến với câu hỏi: Vì sao phải tác động tâm lí tạo hứng thú học tập cho học sinh? Đó chính là: “Hứng thú là chìa khoá của thành công” vì khi có hứng thú các em sẽ tích cực học tập một cách tự giác sẽ đạt được các yêu cầu của môn học và các năng lực, phẩm chất mới được hình thành bằng sự cởi mở nhẹ nhàng, thân thiện: “nói ít cười nhiều”, “khen nhiều chê ít”. Môn Giáo dục thể chất là môn học có biên độ vận động nhiều, đòi hỏi học sinh phải phát triển được các tố chất thể lực cơ bản như: nhanh, mạnh, khéo léo, mềm dẻo…. cũng như khả năng thích ứng của cơ thể và trí nhớ vận động cùng với đó cũng cần có tố chất năng khiếu ở các em. Do đó, theo tâm lý chung là học sinh thích, mong chờ đến giờ học thể chất để được “như chim sổ lồng” không phải ngồi gò bó căng đầu suy nghĩ như học Toán, Tiếng Việt……nhưng ngược lại khi vào trong giờ học các em thường chưa chú ý, chưa tập trung cao độ, nhiều em còn e ngại rụt rè thiếu sự tự tin trong luyện tập, rất sợ khi gọi lên biểu diễn và thi đấu. Để tạo sự “tự tin” ngay từ ban đầu cho các em, tôi đã tiến hành thiết kế các phiếu thăm dò học sinh ngay từ khi nhận lớp với nội dung rất nhẹ nhàng, tự nhiên với học sinh. Rà soát chương trình môn học ở trường tiểu học. Trong chương trình giáo dục thể chất gồm có các nội dung: đội hình đội ngũ, bài thể dục, tư thế và kỹ năng vận động cơ bản, môn thể thao tự chọn. Với mỗi nội dung tôi phát “phiếu thăm dò” học sinh để xóa đi nỗi “sợ” học môn Giáo dục thể chất cho các em. 10 11 Sau khi học sinh được tự mình trải lòng với cô giáo, tôi đã thu thập được các thông tin, phân loại được các nhu cầu, sở thích theo nhóm học sinh để từ đó tác động tới tâm lý các em, xóa đi nỗi “sợ” ở các em. Vì trường chưa có nhà đa năng nên các giờ học chủ yếu diễn ra ở ngoài sân tập, nhiều em có sức khỏe yếu không chịu được sự khắc nghiệt của thời tiết nắng, nóng, các em thường có tâm lý uể oải, không tập trung cao độ. Có nhiều em bố mẹ đi làm ăn xa, nên nhiều khi các em nhịn đói đi học. Trong lớp, thể lực của học sinh không đồng đều thường có ba thể trạng như sau: Một nhóm em béo phì, vận động nặng nề; một nhóm em có thể trạng gầy còm, ốm yếu, thể lực kém; còn lại một nhóm có thể trạng tốt, cân đối. Căn cứ vào đặc điểm thể lực của học sinh để có yêu cầu mức độ phù hợp, không đòi hỏi nóng vội ở các em mức độ tập luyện quá cao ngay từ ban đầu sẽ tạo áp lực, sẽ khiến cho các em tâm lý “sợ”. Tôi đặc biệt chú ý đến những em có tính nhút nhát, học sinh khuyết tật học hoà nhập để có những điều chỉnh nội dung (mức độ tập luyện) yêu cầu cần đạt ở các em đó. Đối với các em có tính nhút nhát, chưa mạnh dạn tôi hướng dẫn các em vào từng giờ học, sau khi các em làm được tốt một yêu cầu dù nhỏ nhất cũng được các bạn đánh giá, nhận xét, cô giáo tuyên dương. Như vậy xuất phát điểm tạo tâm lí “tự tin” đồng thời hứng khởi cho học sinh là tiền đề để học sinh học tốt môn GDTC, chính là phát triển năng lực chung cho các em. Đây chính là tính khoa học của biện pháp. 2.3.2.3. Biện pháp thứ ba: Rèn kĩ năng làm cán sự lớp. Trường tôi đang giảng dạy thực hiện chương trình VNEN, vì vậy HS có hội đồng tự quản hoạt động khá tốt , là điều kiện thuận lợi cho việc bồi dưỡng cán sự lớp. Khi nhận học sinh bất kì khối lớp nào tôi cũng yêu cầu các em phải tập trung lắng nghe khi cô nhận lớp phổ biến nội dung bài học. Đối với bài thể dục phát triển chung khi kiểm tra bài cũ tôi yêu cầu các em phải trả lời tên các động tác đã học và đồng thời kiểm tra động tác. Ở đây học sinh phải làm theo hiệu lệnh của cô, hiệu lệnh của bạn, hiệu lệnh của bản thân. Ở những tiết học đầu tiên tôi thường chăm chú để phát hiện những cán bộ lớp tốt bằng cách khi chia nhóm nhỏ để luyện tập, tôi yêu cầu tất cả học sinh trong tổ phải lên điều khiển lớp. Tôi muốn rèn cho các em có kĩ năng làm tổ trưởng để giúp các em mạnh dạn trước tập thể, có mạnh dạn thì các em mới tự tin 12 để luyện tập các động tác trong bài thể dục.Bởi trong giờ thể dục tiết nào cũng có phần trình diễn trước lớp, nếu em nào nhút nhát, thiếu tự tin thì em đó hay sai nhất. Ở phần này tôi hướng dẫn các em các kĩ năng: tập hợp lớp, tập hợp tổ đồng thời rèn cho các em kĩ năng hô khẩu lệnh phải dứt khoát, to, rõ ràng, có khả năng bao quát các bạn trong lớp, trong tổ. Khi dạy xong 5 tiết của đầu năm học đến bài: “ Ôn đi đều – trò chơi kết bạn” , tôi tổ chức cho các em thi làm tổ trưởng giỏi, phần thưởng của tôi là chiếc khăn quàng đỏ. Yêu cầu của tôi là cho các em thi các nội dung sau: Hô và tập hợp: “ Một hàng dọc tập hợp” ; “Giậm chân tại chỗ”; “Chạy đều”; “Một hàng ngang tập hợp”; “Chúc cô giáo khỏe”; “Giải tán” . Ở tiết này tôi chỉ cho các em thi đến mức độ này, bởi với các em phải luyện tập dần không thể vội vàng.Tôi khống chế thời gian 5 phút. Với thời gian như vậy: Tổ 1: 2 em lên điều khiển, tổ 2: 1 em lên điều khiển, tổ 3: 3 em lên điều khiển và tổ 3 thức hiện chuẩn nhất. Để giúp các em học tập nhau, tôi đã chuyển 1 em ở tổ ba về đúng vị trí ở tổ 2. Sau giờ học này, tôi thường xuyên cho các em thi như vậy,những em nào thi rồi thì thôi không thi nữa và tôi làm như vậy ở tất cả khối lớp mà mình dạy. Nhưng với đặc thù môn GDTC chủ yếu là học ngoài sân nên tôi phải chú ý rèn kĩ năng làm cán sự lớp để HS được phát huy quyền tự chủ, bồi dưỡng năng lực điều hành cho các bạn, như thế mọi HS đều có sự hứng thú, bình đẳng trong quá trình tập luyện. 2.3.2.4. Biện pháp thứ tư: Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tạo cho học sinh sự hứng thú, ý thức, thái độ tích cực tập luyện trong mỗi tiết học ở từng chủ đề khác nhau. * Phương pháp giảng dạy bài thể dục phát triển chung. Khi giảng dạy đến động tác nào cần nêu tên động tác đó,sau đó vừa giải thích vừa làm mẫu để học sinh tập theo kiểu bắt chước. Khi làm mẫu, giáo viên cần thực hiện chính xác xuôi chiều (lưng quay về phía học sinh) và có thể theo kiểu soi gương. Ví dụ: khi giáo viên nói cho học sinh bước chân trái sang ngang, thì giáo viên bước chân phải. – Đối với một số nhịp hoặc động tác khó, giáo viên có thể tập riêng ở nhịp khó hoặc tập đơn lẻ chậm từng động tác. – Trong quá trình giảng dạy: Tôi thường tách riêng từng động tác đối với các động tác khó: Ví dụ 1: Bài 21: Động tác bụng của bài thể dục phát triển chung. Bước 1: Treo tranh minh họa, giảng từng nhịp trên tranh. Ở bước này tôi lưu ý 13 nhịp 2 là nhịp rất khó thực hiện, chân chúng ta phải thẳng, hai tay vỗ vào nhau.Tôi nêu rõ tác dụng của động tác và giáo dục các em phải có tinh thần học tập động tác này có tác động đến toàn thân, sự phối hợp nhịp nhàng. Bước 2: Gọi 1 HS giỏi của lớp lên nói lại. Ở bước này tôi đã rèn cho các em thói quen phải thật tập trung ngay từ lúc thầy bắt đầu làm việc, tại sao tôi gọi học sinh giỏi vì để tránh mất thời gian. Bước 3: Tôi tập mẫu, tôi đứng cùng chiều với học sinh, khi tập tôi không giảng giải nữa mà tập luôn. Bước 4: Tôi gọi 3 học sinh đại diện cho các tổ lên tập lại, bước này ta có thể coi là tập mẫu cũng được, nhưng tôi lại coi đây là bước khảo sát sự nhận thức và thực hành của các em nên tôi thường gọi học sinh bất kì tránh tập trung vào một đối tượng học sinh. Bước 5: Tôi cho cả lớp tập 2 lần để nhìn ra những học sinh tập chưa đúng ở nhịp 2. Tôi gọi các em lên sửa luôn, đối với các em sửa đến hai lần không được tôi sẽ cho các em tập riêng từng nhịp sau đó mới khớp thành tám nhịp của một động tác. Bước 6: Tập phối hợp 5 động tác: Vươn thở, tay, chân, lườn, bụng. Để giúp phát huy trí nhớ của các em, tôi gọi đại diện mỗi tổ 2 em lên phối hợp. Thực hiện mục đích để các em phải chủ động học bài và luyện tập thường ngày các em mới nhớ, nếu em nào không nhớ sẽ bị phạt hát ( hoặc lò cò,…). Bước 7: Cho học sinh chia tổ thực hành, trong qúa trình các em luyện tập tôi chú ý đến việc quan sát các em và phát huy kĩ năng làm người điều hành. Chú ý: Các em phải hô đúng, quan sát để có thể sửa luôn cho bạn. Riêng với tôi, tôi sẽ quan sát khoảng 2 bạn lên điều khiển tôi mới sang tổ khác. Bước 8: Các tổ thực hành tập trước lớp (thi giữa các tổ) các tổ khác quan sát nhận xét. Đối với những học sinh tập sai ở nhịp nào tôi sửa luôn tránh để giờ sau các em lại tiếp tục sai. Bước 9: Tập hợp lớp luyện tập động tác, ở bước này tôi sẽ cho các em thay phiên nhau lên làm cán sự lớp điều khiển, tôi chủ động đi đến chỗ các em tập chưa chuẩn sửa luôn cho các em. Với các em tập sai nhiều, tôi không nặng lời với các em mà chỉ nói nhẹ nhàng để các em không tủi thân, khi em tập đúng tôi sẽ khen để em có động lực học tập tiếp. Sau khi sửa sai cho các em xong, tôi cho các em trình diễn bằng nhạc của bài “ Đi học về” của nhạc sĩ Hoàng Long – Hoàng Lân. Với các bước nêu trên, tôi thường xuyên sử dụng đối với các động tác của bài 14 Thể dục phát triển chung hiệu quả của giờ học đạt cao so với những năm trước tôi chưa sử dụng các bước cụ thể nêu trên, học sinh do tôi dạy rất hứng thú với phần học này. Ví dụ 2: Bài 22: Động tác toàn thân của bài thể dục phát triển chung. Bước 1: Treo tranh minh họa, giảng từng nhịp trên tranh. Tôi yêu cầu từng học sinh trong tổ phải lên trình bày đến lượt hai các em lên trình bày theo tổ( Vì mỗi tuần có 6 em phải lên nêu nội dung của tranh). Tôi nêu luôn tác dụng của động tác toàn thân giúp cơ thể chúng ta mềm dẻo các khớp hông, đùi gối. Bước 2: Khi các em trình bày xong tôi lưu ý ở nhịp 1 và 5 thân người phải vươn lên cao, trọng tâm phải dồn về phía trước, nhịp 2 và nhịp 6 thân người phải cúi sâu, hai chân thẳng. Bước 3: Tôi tập mẫu, tôi đứng cùng chiều với học sinh, khi tập tôi không giảng giải nữa mà tập luôn.Tôi hướng dẫn các em làm từng nhịp chậm, làm tốt từng nhịp mới phối hợp các nhịp của động tác. Bước 4: Tôi gọi 3 học sinh đại diện cho các tổ lên tập lại, bước này ta có thể coi là tập mẫu cũng được, nhưng tôi lại coi đây là bước khảo sát sự nhận thức và thực hành của các em nên tôi thường gọi học sinh bất kì tránh tập trung vào một đối tượng học sinh. Tôi yêu cầu cả lớp cùng quan sát và phát hiện ra những nhịp bạn chưa thực hiện được. Ở động tác này, các em đều thường tập chưa chuẩn ở nhịp 1 và nhịp 5 thân người không gập sâu. Bước 5: Tôi cho cả lớp tập 2 lần để nhìn ra những học sinh tập chưa đúng ở nhịp 2. Tôi gọi các em lên sửa luôn, đối với các em sửa đến hai lần không được tôi sẽ cho các em tập riêng từng nhịp sau đó mới khớp thành tám nhịp của một động tác.Chú ý trong quá trình hô khẩu lệnh cần chậm hơn một chút để các em định hình nhịp tập. Bước 6: Tập phối hợp 5 động tác: Vươn thở, tay, chân, lườn, bụng, toàn thân. Để giúp phát huy trí nhớ của các em, tôi gọi đại diện mỗi tổ 2 em lên phối hợp. Thực hiện mục đích để các em phải chủ động học bài và luyện tập thường ngày các em mới nhớ, nếu em nào không nhớ sẽ bị phạt hát (hoặc lò cò,…). Bước 7: Cho học sinh chia tổ thực hành, trong qúa trình các em luyện tập tôi chú ý đến việc quan sát các em và phát huy kĩ năng làm người điều hành. Chú ý: Các em phải hô đúng, quan sát để có thể sửa luôn cho bạn. Riêng với tôi, tôi sẽ quan sát khoảng 2 bạn lên điều khiển tôi mới sang tổ khác. Bước 8: Các tổ thực hành tập trước lớp (thi giữa các tổ) các tổ khác quan sát 15 nhận xét. Đối với những học sinh tập sai ở nhịp nào tôi sửa luôn tránh để giờ sau các em lại tiếp tục sai. Bước 9: Tập hợp lớp luyện tập động tác, ở bước này tôi sẽ cho các em thay phiên nhau lên làm cán sự lớp điều khiển, tôi chủ động đi đến chỗ các em tập chưa chuẩn sửa luôn cho các em. Với các em tập sai nhiều, tôi không nặng lời với các em mà chỉ nói nhẹ nhàng để các em không tủi thân, khi em tập đúng tôi sẽ khen để em có động lực học tập tiếp. Sau khi sửa sai cho các em xong, tôi cho các em trình diễn bằng nhạc của bài “Chim bay” của nhạc sĩ Vũ Thanh. Với các bước nêu trên, tôi thường xuyên sử dụng đối với các bài Thể dục phát triển chung hiệu quả của giờ học đạt cao so với những năm trước tôi chưa sử dụng các bước cụ thể nêu trên, học sinh khối 3 do tôi dạy rất hứng thú với phần học này. Với các bước nêu trên, tôi thường xuyên sử dụng đối với các bài Thể dục phát triển chung hiệu quả của giờ học đạt cao so với những năm trước tôi chưa sử dụng các bước cụ thể nêu trên, học sinh khối 3 do tôi dạy rất hứng thú với phần học này. Ở phần hoạt động 1 chủ yếu là ổn định tổ chức, khởi động, các trò chơi quen thuộc. Tôi thường luân phiên cho các em cùng với cô giáo lên điều khiển, hướng dẫn các bạn chơi trò chơi. Dần dần qua thời gian các em đã lấy được sự tự tin, mạnh dạn trong tập luyện. Các em đã có được một tâm lý tốt, đó là sự “tự tin” trong tập luyện. Nhiều em trở nên rât tích cực, hăng hái xung phong lên điều khiển các bạn chơi trò chơi. Ở nội dung của hoạt động 2 và hoạt động 3 chiếm thời lượng nhiều nhất của tiết học, là lượng kiến thức mới mà học sinh cần đạt được. Chính vì thế, giáo viên cần tạo được sự hưng phấn, sự bền bỉ duy trì trong suốt giờ học cho các em. Yêu cầu cần đặt ra là: *Về phía giáo viên: – Giáo viên nắm chắc được nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức điều khiển hoạt động cho học sinh ở từng nội dung như thế nào? Kết hợp lời nói phân tích, giảng giải, làm mẫu bắt mắt, “đẹp” thu hút được sự chú ý của học sinh. Ví dụ: Với chủ đề “Bài tập thể dục”: Kết hợp lời nói, phân tích, giảng giải ngắn gọn, dễ hiểu, làm mẫu bắt mắt, “đẹp” thu hút được sự chú ý của các em. Quay video ghi lại hình ảnh tập của các em để gửi về gia đình các em và để những ngày mưa không tập được ngoài sân tập thì cho các em xem lại hình ảnh tập của mình. – Chuẩn bị sân tập, các dụng cụ, phương tiện cho học sinh tham gia tập luyện, 16 chơi trò chơi được đầy đủ, chu đáo. – Tổ chức luân phiên các hình thức tập luyện cho học sinh như tập thep: cá nhân, cặp đôi, nhóm để học sinh đỡ nhàm chán. Ví dụ: Với chủ đề “Rèn luyện tư thế và kĩ năng vận động cơ bản và môn thể thao tự chọn”. Đây là hai nội dung khó trong chương trình vì vậy khi tập luyện tôi căn cứ vào tố chất, khả năng của từng học sinh để yêu cầu ở từng mức độ với từng em khác nhau. Đồng thời có kế hoạch bồi dưỡng phát triển tài năng cho các em, ứng dụng vào thực tế như: Xử lí tình huống bảo vệ bản thân, những người xung quanh khi ứng phó với thiên tai bất ngờ. *Về phía học sinh: – Các em thực hiện theo yêu cầu, mệnh lệnh của cán sự lớp. – Chú ý thực hiện cho đúng, đều và đẹp. – Chủ động, tích cực tập luyện không cần sự nhắc nhở của cô giáo và cán sự lớp. – Duy trì được trạng thái tâm lí vui, phấn khởi với quyết tâm cao. – Ý thức tham gia đánh giá nhận xét bạn nghiêm túc. *Theo cá nhân tôi để các em học tốt bài thể dục phát triển chung (bài tập thể dục) người giáo viên cần tuân thủ các phương pháp dạy thể dục truyền thống kết hợp với phương pháp dạy học hiện đại. Để học sinh hứng thú học bài thể dục phát triển chung, theo cá nhân tôi chúng ta cần thực hiện tốt các vấn đề sau: Trong quá trình tổ chức cho học sinh tập luyện động tác giáo viên phải hết sức chú ý về sân bãi, dụng cụ tập luyện, biến độ động tác cũng như phương pháp tổ chức. Nếu giáo viên không làm tốt vấn đề này thì khi tập luyện các em dễ bị chấn thương gây tâm lý không an tâm cho học sinh trong lúc tập luyện thì hiệu quả của động tác không cao cả về mặt thể lực cũng như sự phát triển về trí thức của các em. Giáo viên nêu tác dụng động tác để giáo dục học sinh chăm tập thể dục. Giáo viên cần khai thác triệt để bộ tranh do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành các động tác mẫu của bài thể dục phát triển chung. Giáo viên cần xây dựng cho học sinh phương pháp chủ động khai thác kiến thức qua việc phân tích các nhịp của động tác trong bài thể dục phát triển chung. Giáo viên làm mẫu, phân tích kỹ thuật động tác, hướng dẫn động tác rõ ràng chính xác. 17 Học sinh lên tập thử , lớp quan sát nhận xét tuyên dương. GV điều khiển lớp tập, quan sát giúp đỡ học sinh sửa sai. Chia nhóm tập theo từng khu vực, giao viên cần qui định thời gian cụ thể. Tổ chức thi đua tổ ( nhóm) với nhau lớp nhận xét tuyên dương. Đại diện tổ ( nhóm ) thi đua với nhau GV cùng HS nhận xét tuyên dương. Trước khi lên lớp ở mỗi bài mỗi động tác phải đặt ra tình huống: Học sinh thường mắc phải lỗi sai như thế nào? Để có biện pháp sửa ngay. Đây là vấn đề rất quan trọng trong khi dạy các bài thể dục phát triển chung. Khi thực hiện phối hợp cácđộng tác của bài thể dục phát triển chung với các bài hát Thiếu nhi giúp cho giờ học của các em sôi động hơn, không bị gò bó. Việc phối hợp này vô cùng quan trọng khi học sinh hứng thú học tập tốt thì hiệu quả giờ học sẽ đạt được như mong muốn. Ngoài ra tôi còn chú ý đến việc tổ chức các trò chơi cho học sinh vào hoạt động 1 khởi động, hoạt động kết thúc tiết học. Đặc biệt, tôi chú trọng nhất vào hoạt động 1 khởi động để tạo sự lôi cuốn không khí vui vẻ thoải mái cho các em ngay từ đầu giờ học. Để tạo hứng thú cho học sinh, giáo viên nên chủ động thay đổi trò chơi một cách hợp lí để không gây nhàm chán. Trò chơi phải thay đổi tuỳ theo địa điểm chơi, không gian chơi, không lặp đi lặp lại nhiều lần và giáo viên phải có kĩ năng tổ chức trò chơi là hoà mình với trẻ con, cùng chơi với các con như người bạn lớn. Trong trò chơi người quản trò rất quan trọng, cuộc chơi có hào hứng hấp dẫn hay không là nhờ sự khéo léo, linh hoạt, nhạy bén của người quản trò. Trong quá trình tổ chức trò chơi cho học sinh tôi luôn gần gũi, động viên, vui vẻ cởi mở tạo không khí vui tươi hào hứng bằng dáng vẻ hài hước dí dỏm, hấp dẫn gây tiếng cười làm cho học sinh cảm thấy thoải mái và sảng khoái trong khi chơi. Qua đó học sinh mạnh dạn, tự tin hơn, sẵn sàng bày tỏ nguyện vọng của mình với giáo viên và tự khẳng định mình trong tập thể. Như chúng ta đã biết trò chơi dân gian Việt Nam rất phong phú, đa dạng nhưng không phải trò chơi nào cũng phù hợp với học sinh, vì thế giáo viên nên có sự cân nhắc lựa chọn cho phù hợp nếu không sẽ không đạt hiệu quả, phản tác dụng giáo dục. Ngoài vốn hiểu biết sẵn có tôi tìm hiểu thêm trên mạng, trong tài liệu trò chơi của Đội TN TPHCM. Sau khi sưu tầm các trò chơi, tôi phân loại và giới hạn một số trò chơi để hỗ trợ trong khi học từng chủ đề, từng tiết học ở các giai đoạn khác nhau. Cụ thể như sau: 18
Trò chơi luyện tinh mắt dẻo chân
Nhảy lò cò, nhảy dây, nu na nu nống
Trò chơi luyện sự phán đoán, tính toán chính xác
Ô ăn quan, cờ gánh
Trò chơi phát hiện sự nhanh nhẹn, khéo léo hay tinh thần tập thể
Kéo co, rồng rắn lên mây, cướp cờ….
Trò chơi rèn luyện sự phán đoán, thính tai
Bịt mắt bắt dê, bỏ khăn
Các trò chơi này được luân phiên vận dụng trong phần hoạt động 1 khởi động cho học sinh, tạo sự hứng thú cho học sinh, lôi cuốn các em vào bài học. 2.3.2.5. Biện pháp thứ năm: Tích hợp liên môn các môn học ở trường tiểu học. Với việc tích hợp liên môn các môn học nhằm tạo tâm lí cho học sinh cũng như cha mẹ học sinh, việc gắn kết các môn học như Toán, Tiếng Việt, Mỹ thuật, Âm nhạc,Tự nhiên xã hội…… với các mục đích lớn như sau: – Ứng dụng, sử dụng kiến thức của các môn học khác để học tốt môn GDTC. – Với năng lực đặc thù của từng môn học mà học sinh đạt được, các em sẽ hỗ trợ để học môn giáo dục thể chất. Xoá đi tâm lí nhàm chán, không coi trọng môn GDTC như môn học Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh…..bởi đó là tâm lí chung của một bộ phận không nhỏ ở học sinh và cha mẹ học sinh. + Với môn Toán: Học sinh được học về hai đường thẳng song song, vẽ vòng tròn, đo bao nhiêu mét, ước lượng khoảng cách di chuyển đội hình trên sân, các em sẽ hỗ trợ cô giáo trong việc kẻ các vạch trên sân để thực hiện tập luyện,tổ chức các trò chơi….. + Với môn Tiếng Việt: Khi học sinh chơi trò chơi, giáo viên có thể cho học sinh vừa chơi kết hợp đọc các bài thơ, các bài đồng dao…. + Với môn Âm nhạc: Kết hợp với GV môn Âm nhạc để soạn thảo các bài hát ở phần: khởi động, trò chơi, thả lỏng, ứng dụng ….Kết hợp mở nhạc bài hát vui nhộn trong phần học bài thể dục phát triển chung, kể cả trong lúc học sinh chơi các trò chơi trong chương trình, tôi kết hợp với GV Âm nhạc lựa chọn các bài hát phù hợp với nội dung từng bài. 19 Ví dụ: Khi tập bài phát triển chung (bài tập thể dục). GV mở bài hát “Reo vang bình minh” theo cùng nhịp với từng động tác. Nó sẽ xua tan đi cảm giác căng thẳng, cứng nhắc của giờ học. Tôi đã lựa chon các bài nhạc thiếu nhi sau để sử dụng chung cho bài dạy của mình. Sau đây tôi xin trình bày việc lựa chọn đối với riêng bài thể dục phát triển chung.
stt
Tên bài hát
Nhạc sĩ
Áp dụng cho bài thể dục
1
Bài thể dục buổi sáng
Minh Trang
Động tác vươn thở
2
Đội kèn tí hon
Pham Huỳnh Điểu
Động tác vươn tay
3
Con chim non
Lý Trọng
Động tác vươn chân
4
Múa vui
Lưu Hữu Phước
Động tác lườn
5
Đi học về
HoàngLong – Hoàng Lân
Động tác bụng
6
Chim bay
Vũ Thanh
Động tác toàn thân
7
Không giám đâu
Nguyễn Văn Hiên
Động tác nhảy
8
Cánh én tuổi thơ
Phạm Tuyên
Động tác điều hòa
9
Gặp nhau giữa trời thu Hà Nội
Phạm Tuyên
Phối hợp các động tác.
10
Trái đất này là của chúng em
Nhạc:Trương Quang Lục; Lời: Định Hải
Phối hợp các động tác.
