Category: SKKN Luận Văn Luận Án

  • SKKN Vận dụng linh hoạt các thành tố tích cực ở mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) và chương trình hiện hành để dạy học môn Toán theo hướng phát triển năng lực của học sinh

    SKKN Vận dụng linh hoạt các thành tố tích cực ở mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) và chương trình hiện hành để dạy học môn Toán theo hướng phát triển năng lực của học sinh

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục,
    đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu
    cầu học tập của nhân dân”. Đó chính là một trong những điều mà Nghị quyết số
    29-NQ/TW với nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
    ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
    định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã xác định.
    Luật Giáo dục, điều 28.2 đã nêu rõ:”Phương pháp giáo dục phổ thông
    phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp
    với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học khả
    năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn;
    tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
    Trong Chương trình hành động của ngành Giáo dục thực hiện Chiến lược
    phát triển giáo dục Việt Nam 2011-2020 đã nêu:“Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn
    diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
    điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.”
    Trên thế giới, từ cuối thế kỉ XX đến nay, nhiều nước tiên tiến đã và đang
    thực hiện xây dựng chương trình giáo dục theo định hướng phát triển năng lực
    người học. Tùy thuộc vào đặc điểm của mình mà mỗi nước coi trọng những
    năng lực nhất định, cách diễn đạt năng lực cũng không giống nhau trong chương
    trình giáo dục của các nước. Nhưng hầu hết các nước đều chú ý hình thành, phát
    triển những năng lực cần cho việc học suốt đời, gắn với cuộc sống hàng ngày,
    trong đó chú trọng các năng lực chung như: năng lực tự học, học cách học; năng
    lực cá nhân (tự chủ, tự quản lí bản thân); năng lực xã hội, năng lực hợp tác; năng
    lực giao tiếp; năng lực tư duy, năng lực giải quyết vấn đề; năng lực công nghệ
    thông tin và truyền thông…Còn ở Việt Nam, giáo dục phải hướng tới phát triển
    các năng lực chung và năng lực đặc thù liên quan đến từng lĩnh vực giáo dục,
    môn học, hoạt động trải nghiệm sáng tạo mà mọi học sinh đều cần có trong cuộc
    sống, đồng thời tạo điều kiện phát triển tốt tiềm năng của mỗi học sinh. Cấp
    Tiểu học hướng tới hình thành và phát triển các năng lực chung như: Tự phục
    vụ, tự quản; giao tiếp, hợp tác; tự học và giải quyết vấn đề. Ngoài những năng
    lực chung, các năng lực đặc thù môn học được nêu ở các chương trình môn học
    và hoạt động trải nghiệm sáng tạo như: năng lực Toán, năng lực Âm nhạc, năng
    lực Mĩ thuật,…
    Chương trình tổng thể Ban hành theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT
    ngày 26/12/2018 nêu rõ “Giáo dục toán học hình thành và phát triển cho học
    sinh những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và năng lực toán học với các
    thành tố cốt lõi: năng lực tư duy và lập luận toán học, năng lực mô hình học toán
    học, năng lực giải quyết vấn đề toán học, năng lực giao tiếp toán học, năng lực
    sử dụng các công cụ và phương tiện học toán; phát triển kiến thức, kĩ năng then
    chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, áp dụng toán học vào đời sống
    thực tiễn, giáo dục toán học tạo dựng sự kết nối giữa các ý tưởng toán học, giữa
    toán học với các môn học khác và giữa toán học với đời sống thực tiễn’’.
    Quả đúng là như vậy! Trong các môn học,Toán học là một trong những
    bộ phận cấu thành chương trình Tiểu học đóng vai trò rất quan trọng. Nó cung
    cấp những kiến thức cơ bản về số học, các yếu tố hình học, các yếu tố đại lượng,
    đo đại lượng và giải toán đồng thời giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, giải
    quyết vấn đề, giao tiếp toán học và năng lực sử dụng các công cụ, phương tiện
    học toán khi tiếp xúc trong đời sống thực tiễn, học sinh có khả năng làm chủ các
    hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ phù hợp với lứa tuổi và vận dụng chúng một
    cách hợp lí vào thực hiện thành công nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả
    những vấn đề đặt ra cho chính các em trong cuộc sống hàng ngày, trong hoạt
    động lao động.
    Vậy để dạy học môn Toán, đặc biệt là Toán song ngữ Anh – Việt ở Tiểu
    học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh đạt hiệu quả cao, chuẩn bị
    cho việc thay sách giáo khoa theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ngày
    26/12/2018 thì chúng ta cần phải làm gì? Và làm như thế nào để góp phần vào
    công tác giáo dục hiện nay với quan điểm giáo dục mới và hiện đại? Đây là một
    trong những vấn đề mà tất cả những người làm công tác giáo dục nói chung và
    những người làm công tác quản lí trường học nói riêng luôn trăn trở, quan tâm
    và đây cũng là lí do chính để tôi chọn sáng kiến “Vận dụng linh hoạt các thành
    tố tích cực ở mô hình trường học mới Việt Nam(VNEN) và chương trình hiện
    hành để dạy học môn Toán theo hướng phát triển năng lực của học sinh.”
    Thầy Vũ Văn Ninh – Tổ trưởng tổ Tiểu học giới thiệu về nhà trường
    với đoàn đại biểu đến từ Thái Nguyên
    Cô Trần Thị Minh Thúy – Hiệu trưởng chia sẻ về nhà trường với đoàn đại
    biểu đến từ Thái Nguyên
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng
    Là Phó hiệu trưởng của trường Tiểu học Chu Văn An, tôi được phân công
    đảm nhiệm các công việc sau:
    Phụ trách công tác kiểm định chất lượng giáo dục
    Phụ trách công tác y tế, vệ sinh an toàn trường học
    Phụ trách công tác văn phòng, thư viện
    – Theo dõi phân công chuyên hàng tháng, theo dõi dạy thay của giáo viên,
    các tổ khối, các bộ phận trong nhà trường
    Lập các loại kế hoạch:
    + Kế hoạch chỉ đạo chuyên môn được phân công phụ trách ( Gốm cả kế
    hoạch: bồi dưỡng học sinh năng khiếu và phụ đạo học sinh yếu, kế hoạch chỉ
    đạo dạy các môn Tin học, dạy thí điểm IC3, tổ chức Câu lạc bộ toán học bằng
    Tiếng Anh, Câu lạc bộ Toán Tuổi thơ)
    + Kế hoạch phổ cập giáo dục Tiểu học;
    + Kế hoạch Kiểm định chất lượng;
    + Kế hoạch phòng chống bão lụt;
    + Kế hoạch phong cháy chữa cháy;
    Trong quá trình chỉ đạo triển khai thực hiện công việc của mình đảm
    nhiệm tôi đã đi sâu vào nghiên cứu “Vận dụng linh hoạt các thành tố tích cực
    ở mô hình trường học mới Việt Nam(VNEN) và chương trình hiện hành để
    dạy học môn Toán theo hướng phát triển năng lực của học sinh.”ở trường
    Tiểu học Chu Văn An, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy – học môn Toán,
    đặc biệt là Toán song ngữ nói và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện nói
    chung.
    Sáng kiến “Vận dụng linh hoạt các thành tố tích cực ở mô hình trường
    học mới Việt Nam(VNEN) và chương trình hiện hành để dạy học môn Toán
    theo hướng phát triển năng lực của học sinh.”được bản thân nghiên cứu trong
    hai năm làm công tác quản lý, chỉ đạo việc dạy học tại trường và trên kinh
    nghiệm đứng lớp dạy dự án mô hình trường học mới Việt Nam và Dạy Toán
    song ngữ Việt – Anh. Từ việc đổi mới cách học của học sinh thông qua đổi mới
    dạy học của giáo viên, đổi mới tổ chức các hoạt động dạy học Toán theo 5 bước:
    Bước 1: Tình huống xuất phát/câu hỏi nêu vấn đề
    Bước 2: Bộc lộ ý tưởng ban đầu
    Bước 3: Đề xuất phương án thực hành/giải quyết vấn đề
    Bước 4: Tiến hành giải quyết vấn đề
    Bước 5: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức. Vận dụng đến việc chỉ đạo đổi
    mới cách đánh giá năng lực Toán học theo định hướng phát triển năng lực của
    học sinh, đổi mới sinh hoạt chuyên môn trong dạy học môn Toán theo hướng
    tiếp cận bài học.
    Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, tôi cũng gặp những thuận lợi và khó
    khăn khó khăn như sau:
    1.1. Đặc điểm nhà trường thời điểm tháng 6-2020
    1.1.1. Số lớp, số học sinh

    KhốiSố lớpSố
    học sinh
    Bán trúCon
    thương
    bệnh binh
    Khuyết
    tật
    1633430201
    2736030802
    3732228500
    4626422902
    5732926701
    Tổng số331609139106

    1.1.2. Cán bộ, giáo viên, nhân viên
    Hiện tại, cơ cấu đội ngũ của nhà trường gồm:

    Đội ngũSố lượngTrình độ chuyên môn
    Biên
    chế
    Hợp
    đồng
    Đại
    học
    Cao
    đẳng
    Trung
    cấp
    Cán bộ
    quản lý
    Hiệu trưởng11
    Phó hiệu trưởng22
    Giáo viên
    văn hóa
    Khối 15142
    Khối 26125
    Khối 3725
    Khối 4651
    Khối 5752
    Dự trữ33
    Giáo viên
    ít giờ
    Âm nhạc211
    Mĩ thuật1111
    Thể dục213
    Tin học1111
    Tiếng Anh156
    Tổng phụ trách011
    Nhân
    viên
    Kế toán11
    Thư viện11
    Y tế11
    Bảo vệ5
    Lao công4

    1.2. Đặc điểm của môn học:
    + Toán học là môn học ngày càng có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, đặc
    biệt là Toán song ngữ Việt – Anh còn tạo cho học sinh có môi trường tiếp xúc
    với Tiếng Anh nhiều hơn, những kiến thức và kĩ năng toán học cơ bản đã giúp
    con người giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống một cách có hệ thống và
    chính xác, nâng cao ngôn ngữ Tiếng Anh góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
    Môn Toán VNEN, đặc biệt là toán song ngữ Anh – Việt ở trường phổ thông góp
    phần hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và năng
    lực toán học cho học sinh; phát triển kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội
    để học sinh được trải nghiệm, vận dụng toán học vào thực tiễn; tạo lập sự kết nối
    giữa các ý tưởng toán học, giữa Toán học với thực tiễn, giữa Toán học với các
    môn học và hoạt động giáo dục khác. Bên cạnh đó còn củng cố và nâng cao vốn
    Tiếng Anh cho các em, môn học mà đa số học sinh rất sợ. Nội dung môn Toán
    thường mang tính logic, trừu tượng, khái quát. Do đó, để hiểu và học tốt, vận
    dụng có hiệu quả được môn Toán, thì người giáo viên cần sáng tạo về sự cân đối
    giữa học kiến thức và vận dụng kiến thức vào giải quyết vấn đề cụ thể trong
    thực tế cuộc sống.
    + Chương trình môn Toán tiểu học hình thành, phát triển ở học sinh năng
    lực toán học với các thành tố: tư duy và lập luận toán học; mô hình hoá toán
    học; giải quyết vấn đề toán học; giao tiếp toán học; sử dụng công cụ, phương
    tiện học Toán. Đồng thời, môn Toán góp phần hình thành, phát triển ở học sinh
    các phẩm chất và năng lực cụ thể, giúp học sinh bước đầu xác định được năng
    lực, sở trường của bản thân nhằm định hướng và lựa chọn nghề nghiệp, rèn
    luyện nhân cách để trở thành người lao động và người công dân có trách nhiệm.