Để cho bản thân mình có được tư liệu thực sự giảng dạy cho môn thể dục tôi đã sao chép nhạc của các bài hát trên và làm thành một đĩa ghi theo đúng thứ tự như trên để vận dụng vào giảng dạy lâu dài. Để học sinh hứng thú học tập các động tác của bài thể dục phát triển chung khi lựa chon bài hát tôi cũng chú ý đến giai điệu của bài hát với nhịp của bài thể dục. 20 *Ví dụ: Với động tác vươn thở và điều hòa: Chúng ta đều biết nhịp hô của hai động tác này chậm, nhẹ nhàng nên tôi sử dụng hai bài hát có giai điệu và tiết tấu nhẹ nhàng. Đưa nhạc vào lúc nào cho hợp lý? Tôi thường đưa vào lúc học sinh trình diễn động tác hoặc bài thể dục theo tôi thường dạy là bài 8. Còn lại các động tác theo nhịp rõ ràng tôi sử dụng như bảng trên. * Ví dụ: Bài 18: Ôn bài thể dục phát triển chung Đây là bài ôn tập nên tôi sẽ tận dụng tối đa âm nhạc để các em hứng thú trong giờ học. Ở bài này tôi dạy theo các bước sau (phần ôn tập bài thể dục phát triển chung): Bước 1: Yêu cầu học sinh nhắc các động tác của bài thể dục phát triển chung. Bước 2: Chủ tịch hội đồng tự quản điểu khiển lớp tập lại: Lần 1: Chủ tịch hội đồng tự quản hô, lần 2: tập theo nhạc của bài“Gặp nhau giữa trời thu Hà Nội” nhạc và lời Phạm Tuyên. Tôi quan sát và nhắc nhở các em tập còn chưa chuẩn. Bước 3: Chia tổ luyện tập. Các tổ thi nhau trình diễn 2 lần; lần 1: Cán sự điều khiển, lần 2 tập theo nhạc. Bước 4: Cả lớp trình diễn theo nhạc 2 lần. Khi tôi dạy như vậy các em học rất hăng say, khi trình diễn các em thực sự hòa mình vào bài tập qua giai điệu của bài hát. Tôi thấy giờ học thật hiệu quả: Học sinh tập ít sai hơn, khi tập trên khuôn mặt các em cảm thấy không gò bó như chưa có bài hát. Sau một năm giảng dạy tôi thấy ngoài việc sử dụng biện pháp nêu trên kết hợp với việc đã mạnh dạn sử dụng các bài nhạc thiếu nhi vào giờ học thì chất lượng môn học đạt hiệu quả rất cao. + Với môn Mĩ Thuật: Phối kết hợp với GV Mĩ Thuật vẽ mô phỏng các động tác theo hình que, các kĩ năng vận động, các trò chơi để tạo sự tư duy qua hình ảnh cho học sinh. Sau đó yêu cầu học sinh về nhà vẽ lại hình ảnh vui chơi của các bạn trong giờ học. Các em trưng bày sản phẩm rồi bình chọn và GV sẽ tuyên dương, khen thưởng cho các em bằng những đồ dùng học tập. 21
Bài vẽ của học sinh về bài tập thể dục
Bài vẽ của học sinh về trò chơi Đua ngựa
Bài vẽ của học sinh về tâng cầu bằng đùi
22
Bài vẽ của học sinh về đá cầu bằng mu bàn chân
Nếu trong quá trình thực hiện, khi học sinh có thể chưa đạt được yêu cầu của môn Giáo dục thể chất nhưng các em lại làm tốt được các kiến thức các môn khác thì giáo viên không nên nóng vội nhận xét, phê bình ngay. Lúc đó, giáo viên lại khen các em đã nhớ và vận dụng các kiến thức đã học được vào tập luyện đồng thời giáo viên khéo léo, nhẹ nhàng nói rằng: Cô thấy, các em đã học tốt môn Toán, Tiếng Việt….. cô tin rằng không bao lâu nữa các em cũng sẽ học tốt môn Giáo dục thể chất này của cô, cácem có đồng ý không nào? Và như thế với lời động viên nhẹ nhàng, nhắc khéo của cô các em sẽ có cố gắng vươn lên để đạt được yêu cầu của môn học. Với cách làm này chính là tính sáng tạo của biện pháp mà tôi đã áp dụng thực hiện trong quá trình giảng dạy của mình. Song song với việc tích hợp liên môn thì việc đánh giá, nhận xét tuyên dương học sinh bằng những hình thức khác nhau cũng rất quan trọng. Thi đua là một biện pháp tối ưu hoá, tăng sự tích cực tập luyện, tôi đã nhận xét nhẹ nhàng từ yêu cầu nhỏ nhất. Đồng thời đưa ra các tiêu chí, ganh đua lành mạnh giữa các cá nhân, các nhóm đó là: Tổ chức thi đấu giữa các nhóm, tổ với nhau. Mỗi tiêu chí đạt được không cho bằng điểm mà bằng kí hiệu biểu tượng đám mây. Từ đám mây quy ra huy chương, từ huy chương quy ra giải thưởng. Như vậy khi đưa ra các tiêu chí thi đấu hs rất hào hứng, tích cực tập luyện. 23 2.3.2.6. Biện pháp thứ sáu: Đánh giá, nhận xét, tuyên dương học sinh không bằng điểm số mà bằng những hình thức khác nhau. *Thứ nhất: thực hiện nhận xét, đánh giá học sinh theo TT22/2016 của Bộ GD- ĐT và TT27/2020 của Bộ GD-ĐT áp dụng với CT GDPT 2018 từ lớp 1 năm học 2020-2021 phát huy hiệu quả việc học sinh tự đánh giá và đánh giá bạn. Minh hoạ theo Phụ lục II Thực hiện việc nhận xét, đánh giá học sinh kịp thời từng hoạt động trong suốt quá trình diễn ra tiết học. Cụ thể tiến hành nhận xét theo thứ tự tăng dần như sau: THANG BẬC NHẬN XÉT HỌC SINH *Thứ hai: Tổ chức thi đấu giữa các nhóm, tổ với nhau với các tiêu chí thi đua rõ ràng được giáo viên cùng với học sinh xây dựng đưa ra bảng tiêu chí đánh giá thông qua lấy ý kiến biểu quyết của học sinh. Bảng tiêu chí đó không cố định mà phụ thuộc vào từng nội dung của bài học hôm đó. Ví dụ minh hoạ việc đánh giá giữa các nhóm khi học sinh học bài 59 – tuần 30: Môn Thể thao tự chọn (môn GDTC lớp 5). Trò chơi “lò cò tiếp sức”. 24 Phiếu học tập này được áp dụng dạy tại lớp 5A2 trường tiểu học Chu Văn An, tp Nam Định khi tôi thực hiện dạy trong hội thi Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh vào tháng 4/2021. Minh hoạ theo Phụ lục III Ví dụ: Ở nội dung tập đội hình đội ngũ, các tiêu chí đưa ra là: Mỗi tiêu chí đạt được không cho bằng điểm mà bằng ký hiệu biểu tượng. Ví dụ: Hai nhóm A và B thi đấu, tôi dùng bảng nhận xét, đánh giá là biểu tượng vẽ đám mây. Chú thích: Màu trắng Màu xanh Màu hồng Đội hình đội ngũ Tập hợp đội hình hàng dọc nhanh Tập hợp đội hình vòng tròn nhanh Tập hợp đội hình hàng ngang nhanh Dóng hàng điểm số nhanh Biết đi đều theo hai hàng dọc đúng Biết đi đều vòng trái vòng phải Biết đi đều đổi chân khi đi sai nhịp 25 – Màu trắng đạt được ở mức độ 1, còn từ 5 – 6 bạn chưa thực hiện được yêu cầu cần đạt. – Màu xanh đạt được ở mức độ 2 từ 3 – 4 bạn còn chưa thực hiện được yêu cầu cần đạt. -Màu hồng đạt được ở mức độ 3, chỉ còn từ 1 hoặc 2 bạn chưa thực hiện được yêu cầu cần đạt. Như vậy khi đưa ra các tiêu chí thi đấu, học sinh rất hào hứng tích cực thi đua giữa các nhóm. Khi từng cặp nhóm lên thi đấu, các nhóm còn lại cùng với ban cán sự lớp theo dõi, đánh giá xếp bảng (hạng) cho từng nhóm theo từng tuần, tháng. Nhóm nào có nhiều mây màu hồng là nhóm dành huy chương vàng, nhóm nào có nhiều mây màu xanh là nhóm dành huy chương bạc, nhóm còn lại là huy chương đồng. Giáo viên chuẩn bị các phần thưởng cho học sinh trên tinh thần hỏi sở thích của học sinh khi được nhận phần thưởng này là gì? Căn cứ vào nhu cầu chính đáng của học sinh để giáo viên thưởng có thể là dụng cụ học tập, xem video một câu chuyện cổ tích, thưởng bằng truyện tranh, sách thiếu nhi…. Qua việc dùng biểu tượng đánh giá, nhận xét học sinh, có phần thưởng kịp thời học sinh rất vui thích. Các giờ học sau, các em đã hào hứng, chủ động tập luyện. Như vậy đã phát triển được năng lực chung là năng lực tự chủ, năng lực đặc thù thứ 3 là năng lực hoạt động TDTT cho các em. Với một tinh thần sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ và tự giác tập luyện (hình thành phát triển phẩm chất chăm chỉ, ham học cho học sinh). Trên cơ sở học sinh chủ động tự tập luyện, vận dụng được các kiến thức, kĩ năng của các động tác, bài tập đã học, đã thực hiện để giải quyết vấn đề nảy sinh ở gia đình, cuộc sống. – Đây chính là hoạt động mà giáo viên cần chú trọng hình thành thói quen ngay từ ban đầu cho học sinh. Hoạt động này được thực hiện ở lớp, ở trường và ở nhà. – Với nội dung đội hình, đội ngũ: Thông qua xếp hàng ra vào lớp, chào cờ, ngoài giờ lên lớp như tập thể dục ca múa hát. Giáo viên còn kết hợp với giáo viên làm tổng phụ trách Đội trong tập dược nghi thức Đội. Ngoài ra, tôi sử dụng công nghệ thông tin đó là cho học sinh xem hình ảnh diễu binh, duyệt binh của các cô chú bộ đội, công an để khơi cho các em ước mơ, ý thức quyết tâm tập luyện. -Với nội dung bài tập thể dục được thực hiện chủ yếu như sau: 26 +Tập vào giờ ra chơi. +Tập vào sáng sớm lúc ngủ dậy. + Cùng với bố, mẹ , anh chị em tập ở nhà. Tôi quay video ghi lại hình ảnh tập của các em để gửi về gia đình và để những ngày mưa không tập được ngoài sân thì cho các em xem lại hình ảnh tập của mình. – Với nội dung bài tập tư thế và kĩ năng vận động cơ bản. Đây là hai nội dung khó trong chương trình vì vậy khi tập luyện căn cứ vào tố chất, khả năng của học sinh để có kế hoạch bồi dưỡng, phát triển tài năng cho các em…. Đồng thời gieo vào các em những ước mơ, mong muốn sau này có muốn làm vận động viên nào không? (như vận động viên điền kinh, vận động viên bóng đá, vận động viên bơi lội,……) nhiều em tỏ ra khá thích thú, say sưa tích cực tập luyện. Minh hoạ theo Phụ lục IV -Với nội dung môn thể thao tự chọn. Căn cứ vào cấu trúc nội dung chương trìn h được thiết kế từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, khi học sinh học song 3 nội dung trên các em sẽ sang 1 giai đoạn học nội dung khó hơn đó là nội dung môn thể thao tự chọn. Qua quá trình tập luyện, giáo viên quan sát, nhận xét phát hiện được năng lực của từng em để tiến hành dạy phân hoá. Từ đó giáo viên sẽ phân hóa đối tượng học 27 sinh để có những hình thức, yêu cầu tập luyện chuyên biệt với từng nhóm học sinh trong lớp ở các mức độ khác nhau. Đây là nội dung chú trọng phát triển học sinh năng khiếu. Thông qua nội dung này phát triển được năng lực đặc biệt của các em. Trên cơ sở đó giáo viên phối kết hợp với cha mẹ học sinh để có tiếp tục theo dõi bồi dưỡng sau này khi các em học lên THCS, THPT có sự định hướng nghề nghiệp cho các em. Như vậy tôi đã truyền cảm hứng cho các em, phát triển được phẩm chất chăm học, năng lực tự chủ trong học tập cho các em. 2.3.2.7. Biện pháp thứ bảy: Phối kết hợp với CMHS trong việc giáo dục chế độ dinh dưỡng nâng cao sức khoẻ cho học sinh. Thành công trong giảng dạy của người giáo viên phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng không thể không nói đến vai trò của CMHS. Sự kết hợp, đồng hành của CMHS là một “cú hích” vào ý thức, tư tưởng thái độ, niềm tin động cơ học tập cho các con. Thông qua việc cha mẹ đồng hành, cùng tập với con, đánh giá nhận xét con. Từ hoạt động vận dụng các bài tập ở nhà đã tác động tới tâm lí của CMHS để hiểu rằng môn học này cũng quan trọng, mỗi môn học có vị trí, tầm quan trọng khác nhau. Hiểu được lợi ích của tập thể dục thể thao là một nhu cầu không thể thiếu được qua việc tuyên truyền đó là tư tưởng lớn của Bác Hồ kính yêu: “ Một người dân yếu ớt làm cho cả nước yếu ớt, một người dân mạnh khỏe tức làm cho cả nước khỏe mạnh…” và vì thế “Luyện tập thể dục, bồi dưỡng sức khỏe là bổn phận của người dân yêu nước”. – Thông qua băng, đĩa hình, giáo viên gửi về cho CMHS, các em sẽ cùng tập với người thân trong gia đình. – Khi học bài chủ đề: “Bài tập rèn luyện tư thế và kĩ năng vận động cơ bản (bài tập chạy và bật nhảy). Giáo viên yêu cầu học sinh về nhà chủ động tự tập luyện ở nhà như sau: + Trước khi tắm, em hãy bật nhảy chụm hai chân. Tuỳ theo sức của mình. Sau đó đi lại hít thở sâu trong vòng 1 phút…để nâng cao sức khoẻ. Hoặc với bài tập rèn luyện kĩ năng lăn, lộn, yêu cầu khi ngủ dậy, các em hãy co chân lên ngực, hai tay ôm gối lăn người sang trái và lăn người sang phải 2 – 3 lần, sau đó ngồi khoanh chân trên giường hít vào thở ra 5 lần. + CMHS chú trọng cân bằng theo tháp dinh dưỡng để đảm bảo nâng cao sức khoẻ, phát triển thể lực là mục tiêu quan trọng xuyên suốt từ tiểu học đến THPT. 28 + Ngoài việc tham gia đồng hành cùng tập với con, CMHS còn đánh giá nhận xét con gửi về cho GV thông qua Zalo, tin nhắn điện tử….. Từ đó giáo dục học sinh, nâng cao nhận thức cho học sinh, biết tự chăm lo sức khỏe đảm bảo chế độ dinh dưỡng để bảo vệ sức khỏe, tăng cường sức khỏe. Đây chính là những nội dung mà học sinh cần đạt được ở năng lực đặc thù thứ nhất trong môn GDTC. Với việc nâng cao nhận thức của học sinh, sự tác động của CMHS sẽ làm cho học sinh có thêm một niềm tin vững chắc, là bước đà để thúc đẩy sự hứng khởi cho 29 học sinh trong việc tự chủ, tự giác tập luyệ
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Môn Thể dục ở cấp Tiểu học là một trong những phương tiện, cách thức để giáo dục thể chất trong nhà trường nhằm giúp học sinh: Biết được một số kiến thức kỹ năng để luyện tập giữ gìn sức khỏe, nâng cao thể lực, giúp các em có sự tăng tiến về sức khoẻ, thể lực, đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo lứa tuổi, giới tính; rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, kỉ luật, nếp sống lành mạnh, thói quen tự giác tập luyện thể dục thể thao và giữ gìn vệ sinh; biết vận dụng ở mức độ nhất định những điều đã học vào nếp sinh hoạt trong và ngoài nhà trường; góp phần hình thành và rèn luyện phẩm chất, đạo đức của người lao động đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cao trong công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hội nhập khu vực quốc tế và xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chương trình môn Thể dục Tiểu học là một trong 11 môn học chính khóa đang được giảng dạy trong kế hoạch giáo dục ở cấp Tiểu học được thực hiện dạy học từ lớp 1 đến lớp 5 với thời lượng gồm 350 tiết chiếm 7,96% so với tổng thời lượng các môn học. Nội dung cốt yếu của môn học nhằm rèn luyện sức khỏe, thể lực, tư thế kỹ năng vận động cơ bản đúng cho học sinh, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện học sinh theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực người học. Học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng là lứa tuổi đang phát triển và hoàn thiện thể chất, hệ cơ, hệ xương của các em đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là mặt tâm sinh lý của các em có nhiều thay đổi lớn, các em rất hiếu động, thích tìm tòi, sáng tạo.Vì vậy, trong quá trình dạy học môn Thể dục, giáo viên phải tạo cho giờ học sôi nổi, hấp dẫn, kích thích, tác động toàn diện cả về mặt tâm sinh lý ở các em, tạo nên sự thu hút và hứng thú của học sinh, giúp các em yêu thích, tập luyện tự giác, tích cực hơn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cũng như phát triển tầm vóc, thể lực và trí tuệ cho các em. Bài thể dục phát triển chung được coi là nội dung trọng tâm của môn Thể dục ở tiểu học. Xuyên suốt cấp học, ở mỗi khối lớp có một bài thể dục phát triển chung khác nhau được xây dụng theo mức độ khó tăng dần phù hợp với từng lứa tuổi nhằm hoàn thiện thể chất, hệ cơ, hệ xương đang phát triển mạnh mẽ ở các em. Trong chương trình môn Thể dục lớp 5, bài Thể dục phát triển chung thời gian học là 9 tuần/35 tuần chiếm 25,7% tổng thời lượng môn học. Mục tiêu của các bài Thể dục phát triển chung là: Học sinh biết và thực hiện từng động tác chính xác, đúng nhịp, đúng phương hướng và biên độ; biết vận dụng tự tập luyện hàng ngày để rèn luyện sức khỏe. Học sinh tập đúng các động tác của bài thể dục phát triển chung không những giúp các em có sức khỏe tốt cho bản thân mà còn giúp các em bộc lộ nhiều phẩm chất năng lực, thói quen 4 như hợp tác, sáng tạo và một số tư duy khác nhằm hình thành năng khiếu cho những học sinh có tố chất. Song thực tế việc học tập của học sinh trong các giờ học bài Thể dục chung chưa hào hứng, tâm lí học sinh ở lứa tuổi này thường thích vận động, chạy nhảy, trong khi đó bài thể dục phát triển chung lại thiên về động tác và có phần gò bó, cứng nhắc nên nhiều học sinh chưa tập trung học, nhanh chán, tập đối phó, tư tưởng uể oải, khó nhớ động tác, thực hiện các động tác chưa đúng kĩ thuật, chất lượng giờ học chưa đáp ứng yêu cầu mục tiêu bộ môn. Để nâng cao chất lượng môn Thể dục nói chung và bài thể dục phát triển chung lớp 5 nói riêng, là người giáo viên được phân công dạy môn Thể dục lớp 5, tôi không khỏi băn khoăn trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng bài thể dục phát triển chung ở lớp 5 góp phần đạt yêu cầu mục tiêu của bộ môn Thể dục; đồng thời giúp học sinh tiếp cận chương trình đổi mới giáo dục phổ thông theo lộ trình khi lên lớp 6 bậc học THCS năm học 2021-2022. Chính vì vị trí, tầm quan trọng của bài thể dục phát triển chung ở lớp 5 đối với công tác giáo dục toàn diện học sinh nên tôi đã tiến hành nghiên cứu đưa ra: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học bài thể dục phát triển chung lớp 5” với mong muốn nâng cao chất lượng giảng dạy bài thể dục phát triển chung nói riêng và môn học Thể dục nói chung. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến 1.1. Thuận lợi Trường Tiểu học Liêm Hải luôn nhận được sự chỉ đạo kịp thời của Phòng Giáo dục – Đào tạo Trực Ninh, nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương. Trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2, kiểm định chất lượng mức độ 3, Xanh – Sạch – Đẹp – An toàn. Trường học có sân tập Thể dục riêng biệt, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học môn Thể dục tương đối đầy đủ. Lớp học được nhà trường và phụ huynh quan tâm lắp đặt máy tính kết nối mạng, màn hình tivi lớn, máy chiếu, hệ thống âm thanh di động tạo điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học đạt kết quả cao. Bên cạnh đó, nhiều phụ huynh quan tâm, phối kết hợp cùng giáo viên và tạo điều kiện cho con em mình được trải nghiệm bộ môn Thể dục tại gia đình. Giáo viên Thể dục có trình độ chuyên môn vững vàng, có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, nhiệt huyết với công việc. 5 Học sinh chăm ngoan, có tinh thần tự giác tích cực trong học tập, rèn luyện. Học sinh khối 5 phát triển đồng đều về trí tuệ và thể lực. Chương trình bài thể dục phát triển chung lớp 5 được giảng dạy từ tuần 8 đến hết tuần 16 và được ôn lại vào hoạt động khởi động trong tất cả các tiết dạy Thể dục xuyên suốt năm học. Nội dung học này được trang bị đầy đủ tranh ảnh minh họa chi tiết cho từng động tác của mỗi bài. 1.2. Khó khăn – Về phía cha mẹ học sinh: Một số phụ huynh chưa hiểu hết tầm quan trọng của bộ môn Thể dục, chưa nhận thức được ý nghĩa, tác dụng của việc tập luyện thể dục thể thao đối với sự phát triển tầm vóc và tăng cường sức khoẻ đối với con em mình. Chính vì thế, họ chưa quan tâm, nhắc nhở, động viên các em tích cực trong quá trình học tập ở trường cũng như việc luyện tập, ứng dụng ở nhà. – Về cơ sở vật chất: Diện tích sân tập thể dục còn hẹp, không bằng phẳng, mùa mưa hay bị đọng nước, mùa nắng ít bóng râm chưa đáp ứng yêu cầu môn học. Sân tập được bố trí gần với các lớp học nên khi dạy và học Thể dục cô trò luôn phải chú ý không làm ồn làm ảnh hưởng đến hoạt động dạy và học của các lớp. Điều đó làm cho việc giảng dạy của giáo viên cũng như việc tập luyện của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Đồ dùng, thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy và học tập môn Thể dục của học sinh còn hạn chế; một số đồ dùng được cấp phát lâu năm đã xuống cấp, chưa đáp ứng hết được yêu cầu dạy và học. – Về năng lực chuyên môn: Trong quá trình giảng dạy môn Thể dục giáo viên đôi khi còn cứng nhắc, chưa linh hoạt trong việc sử dụng phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học cũng như ứng dụng công nghệ thông tin để tạo hứng thú cho học sinh nên hiệu quả của tiết dạy còn hạn chế. – Về phía học sinh: Một số học sinh chưa ý thức được tác dụng của việc tập luyện thể dục thể thao đối với sức khỏe. Tâm lí học sinh ở lứa tuổi này thường thích vận động, chạy nhảy, trong khi đó bài thể dục phát triển chung lại thiên về động tác và có phần gò bó, cứng nhắc nên nhiều học sinh chưa yêu thích nội dung học bài thể dục phát triển chung như các nội dung học khác của môn học, không chú ý, chưa tự giác tích cực tập luyện, tập luyện với tư tưởng đối phó. 6 1.3. Khảo sát chất lượng bài thể dục phát triển chung đối với học sinh lớp 5 đầu năm học 2020 – 2021. Đầu năm học 2020 – 2021, tôi tiến hành khảo sát học sinh hai lớp 5 do tôi trực tiếp giảng dạy với 2 nội dung: Nội dung 1: Tìm hiểu sự yêu thích và hứng thú học bài thể dục phát triển chung. Nội dung 2: Khảo sát chất lượng học tập bài thể dục phát triển chung – Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 5D và 5E – Thời gian khảo sát: Tháng 9/2020 – Mục đích khảo sát: Tìm hiểu thực trạng về sự yêu thích học tập bài thể dục phát triển chung lớp 5 và chất lượng học tập bài thể dục phát triển chung của học sinh và rút ra nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó. Từ đó, tìm ra biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học bài thể dục phát triển chung lớp 5 nói riêng và môn Thể dục lớp 5 nói chung. + Nội dung 1: Tìm hiểu sự yêu thích học bài thể dục phát triển chung của học sinh. Tiêu chí đánh giá: Học sinh thích học bài thể dục phát triển chung. Học sinh không thích học bài thể dục phát triển chung. Học sinh còn phân vân chưa thể hiện rõ quan điểm. Hình thức khảo sát: Thông qua phiếu khảo sát tìm hiểu sự yêu thích của học sinh khi học bài thể dục phát triển chung bằng cách đánh dấu x vào ô trống tương ứng. Kết quả khảo sát:
Lớp
Tổng số HS
Học sinh thích học bài TD phát triển chung
Học sinh không thích học bài TD phát triển chung
Học sinh còn phân vân (Chưa thể hiện rõ quan điểm)
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
5D
35
11
31,4%
21
60%
3
8,6%
5E
35
12
34,3%
19
54,3%
4
11,4%
7 + Nội dung 2: Khảo sát chất lượng học tập bài thể dục phát triển chung. Tiêu chí đánh giá: Thực hiện đúng kĩ thuật động tác, đếm nhịp to, rõ ràng, đúng tốc độ, đúng thứ tự và đủ các động tác trong bài: Hoàn thành tốt Thực hiện cơ bản đúng từ 5-8 động tác trong bài: Hoàn thành Thực hiện cơ bản đúng dưới 5 động tác: Chưa hoàn thành Hình thức khảo sát: Học sinh thực hiện bài thể dục phát triển chung Kết quả khảo sát: Nhận xét: Qua 2 bảng khảo sát trên ta thấy: – Với cùng giáo viên dạy với đối tượng học sinh hai lớp có trình độ tương đương, môi trường học tập, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và đồ dùng dạy học như nhau. Kết quả khảo sát của 2 lớp tương đối đồng đều. – Nhiều học sinh chưa hứng thú, không yêu thích học bài thể dục phát triển chung. – Nhiều học sinh thuộc bài thể dục phát triển chung đạt mức hoàn thành, nhưng các em lại mắc nhiều lỗi kĩ thuật như: + Học sinh chưa thực hiện đúng phương hướng, biên độ động tác, khi tập luyện các em thiếu sự căng cơ cần thiết của các bộ phận cơ thể. + Còn nhiều học sinh chưa tập đúng tốc độ động tác, đặc biệt ở những động tác khó. Khi đếm nhịp, nhiều em còn rụt rè đếm nhịp bé hoặc không đúng tốc độ. – Tỉ lệ học sinh hoàn thành tốt nội dung học tập bài thể dục phát triển chung còn thấp.