    1.3. Những thuận lợi, khó khăn:
    1.3.1.Thuận lợi:

    – Nhà trường luôn nhận được sự ủng
    hộ cao của Sở GD-ĐT, Phòng GD-ĐT; của
    Đảng uỷ, UBND tỉnh Nam Định; của Đảng
    uỷ, UBND thành phố Nam Định; của Đảng
    uỷ, UBND phường Thống Nhất, phường
    Hạ Long; của công an phường Hạ Long và
    của PHHS toàn trường nên điều kiện
    CSVC và chất lượng giáo dục, các phong
    trào của nhà trường luôn dẫn đầu trong
    thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
    – Trường có cơ sở vật chất khang trang, thiết bị dạy học hiện đại.
    – Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên của nhà trường đoàn kết, có ý thức trách
    nhiệm, trình độ chuyên môn vững vàng, tâm huyết với nghề, yêu trường yêu lớp;
    luôn luôn có ý thức xây dựng và giữ gìn hình ảnh, thương hiệu của nhà trường.
    – Nhiều giáo viên biết cách truyền cảm hứng cho học sinh trong các giờ học.
    Tập thể cán bộ giáo viên Trường Tiểu học Chu Văn An, thành phố Nam Định

    – Ngay từ những ngày đầu thành lập, nhà trường đã nhận được sự quan
    tâm của các cấp lãnh đạo, chính quyền địa phương và sự chỉ đạo trực tiếp của Sở
    Giáo dục – Đào tạo tỉnh Nam Định, Phòng GD&ĐT thành phố Nam Định về vấn
    đề chuyên môn cũng như kỹ thuật dạy học theo định hướng phát triển năng lực
    của học sinh trên mô hình VNEN – mô hình trường học mới Việt Nam đối với
    khối lơp Hai và dạy Toán song ngữ Việt – Anh đối với học sinh các khối lớp Ba,
    khối lớp Bốn, khối lớp Năm.
    Các đồng chí lãnh đạo chụp ảnh đông viên các bộ giáo viên trong ngày đầu thành lập
    Bộ sách song ngữ Việt – Anh sử dụng tại trường Tiểu học Chu Văn An
    – Học sinh được học theo mô hình VNEN nên các em rất nhanh nhẹn,
    mạnh dạn, tự tin trong tất cả các hoạt động.
    – Mô hình trường học mới là mô hình dạy học hướng tới việc đáp ứng các
    yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, giúp học sinh
    phát huy tính tự học, sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học
    tập.
    – Phụ huynh làm tốt vai trò của mình trong việc phối kết hợp giáo dục và
    tham gia đánh giá học sinh.
    – Học sinh được học tập theo mô hình trường học mới nên các em đã thích
    nghi với phương pháp tự học, biết cộng tác, hợp tác với mọi người trong việc
    phát hiện kiến thức mới. Vai trò điều hành của Hội đồng tự quản được phát huy
    tốt trong mọi hoạt động giáo dục.
    – Việc đổi mới phương pháp dạy học Toán theo định hướng phát triển
    năng lực của học sinh đã được đặt ra với tất cả các cấp học trong hệ thống giáo
    dục nói chung và việc đổi mới phương pháp dạy học Toán, đặc biệt Toán song
    ngữ Việt – Anh ở trường Tiểu học Chu Văn An thành phố Nam Định nói riêng.
    Nhất là khi chúng ta đang tiến hành đổi mới chương trình sách giao khoa thì vấn
    đề đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học
    sinh đã trở thành một yêu cầu cấp thiết, là bước đệm vững chắc cho việc đổi mới
    sách giáo khoa.
    – Môi trường giáo dục nhà trường đảm bảo dân chủ, thân thiện, chú trọng
    đổi mới các hoạt động giáo dục, có đầy đủ các điều kiện cho việc triển khai thực
    hiện đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học
    sinh.
    – Nhà trường đã tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa phụ huynh và cộng
    đồng nhằm phát huy vai trò tích cực của phụ huynh và cộng đồng tham gia cùng
    nhà trường trong hoạt động giáo dục học sinh với các hình thức hoạt động phù
    hợp như: thực hiện xây dựng sơ đồ cộng đồng, tổ chức Hội đồng tự quản của
    học sinh, xây dựng góc học tập, thư viện lớp học, xây dựng mô hình An toàn
    giao thông cổng trường và cùng tham gia đánh giá kết quả giáo dục của học
    sinh.
    Mô hình cổng trường “Giao thông an toàn” được phụ huynh
    phối hợp thực hiện và hiệu quả cao
    – Trong những năm qua, cán bộ quản lý, giáo viên trong nhà trường đã
    được tập huấn về công tác đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát
    triển năng lực của học sinh nên nghiệp vụ sư phạm ngày được nâng cao, có kĩ
    năng điều hành các hoạt động dạy học và biết cộng tác theo hướng tích cực
    trong giáo dục.
    1.3.2. Khó khăn:
    – Một số giáo viên lớn tuổi ngại thay đổi, vốn Tiếng Anh ít, trình độ Tin
    học còn hạn chế và còn mang nặng lối dạy truyền thống, các tiết dạy vẫn diễn ra
    theo lối: thầy giảng trò nghe, ghi nhớ vấn đáp và tái hiện kiến thức. chưa chú
    tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy học; kỹ năng sư phạm của một số giáo
    viên trong việc tổ chức, điều hành cho học sinh tích cực hoạt động, tự học, tự
    chiếm lĩnh kiến thức vẫn còn hạn chế. Một số giáo viên ngại tìm tòi, suy nghĩ
    các tình huống sư phạm tối ưu để tạo cho tiết dạy hấp dẫn và có sức lôi cuốn học
    sinh.
    – Một số học sinh có bố mẹ mải mê với công việc hay phải đi làm ăn xa
    nên các em phải ở với ông, bà. Vì thế các em chưa được quan tâm đúng mức tới
    việc học tập.
    – Sĩ số học sinh đông (các lớp trên 50 học sinh trong khi đó không gian
    lớp học xây dựng cho 35 học sinh/lớp) nên việc tổ chức các hình thức tổ chức
    học tập như: trò chơi, học theo nhóm….. còn gặp nhiều khó khăn.
    – Một số học sinh còn thụ động trong việc giải quyết vấn đề và năng lực
    sử dụng các công cụ, phương tiện học toán còn hạn chế. Tình trạng một số
    nhóm, một số học sinh hoạt động chưa tích cực, trông chờ, ỉ lại vào các bạn
    trong các tiết học vẫn còn.
    – Nhiều phụ huynh tâm lí hoang mang sợ con em mình không tiếp thu
    được kiến thức bài học, nhất là đối tượng học sinh có kiến thức kĩ năng, năng
    lực, phẩm chất còn hạn chế khi chuyển việc truyền thụ của giáo viên thành việc
    hướng dẫn học sinh.
    Như vậy, qua nghiên cứu thực trạng tôi thấy hầu hết giáo viên đã quan
    tâm đến quá trình học, biết khai thác động lực học tập, gắn việc học với nhu cầu,
    lợi ích cá nhân học sinh. Chú trọng kĩ năng thực hành vận dụng kiến thức, năng
    lực phát hiện và tự giải quyết vấn đề của thực tiễn qua phương pháp dạy học
    theo định hướng phát triển năng lực của học sinh. Quan tâm vận dụng các
    phương tiện dạy học hiện đại để học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập theo tiến
    độ phù hợp với năng lực từng em, chú ý đến việc đánh giá và hướng dẫn cho học
    sinh năng lực tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học, khuyến khích cách học
    thông minh, sáng tạo.
    Học sinh biết tham gia hoạt động, làm việc trong nhóm nhằm chiếm lĩnh
    tri thức, tìm hiểu và giải quyết nhiệm vụ học tập. Các em có khả năng điều hành
    nhóm hoạt động và báo cáo kết quả khi kết thúc mỗi hoạt động. Biết chia sẻ kinh
    nghiệm với bạn bè và học hỏi từ bạn bè cũng như việc trao đổi những điều đã
    học và cách học với người khác. Bước đầu các em có năng lực tự học, tự tìm tòi
    kiến thức, biết tham gia đánh giá và biết đánh giá kết quả lẫn nhau.