Lớp
Tổng số HS
Hoàn thành tốt (Tập đúng kĩ thuật 8 động tác, đếm nhịp to, rõ ràng)
Hoàn thành ( Tập cơ bản đúng từ 5-8 động tác)
Chưa hoàn thành (Tập cơ bản đúng dưới 5 động tác)
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
5D
35
10
28,6%
23
65,7%
2
5,7%
5E
35
11
31,4%
22
62,9%
2
5,7%
8 Trước thực tế trên, làm thế nào để nâng cao chất lượng cho học sinh học tập và yêu thích nội dung học tập bài Thể dục phát triển chung ở lớp 5, tôi đã đi sâu tìm hiểu cụ thể nguyên nhân của từng nội dung thực trạng trên. * Nguyên nhân Một số cha mẹ học sinh nhận thức chưa đầy đủ và có tư tưởng xem trọng các môn văn hóa như môn tiếng Việt, môn Toán; chưa hiểu hết tầm quan trọng của bộ môn Thể dục; chưa nhận thức được ý nghĩa, tác dụng của việc tập luyện thể dục thể thao đối với sự phát triển tầm vóc và tăng cường sức khoẻ đối với con em mình. Chính vì thế, họ chưa quan tâm, nhắc nhở, động viên các em tích cực trong quá trình học tập ở trường cũng như việc luyện tập ứng dụng bài học ở nhà. Giáo viên khi tổ chức các hoạt động học tập chưa áp dụng linh hoạt các biện pháp dạy học tích cực để tạo cho học sinh sự say mê, yêu thích môn học. Bài thể dục phát triển chung các động tác, khẩu lệnh mang tính chất mệnh lệnh, khô khan gò bó, không tạo sự hấp dẫn thu hút học sinh tập trung học tập. Học sinh chưa hứng thú với nội dung bài thể dục phát triển chung. Không khí tiết học chưa sinh động, học sinh học tập thụ động, chưa tích cực, chưa chủ động khám phá kiến thức và tập luyện. Môn học không có sách giáo khoa nên còn khó khăn đối với một số học sinh trong việc tìm hiểu bài và ôn lại các động tác khi cần thiết. Vậy việc nâng cao chất lượng môn Thể dục nói chung và bài thể dục phát triển chung lớp 5 nói riêng là điều mà mỗi giáo viên thể dục cần suy ngẫm, làm thế nào để bộ môn này phát triển ngày một rộng rãi hơn, được học sinh yêu thích nhiều hơn và đạt kết quả cao hơn. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến Từ những thực trạng nêu trên, ngay từ đầu năm học 2020-2021 tôi đã suy nghĩ và tìm ra một số biện pháp bước đầu áp dụng thành công trong việc dạy học bài thể dục phát triển chung lớp 5. Tôi chọn lớp 5D làm lớp thực nghiệm. Trong quá trình giảng dạy bài thể dục phát triển chung, tôi áp dụng “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học bài thể dục phát triển chung lớp 5” thiết kế bài theo hướng phát huy phẩm chất năng lực học sinh, sử dụng các phương pháp, hình thức và kĩ thuật dạy học để tạo hứng thú cho học sinh để thực nghiệm. 9 Chọn lớp 5E làm lớp đối chứng. Lớp này tôi không áp dụng “Biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học bài thể dục phát triển chung lớp 5” chỉ dạy theo các phương pháp và hình thức giảng dạy thông thường như hướng dẫn trong sách giáo viên xuất bản năm 2012. Để nâng cao chất lượng bài thể dục phát triển chung, đòi hỏi người giáo viên phải linh hoạt trong việc phối kết hợp các phương pháp và hình thức kĩ thuật dạy học tích cực. Để giải quyết những khó khăn, thực trạng nêu trên, tôi đã áp dụng các biện pháp đối với lớp thực nghiệm như sau: 2.1. Rèn kĩ năng thực hiện đúng phương hướng biên độ động tác Để giúp học sinh hình thành thói quen thực hiện đúng phương hướng biên độ các động tác, trước tiên giáo viên phải hình thành cho các em kiến thức đúng ngay từ ban đầu đối với các động tác cơ bản của tay và của chân bằng cách cho các em luyện tập các bài tập bổ trợ sau: Bài 1: Tư thế vận động của tay gồm các động tác: + Động tác hai tay thẳng phía trước + Động tác hai tay dang ngang + Động tác hai tay thẳng trên cao + Động tác hai tay chếch chữ V trên cao Giáo viên hướng dẫn học sinh tập riêng lẻ từng động tác và hướng dẫn tỉ mỉ về tư thế, biên độ của tay: tay thực hiện phải có sự căng cơ cần thiết, đủ lực, khuỷu tay, cổ tay luôn thẳng, các ngón tay phải khép vào nhau và phối hợp nhịp nhàng giữa hướng nhìn, tư thế của đầu và vận động của tay. Bài 2: Tư thế vận động của chân + Bài 1: Chân đưa ra trước + Bài 2: Chân đưa sang ngang + Bài 3: Chân đưa ra sau Khi thực hiện từng động tác, phải duỗi thẳng chân, cổ chân, không thực hiện quá nhanh nếu không sẽ bị mất thăng bằng do chuyển trọng tâm cơ thể không hợp lí. 2.2. Rèn kĩ năng đếm nhịp (hô nhịp) Để thực hiện bài thể dục đúng đẹp thì cần đếm nhịp đúng tốc độ, đếm nhịp to, rõ ràng dứt khoát. Vì vậy khi bắt đầu học một động tác mới, giáo viên 10 cần hướng dẫn cho học sinh biết với động tác này thì cầm đếm nhịp với tốc độ nào, chậm, trung bình hay nhanh, giọng đếm nhịp phải thể hiện ra sao như: + Động tác: Vươn thở, Điều hoà nhịp hô phải chậm. + Động tác: Chân, lưng bụng, toàn thân nhịp hô phải trung bình. + Động tác: Tay, nhảy nhịp hô hơi nhanh Sau đó, giáo viên làm mẫu cách đếm nhịp cho học sinh nghe và cho các em đếm nhịp theo giáo viên, khi các em đã nắm được cách đếm nhịp, giáo viên tổ chức cho các em luyện đếm nhịp theo cặp đôi, theo nhóm để các em có thể học hỏi và giúp đỡ lẫn nhau. Trong quá trình thực hiện các động tác, yêu cầu học sinh hô nhịp cùng giáo viên hoặc cán sự lớp nhằm bồi dưỡng thường xuyên kĩ năng đếm nhịp của học sinh. 2.3. Rèn kĩ năng thực hiện đúng tốc độ động tác – Để các em thực hiện động tác đúng tốc độ, tôi yêu cầu các em phải thực hiện động tác đúng với nhịp đếm, không thực hiện nhanh hơn hay chậm hơn nhịp đếm, cụ thể: + Cho các em thực hiện từng nhịp riêng lẻ theo nhịp đếm của giáo viên, trước tiên giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện động tác theo nhịp đếm một nhịp một với các tốc độ khác nhau sau đó giữ nguyên động tác ở nhịp đó, rồi thực hiện động tác với 2-3 nhịp đếm, thực hiện bài tập lặp lại nhiều lần như vậy với tất cả các tư thế cơ bản nhằm rèn cho các em thói quen tập đúng nhịp đếm dù nhịp đếm là nhanh hay chậm. 2.4. Biện pháp “Phân tích làm mẫu của giáo viên và bồi dưỡng đội ngũ cán sự lớp” * Bồi dưỡng đội ngũ cán sự lớp Dạy học phát huy phẩm chất và năng lực cho học sinh đang là cái đích mà chương trình giáo dục phổ thông mới đang hướng tới. Thực tế đã cho thấy nếu trong lớp có được đội ngũ cán sự thể dục làm tốt vai trò của mình thì nề nếp cũng như việc thực hiện các hoạt động trong giờ học của lớp đó tốt hơn hẳn. Đối với bài thể dục phát triển chung các con cũng nhanh chóng thuộc bài và tập đều đẹp hơn. Vì vậy phát huy vai trò của đội ngũ cán sự thể dục vừa là cánh tay nối dài của giáo viên, vừa tạo điều kiện cho các em có cơ hội để thể hiện bản thân, để tự tin, mạnh dạn và sáng tạo. 11 – Mục tiêu: Phát huy tính tích cực của người học, giúp cho học sinh tiếp thu kiến thức tốt nhất, hình thành tích tích cực tự giác tập luyện, biết hợp tác, chia sẻ và giúp đỡ bạn bè trong tập luyện, đặc biệt trong hoạt động học tập theo nhóm. – Cách thực hiện: Ngay từ đầu năm học giáo viên tiến hành lựa chọn những em có trình độ thể lực tốt, tiếp thu động tác nhanh, chính xác, có khả năng bao quát và quan sát tốt, tích cực gương mẫu trong học tập, có uy tín trong tổ làm cán sự nhóm. – Ban cán sự gồm: 1 lớp trưởng, mỗi tổ chọn một tổ trưởng và một tổ phó. – Nhiệm vụ ban cán sự: + Lớp trưởng hỗ trợ điều khiển hoạt động học cả lớp, có trách nhiệm đôn đốc, giúp đỡ các bạn trong lớp tập luyện. + Tổ trưởng, tổ phó điều khiển hoạt động của nhóm, có trách nhiệm đôn đốc, giúp đỡ các bạn trong nhóm tập luyện. – Cách thức đào tạo ban cán sự: Giáo viên hướng dẫn các em cán sự cách tổ chức quản lý khi tập luyện nhóm, các bước học tập khi hoạt động nhóm, biết phát hiện những lỗi sai của từng động tác và biết giúp đỡ bạn sửa sai hoặc báo cáo với giáo viên để sửa sai kịp thời. * “Giáo viên phân tích và làm mẫu động tác” 12 Như chúng ta đã biết, trẻ nhỏ là bậc thầy trong việc bắt chước, cách thu hút tốt nhất với học sinh là tạo cho các con sự ngạc nhiên, thích thú và mong muốn đạt được điều các con đang tận mắt thấy. Vì vậy ngoài việc khai thác triệt để bộ tranh, các video về bài thể dục phát triển chung, giáo viên chính là tấm gương, là bức tranh chân thật nhất, sống động nhất giúp các con hình dung chính xác nhất về động tác. Phương pháp này ưu tiên sử dụng cho những bài học có động tác mới, đặc biệt là những động tác khó như động tác chân ở bài 17, động tác toàn thân ở bài 21, động tác thăng bằng ở bài 25. – Yêu cầu khi làm mẫu: Giáo viên làm mẫu động tác phải đạt yêu cầu chính xác, đẹp, đúng kỹ thuật, vì những động tác ban đầu dễ gây ấn tượng sâu trong trí nhớ các em. – Yêu cầu khi phân tích: Giáo viên phải phân tích tỉ mỉ từng nhịp, cần nói ngắn gọn sao cho học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu, nắm được kỹ thuật từng nhịp của động tác, tạo điều kiện cho học sinh tiếp nhận bài tập chính xác về mặt kỹ thuật, đồng thời giúp học sinh nhớ và khắc sâu để từ đó hình thành biểu tượng chung về động tác. Giáo viên tập mẫu động tác “Thăng bằng” của bài thể dục phát triển chung 2.5. Biện pháp “Tạo hứng thú học tập cho học sinh” Để học sinh có thể chủ động lĩnh hội, khám phá và chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên phải thường xuyên có những biện pháp kích thích học sinh, tạo hứng 13 thú học tập cho học sinh. Đây là biện pháp có vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy học các môn học trong nhà trường nói chung, trong giảng dạy môn Thể dục nói riêng. Bởi vì, học tập hay làm bất kỳ một công việc gì mà không có sự yêu thích không có hứng thú thì không thể đem lại kết quả cao được. Khi học sinh đã có sự say mê, yêu thích môn học thì các con sẽ hình thành được tính tự giác, tích cực trong học tập cũng như luôn có sự hào hứng, sôi nổi và chờ đợi mỗi khi có tiết học thể dục. Để tạo được hứng thú học tập cho học sinh, tôi áp dụng những việc làm sau: – Tạo không khí vui vẻ, thoải mái, không áp lực cho học sinh ngay từ đầu giờ học thông qua trò chơi, kể chuyện, vận động theo nhạc + Bước vào lớp, giáo viên phải thể hiện được nét mặt niềm nở, tươi cười, tạo cho học sinh tâm lí thoải mái, không căng thẳng, sợ sệt tạo tiền đề tốt nhất cho học sinh bước vào các hoạt động học tập và rèn luyện. + Hoạt động mở đầu là hoạt động đầu tiên có giá trị tiên quyết, quyết định hiệu quả của giờ dạy. Vì vậy tôi thường tổ chức cho học sinh hát múa hoặc nhảy các bài dân vũ trên nền nhạc mà các em yêu thích, kể một mẩu chuyện hài hước, kể chuyện về các vận động viên tài năng hoặc thế hệ học sinh đã đạt được được thành tích cao của nhà trường những năm học trước với học sinh để thu hút sự chú ý và tạo tâm thế phấn khởi trước khi bước vào phần cơ bản. + Trò chơi cũng được tôi ưu tiên sử dụng. Các trò chơi trong phần này chủ yếu là những trò chơi tập thể nhẹ nhàng, dễ làm, dễ nhớ không mang tính thi đua quá cao để tránh mất thời gian như: Trò chơi “Hộp quà bí mật”, “Kết bạn”, “Xì điện”, “Tìm người chỉ huy”, “Rồng rắn lên mây” và rất nhiều các trò chơi khác. Tùy từng nội dung bài học tôi lựa chọn phương pháp tạo hứng thú cho học sinh đầu giờ học một cách khác nhau, song cần tránh dập khuôn máy móc hay lặp lại tạo sự nhàm chán. Bài 16: Hoạt động mở đầu tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “ Hộp quà bí mật”; Bài 18: Hoạt động mở đầu cho học sinh vận động trên nền nhạc bài “Hân hoan em đến trường”; Bài 19: Hoạt động mở đầu, giáo viên cùng học sinh vận động trên nền nhạc bài Doraemon, Bài 27: Hoạt động mở đầu tổ chức cho học sinh chơi trò “Kết bạn”. 14 – Sử dụng âm nhạc, công cụ hỗ trợ trong tập luyện Âm nhạc luôn là nguồn cảm hứng bất tận đối với con người, âm nhạc mang đến cho chúng ta không khí vui tươi và thư thái. Nắm bắt được điều này, tôi đã ưu tiên đưa âm nhạc vào trong các giờ học để mang lại cảm giác tươi mới cũng như tinh thần hưng phấn học tập cho học sinh, cụ thể như: + Ở hoạt động khởi động, tôi thường bắt đầu bằng việc cùng học sinh vận động và khởi động trên nền những bài hát vui tươi phù hợp lứa tuổi học sinh như bài hát: Khỏe vì nước, Bài ca đi học, Tiếng chuông và ngọn cờ, Con cào cào, Thật đáng yêu, Khăn quàng thắp sáng bình minh, Đội kèn tí hon,.. Hoặc những nền nhạc đang thịnh hành thu hút giới trẻ như Pokemon go, Baby shark, hay các bài nhạc trong chương trình tuổi trẻ học đường phòng tránh covid… 15 + Những tiết có nội dung ôn luyện bài thể dục phát triển chung, tôi sử dụng âm nhạc để tạo nền cho quá trình ôn luyện bài thể dục phát triển chung làm cho các giờ học thể dục không còn khô cứng mà trở nên nhẹ nhàng, giúp các em tập luyện sôi nổi hơn. Bước đầu khi các con chưa quen, tôi kết hợp với nhịp hô, hiệu lệnh còi, kết hợp từ ít đến nhiều động tác trong một bài nhạc. Tôi lựa chọn những bài hát gần gũi, phù hợp lứa tuổi học sinh như: Trái đất này là của chúng mình, Đi ta đi lên, Con cào cào, Em yêu trường em. Ngoài việc sử dụng âm nhạc trong phần đầu tạo hứng thú, hay làm nhạc nền cho bài thể dục, tôi còn sử dụng âm nhạc để thả lỏng khi kết thúc bài học để tạo trạng thái tâm lý thoải mái nhất, tốt nhất để các con không cảm thấy mệt mỏi căng thẳng, tiếp tục mong chờ các giờ học tiếp theo. Các bài nhạc được ưu tiên lựa chọn là các bài nhạc không lời kinh điển, nhạc thiền, nhạc yoga có giai điệu du dương đi vào lòng người. Giáo viên cùng học sinh thả lỏng dưới nền nhạc bài Titanic + Bên cạnh đó, tôi còn phát động và hướng dẫn học sinh làm hoa cài tay, cờ cầm tay, sử dụng để thực hiện các động tác thể dục sẽ tạo được hiệu ứng đồng đều, đẹp mắt hơn, kích thích các em tích cực tự giác tập luyện hơn. Bài 23: Động tác vươn thở, tay, chân, vặn mình, toàn thân – Trò chơi “Ai nhanh và khéo hơn”, Bài 28: Ôn bài thể dục phát triển chung – Trò chơi “Thăng bằng”; giáo viên sử dụng nền nhạc bài hát “Đi ta đi lên” cho học sinh tập luyện ôn lại các động tác của bài thể dục phát triển chung. 16 Học sinh tập bài thể dục kết hợp với hoa, cờ cài tay – Phối hợp linh hoạt nhiều phương pháp và hình thức luyện tập Trong giờ học để tránh tình trạng nhàm chán, tôi tổ chức cho học sinh tập luyện với nhiều hình thức khác nhau: Tập cá nhân, tập theo cặp đôi, tập theo nhóm, tập theo cả lớp. Thay đổi cách chia nhóm theo nhiều hình thức khác nhau để tạo hứng thú cho học sinh tích cực trong hoạt động nhóm. Trong quá trình luyện tập tập thể, không nhất thiết lúc nào cũng cho học sinh tập luyện theo đội hình 3-4 hàng ngang mà phải thường xuyên thay đổi theo các đội hình khác nhau để tạo hứng thú cho học sinh: Đội hình vòng tròn, hình vuông, đội hình đồng diễn,… Học sinh tập luyện theo đội hình đồng diễn và đội hình vòng tròn 17 Học sinh tập luyện theo đội hình hàng ngang – Sử dụng trò chơi học tập vào các bài ôn tập Nghiên cứu cho thấy, trò chơi học tập có khả năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng của trẻ em, kích thích sự phát triển trí tuệ của các em. Như vậy nếu giáo viên biết chọn và tổ chức các trò chơi hợp lý với nội dung bài học sẽ giúp bổ trợ các kiến thức tốt hơn. Ở những bài ôn tập, ngoài hình thức tập luyện thông thường, để ôn lại động tác bài thể dục phát triển chung tôi còn cho các em ôn lại kiến thức bằng cách áp dụng trò chơi học tập để giúp các em dễ ghi nhớ kiến thức bài học hơn. Đồng thời tạo được không khí vui tươi trong giờ học, giờ học không còn nặng nề, gượng ép, từ đó sẽ truyền cảm hứng và nảy sinh sự yêu thích môn học ở các em. 18 Một số trò chơi học tập tôi thường áp dụng như: “Đuổi hình bắt chữ”, “Tìm đúng số”, “Nghe miêu tả đọc đúng tên”, “Hái hoa dân chủ”, “Nặn tượng” và nhiều trò chơi học tập khác với mục đích giúp các em củng cố và ghi nhớ các động tác tốt nhất mà không bị gượng ép, căng thẳng. Học sinh thảo luận nhóm trả lời câu hỏi khi chơi trò “Tìm đúng số” – Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy Công nghệ thông tin ngày càng được ưu tiên sử dụng trong dạy học, cả môn Thể dục cũng không ngoại lệ. Mặt khác, học sinh tiểu học rất thích xem tranh, ảnh, tivi, nên ngoài khoảng thời gian tập luyện trên sân thì tôi còn tổ chức cho các em được xem các đoạn video về động tác mẫu, đặc biệt là những động tác khó, tôi tiến hành tua chậm kết hợp với phân tích để các em ghi nhớ và nắm bắt được kĩ thuật động tác tốt nhất. Hoặc cho các em xem những động tác do chính các em thực hiện trong giờ học mà tôi ghi lại sẽ được trình chiếu trước lớp để các em nhìn nhận rút kinh nghiệm cho bản thân. Điều này làm cho các em rất thích thú, các em đều muốn được cô giáo ghi hình và phát lại video trước lớp nên trong các buổi học các em tập luyện tích cực hơn, động tác chuẩn chỉ hơn. Đặc biệt trong thời gian dịch bệnh covid hoành hành, việc tập luyện thể dục thể thao để nâng cao sức khỏe là rất cần thiết, tôi đã thực hiện, lập nhóm zalo, quay video, tổ chức thi đua, khuấy động phong trào để cùng các em tập luyện tại nhà, nâng cao sức khỏe, phòng chống bệnh tật tốt hơn. 19
Học sinh học Thể dục ngoại khóa trên ứng dụng Room
Học sinh quay lại hoạt động tập luyện ở nhà gửi qua nhóm Zalo
– Tăng cường kiểm tra, đánh giá; tổ chức cho học sinh thi đua, động viên, khuyến khích học sinh kịp thời. Ngoài việc kiểm tra, đánh giá học sinh theo Thông tư 22/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, giáo viên còn đánh giá học sinh bằng hình thức: quay video các động tác học sinh tập luyện trong giờ học và tiến hành trình chiếu cho cả lớp cùng xem, cùng đánh giá nhận xét bản thân và đánh giá bạn. Từ đó các em rất hào hứng, tích cực và nghiêm túc trong quá trình tập luyện. Một phần không thể thiếu trong mỗi tiết học thể dục đó chính là tổ chức cho học sinh thi đua giữa các tổ, nhóm trong lớp, tổ chức cho các em thi đua dưới nhiều hình thức khác nhau: khi thì từng tổ lên tập cả bài thể dục, khi thì các tổ tập nối tiếp nhau, khi thì các tổ tập dưới hình thức thách đố, đồng diễn. Từ đó tạo ra sự quyết tâm, tích cực tập luyện của mỗi cá nhân học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên còn phối kết hợp với phụ huynh học sinh cùng tham gia đánh giá, khuyến khích các em tập luyện ở nhà thông qua nhóm zalo với sự tham gia của các phụ huynh trong lớp. Từ đó, lan tỏa tới các bậc phụ huynh tinh thần rèn luyện thể dục thể thao cùng con em tại gia đình. Vào cuối tuần, sau khi học xong các Bài 18, bài 20, bài 22, bài 26, bài 28, bài 30, giáo viên khuyến khích các con tập cùng người thân của mình ở nhà. Trong khi tập luyện, mỗi học sinh sẽ quay lại video tập luyện theo yêu cầu của 20 giáo viên và gửi vào Zalo nhóm. Học sinh cùng giáo viên đ
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN * Cơ sở lí luận: Nghiên cứu khoa học đã chứng minh rèn luyện thể chất không những có vai trò quan trọng trong sự phát triển của cơ thể mà còn có những tác động tới con người về các mặt trí lực. Thực tiễn cũng đã chứng minh, chăm sóc và nâng cao sức khỏe thông qua việc rèn luyện thể chất, là biện pháp chủ động, tích cực nhất, ít tốn kém nhất, có khả năng thực thi cao nhất và phù hợp với quy luật phát triển tâm, sinh lý của cơ thể và lứa tuổi, đóng vai trò quan trọng phòng ngừa bệnh tật, nâng cao sức khỏe, làm đẹp hình thái và phát triển toàn diện các tố chất vận động một cách hoàn thiện nhất. Rèn luyện thân thể bằng việc tập luyện các môn thể dục thể thao khác nhau với những đòi hỏi sự nỗ lực cao của bản thân về thể chất và ý chí tinh thần, có thể giúp hình thành và giáo dục được những phẩm chất đạo đức nhân cách của con người một cách tự nhiên như: Ý chí, lòng dũng cảm, sự quyết tâm, sự tự tin, tính kiên trì và nhẫn nại; ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể, ý thức đồng đội… Văn hóa thể chất giúp xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội, xây dựng niềm tin và tinh thần lạc quan cho thế hệ trẻ. Rèn luyện thể chất cũng giúp trí não thư thái, giảm bớt những căng thẳng lo âu. Các nghiên cứu cho thấy tập luyện thường xuyên ảnh hưởng đến nhiều chức năng của hệ thần kinh, làm phát triển khả năng hoạt động của não bộ, làm tăng sự sảng khoái, giảm stress, cải thiện giấc ngủ, cải thiện sự tự tin, tăng khả năng nhận thức. Điều 2 Nghị định 11/2015/NĐ-CP quy định về vị trí, mục tiêu giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong nhà trường: “Giáo dục thể chất trong nhà trường là nội dung giáo dục, môn học bắt buộc, thuộc chương trình giáo dục của các cấp học và trình độ đào tạo, nhằm trang bị cho trẻ em, học sinh, sinh viên các kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản, hình thành thói quen luyện tập thể dục, 3 thể thao để nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực, tầm vóc, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện” Giáo dục rèn luyện thể chất trong nhà trường có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy và bồi dưỡng nhân tố con người. Đồng thời góp phần nâng cao thể lực, hoàn thiện các năng lực thể chất, phát triển trí lực, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh, văn minh. Nội dung đặc trưng của giáo dục thể chất được gắn liền với giáo dục trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục lao động. Mục đích của GDTC là góp phần phát triển toàn diện thế hệ trẻ Việt Nam, thế hệ trẻ đó phải được phát triển thể chất có chủ định để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Học sinh là lứa tuổi đang phát triển và hoàn thiện thể chất, hình thành nhân cách. Việc rèn luyện thể chất không chỉ giúp thể chất khỏe mạnh mà còn hoàn thiện nhân cách, phát triển các năng lực trí tuệ, nhằm hướng tới sự phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần, đáp ứng được các đòi hỏi của cuộc sống cũng như thích nghi được với các điều kiện môi trường tự nhiên, xã hội trong suốt thời gian học tập cho tới quá trình lao động nghề nghiệp. Bậc tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân vì vậy giáo dục thể chất ở trường tiểu học có ý nghĩa vô cùng quan trọng với học sinh. Rèn luyện thể chất – thể lực là cơ sở, nền tảng trau dồi và phát triển trí lực, hoàn thiện nhân cách. Mục tiêu của hoạt động Giáo dục thể chất cấp tiểu học – giai đoạn giáo dục cơ bản là: “Giúp học sinh biết cách chăm sóc sức khoẻ và vệ sinh thân thể; hình thành thói quen tập luyện nâng cao sức khoẻ; thông qua các trò chơi vận động và tập luyện thể dục, thể thao hình thành các kĩ năng vận động cơ bản, phát triển các tố chất thể lực, làm cơ sở để phát triển toàn diện…” Như vậy, ngay từ cấp tiểu học, học sinh cần được giáo dục dần hình thành thói quen rèn luyện sức khỏe qua các hoạt động giáo dục thể chất. Để đạt mục 4 tiêu trên, chúng ta cần phải tạo cho học sinh sự yêu thích môn học và hào hứng, nhiệt tình khi tham gia luyện tập. Như chúng ta đã biết nét đặc trưng không thể thiếu trong tâm lý học sinh tiểu học là tính vui tươi, hồn nhiên, hiếu động . Vì vậy, phương thức “Học mà chơi – chơi mà học” luôn tạo nên môi trường sư phạm thân thiện, hiệu quả. Trong hoạt động giáo dục thể chất (GDTC) thì phương thức này càng hữu hiệu. Các hoạt động GDTC không nên theo khuynh hướng thể dục đơn thuần, máy móc, gây cho các em sự mệt mỏi, căng thẳng, nhàm chán mà phải kích thích, tác động toàn diện cả về mặt tâm sinh lý ở các em, tạo nên sự hứng thú, giúp các em ham thích, tập luyện tốt hơn đồng thời giáo dục đạo đức và ý chí tập luyện cho học sinh. Để một giờ hoạt động thể chất đạt hiệu quả tốt, giáo viên cần nắm vững và vận dụng linh hoạt các phương pháp đặc trưng trong dạy- học GDTC, trong đó có chú trọng phương pháp trò chơi, thi đấu, trình diễn. Ngoài việc dùng hình ảnh minh họa, thị phạm trực tiếp bằng động tác mẫu thì âm nhạc và trò chơi là những yếu tố vừa có tính thẩm mỹ vừa có tính hiện đại, khoa học và tạo hứng thú học tập cho học sinh. Sử dụng âm nhạc trong dạy thể dục được coi như một phương tiện truyền thụ kiến thức rất hiệu quả cho học sinh. Bởi vậy, đưa âm nhạc vào tiết Thể dục làm nhạc nền, sử dụng âm nhạc vào các giai đoạn của các bước lên lớp chính là góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy. p dụng âm nhạc trong môn thể dục giúp cho quá trình truyền đạt nội dung bài học được diễn ra rất nhanh gọn và khoa học. Qua các bài khởi động liên hoàn, các bài tập, các trò chơi hỗ trợ dưới tiếng nhạc nền, phù hợp với nội dung bài học sẽ giúp tiết học nhịp nhàng sinh động hơn, tăng khả năng tiếp thu của học sinh lên nhiều lần. Âm nhạc đưa vào phần chuyển tiếp nội dung cũng giúp học sinh thư giãn hơn, tránh được khoảng thời gian lặng đôi khi vẫn xảy ra trong giờ học. 5 Trò chơi là loại hình hoạt động rất quen thuộc gần gũi với chúng ta. Trò chơi vừa mang tính chất vui chơi, giải trí song đồng thời lại có ý nghĩa giáo dưỡng và giáo dục lớn lao đối với con người. Với lứa tuổi trẻ em ,trò chơi càng có ý nghĩa đặc biệt hơn. Trò chơi tạo tất cả những điều kiện để trẻ em được thể hiện những nhu cầu tự nhiên về hoạt động, tạo ra những rung động thực tế và quan trọng cho cuộc sống. Trong hoạt động GDTC, trò chơi giúp học sinh luôn húng thú và tích cực vận động, góp phần tạo nên thành công cuả hoạt động GDTC. * Cơ sở thực tiễn: Hoạt động dạy học đạt hiệu quả cao khi học sinh tiến hành các hoạt động học tập một cách tự nguyện, tích cực, chủ động, tự giác với một động cơ sâu sắc. Thực tế hiện nay, giờ học giáo dục thể chất trong nhà trường học sinh tiểu học còn xem nhẹ, cho đây là một môn phụ, chưa thực sự hứng thú nên khi vận động nhanh bị nản và mệt mỏi. Mặt khác, đối với học sinh tiểu học, các em còn nhỏ, hệ xương chưa phát triển đầy đủ, tổ chức sụn chiếm tỷ lệ cao, cột sống yếu. Hệ hô hấp ở độ tuổi này có đường hô hấp còn hẹp, hệ tuần hoàn hoạt động chưa tốt (do tim còn nhỏ). Sự tập trung chú ý chưa bền vững, dễ phân tán, tính hưng phấn cao, trí tưởng tượng phát triển hơn song còn tản mạn, ít có tổ chức, tư duy logic chưa cao. Do đó làm thế nào để giờ dạy giáo dục thể chất thực sự thu hút được học sinh tập trung chú ý, tích cực tập luyện và tập luyện có hiệu quả là một vấn đề đòi hỏi người giáo viên cần phải có sự đầu tư, nghiên cứu. Hơn nữa, phần lớn các trường tiểu học vùng nông thôn chưa có nhà hoạt động thể chất, tiết học chủ yếu diễn ra ngoài trời nên thường bị các yếu tố bên ngoài tác động làm ảnh hưởng đến các hoạt động và sự tập trung của học sinh. Do vậy giáo viên cần có những biện pháp tích cực để giúp học sinh tập trung và có được hứng thú trong học tập. Một yếu tố quan trọng mà giáo viên phải lưu tâm tới là nội dung bài học theo phân phôi chương trình của khối lớp 4,5 có rất nhiều bài ôn tập dễ gây ra 6 sự nhàm chán cho HS vì vậy việc tạo ra sự nét mới cho các hoạt động trong giờ học để thu hút sự hào hứng học tập của học sinh là vô cùng cần thiết. Bảng thống kê nội dung chương trình Phần vận động cơ bản lớp 5:
Nội dung
Học mới
Ôn tập
1. ĐHĐN
Ôn tập các nội dung đã học ở các lớp 1,2,3,4
2. Bài TDPTC
– Học 8 động tác bài TDPTC
Ôn tập cả bài TD (6 tiết ) tuần 14-15-16
3. Bài tập RLTT và KNVĐCB
– Bật cao – Bật phối hợp chạy & bật nhảy
– Ôn Tung và bắt bóng( lớp 2-3) – Ôn Bật xa (lớp 4) – Ôn Nhảy dây (lớp 3- 4) – Phối hợp chạy, mang vác (lớp4) – Ôn Phối hợp chạy, nhảy, mang vác (lớp 4)
4. Trò chơi
– Học mới 8 trò chơi
– Chơi 19 trò chơi đã học từ lớp 1,2,3,4
5. TTTC
– Học tâng cầu bằng mu bàn chân – Phát cầu bằng mu bàn chân.
– Ôn tâng cầu bằng đùi (lớp 4) – Ôn chuyền cầu bằng mu bàn chân (Lớp 4) – Chuyền cầu theo nhóm hai người (Lớp 4)
Đặc biệt, bản thân tôi từng tham gia những chuyến dã ngoại cùng với các em HS. Tôi đã thực sự ấn tượng về cảm xúc và hành vi của các em HS trong màn khởi động tập thể. Những người tổ chức đã biết phối hợp các động tác khởi động quen thuộc, đơn giản cùng nhạc nền sôi động được cập nhật theo thị hiếu của các em thành những hiệu lệnh và tổ chức thành một trò chơi tập thể rất sôi nổi và lôi cuốn trẻ em …Và chính qua chuyến trải nghiệm đã giúp tôi cảm nhận sâu sắc rằng: trẻ em có sở thích, phong cách và xu hướng riêng – chúng luôn 7 bùng cháy hết mình trong âm nhạc và trò chơi. Điều này đã khơi gợi trong tôi ý tưởng nắm bắt lấy xu hướng đó và phát huy một cách có chủ định nhằm tạo không khí sôi nổi thu hút sự tập trung của các em học sinh và màu sắc mới mẻ trong việc tổ chức các HĐGDTC. Với mục đích tạo những hoạt động hiệu quả với tinh thần: “Học mà chơi – chơi mà học” cho các em học sinh thì lồng ghép âm nhạc vào các nhiệm vụ vận động và tổ chức một số bài tập dưới hình thức trò chơi là biện pháp tôi đã chọn để tạo hứng thú tập luện cho học sinh trong hoạt động GDTC. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến : 1.1. Ưu điểm: * Ban giám hiệu nhà trường: Xác định đúng vai trò và tầm quan trọng của hoạt động giáo dục thể chất nên đã có sự quan tâm chỉ đạo sát sao, thể hiện qua việc: Tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên dạy giáo dục thể chất học tập nâng cao trình độ đào tạo, tham gia các buổi hội thảo và giao lưu với các trường bạn để bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và học hỏi kinh nghiệm. Đầu tư mua sắm trang thiết bị cần thiết cho việc dạy học môn Giáo dục thể chất và những trang thiết bị phục vụ cho hoạt động TDTT. Chỉ đạo đội ngũ giáo viên GDTC thực hiện nghiêm túc nội dung chương trình, thường xuyên kiểm tra dự giờ để nắm bắt thực trạng dạy học bộ môn đồng thời giúp đỡ để giáo viên thể chất chủ động tích cực đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn. Đảm bảo chế độ chính sách cho đội ngũ GV, kịp thời động viên khích lệ thành tíchmôn học và thành tích hoạt động TDTT. * Giáo viên bộ môn giáo dục thể chất: Có năng lực sư phạm vững vàng, không ngừng học tập bồi dưỡng để trau dồi chuyên môn nghiệp vụ 8 Thực hiện nghiêm túc chương trình nội khóa và các hoạt động giáo dục thể chất ngoại khóa; đánh giá học sinh theo đúng quy định. Tích cực làm đồ dùng dạy học để phục vụ môn học, khắc phục tình trạng khó khăn, hạn chế về kinh phí mua sắm trang thiết bị dạy học. Tích cực đổi mới phương pháp: phối hợp các phương pháp dạy học truyền thống đặc thù của môn học và các PPDH tích cực dạy học để tạo hứng thú học tập cho học sinh, nâng cao chất lượng bộ môn. * Học sinh: Phần lớn học sinh được gia đình quan tâm chăm sóc đầy đủ chế độ dinh dưỡng nên thể lực khỏe, vận động tốt Học sinh ngoan, tích cực tham gia các hoạt động học tập, nhiều em khá mạnh dạn, tự tin trong học tập. 1.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế: * Khó khăn về cơ sở vật chất: Nhà trường chưa có nhà đa năng, học sinh tập luyện trên sân tập ngoài trời nên phụ thuộc nhiều vào thời tiết và bị chi phối bởi nhiều yếu tố ngoại cảnh . Mặc dù nhà trường đã quan tâm đầu tư trang thiết bị dạy học song vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ theo yêu cầu phục vụ tập luyện. * Nhận thức của học sinh về vai trò môn học: Lứa tuổi nhỏ nên các em học sinh rất hiếu động, sự tập trung chú ý chưa cao. Bản thân các em học sinh chưa hiểu đầy đủ được tầm quan trọng của môn học cũng như tác động tích cực của từng nội dung học tập đối với sự phát triển của cơ thể, với sự hình thành năng lực phẩm chất nên chưa có động cơ học tập đúng đắn. Học sinh học tập một cách thụ động, giáo viên hướng dẫn thao tác, kĩ thuật động tác nào các em tiếp thu một cách đơn điệu, đôi lúc còn tỏ ra uể oải vì cho rằng khối lượng vận động quá nhiều, không phù hợp với các em. * Sự quan tâm của phụ huynh: chưa thực sự chú trọng đến giáo dục Thể chất của con em trong trường học, coi đó là môn phụ nên chưa thấy được tầm trọng và cũng chưa có sự quan tâm tạo điều kiện thích đáng cho con em học tập. 9 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: 2.1 Tính mới và sự khác biệt: Xuất phát từ cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn và đặc biệt từ thực trạng về công tác dạy học môn Giáo dục thể chất của đơn vị công tác, tôi thấy cần thiết phải có những biện pháp tích cực để phát huy ưu điểm đồng thời khắc phục khó khăn hạn chế trong dạy học bộ môn. Qua tìm hiểu và thực nghiệm tôi đã quyết định lựa chọn đưa âm nhạc và trò chơi tích hợp vào môn học để góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng giảng dạy, biện pháp có được những điểm mới sau: – Trò chơi và âm nhạc thực sự là một trong các phương tiện và phương thức giúp tạo húng thú học tập vận động hữu hiệu trong môn GDTC. – Không những giúp HS luyện tai nghe nhạc, củng cố ca hát, tạo cảm giác nhịp điệu, cảm thụ âm nhạc…. mà chính các yếu tố đó góp phần làm cho HS yêu thích đồng thời phát triển khả năng vận động nhịp nhàng linh hoạt. – Mỗi trò chơi được kết hợp, sử dụng trong giờ học đều có ý nghĩa giúp HS phát triển trí tuệ, bổ trợ,tạo cho trẻ có những phản xạ nhanh, nhạy, có tác dụng trong việc tạo hứng thú học tập. – Biện pháp kết hợp được cả âm nhạc vào trong trò chơi và âm nhạc vào các bài tập vận động. – Việc lựa chọn các bài nhạc có nhịp điệu tiết tấu phù hợp giúp vận động nhịp nhàng hơn. Tích hợp các bài hát theo chủ điểm của tháng còn góp phần giáo dục truyền thống cho học sinh. – Trong giờ học sử dụng đa dạng các trò chơi từ kho tàng trò chơi dân gian và trò chơi sáng tạo, trò chơi vận động kết hợp phát triển trí tuệ giúp học sinh hào hứng tự nguyện tập luyện, tránh được sự nhàm chán tẻ nhạt. – Học sinh dễ dàng vận dụng tập luyện được các bài tập qua trò chơi và âm nhạc. Lựa chọn và sử dụng hợp lý các trò chơi, các bài hát,nhạc tích hợp vào giờ học giúp cho: – Quá trình truyền đạt nội dung bài học nhanh hơn, kiến thức được khắc sâu hơn. 10 – Cải thiện khả năng phối hợp vận động của học sinh. – Tránh được sự hình thức, lan man, hoặc làm mờ nhạt nội dung bài học. Đảm bảo đạt được mục tiêu, yêu cầu giờ học theo phương thức “Học mà chơi – chơi mà học” phù hợp tâm lí lứa tuổi của HS tiểu học. – Và nhất là phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phất triển toàn diện phẩm chất và năng lực cho học sinh, góp phần thực hiện nhiệm vụ của hoạt động Giáo dục thể chất trong chương trình GDPT mới . – Việc đưa âm nhạc vào giờ thể dục là một trong nhưng biện pháp đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học. Đối với học sinh tiểu học, là thời kỳ đầu tiên để phát triển thể chất thì việc áp dụng âm nhạc vào môn thể dục sẽ góp phần rèn luyện cho học sinh có nếp sống lành mạnh, tập luyện và vui chơi có ý thức kỷ luật, từ đó hình thành phẩm chất đạo đức tốt, tạo tiền đề cho các em phát triển trí tuệ và thể chất một cách toàn diện. Ví dụ, để di chuyển từ đội hình hàng ngang thành vòng tròn, để khởi động chơi trò chơi, trước đây các em di chuyển theo khẩu lệnh thì nay được áp dụng bằng âm nhạc. Các em sẽ vừa hát theo nhạc, vừa vỗ tay, vừa di chuyển về vị trí đã được quy định trên sân. Nên chọn những bài hát vui tươi, trong sáng phù hợp với lứa tuổi, những bản nhạc học sinh dễ cảm nhận, dễ thuộc, phù hợp với các bài tập để tạo cảm giác hứng thú cho các học sinh… Đối với học sinh tiểu học, các em thích có những động tác, bài tập ngộ nghĩnh đáng yêu và cũng rất thích hát. Vì vậy, việc biên soạn một số bài tập thả lỏng, thư giãn theo tiếng nhạc, sẽ mang lại hiệu quả giáo dục cao. – Ngoài các trò chơi vận động trong chương trình theo quy định thì GV cũng rất cần tìm tòi và sáng tạo các trò chơi khác để ứng dụng vào quá trình dạy học, góp phần tạo không khí vui tươi, sự hứng thú cho HS, đem lại hiệu quả cao cho giờ học bộ môn. 2.2 Nội dung biện pháp và cách thực hiện: * Biện pháp 1: Tổ chức một số các bài tập vận động dƣới hình thức trò chơi. – Tổ chức cho học sinh khởi động, thả lỏng bằng đa dạng các trň chơi trong kho tàng trò chơi dân gian, trò chơi sáng tạo do giáo viên lựa chọn, phù hợp với nội dung vận động của bài học: 11 VD: Trò chơi: Kết bạn, mèo đuổi chuột, kéo cưa lừa xẻ, làm theo lệnh tôi, chim bay cò bay, đứng ngồi theo lệnh, tôi bảo, gió thổi…. – Tổ chức trò chơi dưới hình thức trò chơi : Ở các bài ôn tập các nội dung, các tư thế : Nghiêm! Nghỉ; quay phải- quay trái, tập hợp hàng dọc- hàng ngang – điểm số…giáo viên có thể cho học sinh tập luyện các bài tập dưới hình thức tổ chức trò chơi như :„„Làm theo hiệu lệnh”, „Thi xếp hàng nhanh‟‟, „„Thi điểm số đúng‟‟…để tạo ra tính mới mẻ, hấp dẫn cho các nội dung tập luyện , thu hút học sinh hơn. – Với nội dung bài dạy động tác mới của bài TDPTC: Sau khi phân tích kĩ thuật, hình thành kiến thức động Gv có thể tổ chức cho học sinh tập luyện kết hợp các bài tập bổ trợ động tác. Khi học sinh đã hình thành được động tác có thể tập luyện dưới hình thức trò chơi : “Ai nhanh ai đúng” các nhịp của động tác. Với trò chơi này, giáo viên có thể nêu nhịp theo thứ thự, sau đó tăng dần độ khó là đảo nhịp- trò chơi này giúp các em kết hợp phản xạ nhanh trong ghi nhớ giúp quá trình ghi nhớ nhịp trong động tác được nhanh, chính xác và lâu hơn. Sau khi đã hình thành các động tác bài thể dục, để các em có thể ghi nhớ chủ động và khắc sâu hơn, nhanh và chính xác tên các động tác, thứ tự các động tác Gv có thể tổ chức cho các em chơi trò chơi “ Truyền điện” tên các động tác , có thể tăng dần độ khó của trò chơi theo nhận thức của học sinh theo 3 mức độ sau : + Mức độ 1: Chỉ cần nhớ tên các động tác. + Mức độ 2: Nhớ tên động tác theo thứ tự theo thứ tự đúng. + Mức độ 3: Nói được tên động tác theo chỉ định * Biện pháp 2: Sử dụng các giai điệu, bài hát phù hợp lồng ghép vào một số các bài tập vận động tại những thời điểm nhất định trong giờ học. Cụ thể dựa trên tiến trình hoạt động của giờ học và phân phối nội dung phần vận động cơ bản các khối lớp, tôi đã thực hiện như sau: – Phần khởi động, thả lỏng hồi tĩnh: Thay cho cách hô nhịp truyền thống , giáo viên tổ chức cho học sinh kết hợp khởi động hoặc thả lỏng trên nền các giai điệu, bài hát vui tươi, phù hợp lứa tuổi học sinh để tạo không khí tích cực cho giờ học. 12 Cũng có thể sử dụng chính các bài dân vũ, múa hát giữa giờ để đưa vào phần hoạt động này. VD: Các bài dân vũ: (vũ điệu rửa tay, Trống cơm, Chicken Dance…), một số bài hát có nhịp điệu phù hợp học sinh đã được học trong giờ Âm nhạc :„„Hát lên chào ngày mới‟‟, „„ Ước mơ‟‟, „„ Reo vang bình minh‟‟, „„Khăn quàng thắp sáng bình minh‟‟, „„Lớp chúng mình đoàn kết‟‟…, các bản nhạc nền cho thể dục nhịp điệu Vào từng tháng trong năm học, Giáo viên có thể sử dụng một số các bài hát theo chủ điểm đưa vào hoạt động khởi động hay thả lỏng sẽ gián tiếp giáo dục truyền thống cho học sinh ngay trong các hoạt động Thể chất. Chủ điểm các tháng trong năm học là: Tháng 8 + 9: Chào mừng năm học học mới. Tháng 10: Chăm ngoan, học tốt. Tháng 11: Kính yêu thầy cô giáo. Tháng 12: Uống nước nhớ nguồn. Tháng 1 + 2: Mừng Đảng, mừng xuân. Tháng 3: Yêu quý mẹ và cô giáo. Tháng 4: Mừng đất nước nở hoa. Tháng 5: Kính yêu Bác Hồ. – Phần vận động cơ bản: + Nội dung ĐHĐN: Khi học sinh thực hiện các bài ôn tập như: Đi đều, đi đều vòng trái, đi đều vòng phải, giáo viên có thể tổ chức cho các em tập luyện trên nền các bài hát truyền thống Đội có nhịp điệu tiết tấu phù hợp với nhịp hành tiến như : Hành khúc đội TNTPHCM, Đi ta đi lên, như có Bác Hồ, Nhanh bước nhanh nhi đồng…. + Nội dung bài Thể dục phát triển chung ( TDPTC ): Trong các tiết ôn tập 8 động tác bài TD, khi học sinh đã thực hiện tương đối chính xác động tác, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh ôn luyện bài Thể dục trên nền các giai điệu bài hát vui tươi có nhịp điệu tiết tấu phù hợp với bài 13 tập do giáo viên lựa chọn, hoặc tập trên nền các ca khúc theo chủ điểm tháng cùng thời điểm. VD: phần ôn tập bài TDPTC khối 5 vào tháng 12, ta có thể hướng dẫn cho các em tập trên nền các bài hát theo chủ điểm tháng là: „„Uống nước nhớ nguồn‟‟ có nhịp điệu tiết tấu phù hợp như: „„Cháu hát về đảo xa‟‟, „„Màu áo chú bộ đội‟‟… Một số hình ảnh tập luyện bài TDPTC của học sinh lớp 5 14 + Nội dung Bài tập RLTTVĐCB: Trong giờ học, giáo viên linh hoạt kết hợp sử dụng nhạc nền khi tổ chức cho học sinh các nhóm, tổ thi trình diễn sẽ tạo được không khí sôi nổi, sự mới mẻ cho các bài tập, một sân khấu trình diễn ngay giữa không gian lớp học, qua đó thu hút được sự tập trung của học sinh cả lớp và cảm hứng biểu diễn hơn nơi học sinh lên tham gia diễn tập. VD: Khi học sinh trình diễn các tư thế cơ bản, các bài tập đi theo vạch kẻ thẳng, hay đi chuyển hướng phải – trái…. Có thể lựa chọn các bản nhạc EDM có tiết tấu phù hợp bài tập, các bản nhạc có lời hoặc không lời có tiết tấu nhẹ nhàng vui tươi làm nền nhạc biểu diễn..phù hợp theo tâm lý của các em. VD: Có thể cho học sinh thực hiện bài tập nhảy dây theo tiết tấu nhạc nhanh hay chậm của nền nhạc do giáo viên chuẩn bị: 15 Trò chơi : Nhảy dây tập thể + Nội dung Trò chơi VĐ vàTTTC Với nội dung Trò chơi vận động và TTTC: Khi học sinh đã nắm được cơ bản chính xác các động tác, cách chơi trò chơi,Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh tập luyện và chơi các trò chơi dưới hình thức thi giữa các nhóm, tổ – và có thể sử dụng âm nhạc làm nền để tạo thêm tiết tấu cho các động tác. Bên cạnh việc giúp cho học sinh cảm nhận nhịp điệu bài tập tốt hơn âm nhạc còn giúp tạo cho không khí giờ học trở nên sôi động cuốn hút hơn. Trò chơi Bịt mắt bắt dê 16 Với các trò chơi như: Nhảy lò cò tiếp sức, nhảy đúng nhảy nhanh, dẫn bóng, tung và bắt bóng, trò chơi thăng bằng hay trò chơi bóng chuyền sáu,…có thể tổ chức cho hs thực hiện trên nền nhạc do GV chọn, có tiết tấu nhanh hay chậm tùy theo tiết tấu của bài tập, hoặc theo chủ định của giáo viên. Trò chơi: Nhảy bao bố Tùy theo đặc điểm và cách chơi từng trò chơi, giáo viên có thể kết hợp sử dụng đồng dao, hay lời bài hát ngắn gọn, gần gũi để làm hiệu lệnh của trò chơi thay cho nhịp hô thông thường: VD: Trong trò chơi ‘‘Thăng bằng’’ 17 Giáo viên có thể sáng tạo kết hợp lời bài hát để làm hiệu lệnh để trò chơi sôi động hơn, đồng thời qua lời bài hát cũng gián tiếp giáo dục tình đoàn kết bạn bè như sau: “Nào mình cùng…Vỗ cái tay lên đi- xem ai có ngại ngần gì Cầm cái tay nhau đi (các cặp học sinh chơi làm động tác cầm tay nhau) Xem ai có ngại ngần chi Mình là anh em, có chi đâu mà ngại ngần Cầm cái chân lên đi (học sinh làm động tác co và giữ chân) Nào mình cùng chơi!” 2.3. Những yêu cầu đối với giáo viên khi áp dụng biện pháp: Để có thể dụng biện pháp hiệu quả trong giảng dạy, người giáo viên cần có sự chuẩn bị kĩ lưỡng về tất cả các điều kiện cả chủ quan và khách quan: * Điều kiện chủ quan: – Bên cạnh vốn kiến thức chuyên môn giáo viên cần có tâm thế sẵn sàng, luôn có thức trau dồi học hỏi để có vốn kiến thức nhất định về âm nhạc, thao tác kĩ thuật cắt ghép nhạc, nắm được tâm lý thị hiếu âm nhạc của học sinh để có thể lựa chọn và cắt ghép được các giai điệu, các bài hát có nội dung nhịp điệu tiết tấu phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh,với nhịp điệu của bài tập,và phù hợp với nội dung,mục tiêu yêu cầu của bài học để lồng ghép vào bài tập. – Trò chơi vận động được sử dụng trong các giờ học thể chất như là một công cụ, một phương tiện hữu hiệu nhằm củng cố các bài tập đã học một cách hiệu quả. Tuy nhiên để phát huy tác dụng của trò chơi vận động như đã nêu người giáo viên cần có trình độ nghiệp vụ chuyên môn vững vàng, có kĩ năng tổ chức và kĩ năng quản trò để tổ chức và triển khai các hoạt động trò chơi phù hợp bài học và đối tượng học sinh , điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường. Nếu không đảm bảo được các điều kiện trên thì việc tổ chức trò chơi ngược lại sẽ thành cái „„bẫy‟‟ mà tác hại là đi ngược với mục tiêu giáo dục ban đầu. Cụ thể như khi giáo viên tổ chức trò chơi nhưng không đưa ra được luật chơi chặt chẽ, phương tiện đầy đủ- an toàn hay trọng tài thiếu công bằng…sẽ dẫn đến các tình huống không mong muốn như ganh tị, tranh cãi , va chạm, không an toàn tập 18 luyện…Do đó khi sử dụng phương pháp này, GV cần chú ý lựa chọn các trò chơi hoặc tự thiết kế sáng tạo trò chơi đảm bảo những yêu cầu: + Mục đích của trò chơi phải thể hiện mục tiêu của bài học hoặc bổ trợ cho nội dung bài tập vận động cơ bản. + Hình thức chơi đa dạng giúp HS được thay đổi các hoạt động học tập trên lớp, giúp HS phối hợp các hoạt động trí tuệ với các hoạt động vận động. + Luật chơi đơn giản rõ ràng để HS dễ nhớ, dễ thực hiện. Cần đưa ra các cách chơi có nhiều HS tham gia để tăng cường kỹ năng học tập hợp tác. + Các dụng cụ chơi cần đơn giản, dễ làm, an toàn. + Chọn quản trò chơi có năng lực phù hợp với yêu cầu của trò chơi. + Tổ chức chơi vào thời gian thích hợp của bài học để vừa làm cho học sinh hứng thú học tập vừa hướng cho học sinh tiếp tục tập trung các nội dung khác của bài học một cách có hiệu quả. * Điều kiện Khách quan: – Khi tổ chức tập luyện có kết hợp âm nhạc và trò chơi, giáo viên cần chủ động chuẩn bị đầy đủ, hợp lý trước các phương tiện đi kèm như loa đài…, dụng cụ phục vụ trò chơi nếu có… – Bên cạnh đó cần đặc biệt chú ý tới yếu tố ngoại cảnh là sân tập và không gian tập luyện. Vì không phải trường nào cũng có nhà đa năng hoặc điều kiện sân tập tách biệt nên khi sử dụng biện pháp này giáo viên cần chú ý đến vấn đề âm thanh, tiếng ồn… mình học nhưng cũng không làm ảnh hưởng tới hoạt động học tập của các lớp học xung quanh. 2.4 Kế hoạch bài dạy minh họa giáo viên có sử dụng biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh bằng âm nhạc và trò chơi: HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC THỂ CHẤT LỚP 4 Chủ đề : BÀI TẬP RLTTCB – TRÒ CHƠI Bài 39: Đi chuyển hƣớng phải trái – trò chơi: ‘‘Thăng bằng’’ I. Mục tiêu bài học 1. Về phẩm chất: 19 Bài học góp phần bồi dưỡng cho học sinh các phẩm chất cụ thể: – Chăm chỉ, đoàn kết trong tập luyện và hoạt động tập thể. – Tích cực tham gia các trò chơi vận động , trung thực và có trách nhiệm trong khi chơi trò chơi. 2. Về năng lực: 2.1. Năng lực chung: – Tự chủ và tự học: HS biết chuẩn bị và luyện tập trước nội dung cho bài học: Tự ôn lại kĩ thuật đi chuyển hướng và cách chơi trò chơi „„ Thăng bằng‟‟ – Giao tiếp và hợp tác: Biết phân công, hợp tác trong nhóm để thực hiện các nhiệm tập luyện – Vận dụng và sáng tạo: Biết vận dụng bài học vào trong cuộc sống và vui chơi cùng bạn bè, người thân 2.2. Năng lực đặc thù: – Năng lực chăm sóc sức khỏe: Biết thực hiện vệ sinh sân tập, thực hiện vệ sinh cá nhân để đảm bảo an toàn trong tập luyện. – Năng lực vận động cơ bản: Biết quan sát,lắng nghe và thực hiện nhiệm vụ được phân công: + Trò chơi: Biết cách chơi và tham gia chơi được trò chơi: „„ Thăng bằng‟‟. + Đi chuyển hướng phải trái: Thực hiện được động tác tương đối chính xác. II. Địa điểm – phƣơng tiện – Địa điểm: Sân thể dục hoặc nhà hoạt động đa năng. – Phương tiện: + Giáo viên chuẩn bị: Kế hoạch bài dạy,còi, trang phục thể thao, kẻ sân, cờ, phương tiện âm thanh để phục vụ bài học và trò chơi. + Học sinh chuẩn bị: Trang phục phù hợp. III. Phƣơng pháp và hình thức tổ chức dạy họ