    Tuy nhiên trong quá trình dạy học, có giáo viên còn chưa có sự chú ý đúng
    mức tới việc làm thế nào để học sinh phát triển năng lực.
    Một số học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ học tập của mình, chưa chịu
    khó, lười tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để
    biến tri thức của tài liệu thành của mình để nâng cao năng lực giải quyết. Một số
    học sinh năng lực giao tiếp và sử dụng các công cụ, phương tiện học toán còn
    hạn chế.
    Tiếp cận từ góc độ quản lí, tôi nhận thấy từ những lí do nêu trên, với
    những kết quả đạt được trong thời gian qua, tôi mạnh dạn chia sẻ sáng kiến kinh
    nghiệm:
    “Vận dụng linh hoạt các thành tố tích cực ở mô hình trường học mới
    Việt Nam(VNEN) và chương trình hiện hành để dạy học môn Toán theo
    hướng phát triển năng lực của học sinh.”
    Những giải pháp cơ bản
    Giải pháp thứ nhất: Lập kế hoạch và triển khai kế hoạch
    Giải pháp thứ hai: Các biện pháp cần phát triển cho học sinh
    thông qua phương pháp dạy học tích cực
    Giải pháp thứ ba: Vận dụng linh hoạt các thành tố tích cực
    trong dự án mô hình trường học mới Việt Nam và chương trình hiện
    hành để dạy học môn Toán theo hướng phát triển năng lực của học
    sinh
    Giải pháp thứ tư: Phối hợp hoạt động dạy và hoạt động học
    để phát triển năng lực cho học sinh đạt hiệu quả cao.
    Giải pháp thứ năm: Kiểm tra đánh giá theo định hướng phát
    triển năng lực của học sinh
    Giải pháp thứ sáu: Tuyên dương khen thưởng kịp thời
    2- Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1. Giải pháp thứ nhất
    Lập kế hoạch và triển khai kế hoạch
    2.1.1. Lập kế hoạch
    Lập kế hoạch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công tác quản lý.
    V.I.Lênin đã từng nói: “Mọi kế hoạch là thước đo, là tiêu chuẩn, là ngọn hải
    đăng, là cái mốc”.
    Nên khi lập kế hoạch điều quan trọng là xác định rõ mục tiêu, yếu tố
    chính của vấn đề. Phân công người phụ trách, người tham gia vào các công việc,
    dự kiến các biện pháp cách thức duy trì đổi mới phương pháp dạy học để đạt
    được mục tiêu.
    Chính vì vậy, ngay từ đầu năm học, sau khi được hiệu trưởng phân công
    nhiệm vụ, tôi đã nghiên cứu lên kế hoạch thực hiện “Vận dụng linh hoạt các
    thành tố tích cực ở mô hình trường học mới Việt Nam(VNEN) và chương trình
    hiện hành để dạy học môn Toán theo hướng phát triển năng lực của học sinh.”
    giúp tôi xác định mục tiêu, yêu cầu nội dung và định hướng, quy trình thực hiện
    cho đội ngũ giáo viên trong nhà trường. Đó là:
    Mục tiêu:
    + Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học
    sinh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, đáp ứng tốt yêu cầu của xã
    hội ngày càng phát triển.
    + Giúp cho giáo viên dạy toán nhận thức đúng vai trò của việc thực hiện nội
    dung chương trình môn toán và xem là một trong những yêu cầu bắt buộc trong
    sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học, tránh được việc sinh hoạt chuyên
    môn theo nghiên cứu bài học mang tính hình thức.
    + Giúp cho cán bộ quản lí dễ dàng kiểm tra việc thực hiện phương pháp dạy
    học, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của từng giáo viên dạy toán và làm cơ sở cho
    công tác thi đua trong nhà trường.