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN. Môn Thể dục cùng với các môn học khác trong nhà trường có nhiệm vụ quan trọng trong việc hình thành cho người học những nhân cách sống của con người lao động mới, trong thời đại mới, theo mục tiêu giáo dục của Đảng ta là: Đào tạo con người: Tự chủ – năng động – sáng tạo, có năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra. Không những thế, giáo dục thể chất cho thế hệ thanh thiếu niên là một mặt của nền giáo dục tiến bộ, là nhu cầu tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển trong xã hội văn minh nói chung và công cuộc xây dựng CNXH, bảo vệ Tổ quốc nói riêng. Môn Thể dục còn mang lại cho thế hệ trẻ cuộc sống vui tươi, lành mạnh, nhằm góp phần đào tạo thế hệ thanh niên Việt Nam thành những người: “Phát triển cao vềtrí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Chương trình GDPT 2018, môn Thể dục được gọi là môn Giáo dục thể chất giúp học sinh hình thành, phát triển kĩ năng chăm sóc sức khoẻ, kĩ năng vận động, thói quen tập luyện thể dục thể thao và rèn luyện những phẩm chất, năng lực để trở thành người công dân phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế; góp phần phát triển tầm vóc, thể lực người Việt Nam; đồng thời phát hiện và bồi dưỡng tài năng thể thao. Ở bậc Tiểu học, môn Thể dục giúp học sinh biết cách chăm sóc sức khoẻ và vệ sinh thân thể, bước đầu hình thành các kĩ năng vận động cơ bản, thói quen tập luyện thể dục thể thao, tham gia tích cực các hoạt động thể dục thể thao nhằm phát triển các tố chất thể lực. Biết vận dụng ở mức nhất định những điều đã học khi sinh hoạt ở trường và tự chơi, tự học hàng ngày. 2 Khởi động là hoạt động đầu tiên của tiết học, nhằm giúp học sinh chuyển cơ thể từ trạng thái tĩnh sang trạng thái hoạt động, giúp các cơ được linh hoạt, các khớp được bôi trơn và hạn chế được chấn thương trong luyện tập. Là người giáo viên, tôi luôn có trách nhiệm, tâm huyết, yêu nghề, mến trẻ. Tôi luôn mong muốn mang đến cho các em học sinh của mình những trải nghiệm tốt nhất trong quá trình tổ chức các hoạt động môn Thể dục, tôi luôn bám sát nội dung chương trình, thường xuyên quan sát và tìm ra những thiếu sót, hạn chế của học sinh để có biện pháp hỗ trợ kịp thời. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã suy nghĩ, nghiên cứu, đi vào thực nghiệm sáng kiến“Nâng cao hiệu quả phần Khởi độngtrong môn Thể dục cho học sinh Tiểu học”. II. MÔ TẢ VỀ GIẢI PHÁP 1. Giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến. 1.1. Thực trạng công tác dạy và học môn Thể dục trong trường Tiểu học trước khi tạo ra sáng kiến. Bộ môn Thể dục ở Tiểu học được Bộ GD&ĐT nghiên cứu chọn lọc để từng tiết dạy phù hợp với trình độ học sinh từng khối lớp “Tài liệu hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Thể dục ở Tiểu học”. Qua tài liệu chuẩn kiến thức giúp cho giáo viên nắm được mục tiêu tối thiểu mà tất cả học sinh cần phải đạt được sau tiết học. Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường trong việc chỉ đạo thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học, trường có sân rộng, thoáng mát, các điều kiện về cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị dạy học cho hoạt động thể dục thể thao tương đối thuận lợi. Giáo viên đã có nhiều năm giảng dạy tại trường Tiểu học, được đào tạo chính quy. 3 Nhà trường thường xuyên tổ chức các hoạt động thể dục thể thao nhân dịp các sự kiện hoặc chào mừng các ngày lễ lớn trong năm như dịp 20/11, 22/12, 26/03, khai giảng năm học mới, tết Trung thu… Phần lớn các em học sinh đều yêu thích môn học. Nhiều học sinh tiếp thu nhanh, luyện tập cá nhân, tổ nhóm, đồng loạt tốt. Một số em có năng khiếu thể dục thể thao tích cực tham gia các hội thi, giao lưu các cấp đạt kết quả cao. Sau nhiều năm trực tiếp giảng dạy môn Thể dục tại nhà trường tôi nhận thấy có một số hạn chế chủ yếu sau: – Một số giáo viên còn coi nhẹ vai trò, tầm quan trọng của hoạt động khởi động, các bài tập còn đơn điệu, đôi lúc nội dung khởi động không tương thích với nội dung tiết dạy. Giáo viên ngại thay đổi,còn phụ thuộc nhiều vào tài liệu hướng dẫn. – Mặt khác, đội ngũ cán sự lớp đôi lúc còn chưa mạnh dạn, tự tin, chưa chủ động trong việc tổ chức, điều hành các hoạt động tập luyện.Nhiều em còn rụt rè, nhút nhát, không dám mạnh dạn tham gia vào các hoạt động khởi động đặc biệt là đối với những em không có năng khiếu về Thể dục. – Ở tuổi Tiểu học, sự tập trung chú ý có chủ định của học sinh còn yếu, các em chưa thực sự hứng thú với phần khởi động, chưa hiểu rõ tác dụng của các bài tập khởi động, mà phần lớn các em đều khởi động qua loa, hời hợt, không chú tâm vào phần khởi động, dẫn đến có nhiều trường hợp do không khởi động kỹ trước khi tập dẫn đến chấn thương với đủ các mức độ. Đặc biệt, với lứa tuổi học sinh Tiểu học các em còn nhỏ, hệ xương khớp chưa phát triển đầy đủ, đường hô hấp còn hẹp, hệ tuần hoàn hoạt động chưa được tốt, nếu không khởi động kỹ trước khi tập luyện sẽ gây ra những chấn thương như bong gân, trật khớp, gãy tay, gãy chân,… 4
Hình 1: Bong gân
Hình 2: Chuột rút
Phòng tập đa năng chưa có nên việc dạy học ngoài trời nhiều khi phụ thuộc vào thời tiết.Vào những hôm thời tiết bất lợi, các em học sinh ngại ra sân, hoặc ra sân một cách miễn cưỡng, uể oải, thực hiện những động tác khởi động một cách qua loa, chiếu lệ cho xong. Trang phục tập luyện thể dục riêng cho học sinh chưa có nên ảnh hưởng đến chất lượng hiệu quả giờ dạy. 1.2. Các giải pháp đã áp dụng trước khi tạo ra sáng kiến Giáo viên đã tổ chức các hoạt động khởi động cho học sinh, tuy nhiên đa phần là giáo viên tự tổ chức mà chưa giúp học sinh hiểu rõ tác dụng của hoạt động khởi động. Giáo viên đã lựa chọn và bồi dưỡng đội ngũ cán sự lớp. Cán sự lớp sẽ thay nhau lên tổ chức, điều khiển các bạn khởi động. Đội hình khởi động là đội hình hàng ngang giãn cách. Giáo viên sử dụng các trò chơi sẵn có trong sách hướng dẫn để tổ chức cho học sinh chơi trong phần khởi động. Động tác khởi động sẽ theo trình tự: khớp cổ, khớp khửu tay, khớp vai, khớp hông và khớp gối sau đó chơi trò chơi khởi động. 5 Giáo viên sử dụng các đồ dùng dạy học được cấp phát và tích cực tự làm đồ dùng dạy học. Một bộ phận học sinh tham gia các hoạt động khởi động một cách thụ động, chưa chú tâm và thực hiện các động tác hời hợt. Ưu điểm của biện pháp Học sinh nắm được các bước khởi động. Đội ngũ cán sự lớp thường xuyên tổ chức cho các bạn khởi động nên các em khá tự tin và điều hành lớp tốt. Học sinh đã tham gia được các trò chơi có sẵn trong sách hướng dẫn. Giáo viên đã sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học giúp phần khởi động thêm phong phú hấp dẫn. Hạn chế của biện pháp Học sinh chưa hiểu rõ tác dụng của các bài tập khởi động nên còn khởi động qua loa, dẫn đến hiệu quả chưa cao. Chỉ có đội ngũ cán sự lớp điều khiển được lớp khởi động mà chưa có sự tham gia của các học sinh khác trong lớp dẫn đến sự tự kiêu trong ban cán sự, và sự thụ động trong các bạn học sinh còn lại. Đội hình, các động tác khởi động chưa đa dạng, chưa linh hoạt sáng tạo nên gây sự nhàm chán cho học sinh. Các trò chơi khởi động lặp đi lặp lại nhiều lần cũng gây ra sự nhàm chán cho học sinh, mức độ khó của trò chơi chưa được tăng lên để phù hợp với học sinh lớp lớn. Giáo viên tự làm đồ dùng dạy học mà chưa có sự vào cuộc của học sinh và phụ huynh nên gây quá tải cho giáo viên mà học sinh lại không có cơ hội trải nghiệm và cảm nhận niềm vui khi tự tay mình làm ra những đồ dùng dạy học cũng như không có sự kết nối với phụ huynh. 6 Chính từ những hạn chế trên, tôi đã suy nghĩ tìm ra biện pháp để giúp học sinh hiểu được tác dụng của các bài tập khởi động, hứng thú và nâng cao hiệu quả tập luyện, tạo cho các em có thói quen tích cực trong môn học, góp phần bảo vệ, tăng cường sức khỏe, phát triển các tố chất thể lực, tiếp tục hình thành thói quen thường xuyên tập luyện thể dục thể thao cho học sinh. Ngoài ra, trang bị cho học sinh một số hiểu biết về những kĩ năng vận động cơ bản, củng cố và làm giàu thêm vốn kĩ năng cần thiết trong cuộc sống, phù hợp với khả năng, trình độ và đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, giới tính của các em; góp phần giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh, hình thành nhân cách con người mới. Đồng thời tăng cường sự đoàn kết giữa các em học sinh trong lớp, trong trường; hạn chế tối đa học sinh bị chấn thương trong quá trình tập luyện; giúp các em tránh xa các tệ nạn, các trò chơi điện tử; tăng cường thể lực, phát triển tư duy sáng tạo, khả năng tập trung, phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần, linh hoạt xử lí các tình huống trong cuộc sống. 2. Giải pháp sau khi áp dụng sáng kiến Giải pháp 1: Xác định vị trí, vai trò và tác dụng của khởi động; lựa chọn, tổng hợp hệ thống các bài tập khởi động. Giáo viên nghiên cứu, hệ thống hóa kiến thức môn Thể dục trong chương trình Tiểu học để nắm được các nội dung kiến thức chính, nắm được các kiến thức kĩ năng học sinh cần đạt. Đối với từng bài học trong phân phối chương trình, giáo viên cần quan tâm đến mục tiêu mà tất cả học sinh phải đạt được sau khi học xong bài đó. Từ đó, giáo viên tổ chức các hoạt động khởi động theo từng bài cho học sinh. Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh phân biệt được nội dung của hai phần của khởi động cụ thể: + Khởi động chung + Khởi động chuyên môn 7 – GV nêu tác dụng của khởi động cho học sinh nắm rõ. Từ đó, các em có ý thức hơn trong tập luyện phần khởi động cơ chế tác động của khởi động rất đa dạng nhưng có thể quy nạp các tác động đó vào những hiệu quả cơ bản sau: + Tác dụng với hệ thần kinh + Tác dụng với hệ tuần hoàn, hô hấp + Tác dụng với hệ vận động Giải pháp 2:Bồi dưỡng đội ngũ cán sự lớp + Lựa chọn, bồi dưỡng đội ngũ cán sự lớp + Luân phiên cho các em học sinh làm cán sự lớp Giải pháp 3: Linh hoạt,đa dạng trong việc tổ chức đội hình, động tác và các trò chơi khởi độngtạo hứng thú cho học sinh. – Linh hoạt sử dụng các đội hình khởi động – Đa dạng các động tác khởi động – Cải biến thay đổi các trò chơi khởi động, thi đua tìm hiểu các trò chơi mới – Động viên khen thưởng kịp thời Giải pháp 4: Tăng cường làm và sử dụng đồ dùng dạy học, đề xuất với nhà trường bổ sung cơ sở vật chất trang thiết bị. – Phối kết hợp với đồng nghiệp, phụ huynh, học sinh làm đồ dùng dạy học – Tham mưu với ban giám hiệu bổ sung, cải tạo cơ sở vật chất – Đề xuất với ban giám hiệu sử dụng các phòng chức năng có không gian rộng để cho học sinh tập luyện vào những hôm thời tiết bất lợi. 2.1. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến Giải pháp 1: Xác định vị trí, vai trò và tác dụng của khởi động; lựa chọn, tổng hợp các bài tập khởi động. Giáo viên nghiên cứu, hệ thống hóa kiến thức môn Thể dục trong chương trình Tiểu học để nắm được các nội dung kiến thức chính, nắm được các kiến thức kĩ năng học sinh cần đạt. Đối với từng bài học trong phân phối chương trình, giáo viên cần quan tâm đến mục tiêu mà tất cả học sinh phải đạt được sau 8 khi học xong bài đó. Từ đó giáo viên tổ chức các hoạt động khởi động theo từng bài cho học sinh. Giáo viên giới thiệu cho học sinh biết và phân biệt được nội dung của hai phần của khởi động cụ thể: * Khởi động chung: Là loại khởi động sử dụng các động tác tay không, chạy nhẹ nhàng để làm tăng nhiệt độ của cơ thể, tăng hưng phấn thần kinh trung ương, tăng chức năng của hệ vận chuyển oxy, tăng cường chuyển hóa chất và tăng cường sự phối hợp giữa các trung khu thần kinh với nhau. Mục đích của khởi động chung là nâng cao trạng thái cơ năng của toàn bộ cơ thể lên tới trình độ năng lực hoạt động thích hợp nhất. Tất cả biến đổi của các cơ quan đều từ thấp tới cao để thích ứng với vận động. Các động tác bao gồm xoay các khớp: khớp cổ, khớp cổ tay cổ chân, khớp khuỷu tay, khớp vai, khớp hông và khớp gối, ép dọc, ép ngang… Hình 3: Khởi động xoay các khớp * Khởi động chuyên môn: Mục đích của khởi động chuyên môn hay hoạt động chuẩn bị từng phần cơ thể là để cải thiện giữa những trung tâm thần kinh có liên quan tới môn vận động chính, để bước vào tập luyện và thi đấu cho tốt- 9 tức là chuẩn bị cho cơ thể thực hiện một hoạt động chuyên môn cụ thể vì thế nó phải tương ứng về đặc điểm cơ cấu vận động với bài tập sắp tới. Trong phần khởi động này thường có các động tác phối hợp kĩ thuật phức tạp và động tác chuyên môn với các dụng cụ chuyên môn. Ví dụ:Thể dục 4- Bài54: “ Môn thể thao tự chọn – trò chơi dẫn bóng” tôi tổ chức các hoạt động khởi động như sau: + Khởi động chung bao gồm xoay các khớp, tập bài thể dục phát triển chung, ép dọc, ép ngang. + Khởi động chuyên môn bao gồmcác động tác: chạy bước nhỏ, chạy nâng cao đùi, chạy lăng sau tại chỗ. Giáo viên nêu tác dụng của khởi động cho học sinh nắm rõ. Từ đó, các em có ý thức hơn trong tập luyện phần khởi động Cơ chế tác động của khởi động rất đa dạng nhưng có thể quy nạp các tác động đó vào những hiệu quả cơ bản sau: – Tác dụng đối với hệ thần kinh. Khởi động sẽ làm tăng tính hưng phấn của các trung tâm thần kinh và tăng cường sự phối hợp giữa các trung khu thần kinh với nhau. Khởi động làm cho vỏ não chuyển cơ thể từ trạng tĩnh sang trạng thái hoạt động. Khởi động còn làm tăng hoạt động của các tuyến nội tiết vì vậy, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình điều hòa chức năng trong hoạt động thể thao, củng cố các phản xạ vận động cần thiết. – Tác dụng đối với hệ tuần hoàn, hô hấp. Khởi động sẽ tăng cường hoạt động của toàn bộ hệ thống đảm bảo dinh dưỡng và vận chuyển oxy cho cơ thể, tăng thông khí phổi và tốc độ trao đổi khí giữa phế nang và máu, tăng thể tích tâm thu và tần số co bóp của tim, tăng huyết áp và dòng máu tĩnh mạch trở về tim, từng số lượng mao mạch tích cực để tăng cường dòng máu tới tim, phổi và cơ. Tất cả các tác dụng nêu trên đều nhằm cung cấp oxy nhiều hơn cho các tổ chức rút ngắn quá trình của cơ thể khi vận động. 10 Khởi động còn tăng cường dòng máu ở da và thúc đẩy quá trình bài tiết mồ hôi, vì vậy có tác dụng tốt đối với quá trình trao đổi nhiệt trong vận động. – Tác dụng đối với hệ vận động (cơ, khớp, dây chằng) Khởi động làm tăng nhiệt độ của cơ bắp, tăng khả năng co rút và tăng tốc độ của các phản ứng sinh hóa của cơ, tăng tốc độ co rút và thả lỏng của cơ. Khởi động làm tăng độ linh hoạt của khớp, tăng tiết dịch ở khớp và phòng ngừa được chấn thương. Khi các em khởi động tốt cơ thể được làm nóng, các khớp được bôi trơn, các cơ được linh hoạt thì khi học bài mới cơ thể đã trong trạng thái sẵn sàng giúp cho việc tiếp thu bài được tốt hơn và tránh được chấn thương góp phần nâng cao chất lượng môn học. Giải pháp 2:Bồi dưỡng đội ngũ cán sự lớp. Nhận thức rõ tầm quan trọng của đội ngũ cán sự lớp nên tôi đã xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, lựa chọn cán sự lớp nhằm phát huy vai trò của đội ngũ tự quản. Các em trong Ban cán sự không nhất thiết phải là các em giỏi văn hóa mà người giáo viên cần lựa chọn những em nhanh nhẹn, có kĩ năng quan sát, phân tích, điều hành tập thể, có uy tín trước các bạn.Để đạt được điều này, giáo viên cần hướng dẫn các em các kĩ năng từ khâu tập trung, báo cáo, đến kĩ năng hô khẩu lệnh sao cho dõng dạc, dứt khoát, thường xuyên uốn nắn, sửa sai kịp thời. Trong mỗi tiết học, tôi thường giao nhiệm vụ thêm cho các thành viên khác trong Ban cán sự Ví dụ: – Lớp trưởng tập trung, báo cáo sĩ số – Tổ trưởng, nhóm trưởng cho các bạn khởi động Sau khi cán sự lớp đã tự tin điều khiển khởi động đó là lúc các em học sinh còn lại trong lớp cũng đã nắm được trình tự cũng như lĩnh hội được các động tác khởi động tôi sẽ lần lượt cho từng học sinh trong lớp luân phiên làm cán sự lớp cũng như các tổ trưởng, sẽ tự điều hành lớp tập luyện. Tôi sử dụng trò chơi: “Sao đổi ngôi” để các em thay nhau làm quản trò trong lớp, trong nhóm. Bằng một quả cầu nhỏ hoặc quả bóng tôi sẽ tung lên, em nào bắt được 11 bóng (cầu) sẽ là quản trò thực hiện việc tổ chức cho lớp (nhóm) khởi động. Sau mỗi lần được điều hành các bạn như vậy năng lực tự quản, năng lực lãnh đạo, ý thức tự giác, lòng tự tin, tự chủ của học sinh được rèn luyện và phát huy hình thành cho các em ý thức trách nhiệm trong công việc, sự gắn kết thân thiện giữa các em với nhau xóa đi sự tự ti của một số học sinh nhút nhát. Khiến các em hào hứng trước nội dung chính của mỗi tiết học. Tôi nhận thấy, khi được đóng vai cán sự lớp các em rất hào hứng và sau đó rất hợp tác với ban cán sự lớp vì các em đã được trải nghiệm từ đó nâng cao chất lượng phần khởi động. Giải pháp 3: Linh hoạt,đa dạng trong việc tổ chức đội hình, động tác và các trò chơi khởi động cho học sinh. Từ thực tế giảng dạy môn thể dục tại trường kết hợp với dự giờ thăm lớp của các đồng nghiệp trong tổ thể dục, tôi nhận thấy: Đa phần giáo viên sử dụng đội hình khởi động ở hàng ngang, việc lặp đi lặp lại một đội hình từ tiết này qua tiết khác sẽ dẫn đến sự nhàm chán, không hứng thú với việc khởi động dẫn đến hiệu quả khởi động không cao. Vì thế,trong mỗi tiết học,tôi đã linh hoạt thay đổi đội hình tạo nên sự mới mẻ, thu hút học sinh chú ý hơn trong việc khởi động.Cụ thể đội hình mà tôi sử dụng đó là đội hình chữ U, đội hình vòng tròn, đội hình đối xứng, …
Hình 4: Đội hình chữ U
12
Hình 5: Đội hình vòng tròn
Hình 6: Đội hình đối xứng
Để chất lượng phần khởi động của các em được nâng lên tôi đã thường xuyên đổi mới, đa dạng các động tác khởi động. Một bài khởi động đơn thuần theo sách giáo viên hướng dẫn được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ gây sự nhàm chán cho học sinh, thường khi đã thuộc động tác thì các em hay tập nhanh, không hết 13 biên độ dẫn đến hiệu quả bài khởi động không cao. Vì thế, tôi đã thêm vào các động tác như ép dọc, ép ngang, chạy bước nhỏ, chạy nâng cao đùi, chạy lăng sau tại chỗ. Ngoài ra, thay vì tập các bài khởi động một cách đơn điệu theo nhịp hô, tôi đã sử dụng các bản nhạc không lời hoặc có lời sôi động để hướng dẫn các em thực hiện theo nhịp nhạc.Việc tập theo nhạc mang lại cho các em một tinh thần vui tươi, hứng khởi dẫn đến hiệu quả của bài khởi động được nâng lên.
Hình 7: Khởi động với nhạc
Khi tổ chức các trò chơi khởi động. Ngoài các trò chơi trong sách hướng dẫn, tôi luôn tìm tòi, tham khảo các trò chơi mới phù hợp với nội dung bài dạy, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, đặc biệt là tôi chú trọng các trò chơi dân gian như nu na nu nống, rồng rắn lên mây…. Hoặc tôi đổi mới, cải biến trò chơi sẵn có trong sách hướng dẫn để trò chơi hấp dẫn hơn, thu hút học sinh hơn để từ đó tác dụng của các trò chơi khởi động được nâng lên. Ví dụ 1: Đối với trò chơi “Làm theo hiệu lệnh” thay vì người giáo viên chỉ hô khẩu lệnh đơn giản là “đứng”, “ngồi” và học sinh thực hiện. Tôi cải biến trò chơi như sau: Khi giáo viên hô “trời ta” cả lớp sẽ hô “ta đứng” và thực hiện động tác đứng còn khi người quản trò hô “đất ta” thì cả lớp sẽ hô “ta ngồi” và 14 thực hiện động tác ngồi. Việc cải biến trò chơi giúp cho trò chơi sôi nổi hơn, các em được rèn kĩ năng phối hợp giữa nghe, nói và thực hiện. Ví dụ 2: Trò chơi kết bạn ở sách Thể dục có hướng dẫn như sau: học sinh chạy nhẹ nhàng thành 1 vòng tròn và đọc “Kết bạn kết bạn, kết bạn là đoàn kết, kết bạn là sức mạnh, chúng ta cùng nhau kết bạn” học sinh đọc xong giáo viên hô Kết 2,3,4…. Thì học sinh nhanh chóng đứng theo nhóm.Tôi đã mạnh dạn cải biến như sau: Giáo viên hô “kết bạn kết bạn” Học sinh: hô “kết mấy kết mấy” Giáo viên: Kết 3 3 chân hoặc 5 chân, 6-3 chân, 15/3 chân….. Việc thay đổi cách chơi giúp học sinh sẽ phải vận dụng các kĩ năng tính toán, tư duy, linh hoạt để thực hiện được yêu cầu mà giáo viên đưa ra. Các em phải tính toán xem phải co bao nhiêu chân lên thì đúng, hoặc có thể phải cõng hoặc nâng 1 bạn lên khỏi mặt đất. Việc cải biến trò chơi giúp cho trò chơi hấp dẫn hơn. Đặc biệt, ở nội dung trò chơi tôi đã cho các em thay nhau làm quản trò, điều khiển các bạn chơi. Qua đó, học sinh được rèn luyện về năng lực tự tổ chức, điều hành các trò chơi trong tiết học cũng như khi hoạt động tập thể trong và ngoài nhà trường.
Hình 8: Học sinh tự tổ chức trò chơi trong giờ ra chơi
15 Để học sinh hiểu rõ trò chơi, có thể chủ động và sáng tạo khi chơi, phát huy tối đa tác dụng của trò chơi khởi động tôi đã thực hiện: + Giáo viên giới thiệu và giải thích ngắn gọn tên, nội dung trò chơi, cách chơi và những yêu cầu về tổ chức kỷ luật trong khi chơi. Sau đó, giáo viên cho học sinh chơi thử trò chơi 1, 2 lần trước khi chơi chính thức. Trong quá trình chơi, giáo viên sử dụng phương pháp thi đấu, động viên khuyến khích học sinh tham gia chơi một cách tích cực. Giáo viên có thể tăng thêm yêu cầu, thay đổi nhịp điệu trò chơi, phạm vi hoạt động của trò chơi (về cự ly, khoảng cách, thời gian chơi…) một cách hợp lýđể không gây nhàm chán và nhằm giúp các em phát huy tính sáng tạo trong khi chơi. Đối với những trò chơi có lời hát, vần điệu, giáo viên cho các em học thuộc các vần điệu rồi mới kết hợp đưa lời hát, vần điệu vào trò chơi. Đặc biệt, là tôi đã sưu tầm những đoạn nhạc có tiết tấu hợp với vần điệu để cho trò chơi được sôi nổi hơn. Ví dụ: Khi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Mèo đuổi chuột” trước hết tôi cho học sinh học thuộc vần điệu; sau đó, cho các em khớp nhạc theo vần điệu đã học rồi mới tiến hành cho các em chơi trò chơi.
Mèo đuổi chuột Mời bạn ra đây Tay nắm chặt tay Đứng thành vòng rộng Chuột luồn lỗ hổng Chạy vội chạy mau
Mèo đuổi đằng sau Trốn đâu cho thoát. Thế là chú chuột Lại đóng vai mèo Co cẳng chạy mau Bắt mèo bắt chuột.
Tiếp theo, tôi đã luân phiên cho các em học sinh được làm quản trò. Sau mỗi lần như thế các em sẽ được rèn luyện năng lực tự quản, sự tự tin khi đứng trước đám đông, các em sẽ chủ động nhớ luật chơi cách chơi và có khả năng tự tổ chức trò chơi cho các bạn trong giờ ra chơi hoặc khi sinh hoạt ở thôn xóm. Tôi nhận thấy khi được làm cán sự lớp các em rất hào hứng, vui vẻ và sau đó rất hợp tác với các bạn làm quản trò.Trong quá trình tổ chức trò chơi cho học sinh, giáo viên cần gần gũi động viên, vui vẻ cởi mở tạo không khí vui tươi hào hứng 16 bằng dáng vẻ hài hước, gây tiếng cười, làm cho học sinh cảm thấy thoải mái và sảng khoái trong khi chơi. + Thi đua tìm hiểu các trò chơi mới. Để bổ sung, làm giàu thêm kiến thức về các trò chơi trong phần khởi động, ngoài các trò chơi đã giới thiệu tôi còn khuyến khích các em tự tìm hiểu thêm các trò chơi khác bằng cách về hỏi ông bà, bố mẹ, tham khảo trên internet và qua sách báo. Sau đó, tôi tổ chức cho các em thi đua xem tổ nào biết nhiều trò chơi hơn qua hình thức tổ chức cho các em chơi trò chơi: “Tiếp sức”. Cách chơi như sau: Chia lớp thành 3 hàng dọc số lượng học sinh tương đương nhau. Khi có hiệu lệnh người đầu tiên sẽ chạy lên vạch đích viết tên trò chơi mình biết vào bảng sau đó chạy về chạm tay vào người thứ 2, người thứ 2 tiếp tục chạy lên vạch đích viết tên trò chơi mình biết vào bảng, người thứ nhất sẽ về cuối hàng đứng. Trò chơi cứ tiếp tục đến khi không còn học sinh nào viết được tên trò chơi nữa thì kết thúc. Khi kết thúc trò chơi giáo viên cùng học sinh tổng kết lại xem tổ nào ghi được nhiều tên trò chơi nhất là chiến thắng. Giáo viên khen thưởng và nhắc các em tiếp tục sưu tầm thêm các trò chơi mới. Bên cạnh những việc làm trên thì v
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐẶT VẤN ĐỀ Như chúng ta đã biết, năm học 2020 – 2021 là năm học đầu tiên triển khai dạy học theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo với định hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh. Cùng với đó, môn Giáo dục thể chất không chỉ góp phần phát triển phẩm chất và năng lực chung mà còn giúp học sinh hình thành, phát triển kĩ năng chăm sóc sức khoẻ, kĩ năng vận động và thói quen luyện tập thể dục thể thao. Qua đó, tạo điều kiện để cơ thể học sinh phát triển bình thường theo quy luật tâm lý lứa tuổi, giới tính và hình thành nhân cách cho các em. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 là chương trình mang tính mở, cho phép giáo viên và học sinh được lựa chọn các hoạt động phù hợp với thể lực, nguyện vọng của bản thân và điều kiện của nhà trường; đồng thời là căn cứ để các trường xây dựng kế hoạch phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục, tình hình thực tế và đặc điểm cụ thể của học sinh. Vì vậy, học sinh không chỉ được chăm sóc sức khoẻ, được học tập mà quan trọng hơn cả các em được thoả mãn nhu cầu vui chơi, tinh thần sảng khoái để đến với các môn học khác, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Trong chương trình môn Thể dục lớp 5 ban hành theo QĐ 16/2006/QĐ- BGDĐT, 28 trò chơi đã được lồng ghép rất cụ thể và chi tiết. Tuy nhiên, sự phân bố trò chơi chưa đồng đều, có tới 20/70 tiết học (chiếm 28,5% tổng số tiết học) các trò chơi lặp đi lặp lại cùng một hình thức “tiếp sức” như lò cò tiếp sức, chạy tiếp sức, nhảy ô tiếp sức, chạy tiếp sức theo vòng tròn, qua cầu tiếp sức, lò cò tiếp sức và đua ngựa, chuyền và bắt bóng tiếp sức, … . Trong khi đó, tỉ lệ số tiết có trò chơi dân gian lại rất thấp (chỉ có 3/70 tiết = 4,3%) với 2 trò chơi: “Mèo đuổi chuột” (1 tiết), “Trồng nụ trồng hoa” (2 tiết). Như vậy, so với tổng số trò chơi trong chương trình môn thể dục lớp 5, trò chơi dân gian là quá ít và chưa cân đối. Trong khi đó, trò chơi dân gian là một hình thức giải trí phản ánh phong tục tập quán của người Việt thuở xưa; không đơn thuần là trò chơi của trẻ con 4 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái mà còn chứa đựng cả một nền văn hoá dân tộc Việt Nam phong phú và giàu bản sắc. Các trò chơi dân gian thường dễ chơi, dụng cụ dễ kiếm dễ làm, chủ yếu lấy từ trong tự nhiên, có thể chơi mọi lúc mọi nơi, … và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc hình thành phát triển nhân cách học sinh. Trò chơi dân gian giúp các em rèn luyện thể chất, sự khéo léo, trở nên nhanh nhẹn hoạt bát, tạo sự hoà đồng, thân thiện, đoàn kết… Những phút vui chơi thoải mái, lành mạnh sẽ giúp các em thêm hào hứng để học tập và sống hồn nhiên hơn. Bên cạnh đó, trong thời đại 4.0 hiện nay, trẻ em rất dễ bị lôi cuốn vào những trò chơi điện tử, những nhân vật ảo, những trò chơi mang tính bạo lực, cảm giác mạnh, … khiến cho tâm hồn trẻ thơ bị ám ảnh và nhân cách có thể bị phát triển lệch lạc. Vì vậy, hơn ai hết, chúng ta – những người thầy nói chung và đặc biệt là các thầy cô dạy môn Thể dục nói riêng cần phải tạo ra môi trường học tập, rèn luyện thông qua các hoạt động hấp dẫn, lôi cuốn, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi để góp phần phòng tránh những hệ luỵ mà trò chơi điện tử gây ra. Nhận thức được ý nghĩa của trò chơi dân gian và những nguy cơ không an toàn nêu trên, tôi thiết nghĩ trò chơi dân gian nếu được đưa vào các tiết học thể dục sẽ tạo điều kiện cho học sinh được tham gia nhiều hoạt động vui chơi lành mạnh, gắn kết và yêu thương, lưu giữ mãi tuổi thơ cho đến khi trưởng thành. Sau những giờ học căng thẳng trên lớp, trò chơi dân gian trong các tiết dạy của tôi sẽ là những “món ăn” tinh thần giúp học sinh sảng khoái, tiếp nối việc “Học mà chơi – chơi mà học” và cảm nhận “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Trên cơ sở mục tiêu của môn Thể dục lớp 5 nói chung và mục đích, yêu cầu của phần trò chơi trong các tiết học thể dục nói riêng cùng với sự phong phú đa dạng, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc của kho tàng trò chơi dân gian, tôi đã nghiên cứu và áp dụng thành công biện pháp: “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” 5 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Thực trạng công tác dạy và học môn thể dục lớp 5 1. Ưu điểm Đáp ứng nhu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, theo quan điểm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện: ĐỨC- TRÍ- THỂ- MĨ của Đảng và Nhà nước, mục tiêu của giáo dục tiểu học hiện nay là “ nhằm hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, năng lực của học sinh; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở” (Điều 27- Luật Giáo dục sửa đổi năm 2020). Để thực hiện mục tiêu đó, điều quan trọng nhất là việc đổi mới mạnh mẽ đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất năng lực của học sinh, đặc biệt là đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học. Vì thế, những năm gần đây ngoài việc nâng cao chất lượng các môn văn hoá thì chất lượng giảng dạy các môn chuyên biệt trong đó có môn Thể dục cũng được coi trọng và nâng cao rõ rệt. Đội ngũ giáo viên Thể dục có trình độ đào tạo đạt chuẩn, tâm huyết và luôn nỗ lực không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Say mê, tìm tòi, lựa chọn, phối hợp nhiều phương pháp giảng dạy phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, điều kiện thực tế của nhà trường nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong từng giờ lên lớp như: nghiên cứu kĩ mục tiêu, yêu cầu cần đạt của bài, dành thời gian thích đáng cho phần thiết kế bài dạy, lên phương án chi tiết cho các hoạt động lên lớp… Ngoài ra, giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy phong phú qua việc tích cực tìm hiểu các tài liệu tham khảo, chuẩn bị chu đáo từ đồ dùng học tập, sân bãi, nơi tập luyện, cho tới các động tác làm mẫu của giáo viên; tham gia tích cực, có chất lượng các lớp tập huấn chuyên môn, các bài dạy chuyên đề. 6 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái Lớp 5 là lớp học cuối cùng của bậc tiểu học. Qua việc học thể dục từ lớp 1 đến lớp 4, học sinh đã biết được một số kiến thức, kĩ năng vận động để tập luyện giữ gìn sức khỏe nâng cao thể lực; có tác phong nhanh nhẹn, ý thức tổ chức kỉ luật, thói quen tự giác luyện tập thể dục thể thao; biết vận dụng những kiến thức đã học vào các hoạt động trong và ngoài nhà trường. Học sinh khối lớp 5 của trường đa số có thể lực tốt, có nề nếp học tập, vui chơi và sinh hoạt tập thể; biết đoàn kết, lắng nghe, chia sẻ và biết tự tổ chức chơi, điều hành chơi nhóm nhỏ. Một số em bộc lộ rõ năng khiếu bộ môn, tự tin, mạnh dạn giao tiếp và hợp tác. Đặc biệt, bên cạnh những ưu điểm đó, việc thực hiện nội dung chương trình môn Thể dục hiện nay còn có nhiều thuận lợi như: – Sức khoẻ và thể lực của học sinh luôn được cha mẹ coi trọng và đặt lên hàng đầu. – Các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp được quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giáo dục thể chất. 2. Hạn chế và nguyên nhân Chương trình hiện hành chưa có sách giáo khoa thể dục lớp 5. Phân phối chương trình khá nặng về các kỹ năng vận động chạy, nhảy; các trò chơi vận động bổ trợ cũng thiên về kỹ năng, vì vậy giờ thể dục thường bị khô cứng. Giáo viên mới chỉ thực hiện theo phân phối chương trình nên ít có cơ hội sáng tạo và đổi mới. Trong số 28 trò chơi của môn Thể dục lớp 5 có một số trò chơi lặp đi lặp lại cùng một hình thức, có trò chơi dễ gây nguy hiểm cho những học sinh còn hiếu động chưa thực sự chú ý đến vấn đề an toàn trong tập luyện. Bên cạnh đó môn Thể dục là môn học chủ yếu thực hiện ngoài không gian lớp học, vì vậy thời tiết mưa, nắng thất thường cũng ảnh hưởng đến việc dạy và học. 7 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái Học sinh lớp 5 là năm cuối của bậc tiểu học nên các em chịu áp lực rất lớn của việc học các môn văn hóa như toán, văn, tiếng anh, khoa học, công nghệ… Vì vậy môn thể dục đôi khi chưa được coi trọng. Các tài liệu hướng dẫn, tham khảo đưa trò chơi dân gian vào trong giờ thể dục chưa có nhiều. II. Biện pháp nâng cao chất lƣợng giảng dạy 1. Tên biện pháp “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” 2. Điều kiện, hoàn cảnh tạo ra biện pháp Với mong muốn giúp học sinh phát triển các kĩ năng vận động cơ bản một cách linh hoạt dẻo dai, nâng niu tâm hồn các em trong kho tàng văn hóa dân tộc qua những khúc hát đồng dao, làm cho giờ học trở nên hấp dẫn, sinh động; các em vượt qua được sự lôi cuốn của các thiệt bị điện tử nên tôi đã lồng ghép, cải tiến trò chơi dân gian một cách linh hoạt trong quá trình giảng dạy. Các trò chơi dân gian giúp các em có thể vừa học – vừa chơi, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi và được rèn luyện các kỹ năng nhanh nhẹn, sức bền, sự đoàn kết, dẻo dai. Biện pháp của tôi áp dụng thành công không những đáp ứng được mục tiêu phát triển phẩm chất, năng lực của những công dân toàn cầu trong tương lai mà còn phù hợp với điều kiện khuôn viên hạn hẹp của nhà trường và những khi điều kiện thời tiết không cho phép tổ chức những hoạt động ngoài không gian lớp học. 3. Nội dung biện pháp Để nâng cao chất lượng giảng dạy môn Thể dục cho học sinh khối 5, tôi đã vận dụng đưa trò chơi dân gian vào giờ học bằng các giải pháp sau: 3.1. Vận dụng linh hoạt các trò chơi dân gian trong tiết học thể dục Tiến trình một giờ học thể dục gồm 3 phần đó là: “khởi động”, “hoạt động cơ bản”, “thả lỏng – hồi tĩnh”. Mỗi phần đều có mục đích yêu cầu riêng 8 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một chuỗi hoạt động phù hợp với cơ chế vận động và rèn luyện thể chất. Qua nghiên cứu tôi đã áp dụng linh hoạt việc lồng ghép đưa trò chơi dân gian một cách phù hợp vào từng hoạt động trong tiết thể dục. 3.1.1. Đưa trò chơi dân gian vào phần khởi động. Khởi động làm giảm nguy cơ bị chấn thương và giúp học sinh chuẩn bị tinh thần thật tốt. Trong khi khởi động, nhiệt độ bên trong các cơ tăng lên, cơ vừa được co bóp mạnh mẽ mà cũng vừa được thư giãn. Không chỉ các cơ bắp được “khởi động”, mà các khớp cũng được “bôi trơn”, cử động dễ dàng hơn trước khi vào bài học. Khởi động đầu tiết học thể dục làm tăng nhiệt độ toàn cơ thể; tăng nhiệt độ của máu, tăng lượng lớn oxy trong mạch máu giúp cho các cơ bắp làm việc hiệu quả hơn, nhất là vào mùa đông. Khởi động còn giúp các em chuẩn bị tâm lý, tinh thần thật tốt cho các vận động cơ bản, tăng sự tập trung cho giờ học. Hoạt động khởi động trong tiết thể dục thường chỉ chiếm vài phút đầu giờ nhưng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc kích hoạt sự tích cực của người học. Một tiết học thể dục sẽ tạo được sự yêu thích với học sinh nếu ngay từ những giây phút đầu tiên giáo viên biết khơi gợi ở các em hứng thú, niềm đam mê, gây dựng, bồi đắp tình yêu lâu bền đối với môn học. Để gây hứng thú và tăng cường khả năng vận động cho học sinh, với phần khởi động đầu giờ học, tôi đã vận dụng linh hoạt các trò chơi dân gian như sau: “Dung dăng dung dẻ”, “Kéo cưa lừa xẻ”, “Gieo hạt nảy mầm” , “Thổi kèn lá” 9 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái Trò chơi: “Dung dăng dung dẻ” Trò chơi: “Kéo cưa lừa xẻ” 10 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái Trò chơi: “Gieo hạt nảy mầm” Trò chơi: “Thổi kèn lá” Tùy vào thời điểm, thời tiết, tâm trạng học sinh và nội dung cơ bản trong bài dạy thể dục, tôi luôn chủ động chuẩn bị trò chơi, nội dung chơi, dụng cụ chơi để tạo tình huống và khí thế cho học sinh khi khởi động. Các trò chơi nêu trên cơ bản là những trò chơi vui vẻ, nhẹ nhàng, phấn khích với những hoạt động tại sân trường. Học sinh có thể tự chọn dụng cụ chơi theo ý thích. Ví dụ: Trò chơi “Thổi kèn lá”, tôi chuẩn bị rổ nhựa để các loại lá như lá chuối, lá dừa, lá mít, lá bàng, … . Học sinh tự cuộn lá thành kèn và thổi thành tiếng kêu, thổi theo nhịp rung của còi hoặc theo nhịp chân bước… Các em có thể đứng thổi theo nhóm hoặc vừa đi vòng tròn vừa thổi. Trò chơi này đơn giản, dễ làm và khá vui nhộn; hỗ trợ cho tập thở, tập cơ xương khớp. 11 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái Trò chơi: “Thổi kèn lá” 3.1.2. Thay thế một số trò chơi dân gian vào phần cơ bản Khi nghiên cứu tổng thể nội dung chương trình, nghiên cứu lựa chọn trò chơi dân gian để thực hiện cho phù hợp với yêu cầu chương trình giáo dục thể chất lớp 5, tiếp cận tinh thần đổi mới chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, tôi lựa chọn 5 trò chơi dân gian để thay thế các trò chơi bị trùng lặp trong chương trình: “Rồng rắn lên mây”, “Nhảy lò cò”, “Nhảy bao bố”, “Cướp cờ”, “Bịt mắt bắt dê”. Như vậy, tổng số trò chơi dân gian được vận dụng vào nội dung tiết học: 07 trò chơi (tăng 5 trò chơi), tổng số tiết học có trò chơi dân gian là 15 tiết/70 = 21,5% (tăng 12 tiết) KẾ HOẠCH GIẢNG DẠY
Tuần
Tiết số
Tên bài
Nội dung điều chỉnh
HỌC KÌ I: 18 Tuần = 36 tiết
1
01
Tổ chức lớp – Đội hình đội ngũ – Trò chơi: “Kết bạn”
02
Đội hình đội ngũ – Chơi “Chạy đổi chỗ, vỗ tay nhau” và “Lò cò tiếp sức”.
2
03
Đội hình đội ngũ – Trò chơi: “Chạy tiếp sức”
04
Đội hình đội ngũ – Trò chơi: “Kết bạn”
Rồng rắn lên mây
3
05
Đội hình đội ngũ – Trò chơi “Bỏ khăn”
06
Đội hình đội ngũ – Trò chơi “Đua ngựa”
4
07
Đội hình đội ngũ – Trò chơi: “Hoàng Anh-Hoàng Yến”
08
Đội hình đội ngũ – Trò chơi “Mèo đuổi chuột”
5
09
Đội hình đội ngũ – Trò chơi: “Nhảy ô tiếp sức”
12 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái
10
Đội hình đội ngũ – Trò chơi: “Nhảy đúng, nhảy nhanh”
6
11
Đội hình đội ngũ -Trò chơi: “Chuyển đồ vật”
12
Đội hình đội ngũ – Trò chơi: “Lăn bóng bằng tay”
7
13
Đội hình đôi ngũ – Trò chơi: “Trao tín gậy”
14
Đội hình đội ngũ – Trò chơi: “Trao tín gậy”
8
15
Đội hình đội ngũ – Trò chơi: “Trao tín gậy”
16
Động tác vươn thở và tay – Trò chơi “Dẫn bóng”
Nhảy lò cò
9
17
Động tác chân – Trò chơi: “Dẫn bóng”.
18
Ôn 3 động tác: Vươn thở, Tay, Chân – Trò chơi: “Ai nhanh và khéo hơn”.
10
19
Động tác Vặn mình – Trò chơi: “Ai nhanh và khéo hơn”.
20
Trò chơi: “Chạy nhanh theo số.” Động tác toàn thân – Trò chơi: “Chạy nhanh theo số”.
11
21
22
Động tác: Vươn thở, tay, Chân, Vặn mình, Toàn thân – Trò chơi: “Chạy nhanh theo số”.
12
23
Ôn 5 động tác của bài thể dục – Trò chơi: “Ai nhanh và khéo hơn”.
24
Ôn 5 động tác của bài thể dục – Trò chơi: “Kết bạn”.
13
25
Động tác thăng bằng – Trò chơi: “Ai nhanh và khéo hơn”.
26
Động tác nhảy. – Trò chơi: “Chạy nhanh theo số”
14
27
Động tác Điều hòa. – Trò chơi: “Thăng bằng”.
28
Bài thể dục phát triển chung. – Trò chơi: “Thăng bằng”.
15
29
Bài thể dục phát triển chung. – Trò chơi: “Thỏ nhảy”.
30
Bài thể dục phát triển chung. – Trò chơi: “Thỏ nhảy”.