    + “Phải đổi mới quản lí để quản lí sự đổi mới”. Đó là quản lí được việc
    thực hiện đổi mới phương pháp dạy học trong trường tiểu học như:

    Quản lý
    hoạt động
    tổ chuyên
    môn
    Xây dựng kế hoạch: Kế hoạch thực hiện chương trình; kế hoạch
    triển khai các chuyên đề đổi mới; kế hoạch bồi dưỡng giáo viên.
    Tổ chức chỉ đạo thực hiện: Thao giảng dự giờ, tổ chức thi giáo
    viên giỏi, làm ĐDDH, viết SKKN.
    Kiểm tra đánh giá: Kiểm tra chéo giữa các tổ, kiểm tra đánh giá
    giáo viên.
    Quản lý
    HĐ giáo
    viên
    Xây dựng kế hoạch: Soạn bài lên lớp, dự giờ, kiểm tra đánh giá
    học sinh, tự bồi dưỡng.
    Tổ chức chỉ đạo thực hiện: Bồi dưỡng nhận thức kỹ năng chung;
    bồi dưỡng kỹ năng nhiệm vụ dạy học; chỉ đạo việc tự bồi dưỡng.
    Kiểm tra đánh giá; Kiểm tra toàn diện, kiểm tra theo chuyên đề.
    Quản lý
    HĐ của
    học sinh
    Xây dựng kế hoạch: Nề nếp tự quản, nề nếp tự học;
    kế hoạch hưởng ứng các phong trào thi đua.
    Tổ chức thực hiện: Phát động phong trào thi đua, bồi dưỡng
    phương pháp tự học; tham gia ngoại khóa, dã ngoại giải trí bổ ích.
    Kiểm tra đánh giá: Đánh giá tổng kết thi đua khen thưởng.
    Quản lý
    HĐ của
    Hội cha mẹ
    Xây dựng kế hoạch: kế hoạch phối hợp quản lý nề nếp, học tập rèn
    luyện của HS.
    Tổ chức chỉ đạo thực hiện: Định kỳ họp, tổ chức các biện pháp hỗ
    trợ nhà trường; thông tin 2 chiều, hội nghị tư vấn về phương pháp
    dạy học sinh tự học, phương pháp giáo dục đạo đức.
    Kiểm tra đánh giá: Tổ chức báo cáo điển hình về phương pháp dạy
    con tự học

    Yêu cầu:
    + Đảm bảo thực hiện hiệu quả nội dung chương trình môn Toán theo yêu
    cầu của Bộ GD-ĐT, đồng thời giáo viên dạy toán biết xây dựng các kế hoạch dạy

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Thiết kế một số hoạt động ứng dụng môn Toán cho học sinh lớp 3

    SKKN Thiết kế một số hoạt động ứng dụng môn Toán cho học sinh lớp 3

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    PHẦN I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Đặt vấn đề
    Toán học ngày càng có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, những kiến thức
    và kĩ năng toán học cơ bản đã giúp con người giải quyết các vấn đề trong thực tế
    cuộc sống một cách có hệ thống và chính xác, góp phần thúc đẩy xã hội phát
    triển. Trong các môn học ở tiểu học, môn Toán là một môn học công cụ, đóng
    vai trò hết sức quan trọng. Các kiến thức kĩ năng của môn toán ở Tiểu học rất
    cần cho người lao động, cần thiết để học các môn học khác ở tiểu học và chuẩn
    bị cho việc học tốt môn toán ở bậc trung học. Môn Toán giúp HS nhận biết các
    mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực, nhờ đó
    mà HS có phương pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết
    cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống. Môn Toán góp phần rất lớn trong
    việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải
    quyết vấn đề. Chính vì vậy, khi học, mỗi cá nhân cần phải vận dụng các tri thức
    toán học vào thực tiễn và luôn trau dồi năng lực vận dụng và thực hành vào cuộc
    sống phục vụ tương lai.