16
31
Bài thể dục phát triển chung – Trò chơi: “Lò cò tiếp sức”
32
Bài thể dục phát triển chung – Trò chơi: “Nhảy lướt sóng”
17
33
Trò chơi: “Chạy tiếp sức theo vòng tròn”
Nhảy bao bố
34
Đi đều “Chạy tiếp sức theo vòng tròn”vòng phải, vòng trái – Trò chơi:
18
35
Đi đều vòng trái, đổi chân khi đi đều sai nhịp – Trò chơi: “Chạy tiếp sức theo vòng tròn”
36
Sơ kết học kì 1
HỌC KÌ II: 17 Tuần = 34 tiết
19
37
Trò chơi: “Lò cò tiếp sức và Đua ngựa”
38
Tung và bắt bóng – Trò chơi: “Bóng chuyền sáu”
20
39
Tung bắt bóng – Trò chơi: “Bóng chuyền sáu”
13 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái
Phối hợp chạy & bật nhảy – Trò chơi “Qua cầu tiếp sức”
48
Phối hợp chạy và bật nhảy – Trò chơi: “chuyền nhanh; nhảy nhanh”
25
49
Phối hợp chạy và bật nhảy – Trò chơi: chuyền nhanh; nhảy nhanh”
50
Bật cao – Trò chơi: “chuyền nhanh; nhảy nhanh”
26
51
Ném bóng – Trò chơi: “Chuyền và bắt bóng tiếp sức”
Bịt mắt bắt dê
52
Ném bóng – Trò chơi: “Chuyền và bắt bóng tiếp sức”
27
53
Ném bóng – Trò chơi: “chuyền và bắt bóng tiếp sức”
54
Ném bóng – Trò chơi: “chạy đổi chỗ, vỗ tay nhau”
28
55
Ném bóng – Trò chơi: “Bỏ khăn”
56
Ném bóng – Trò chơi: “Hoàng Anh – Hoàng Yến”
29
57
Ném bóng – Trò chơi: “Nhảy đúng, nhảy nhanh”
58
Ném bóng – Trò chơi: “Nhảy ô tiếp sức”
Bịt mắt bắt dê
30
59
Ném bóng – Trò chơi: “Lò cò tiếp sức”
60
Ném bóng – Trò chơi: “Trao tín gậy”
31
61
Ném bóng – Trò chơi: “Nhảy ô tiếp sức”
62
Ném bóng – Trò chơi: “Chuyển đồ vật”
32
63
Ném bóng – Trò chơi: “Lăn bóng bằng tay”
64
Ném bóng – Trò chơi: “Dẫn bóng”
33
65
Ném bóng – Trò chơi: “Dẫn bóng”
66
Ném bóng – Trò chơi: “Dẫn bóng”
34
67
Trò chơi: “Nhảy ô tiếp sức” và “Dẫn bóng”
68
Trò chơi: “Nhảy đúng nhảy nhanh” và “Ai kéo khỏe”
35
69
Trò chơi “Lò cò tiếp sức” và “Lăn bóng bằng tay”
70
Tổng kết môn học
14 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái Trò chơi: “Rồng rắn lên mây” Trò chơi: “Nhảy lò cò” Trò chơi: “Bịt mắt bắt dê” – Sử dụng trò chơi dân gian tập thể thay thế các trò chơi bị trùng lặp để phối hợp rèn luyện các động tác cơ bản và vui chơi nhằm giúp các em củng cố các kỹ năng, luật chơi và khuyến khích sự thi đua trong quá trình chơi. 15 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái – Đây là những trò chơi dân gian thể hiện ở tư thế vận động dẻo dai, sức mạnh tập thể và có lời hát cùng nhịp nhún nhảy. Các trò chơi được thay thế đều bổ trợ rất tốt cho phần vận động cơ bản. Trò chơi cũng thể hiện tính đoàn kết, tính đồng đội, tính liên kết và tính kỷ luật…. Trò chơi còn giúp học sinh học cách quan sát và vận động theo hướng tăng cường sức khoẻ, thể chất, rèn tính nhanh nhẹn, khéo léo, xử lý các tình huống mau lẹ, phản xạ nhanh. – Trò chơi dân gian được thiết kế và đưa vào kế hoạch giảng dạy cả năm, có sự phân bổ hợp lý về mặt thời gian, giãn cách trong các tiết/tuần làm cho học sinh không bị áp lực, chồng chéo. Các trò chơi dân gian được đưa vào để thay thế không làm cho nội dung bài học bị nặng nề mà còn phát huy tác dụng rèn luyện sự nhanh nhẹn, khéo léo, phát huy tinh thần đoàn kết, tôn trọng kỷ luật và khả năng đối đáp. Các em học sinh lớp 5 rất yêu thích các trò chơi này và biết vận dụng sáng tạo khi tham gia các hoạt động khác như: vui chơi giữa giờ, lễ hội, chuyên mục đầu tuần, … 3.1.3. Đưa trò chơi dân gian vào phần thả lỏng, hồi tĩnh Sau khi đã học các bài tập cơ bản, tôi lựa chọn một số trò chơi dân gian nhẹ nhàng để giúp trẻ thả lỏng, điều hòa cơ thể giúp trạng thái trở về cân bằng nhưng học sinh vẫn cảm thấy vui vẻ. Các trò chơi dân gian tôi chọn cho hoạt động hồi tĩnh là: “Tập tầm vông”, “Nu na nu nống”, “Xỉa cá mè” 16 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái Trò chơi: “Tập tầm vông” Trò chơi: “Nu na nu nống” Trò chơi: “Xỉa cá mè” Các trò chơi này được chơi theo nhóm nhỏ và có lời đồng dao rất hay, ấn tượng, diễn ra trong một khoảng thời gian, không gian nhất định, có luật chơi, có 17 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái nhịp điệu, tính biểu diễn, sáng tạo nhằm mang lại sự sảng khoái về tinh thần cho học sinh sau mỗi giờ học thể dục ngoài sân trường; giúp cho các em phát triển ngôn ngữ, đối đáp linh hoạt và đặc biệt các em thuộc lòng những lời ca cổ của các vùng miền Bắc, Trung, Nam và mang đậm bản sắc dân tộc vui vẻ, dí dỏm. 3.1.4. Chuẩn bị một số trò chơi dân gian để sử dụng linh hoạt phù hợp với điều kiện thời tiết Đặc điểm khí hậu Miền bắc có 4 mùa rõ rệt, mưa nắng thất. Trường tôi chưa có nhà đa năng, diện tích sân trường hạn chế. Khi đó không thể tổ chức tiết học ngoài trời được. Với những đặc điểm khách quan trên đã đặt ra cho người giáo viên thể dục một thực trạng là nếu không điều chỉnh được kế hoạch giảng dạy (chuyển đổi tiết học thể dục với môn học khác) thì tiết thể dục sẽ thực hiện như thế nào? Nếu không có giải pháp phù hợp thì giờ thể dục học sinh không được hoạt động thậm chí có khi người giáo viên trở thành “ngƣời trông lớp” cho hết giờ. Để khắc phục điều kiện khách quan về thời tiết và đảm bảo sức khoẻ cho học sinh, tôi đã lựa chọn và chuẩn bị một số trò chơi dân gian để dự phòng và sử dụng linh hoạt trong giờ thể dục giúp học sinh có thể học, chơi trong lớp mỗi khi không thể tổ chức tiết học ngoài không gian lớp học. Các trò chơi đó là: “Ô ăn quan”, “Đánh chuyền”, “Oẳn tù tì”, “Chi chi chành chành” Trò chơi: “Ô ăn quan” 18 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái Trò chơi: “Đánh chuyền” Trò chơi: “Oẳn tù tì” Trò chơi: “Chi chi chành chành” Các trò chơi này giúp phát triển trí tuệ của trẻ em, dạy cho các em biết quan sát, tính toán, rèn kỹ năng tư duy cho học sinh; vừa tổ chức được trong lớp 19 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái học, không gian hẹp, vừa có lời ca giúp trẻ chơi không nhàm chán, cùng nhau trải nghiệm, cùng nhau chơi giúp các em nâng cao tinh thần đoàn kết, rèn luyện tính kiên trì, tính toán, sự khéo léo, dẻo dai, linh hoạt của bàn tay. Thông qua các trò chơi này góp phần lưu giữ các giá trị văn hóa dân gian của dân tộc Việt Nam. Trong phần chuẩn bị các trò chơi dân gian để bổ sung khi dạy trong các ngày có thời tiết không thuận lợi, tôi đã chủ động sưu tầm trò chơi, cách chơi, luật chơi, chuẩn bị dụng cụ, thiết bị … Ví dụ với trò chơi “Ô ăn quan”, tôi đã in mẫu bàn cờ, chuẩn bị quân chơi là cúc áo hoặc hạt nhãn, viên bi… Khi chơi trong lớp, các em có thể trải trên bàn học và ngồi hai bên để chơi. Trò chơi: “Ô ăn quan” 3.2. Cải tiến một số trò chơi cho phù hợp Để trò chơi dân gian phù hợp hơn với đối tượng học sinh thành phố và giúp các hoạt động giáo dục thể chất thêm phần sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn học sinh tham gia, tôi đã cải tiến một số trò chơi như sau: – Tích hợp nhạc trong một số trò chơi có lời ca, lời đồng dao. Ví dụ: Trò chơi “Nhảy bao bố” được tổ chức vào dịp chào xuân mới, tôi chọn các bản nhạc về mùa xuân như “Ngày Tết quê em”, ghép bài “Điệp viên 20 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái báo hồng” với trò chơi “ Bịt mắt bắt dê”, còn trò chơi “Mèo đuổi chuột”, “Bịt mắt đánh trống” tôi lồng nhạc bài Tom và Jerry hay Doremon… để làm nền khi tổ chức cho học sinh chơi. Trò chơi: “Nhảy bao bố” – Chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ để các em có thể chơi trên sân trường có diện tích nhỏ: Với những trò chơi tập thể đông người, tôi chia nhóm để vừa có học sinh cổ vũ, vừa có học sinh chơi. Ví dụ: Trò chơi “Mèo đuổi chuột”, tôi chia lớp thành 4 nhóm, 2 nhóm chơi và 2 nhóm cổ vũ. Khi nhóm chơi đã hoàn thành thì được thay thế làm nhóm cổ vũ và nhóm cổ vũ vào chơi. 21 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái Trò chơi: “Mèo đuổi chuột” – Tôi đã thay thế thiết bị, dụng cụ của trò chơi với mong muốn đảm bảo an toàn cho học sinh, các em biết bảo vệ môi trường, yêu thiên nhiên, hạn chế sử dụng những sản phẩm công nghiệp, đồng thời tái sử dụng đồ dùng, đồ chơi và làm cho giờ học thể dục không nhàm chán. Trò chơi: “Cướp cờ” Ví dụ: + Trò chơi “cướp cờ” tôi đã thay thế “cờ” thành cành hoa hoặc một dải lụa… vừa đảm bảo an toàn cho học sinh mà không làm thay đổi bản chất của trò chơi 22 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái Trò chơi: “Trồng nụ, trồng hoa” + Trò chơi “Trồng nụ, trồng hoa” như cách chơi cũ rất nguy hiểm, có thể dẫn đến chấn thương, tôi đã thay dụng cụ chơi bằng các hộp bìa các tông có dán hình hoa, nụ để học sinh dễ chơi và an toàn hơn. – Chia nhỏ trò chơi dân gian thành các phần để có thể lồng ghép trong từng hoạt động sao cho phù hợp với phân bố thời gian của tiết dạy. Ví dụ: Trò chơi “Thổi kèn lá” tôi cho học sinh làm kèn bằng lá chuối, lá dứa… ở phần khởi động còn lúc chơi tôi chuyển xuống phần thả lỏng hồi tĩnh 3.3. Kết hợp các lực lượng trong và ngoài nhà trường Các trò chơi dân gian có đặc trưng là vừa chơi, vừa hát, vừa hò reo. Vì vậy để chuẩn bị trò chơi, tôi đã phối hợp với giáo viên chủ nhiệm các lớp cho các em học thuộc một số bài thơ, ca dao, đồng dao… giúp học sinh hào hứng, vui vẻ… góp phần giúp các em yêu thích môn học và phát triển ngôn ngữ. 23 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái Giáo viên chủ nhiệm dạy học sinh các bài ca dao, đồng dao Giáo viên âm nhạc đã hỗ trợ tôi chọn lựa, lồng ghép nhạc vào trò chơi; giáo viên mĩ thuật, cùng với phụ huynh học sinh giúp tôi cùng thiết kế trang phục, đạo cụ cho trò chơi. 24 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái Cô giáo Đinh Thị Thu Hương – giáo viên Âm nhạc chọn và ghép nhạc Thầy giáo Trần Thanh Hà thiết kế đạo cụ chơi Tổng phụ trách Đội và các giáo viên bộ môn đã kết hợp cùng tôi thực hiện hiệu quả việc dạy tích hợp liên môn, giúp cho tiết học trở nên sinh động, không gây nhàm chán mà tạo động lực để các em sáng tạo, tự tư duy theo cách suy nghĩ của bản thân. Trong quá trình tổ chức cho học sinh chơi, chúng tôi đã chuẩn bị một số phần quà để tặng cho người chơi thắng cuộc càng làm cho các em háo hức và phấn chấn hơn. Món quà có khi là những đồ chơi mà các em yêu thích, lại có khi là dụng cụ của một trò chơi tiếp theo, gợi mở ra một trò chơi mới. Phụ huynh và học sinh nhận quà sau khi chơi trò chơi 25 “Lồng ghép trò chơi dân gian vào hoạt động giáo dục thể chất lớp 5 nhằm góp phần phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh” Tác giả: Trần Trung Kiên – Trường Tiểu học Phạm Hồng Thái Nhờ đó, học sinh không chỉ thực hiện tốt các yêu cầu của môn học mà còn chủ động sáng tạo, tham gia các hoạt động giao lưu trong những ngày lễ lớn được tổ chức ở trường. Chính sự năng động, sáng tạo của học sinh đã cuốn hút phụ huynh nhiệt tình ủng hộ và hào hứng tham gia trò chơi cùng các con những trò chơi như “Kéo co”, “Bịt mắt đánh trống”, “Bịt mắt đập niêu”, “Nhảy bao bố”… làm cho không khí tích cực học tập được lan tỏa; thầy và trò đều cảm nhận được niềm vui, sự hồ hởi, phấn khích và hạnh phúc khi được tham gia các trò chơi dân gian. Từ các trò chơi dân gian được tổ chứ
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN: Sách luôn giữ một vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người, một cuốn sách hay không chỉ đem đến cho người đọc những thông tin cần thiết mà nó còn như chất xúc tác rèn luyện tính kiên nhẫn, rèn luyện khả năng ngôn ngữ, giao tiếp, khả năng tưởng tượng, sáng tạo… Đây là những yếu tố rất cần thiết cho sự phát triển của trẻ em trong lứa tuổi học sinh. Sách còn là người thầy, người bạn là đôi cánh để cho con người bay lên, sách cung cấp cho con người mọi sự hiểu biết trong cuộc sống. Việc phát triển văn hóa đọc là một trong những động lực thúc đẩy sự hình thành nên con người mới, những công dân có hiểu biết, có trí tuệ để có thể thích ứng với sự phát triển của xã hội hiện đại. Đọc sách làm phong phú thêm kiến thức về khoa học, văn học, nghệ thuật, cũng như đời sống. Sách còn có tác dụng giải trí, giúp các em học sinh giải tỏa căng thẳng, áp lực trong học tập, giúp các em có thêm vốn từ ngữ, những bài học về giá trị sống và rèn luyện nhân cách. Đọc sách có vai trò to lớn cho việc hình thành và phát triển trí tuệ, nhân cách con người. Việc đọc sách không chỉ dừng lại ở chỗ tiếp thu kiến thức mà còn tạo thói quen tự học, tự nghiên cứu của học sinh, bên cạnh đó còn rèn cho học sinh những kĩ năng, tình cảm thói quen tự học, tự nghiên cứu có lợi cho trí não và sức khỏe. Việc đọc sách mang lại cho trẻ nhiều điều bổ ích mà không gì thay thế được, ngày nay với nhiều phương tiện thông tin đại chúng giúp cho trẻ trau dồi kiến thức, vui chơi giải trí nhưng vẫn không thể hoàn toàn thay thế được việc đọc sách. Có thể nói, đọc sách là một thói quen rất có ý nghĩa, đặc biệt là đối với học sinh trong trường tiểu học. Để duy trì, phát triển văn hóa đọc giúp các em lĩnh hội các giá trị văn hóa xã hội, hình thành và phát triển kỹ năng giao tiếp thông tin, tiếp nhận tri thức, hình thành nên nhân cách cho các em. Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, trước những trang mạng xã hội tràn lan các thông tin lệch lạc, phiến diện thì việc đọc sách có chọn lọc sẽ rất bổ ích, giúp các em tiếp nhận thông tin một cách thiết thực, đa chiều. Mục tiêu Đề án “Phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” của Chính phủ đã nêu: “Xây dựng và phát triển thói quen, nhu cầu, kỹ năng và phong trào đọc trong mọi tầng lớp nhân dân, nhất là trong thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên và chú trọng tới người dân ở vùng nông thôn, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn; cải thiện môi trường đọc; góp phần nâng cao dân trí, phát triển tư duy, khả năng sáng tạo, bồi dưỡng nhân cách, 3 tâm hồn, tăng cường ý thức chấp hành pháp luật, hình thành lối sống lành mạnh trong con người, xã hội Việt Nam, đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập”. Đối với học sinh tiểu học, thời lượng học từ 35-40 phút/1 tiết được xem là khá hợp lý với đặc điểm của học sinh lứa tuổi này, nhưng vẫn không thể đủ để giáo viên có thể giải đáp hết thắc mắc của các em. Vì vậy mà việc chúng ta rèn được cho các em có thói quen đọc sách sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho các em. Cụ thể là: Đọc sách giúp phát triển khả năng đọc nhanh và tƣ duy nhanh: Lợi ích đầu tiên của việc đọc sách chính là giúp các em tiếp xúc với con chữ nhiều hơn. Cách sắp xếp câu chữ, hình ảnh của sách có thể giúp các em rèn luyện khả năng đọc nhanh, tư duy nhanh và có lối suy nghĩ nhanh hơn, nhạy bén hơn. Nâng cao kiến thức bên cạnh các sách học tại lớp: Có vô số những loại sách thuộc rất nhiều những lĩnh vực khác nhau như tự nhiên, xã hội, văn học, thế giới, du lịch… Đọc sách nhiều, các em có thể tiếp nhận những kiến thức bên ngoài khuôn khổ lớp học. Qua đó, các em vừa nâng cao trí tuệ, vừa thêm kiến thức cho bản thân, vừa tiếp thu bài học ở trường nhanh chóng và hiệu quả hơn. Đọc sách giúp các học sinh tránh đƣợc những nguy cơ về tâm lý tuổi học trò: Ngoài là một phương tiện cung cấp tri thức, sách còn là phương tiện giải trí hoàn hảo cho học sinh. Sách giúp các em có được phút giây thoải mái sau giờ học và tránh tình trạng tiếp xúc quá nhiều với các thiết bị công nghệ, phòng tránh những triệu chứng khủng hoảng tâm lý tuổi học trò như căng thẳng, trầm cảm, tự kỷ, rối loạn lo âu,… Đọc sách giúp học sinh có đƣợc cái nhìn khác biệt về thế giới xung quanh: Nhờ vào sách, nhiều học sinh có thể có được cảm nhận khác biệt hơn về cuộc sống, cách nhìn nhận về thế giới xung quanh mình, qua đó, sống một cách tích cực hơn, có ích hơn và hình thành các ước mơ của bản thân. Nghị quyết số 29 của BCH T.Ư Đảng Khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT đã nêu rõ mục tiêu cụ thể đối với giáo dục phổ thông: “nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn”… Đáp ứng yêu cầu đổi mới đó, thư viện trường học có vai trò quan trọng, liên quan mật thiết với thói quen đọc sách và hình thành văn hóa đọc, thói quen tự học, chiếm lĩnh tri thức của mỗi học sinh. Mặc dù thư viện là một trong những tiêu chí để công nhân một trường tiểu học đạt tiêu chuẩn Trường chuẩn quốc gia, nhưng thực tế ở nhiều trường học thư viện đóng vai trò là một kho sách hơn là thư viện phục vụ học sinh. Hiện nay tại các trường Tiểu học thường tồn tại hai kiểu thư viện: Thứ nhất, thư viện không 4 được đầu tư cả cơ sở vật chất và sách phục vụ học sinh. Mặc dù được gọi là thư viện, nhưng thực sự là nhà kho của trường. Thứ hai, thư viện được đầu tư tốt về cơ sở vật chất, nhưng vẫn thiếu sách phục vụ học sinh. Sách trong thư viện này phần lớn là sách phục vụ giáo viên. Sách phục vụ học sinh thường là sách tham khảo, chú trọng về các đầu sách bổ sung, nâng cao kiến thức cho học sinh. Sách dành cho học sinh sắp xếp trên kệ hoặc trong tủ, học sinh tìm mượn sách qua danh mục sách. Điều này cản trở học sinh tiếp cận với sách và lựa chọn cho mình quyển sách phù hợp. Ngoài ra, một không gian thư viện phục vụ chung cả giáo viên và học sinh cũng khiến học sinh không cảm thấy thoải mái khi đến thư viện. Như vậy, có thể nói rằng mô hình thư viện hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu đọc sách và xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh. Việc có một mô hình thư viện thân thiện là rất cần thiết để khuyến khích học sinh đến thư viện đọc sách, hình thành và phát triển kĩ năng đọc cho học sinh. Từ năm học 2019-2020, nhiều trường trong địa bàn tỉnh Nam Định trong đó có trường tiểu học Thị trấn Xuân Trường đã thực hiện mô hình “Thư viện thân thiện” theo dự án Room to Read. Mô hình này đã giúp các nhà trường, các nhà quản lý tháo gỡ nút thắt trong việc khai thác hoạt động của Thư viện như thế nào cho hiệu quả, góp phần xây dựng phong trào đọc sách cho học sinh trong toàn trường. Qua hai năm tập trung chỉ đạo thực hiện mô hình “Thư viện thân thiện” tại đơn vị trường tôi đã thu được một số kết quả nhất định, góp phần xây dựng văn hóa đọc trong giáo viên, học sinh. Xin được chia sẻ kinh nghiệm qua bài viết: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động thư viện thân thiện, góp phần xây dựng văn hóa đọc trong trường tiểu học” II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Thực trạng về hoạt động thƣ viện 1.1 Thực trạng chung về hoạt động thƣ viện trong nhà trƣờng tiểu học hiện nay: 1.1.1 Về công tác quản lý chỉ đạo Nhiều ban giám hiệu chỉ quan tâm đến làm sao cho thư viện đạt các điều kiện cơ bản về cơ sở vật chất để đạt chuẩn (hoặc tiên tiến), sau đó đóng cửa thư viện khiến thư viện trở thành nơi chứa sách. Hoạt đông thư viện còn hình thức, chưa thực sự mang lại hiệu quả thiết thực Ban giám hiệu các trường lúng túng trong việc chỉ đạo các hoạt động đọc sách thư viện, sắp xếp Tiết đọc thư viện vào thời khóa biểu các lớp. Việc chỉ đạo giáo 5 viên thực hiện tiết đọc thư viện còn chung chung, chưa có hiệu quả. Còn có quan điểm là học sinh vào thư viện đọc sách như thế nào là do nhân viên thư viện phụ trách và quản lý. 1.1.2 Về phía giáo viên: Nhiều giáo viên cho rằng, học sinh học trong sách giáo khoa là đủ, thêm sách khác chỉ làm rối tung lên, mất thời gian cho cả cô và trò. Chính vì thế, trong năm học, giáo viên hầu như không tổ chức cho học sinh xuống thư viện để đọc sách. Một số giáo viên coi giờ đọc sách của học sinh trong thư viện như là giờ lấp chỗ trống, là giờ để dành cho ôn luyện các môn văn hóa khác như Toán, Tiếng Việt. Giáo viên cho học sinh vào thư viện tự tìm sách đọc, chưa hướng dẫn cho học sinh các kỹ thuật sử dụng sách, cách lựa chọn sách phù hợp với khả năng đọc của bản thân. Giáo viên lúng túng trong quá trình tổ chức một tiết học thư viện, nhiều giáo viên thực hiện như một tiết kể chuyện, nặng nề về tìm hiểu nội dung, ý nghĩa câu chuyện mà chưa coi trọng việc làm thế nào để cho học sinh thích đọc sách, muốn đến thư viện tìm sách để đọc. Mặt khác, một số giáo viên còn chưa có hứng thú và kĩ năng đọc khiến cho việc truyền cảm hứng say mê đọc sách đến các em còn nhiều bất cập. 1.1.3 Cơ sở vật chất Cơ sở vật chất và các thiết bị trong phòng thư viện nhiều nơi còn nghèo nàn. Hệ thống các đầu sách chưa đáp ứng được nhu cầu bạn đọc. Nhiều nơi kho sách chỉ toàn sách cũ, nát; sách giáo khoa, sách tham khảo phục vụ dạy học theo quy định. Số lượng sách truyện có chất lượng, các tủ sách theo chủ đề vắng bóng. Hình thức trong thư viện còn trang trí đơn điệu, cứng, khuôn mẫu. Các khẩu hiệu, danh ngôn về sách, thói quen đọc sách chưa phù hợp với học sinh. Chưa có lịch đọc, mượn, trả sách cho học sinh cụ thể. Các góc trong thư viện chưa có điểm nhấn. Sách được trưng bày theo chủng loại, chưa phân trình độ đọc cho học sinh theo mã màu. Từ đó học sinh vào thư viện lúng túng, không biết chọn sách phù hợp với khả năng đọc của bản thân. Các sản phẩm viết, vẽ thể hiện sự yêu thích, trí tưởng tượng sáng tạo của học sinh trong thư viện hầu như không có, chưa thu hút được học sinh đến với thư viện hằng ngày. 1.1.4 Nhân viên thƣ viện Nhiều trường chưa có nhân viên chuyên trách về công tác thư viện, trình độ cán bộ thư viện trường học còn chưa đạt. Công tác thư viện trường học do giáo 6 viên các bộ môn khác hoặc nhân viên văn thư của nhà trường kiêm nhiệm dẫn đến cán bộ thư viện không thể và không có khả năng tổ chức thiết lập thư viện, giới thiệu sách đến với bạn đọc. Một số nơi chỉ coi thư viện như là một trong những điều kiện để đạt trường chuẩn quốc gia. Sau khi đã được công nhận thì không còn quan tâm tới hoạt động của thư viện nữa, khiến cho tâm lý của cả người làm công tác thư viện và giáo viên đều không thiết tha, hào hứng trong việc triển khai các dự án thư viện hoặc cải tạo thư viện, làm giảm vai trò và giá trị giáo dục của thư viện trong nhà trường. 1.2. Thực trạng hoạt động thƣ viện trƣờng tiểu học Thị trấn Xuân Trƣờng: 1.2.1 Tình hình hoạt động thƣ viện trƣờng từ năm học 2019-2020 * Cơ sở vật chất: Từ năm học 2019-2020, thực hiện mô hình “Thư viện thân thiện” theo dự án Room to Read, nhà trường đã đầu tư thiết lập thư viện theo các bước hướng dẫn. Thư viện nhà trường được cải tạo, không gian trang trí đẹp mắt, thân thiện, thu hút học sinh. Nền thư viện được trải thảm bắt mắt, học sinh có thể ngồi, đọc sách thoải mái trong thư viện. Trên các cửa sổ đều có hệ thống cây xanh, tạo sự thân thiện môi trường thiên nhiên. Các khẩu hiệu mang tính triết lý, hàn lâm với học sinh tiểu học được thay bằng những câu nói mang tính giáo dục nhẹ nhàng, dễ hiểu, gây ấn tượng tốt đối với các em. Các kệ sách được sơn sửa lại phù hợp với không gian của thư viện. Hệ thống thiết bị hiện đại cũng được trang bị đầy đủ để phục vụ hoạt động của thư viện: Ti vi, mạng internet, …. Nhà trường đã cho kiểm kê lại toàn bộ sách cũ, lựa chọn các đầu sách phù hợp phân theo mã màu. Sau đó, lên kế hoạch mua bổ sung thêm nhiều đầu sách phong phú, nội dung hấp dẫn với các khổ sách lớn, vừa, nhỏ, phù hợp với đối tượng học sinh các lớp đáp ứng nhu cầu đọc sách cho các em. Trong thư viện có các góc hoạt động cho học sinh phù hợp: Góc sáng tạo, góc Viết- Vẽ, góc Tra cứu, ….Nội quy thư viện xây dựng cả ở trong và ngoài thư viện. * Số lớp, số học sinh
Năm học
Tổng số toàn trường
Số HS học Tiết đọc thư viện tại thư viện
Số HS học Tiết đọc thư viện trên lớp
Nhân viên thư viện
Số lớp
Số HS
Số lớp
Số HS
Số lớp
Số HS
Chuyên trách
Kiêm nhiệm
2019-2020
29
879
17
556
12
323
1
2020-2021
31
928
31
928
1
7 * Đội ngũ giáo viên và nhân viên thƣ viện Nhân viên thư viện được đào tạo chính quy về công tác thư viện. Đảm bảo đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ. Tham gia đầy đủ các buổi tập huấn về mô hình “Thư viện thân thiện” về thiết lập thư viện, các hoạt động của “Thư viện thân thiện”. Cách phân loại sách theo mã màu, trang trí thư viện sao cho đệp, bắt mắt. Đội ngũ giáo viên đều có trình độ chuyên môn tốt, nhiệt tình, hăng hái trong thực hiện nhiệm vụ. 100% số giáo viên văn hóa tham gia tập huấn tiết đọc thư viện. * Học sinh: Học sinh ngoan, ham học hỏi, thích được trải nghiệm. Nhiều học sinh có ý thức tự học tốt. Phụ huynh quan tâm chăm lo cho việc học của con em, mong muốn con được phát triển toàn diện. 1.2.2 Khó khăn: – Từ năm học 2019-2020, sáp nhập hai trường tiểu học A thị trấn và trường tiểu học B thị trấn thành trường tiểu học Thị trấn Xuân Trường có hai điểm trường. Số lượng nhân viên thư viện giảm, một nhân viên thư viện phải phụ trách cả hai điểm trường nên hạn chế trong việc tổ chức mượn, trả sách và hoạt động giới thiệu sách. – Kinh phí hạn hẹp nên năm học 2019-2020 mới triển khai thiết lập thư viện ở khu B. Khu còn lại phải thực hiện Tiết đọc thư viện tại lớp học. Bước sang năm học 2020-2021, nhà trường mới tiếp tục đầu tư xây dựng thư viện thân thiện tại điểm trường khu A. – Số lượng đầu sách chưa đáp ứng với nhu cầu đọc sách của học sinh. Số đầu sách khổ lớn phục vụ cho hình thức Cùng đọc còn ít, chưa phong phú. – Một số giáo viên chưa nhận thức về tầm quan trọng của Tiết đọc thư viện nên việc triển khai Tiết đọc thư viện chưa thường xuyên nên hiệu quả còn hạn chế. Một số giáo viên vẫn nặng về giáo dục ý nghĩa của mỗi câu chuyện trong và sau khi đọc mà chưa quan tâm đến việc giáo viên cần chấp nhận tất cả cảm nhận của học sinh miễn là các em thích đọc, muốn đến thư viện đọc sách mỗi ngày. Các tiết đọc thư viện thực hiện tại lớp ở khu A chưa hiệu quả. 2. Giải pháp sau khi có sáng kiến 2.1. Giải pháp thứ nhất: Bồi dưỡng nâng cao nhận thức về tầm quan trọng hoạt động thư viện trong việc xây dựng văn hóa đọc cho học sinh Ngay từ đầu năm học, Ban giám hiệu nhà trường luôn xác định hoạt động thư viện và tiết đọc thư viện là một hoạt động chuyên môn quan trọng cần phải thực hiện thường xuyên, có hiệu quả. Chúng tôi tuyên truyền trong cán bộ, giáo viên, nhân viên PHHS và cộng đồng về tầm quan trong của thư viện, mục tiêu, ý nghĩa của việc xây dựng văn hóa đọc thông qua hình thành thói quen đọc sách cho học 8 sinh tiểu học, thấy được vai trò to lớn của sách trong nhà trường. Thực hiện tốt các tiết đọc thư viện là cách giáo viên giúp học sinh tiếp cận với sách, biết cách lựa chọn sách phù hợp để đọc, từ đó lôi cuốn dần các em vào các hoạt động đọc sách trong thư viện, hình thành thói quen đọc sách cho học sinh. Tổ chức tập huấn cho cán bộ, giáo viên, nhân viên về: Thiết lập và quản lý thư viện, các hình thức tổ chức Tiết đọc thư viện. Giáo viên nắm chắc tiến trình, các bước lên lớp của 4 hoạt động tiết đọc thư viện. Từ đó, tổ chức triển khai cho các tổ chuyên môn trao đổi thảo luận, thống nhất trong tổ lập kế hoạch thực hiện trong suốt năm học. 2.2 Giải pháp thứ hai: Làm tốt công tác thiết lập và quản lý thư viện theo mô hình “Thư viện thân thiện” Việc thiết lập thư viện rất quan trọng, là điều kiện quyết định hiệu quả hoạt động thư viện và tiết đọc thư viện. Sau khi được tập huấn về mô hình “Thư viện thân thiện”, Ban giám hiệu đã bàn bạc thống nhất lập kế hoạch thiết lập thư viện với trên cơ sở Thư viện của nhà trường một cách cụ thể. 2.2.1 Tổ chức trang trí lại phòng thƣ viện: Gỡ bỏ hết các biểu bảng không phù hợp để thư viện thật sự thân thiện, thu hút bạn đọc ngay từ bên ngoài thư viện. Và thực tế mô hình Thư viện thân thiện đã thay đổi hoàn toàn về hình ảnh của thư viện truyền thống trong nhà trường. Từ những kho chứa sách ban đầu, thư viện đã thay đổi, thiết kế sáng tạo, đẹp mắt, tạo ra một không gian, môi trường đọc sách thân thiện với học sinh. Các loại đồ dùng thiết bị được trang bị đầy đủ, đáp ứng tốt nhất cho việc đọc của học sinh như: giá, kệ, giỏ đựng sách, bàn ghế phục vụ việc đọc, thảm xốp trải phòng, hệ thống bảng biểu… Việc bố trí hợp lý đã tạo nên không gian thân thiện, gần gũi. Ngoài ra, quy trình mượn sách cũng đơn giản hơn rất nhiều để khuyến khích các em chủ động mượn sách. 2.2.2 Bổ sung sách đọc trong thƣ viện: Nhân viên thư viện thống kê toàn bộ số sách hiện có của nhà trường trong thư viện, phân loại theo mã màu và sắp xếp lên kệ. Trên cơ sở nhu cầu đọc sách của học sinh và danh mục sách theo mã màu của Room to Read, nhà trường đăng ký mua số lượng truyện, sách đọc cho học sinh ban đầu, sau đó bổ sung dần theo tháng. Khi thư viện điểm trường ở khu A, nhà trường đã mua thêm nhiều đầu sách, tổ chức luân chuyển sách giữa hai khu để đáp ứng nhu cầu đọc sách ngày càng cao của học sinh. 2.2.3 Tổ chức quản lý thƣ viện theo mô hình “Thƣ viện thân thiện” Nhân viên thư viện lập các loại sổ: Sổ đăng kí cá biệt, Danh mục sách, Sổ mượn- trả học sinh, Sổ mượn -trả giáo viên, Nhật kí tiết đọc thư viện. Các loại sổ 9 sách thường xuyên cập nhật theo ngày. Làm thẻ mượn sách cho giáo viên, học sinh và quản lý mượng trả trên máy. Cuối mỗi tháng, nhân viên thư viện thống kê tình hình tiết đọc thư viện, số lượng bạn đọc trong tháng báo cáo về nhà trường. 2.3. Giải pháp thứ ba: Xây dựng thời khóa biểu Tiết đọc thư viện đảm bảo 2 tiết/tháng/lớp; Lập kế hoạch dạy học tiết đọc thư viện phù hợp với từng khối lớp Với mục tiêu và thời lượng Tiết đọc thư viện rất phù hợp cho việc sắp xếp vào dạy học buổi 2. Tuy nhiên, việc sắp xếp thế nào cho phù hợp với tâm lý học sinh, hỗ trợ tốt cho việc dạy và học chính khóa thì cần được Ban giám hiệu, các thầy cô giáo quan tâm. 2.3.1 Xây dựng thời khóa biểu Tiết đọc thƣ viện và Lịch mƣợn trả sách Trên thời khóa biểu của mỗi khối lớp, hai tuần có một tiết đọc thư viện đảm bảo luân phiên giữa các lớp, không có sự chồng chéo trong khối, trong trường. Tiết đọc thư viện phân ra hai tuần chẵn lẻ và đi theo môn Mĩ thuật. Tiết đọc thư viện sẽ thực hiện vào tuần không có môn Mĩ thuật (môn Mĩ thuật được sắp xếp 2 tiết liền nhau để đảm bảo cho học sinh thực hành). Các tiết đọc được thực hiện vào buổi học thứ hai trong ngày, thời lượng của mỗi tiết đọc tương đương với những tiết học khác. THỜI KHOÁ BIỂU TIẾT ĐỌC THƯ VIỆN NĂM HỌC 2020-2021
Thứ
Tiết
Khu A
Khu B
Tuần lẻ
Tuần chẵn
Tuần lẻ
Tuần chẵn
Ba
1
3A3
1B2
1B1
2
3A1
5B1
5B2
3
4A1
5B3
4B1
Tƣ
1
4A3
2A1
3B2
2B1
2
1A2
1A1
2B3
2B2
3
5A2
4B4
1B3
Năm
1
3A2
2B4
3B1
2
2A2
1A3
3B3
3B4
3
4A2
5A1
4B3
4B2
Lịch mượn trả sách của giáo viên và học sinh cũng cần được sắp xếp khoa học, đảm bảo lịch trực của nhân viên thư viện ở cả hai điểm trường. 10 LỊCH MƯỢN TRẢ SÁCH NĂM HỌC 2020-2021
Thời gian
Thứ Hai
Thứ Ba
Thứ Tƣ
Thứ Năm
Sáu
Sáng
Mƣợn
HS
1A1, 1A2, 1A3
1B1, 1B2, 1B3
3A1, 3A2, 3A3
3B1, 3B2, 3B3, 3B4
5A1, 5A2
GV
Khối 1 (Khu A)
Khối 1 (Khu B)
Khối 3 (Khu A)
Khối 3 (Khu B)
Khối 5+GV chuyên(Khu A)
Trả
HS
4A1, 4A2, 4A3
4B1, 4B2, 4B3, 4B4
1A1, 1A2, 1A3
1B1, 1B2, 1B3
3A1, 3A2, 3A3
GV
Khối 4 (Khu A)
Khối 4 (Khu B)
Khối 1 (Khu A)
Khối 1 (Khu B)
Khối 3 (Khu A)
Chiều
Mƣợn
HS
2A1, 2A2
2B1, 2B2, 2B3, 2B4
4A1, 4A2, 4A3
4B1, 4B2, 4B3, 4B4
5B1, 5B2, 5B3
GV
Khối 2 (Khu A)
Khối 2 (Khu B)
Khối 4 (Khu A)
Khối 4 (Khu B)
Khối 5+GV chuyên (Khu B)
Trả
HS
5A1, 5A2
5B1, 5B2, 5B3
2A1, 2A2
2B1, 2B2, 2B3, 2B4
3B1, 3B2, 3B3, 3B4
GV
Khối 5+GV chuyên (Khu A)
Khối 5+GV chuyên (Khu B)
Khối 2 (Khu A)
Khối 2 (Khu B)
Khối 3 (Khu B)
2.3.2 Xây dựng kế hoạch dạy học các tiết đọc thƣ viện Trong tiết đọc thư viện có các hoạt động đọc chính giúp phát triển thói quen đọc sách của học sinh. Nhưng hoạt động đọc không tập trung vào dạy kỹ năng đọc mà mục đích chính của tiết đọc thư viện là hình thành và phát triển thói quen đọc sách. Tuy nhiên, khi trẻ có thói quen đọc sách thì kỹ năng đọc sách phát triển; kỹ năng đọc sách phát triển thì học sinh sẽ đọc tốt đồng thời sẽ phát triển về tư duy ngôn ngữ cũng như học tập được nhiều điều bổ ích. Đến với tiết đọc thư viện, các em sẽ có 2 tiết để làm quen với nội quy thư viện, bảng mã màu, cách chọn sách, mượn trả và bảo quản sách. Các em sẽ được hướng dẫn sử dụng quy tắc 5 ngón tay để chọn sách. Em tự chọn một cuốn sách bất kỳ và đọc 5 câu liên tục. Nếu không mắc lỗi hoặc chỉ 1 lỗi thì em nên chọn 1 cuốn sách ở mã màu cao hơn; nếu em mắc 2-4 lỗi trong 5 câu đó thì quyển sách em chọn 11 đã phù hợp với trình độ đọc của mình; còn nếu nhiều lỗi hơn, em cần chọn mã màu thấp hơn. Sau 2 tiết đầu tiên, các em sẽ được tiếp cận với các kiểu hoạt động: Đọc to nghe chung; Cùng đọc ; Đọc cặp đôi; Đọc cá nhân. Tùy thuộc vào trình độ đọc của từng khối lớp mà giáo viên lựa chọn tỷ lệ các kiểu hoạt động phù hợp. Gợi ý với các lớp như sau:
Các hoạt động đọc
Lớp 1
Lớp 2-3
Lớp 4-5
Tỉ lệ
Số tiết
Tỉ lệ
Số tiết
Tỉ lệ
Số tiết
Tiết đọc thứ nhất
1
1
1
Tiết đọc thứ hai
1
1
1
Đọc to nghe chung
40%
6
30%
5
20%
3
Cùng đọc
30%
5
20%
3
10%
2
Đọc cặp đôi
20%
3
30%
5
30%
5
Đọc cá nhân
10%
2
20%
3
40%
6
Tổng số tiết
18
18
18
Với các hình thức đọc: Đọc to nghe chung, Cùng đọc giáo viên phải lựa chọn câu chuyện cụ thể theo mã màu sách, khổ sách để phù hợp với đối tượng học sinh. Sách khổ lớn thường có mã màu dành cho học sinh lớp 1-2, nên với lớp 3-4-5, giáo viên có thể chụp ảnh, đưa lên màn hình để tổ chức cho học sinh thực hiện tiết Cùng đọc hoặc sử dụng sách khổ nhỏ có nhiều bản. 2.4. Giải pháp thứ tƣ: Giáo viên thực hiện có hiệu quả các hoạt động tiết đọc thư viện Các hoạt động trong Tiết đọc thư viện được thiết kế để giúp học sinh có thời gian trải nghiệm tích cực với việc đọc, giúp các em thấy việc đọc là hay, là thích thú. Học sinh được nghe cô đọc, đọc cùng cô, được chọn bạn, chọn sách để đọc trong môi trường có sự hỗ trợ. Quy trình các bước của 4 hoạt động đọc đã được Room to Read thiết kế rõ ràng, giáo viên dễ dàng thực hiện. Chính vì thế, trong quá trình tập huấn cần làm rõ để giáo viên nắm chắc các bước cơ bản trong từng hoạt động đọc, vận dụng thực hiện tốt sẽ làm cho giờ học tự nhiên, cuốn hút học sinh. Tôi xin chia sẻ lại và làm rõ hơn bằng các ví dụ cụ thể ở mỗi hoạt động đọc trong tiết đọc thư viện. 12 2.4.1 Hoạt động đọc to nghe chung Với hoạt động Đọc to nghe chung (Reading aloud), học sinh ngồi lắng nghe giáo viên đọc với giọng đọc diễn cảm kết hợp ngôn ngữ cơ thể. Học sinh được quan sát tranh, phỏng đoán những diễn tiến tiếp theo của câu chuyện và trả lời những câu hỏi sau khi đọc để giúp phát triển khả năng hiểu và tư duy. A. Quy trình hoạt động – Đọc to nghe chung: – Thời gian: 35 phút dành cho hoạt động Đọc to nghe chung + Hoạt động mở rộng. – Vật liệu hỗ trợ: 1 quyển sách khổ nhỏ, sách có thể cao hơn trình độ đọc của học sinh. I. Mục đích của hoạt động Đọc to nghe chung: – Thu hút và khuyến khích học sinh tham gia vào việc đọc. – Giáo viên làm mẫu việc đọc tốt. – Giúp học sinh xây dựng thói quen đọc. II. Chuẩn bị: 1. Chọn sách cho hoạt động Đọc to nghe chung. 2. Xác định những tình huống trong truyện có thể đặt câu hỏi phỏng đoán. 3. Xác định 1 -3 từ mới để giới thiệu với học sinh. III. Tiến trình thực hiện: 1. Giới thiệu: 2 – 3 phút – Ổn định chỗ ngồi của học sinh trong thư viện và nhắc các em về nội quy thư viện. – Giới thiệu với học sinh về hoạt động mà các em sắp tham gia: Hôm nay, cô sẽ cùng cả lớp thực hiện tiết Đọc to nghe chung. 2. Đọc to nghe chung: a. Trƣớc khi đọc: 4-5 phút – Cho học sinh xem trang bìa của quyển sách (GV có thể sử dụng một vài cách như che tên truyện, che tranh trang bìa và đặt câu hỏi cho học sinh để từ từ mở ra). – Đặt 3 – 4 câu hỏi về tranh trang bìa: + Em thấy những gì ở trong bức tranh này? + Trong bức tranh này có bao nhiêu…(nhân vật, con vật, đồ vật)? + Các nhân vật này đang làm gì? + Theo các em ai sẽ là nhân vật chính trong câu chuyện? 13 – Đặt 1 – 2 câu hỏi để liên hệ đến thực tế cuộc sống của học sinh: + Các em đã bao giờ thấy…chưa? + Ở nhà các em có …không? + Điều này đã từng xảy ra với các em chưa? – Đặt 2 câu hỏi phỏng đoán: + Theo các em điều gì sẽ xảy ra trong câu chuyện? + Theo các em nhân vật…sẽ làm gì? – Giới thiệu tên truyện, tên tác giả, họa sỹ, người vẽ tranh minh họa, nhà xuất bản) – Giới thiệu 1-3 từ mới. b. Trong khi đọc: 5 – 8 phút – Đọc chậm, rõ ràng, diễn cảm kết hợp với ngôn ngữ cơ thể. – Cho học sinh xem tranh ở một số đoạn chính trong truyện. – Dừng lại 2 – 3 lần để đặt câu hỏi phỏng đoán. (Theo em, điều gì sẽ xảy ra tiếp theo?) c. Sau khi đọc: 4 -7 phút – Đặt 3 – 5 câu hỏi để hỏi học sinh về những gì đã xảy ra trong câu chuyện: (Ai ? Cái gì ? ở đâu? Như thế nào?) – Đặt câu hỏi về những diễn biến chính trong câu chuyện: Điều gì xảy ra đầu tiên? Điều gì xảy ra tiếp theo? Điều gì xảy ra ở cuối câu chuyện? – Đặt 1-2 câu hỏi “tại sao”: Theo các em , vì sao…(nhân vật) lại…( một hành động nào đó) ? Ghi chú: Sau phần đặt câu hỏi, nếu truyện có nhiều câu, từ mô tả âm thanh hoặc hành động thú vị, GV có thể mời một số học sinh làm lại động tác hoặc âm thanh để giúp HS thích thú hơn với câu chuyện 3. Hoạt động mở rộng: 15 phút – Trước hoạt động: + Chia nhóm học sinh. + Giải thích hoạt động: GV yêu cầu HS thảo luận về một cái kết khác cho câu chuyện. + Hướng dẫn học sinh tham gia vào hoạt động một cách có tổ chức. – Trong hoạt động: 14 + Di chuyển đến các nhóm để hỗ trợ học sinh, quan sát cách học sinh tham gia vào hoạt động trong nhóm. + Đặt câu hỏi, khen ngợi học sinh. – Sau hoạt động: + Hướng dẫn học sinh quay trở lại nhóm lớn một cách trật tự + Đặt câu hỏi để khuyến khích các nhóm chia sẻ kết quả trước lớp: – GV hướng dẫn HS chia sẻ với nhau về những cái kết khác của câu chuyện trước lớp. – Nếu là em, em sẽ nói với …như thế nào ? – Khen ngợi những nỗ lực của học sinh. – Kết thúc tiết học. B. Giáo án tiết đọc thƣ viện- Lớp 3A1 Đọc to nghe chung: Ông lão đánh cá và con cá vàng. Hoạt động mở rộng: Vẽ I. Mục tiêu: 1. Kiến thức – kĩ năng: – Bước đầu HS nhớ được diễn biến của câu chuyện. – Khuyến khích HS tham gia vào việc đọc sách. – GV làm mẫu việc đọc tốt để thu hút HS. 2. Năng lực: – HS bước đầu biết cảm nhận nội dung của câu chuyện và vẽ được nhân vật mình yêu thích. – HS mạnh dạn chia sẻ bài vẽ của mình trước lớp. 3. Phẩm chất: Giúp HS xây dựng thói quen đọc sách. II. Đồ dùng dạy học: – Một quyển sách khổ vừa – Giấy, màu vẽ III. Các hoạt động dạy – học : a. Trƣớc khi đọc: 15 – Sắp xếp chỗ ngồi cho HS tại vị trí nhóm lớn gần vị trí của GV: Cho HS bé lên trên gần GV, HS cao hơn ngồi phía dưới. Những HS hay nói chuyện cũng đưa lên trên ngồi bên trái hoặc bên phải của giáo viên – Làm quen với HS, giới thiệu bản thân với HS. – GV giúp HS nhớ lại nội quy thư viện: + Khi vào thư viện, em nhớ nhất nội quy nào? (2- 3 HS trả lời) + GV: Lớp mình đã nhớ và thực hiện nội quy thư viện rất tốt! – Các em có thường xuyên đến thư viện học không? Kể tên một quyển truyện em đã đọc ở thư viện? (2-3 HS kể). GV có thể nói thêm: cô cũng rất thích các câu chuyện mà các em đã đọc đấy. – GV: Hôm nay cô sẽ đọc cho các em nghe một câu chuyện rất thú vị đấy! + Trước tiên, các em hãy quan sát bức tranh trang bìa nhé! + Em thấy bức tranh có đẹp không? (cả lớp) + Bức tranh có những hình ảnh gì nào? (2-3 HS ) + Ông lão trong tranh đang làm gì ? (2-3 HS) + GV: Các em đã nhìn thấy con cá chưa nhỉ? (1-2 HS). Con cá trong câu chuyện này là một con cá biết nói đấy. – GV: Theo các em, điều gì sẽ xảy ra trong câu chuyện này? (2 HS) – Đố các em đoán được tên câu chuyện là gì nào? – GV: Cô thấy những tên câu chuyện mà các em nghĩ đến rất hay, cô rất thích!…. – Câu chuyện này có tên gọi : Ông lão đánh cá và con cá vàng của tác giả Hoàng Khắc Huyên, truyện do NXB Mỹ thuật phát hành. – Trước khi đến với nội dung câu chuyện cô muốn giải thích với các em 3 từ + Long Cung: Cung điện dưới biển + quý tộc: người có quyền lực và địa vị trong xã hội + đại thần: quan to trong triều đình. b. Trong khi đọc: – Các em đã muốn nghe cô đọc truyện chưa nào? Bây giờ các em chú ý nghe cô đọc truyện nhé! (GV đọc diễn cảm kết hợp ngôn ngữ cơ thể) – Dừng lại cho HS xem tranh 3 (chỉ cho xem tranh, không đặt câu hỏi phỏng đoán, không mời HS xem tranh hay giải thích tranh) 16 – HS xem tranh trang 5: Theo các em, điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? (2 HS) – GV: Ý kiến của các em rất hay đấy, chúng ta hãy theo dõi tiếp xem điều gì sẽ xảy ra nhé! (GV đọc tiếp) – Dừng lại cho HS xem tranh 8-9 (chỉ cho xem tranh, không đặt câu hỏi phỏng đoán, không mời HS xem tranh hay giải thích tranh) – HS xem tranh trang 13: Theo em, điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? (2HS) – GV: Chúng mình nghe cô đọc tiếp nhé! c. Sau khi đọc: GV: Câu chuyện cô đọc đến đây là hết rồi, các em thấy câu chuyện này có hay không? (cả lớp) – Trong câu chuyện cô vừa kể có những nhân vật nào nhỉ? (2- 3 HS) – Chuyện xảy ra ở đâu? (2 HS) – Điều gì đã xảy ra ở phần đầu của câu chuyện? (2 HS). HS xem tranh trang 1-3: – Điều gì đã xảy ra tiếp theo? HS xem tranh trang 4- 6: – HS xem tranh trang 7-12: Điều gì xảy ra ở phần này? – HS xem tranh trang 13: Điều gì đã xảy ra ở phần cuối câu chuyện? (2 HS) GV: Vì sao Cá Vàng lại không giúp bà lão trở thành Long Vương ? (2HS) GV: Cô thấy lớp mình nhớ nội dung câu chuyện rất tốt! Bây giờ, các em có muốn làm lại hành động, lời nói của một nhân vật trong câu chuyện vừa rồi không? (1-3 HS ) + Bạn nào làm lại hành động kéo lưới của ông lão nào? (1-2 HS) + Bạn nào bắt chước tiếng của bà lão khi muốn trở thành bà quý tộc nào? (1-2 HS) d. Hoạt động mở rộng – GV: Cô thấy lớp mình ai cũng rất giỏi, các bạn nói cho cô biết các bạn thích nhất nhân vật nào trong truyện cô vừa đọc? Bây giờ các em có muốn thử làm họa sỹ tý hon để vẽ lại nhân vật mà em yêu thích trong truyện cô vừa đọc không nào? (cả lớp) – Ở hoạt động này cô chia lớp mình thành 4 nhóm, mỗi nhóm 5 bạn. Cứ 5 bạn đứng gần nhau nhau tạo thành 1 nhóm nào! – GV: Mỗi chiếc bàn nhỏ phía sau có ghi từ số 1 đến số 4, lần lượt các nhóm về vị trí nhóm mình một cách nhẹ nhàng nhé! 17 – GV hướng dẫn: – HS vẽ một nhân vật trong truyện mà em thích vào giấy A4 đã kẻ khung hình sẵn. HS quan sát và lắng nghe. – Mỗi nhóm cử nhanh 1 bạn nhóm trưởng. Các bạn nhóm trưởng giơ tay nào? – Bây giờ cô mời các bạn nhóm trưởng lên lấy đồ dùng và về chia cho các bạn cho nhóm mình nào! Các nhóm thi xem nhóm nào nhanh nhất nhé! – HS vẽ. GV quan sát hỗ trợ HS – GV đứng ở vị trí trung tâm quan sát cả lớp đảm bảo tất cả HS có đồ dùng, nếu nhóm nào còn lộn xộn, GV đến hỗ trợ trước, sau đó lại dừng lại quan sát lớp xem tất cả học sinh đang tham gia vào hoạt động chưa. Rồi mới đi đến các nhóm đặt câu hỏi và hỗ trợ. GV nên bao quát xem nhóm nào cần hỗ trợ trước, ví dụ HS còn chưa biết vẽ nhân vật nào… – GV: Đã hết giờ rồi, tất cả dùng bút nhé! Ai chưa vẽ xong các em sẽ hoàn thành vào giờ ra chơi. Các bạn đã dừng bút hết chưa nhỉ? – Các em cầm bài của mình và để hết bút vào rổ. – Bạn nhóm trưởng cất rổ đồ dùng về vị trí ban đầu. Hãy thi xem nhóm nào nhanh nhất nhé! – GV tổ chức cho HS chia sẻ bài vẽ: + GV có thể nói: Bây giờ, cô mời các bạn cầm bài viết của mình trên tay và di chuyển về nhóm lớn ngồi gần với cô nào! + GV: Cô thấy bài vẽ nào cũng rất đẹp, ai cũng xứng đáng là họa sỹ tý hon đấy! Bây giờ chúng ta cùng chia sẻ bài của mình nhé! + GV: Gọi 3 HS lên chia sẻ bài của mình/ lớp cùng tham gia chia sẻ. (VD: HS1: + Em vẽ về nhân vật nào trong chuyện vậy? + Tại sao em vẽ nhân vật đó nhỉ? + HS2: Còn em, em đã vẽ nhân vật nào trong câu chuyện ? Em thích nhất hành động nào của nhân vật này?….)… + HS3: Cô rất thích bài vẽ của em đấy! Em vẽ nhân vật nào trong chuyện nhỉ? + Nếu là em, em sẽ nói với ông lão như thế nào? – GV: Cô thấy lớp mình ai cũng vẽ đẹp, mạnh dạn chia sẻ, nhiều bạn muốn chia sẻ nhưng thời gian của chúng ta đã hết, lớp mình hãy chia sẻ ở giờ sau nhé! – Giờ học của chúng mình kết thúc rồi. Cô cảm ơn các em đã cùng cô có tiết học thật vui vẻ 18 2.4.2 Hoạt động Cùng đọc Với hoạt động Cùng đọc (Shared reading) học sinh được lắng nghe giáo viên đọc và sau đó tham gia vào đọc cùng với cô. Giáo viên sẽ lựa chọn sách khổ lớn hoặc sách khổ nhỏ (nhiều bản) để giúp học sinh cùng tham gia đọc ở lượt đọc thứ hai. A. Xây dựng quy trình hoạt động: Cùng đọc – Thời gian 35 phút dành cho hoạt động cùng đọc + Hoạt động mở rộng. – Vật liệu hỗ trợ: Một quyển sách khổ to (thấp hơn hoặc cùng trình độ đọc của học sinh) I. Mục đích của hoạt động Cùng đọc – Khuyến khích và thu hút học sinh tham gia vào việc đọc cùng giáo viên. – Giúp học sinh phát triển trí tưởng tượng, óc phán đoán – Giúp học sinh thấy được việc đọc là hay, là thú vị. – Giúp học sinh phát triển kĩ năng đọc hiểu. – Giúp học sinh phát triển thói quen đọc. II. Chuẩn bị – Chọn sách (có thể chọn sách khổ to hoặc sách khổ nhỏ) – Xác định 2-3 từ mới để giới thiệu. – Xác định các tình huống để đặt câu hỏi phỏng đoán. III. Quy trình thực hiện. 1. Giới thiệu: 2-3 phút – Ổn định chỗ ngồi; Học sinh nêu nội quy thư viện. – Giới thiệu hoạt động mà học sinh sắp tham gia. 2. Hoạt động cùng đọc. a. Trƣớc khi đọc: 4-6 phút. – Học sinh xem trang bìa: GV đặt 3-4 câu hỏi về tranh trang bìa. H: Các em thấy gì ở bức tranh này? H: Trong bức tranh này các em thấy có bao nhiêu…( nhân vật, con vật, đồ vật)? H: Các nhân vật trong bức tranh này đang làm gì? H : Theo em ai sẽ là nhân vật chính trong câu chuyện? – Đặt 1-2 câu hỏi liên hệ thực tế cuộc sống của học sinh: H: Các em đã bao giờ thấy…chưa? 19 H: Ở nhà các em có …không? – Đặt hai câu hỏi phỏng đoán: H: Theo các em điều gì xảy ra trong câu chuyện? H: Theo các em nhân vật…sẽ làm gì? – Giới thiệu sách (tên truyện, tên tác giả, người vẽ tranh minh họa). – Giới thiệu 1-3 từ mới. b. Trong khi đọc lần 1: 5-8 phút – Đảm bảo tất cả học sinh đều nhìn thấy phần chữ và tranh trong sách. – Đọc chậm rõ ràng, diễn cảm kết hợp với ngôn ngữ cơ thể. – Dừng lại hai ba lần để dặt câu hỏi phỏng đoán. c. Sau khi đọc lần 1: 4-5 phút (cả lớp) – Đặt câu hỏi để hỏi học sinh về thông tin chung trong câu chuyện: Ai, cái gì, ở đâu, như thế nào? – Đặt câu hỏi sử dụng tranh trong sách để tóm tắt 3-4 phần chính: Điều gì xảy ra đầu tiên? Điều gì xảy ra tiếp theo? Điều gì xảy ra ở cuối câu chuyện? – Đặt 1-2 câu hỏi “tại sao”: Theo các em, vì sao…( nhân vật) lai….( một hành động nào đó) d. Trong khi đọc lần 2: 8-10 phút – Mời học sinh cùng đọc. – Đọc lần 2: Có thể dùng bút hoặc thước để dò theo phần chữ trong khi đọc, không yêu cầu học sinh lặp lại từng câu trong khi đọc. – Mời học sinh đọc lại những từ, câu thú vị cùng GV. – Mời học sinh thực hiện các hành động, tạo âm thanh thú vị với GV. 3. Hoạt động mở rộng: 15 phút – Trước hoạt động: Chia nhóm học sinh. + Giải thích hoạt động. + Hướng dẫn tham gia hoạt động một cách có tổ chức. – Trong hoạt động: + Giáo viên di chuyển đến các nhóm hỗ trợ học sinh, quan sát các em tham gia vào hoạt động nhóm. + Khen ngợi học sinh. 20 – Sau hoạt động: Hướng dẫn học sinh trở lại nhóm một cách trật tự. + Đặt câu hỏi để cá nhân, nhóm chia sẻ. + Khen ngợi những nỗ lực của học sinh. B. Bài soạn tiết đọc thƣ viện- Lớp 4A2 Hoạt động cùng đọc: Bữa tối của sói – Hoạt động mở rộng: Vẽ về nhân vật trong truyện mà em yêu thích. I. Mục tiêu: – Học sinh cảm nhận được nội dung câu chuyện và biết vẽ về nhân vật trong truyện mà em yêu thích. – Bước đầu học sinh nắm được diễn biến câu chuyện. – Khuyến khích học sinh tham gia vào việc đọc cùng GV. – Học sinh mạnh dạn chia sẻ nhân vật trong truyện mà mình yêu thích. – Giúp học sinh xây dựng thói quen đọc sách. II. Chuẩn bị: 1. Chọn sách: Bữa tối của sói (sách khổ lớn) 2. Xác định tình huống trong truyện để đặt câu hỏi phỏng đoán. 3. Xác định 2-3 từ mới để giới thiệu với học sinh. III. Hoạt động dạy học. 1. Trƣớc khi đọc lần 1: – Sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh đảm bảo học sinh thấp hơn sẽ ngồi trên gần với GV. – Gọi một số học sinh nêu nội quy khi đến thư viện. – Giới thiệu với các em hoạt động mà các em sắp tham gia: Hôm nay cô sẽ lại cùng cả lớp thực hiện hoạt động cùng đọc tại thư viện. H: Các em nhìn thấy những hình ảnh của con vật gì trên trang bìa? H: Theo em ai sẽ là nhân vật chính của câu chuyện? H: Theo em điều gì sẽ xẩy ra với những nhân vật này? H: Các em sẽ ăn những gì trong bữa tối? – Câu chuyện này có tên: Bữa tối của sói của tác giả Trần Thiên Lộc và họa sĩ vẽ tranh minh họa là Nguyễn Thị Ngọc Bích. Sách do nhà xuất bản Room to Read phát hành và tài tr
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education