    Chương trình tổng thể Ban hành theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ngày
    26/12/2018 nêu rõ “Giáo dục toán học hình thành và phát triển cho học sinh
    những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và năng lực toán học với các thành
    tố cốt lõi: năng lực tư duy và lập luận toán học, năng lực mô hình học toán học,
    năng lực giải quyết vấn đề toán học, năng lực giao tiếp toán học, năng lực sử
    dụng các công cụ và phương tiện học toán; phát triển kiến thức, kĩ năng then
    chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, áp dụng toán học vào đời sống
    thực tiễn, giáo dục toán học tạo dựng sự kết nối giữa các ý tưởng toán học, giữa
    toán học với các môn học khác và giữa toán học với đời sống thực tiễn’’. Như
    vậy một lần nữa có thể thấy vai trò quan trọng của sự ứng dụng toán học vào đời
    sống.
    Thực tế dạy học Toán ở tiểu học hiện nay nặng về phần kiến thức và kĩ
    năng, chưa có nhiều các bài tập vận dụng vào cuộc sống để HS vận dụng kiến
    2
    thức, kĩ năng môn toán vào cuộc sống xung quanh. HS được học các kiến thức
    về số học, đại lượng và đo đại lượng, các yếu tố hình học, giải toán có lời văn,
    được thực hành – luyện tập các kĩ năng xoay quanh các mạch kiến thức toán
    được học nhưng khi áp dụng vào các tình huống trong thực tiễn thì các em rất
    lúng túng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này. Một trong những
    nguyên nhân đó là GV và HS chưa được trang bị những phương tiện hỗ trợ hiệu
    quả cho việc dạy và học những ứng dụng của tri thức toán vào trong cuộc sống.
    Trong những năm gần đây, mô hình Trường học kiểu mới VNEN đã được
    thí điểm vào nhiều trường tiểu học ở nhiều địa bàn trong toàn quốc. Bắt đầu từ
    năm học 2015 – 2016, trường Tiểu học Thị trấn Rạng Đông thí điểm dạy học
    theo mô hình này ở các lớp 2, 3, 4, 5. Các thử nghiệm bước đầu cho thấy ưu
    điểm và hiệu quả khi đưa các hoạt động ứng dụng vào tài liệu hướng dẫn học.
    Các hoạt động ứng dụng được đưa ra nhằm xem xét xem HS có thể áp dụng kiến
    thức, kĩ năng đã học vào các tình huống cụ thể hằng ngày được hay không. Điều
    này mang lại ý nghĩa cho giáo dục, lợi ích cho gia đình và cộng đồng. Các hoạt
    động ứng dụng và mở rộng đã khuyến khích HS tích lũy kiến thức thông qua các
    nguồn khác nhau (thư viện, gia đình, làng xóm, các tổ chức xã hội, …). Tuy
    nhiên, nhiều hoạt động ứng dụng trong tài liệu hướng dẫn học môn Toán chưa rõ
    nét, chưa có sự ứng dụng cao vào thực tế cuộc sống. Vì vậy tôi chọn đề tài: Thiết
    kế một số hoạt động ứng dụng môn Toán cho học sinh lớp 3.
    2. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
    Khách thể nghiên cứu: Phương pháp dạy học môn Toán
    Đối tượng nghiên cứu: Các hoạt động ứng dụng môn Toán cho học sinh lớp 3
    3. Phạm vi nghiên cứu
    Trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm này tôi tập trung nghiên cứu “Thiết
    kế một số hoạt động ứng dụng môn Toán cho học sinh lớp 3” tại Trường Tiểu
    học Thị trấn Rạng Đông.
    4. Phương pháp nghiên cứu
    – Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
    – Phương pháp tìm hiểu thực tế.
    3
    – Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê.
    5. Điểm mới của sáng kiến:
    Thiết kế một số hoạt động ứng dụng môn Toán cho học sinh lớp 3 theo
    mô hình trường học mới VNEN sẽ giúp học sinh phát triển khả năng vận dụng
    Toán học vào trong đời sống, yêu thích và học Toán tốt hơn.
    4
    PHẦN II : MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1.Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Cơ sở lý luận
    a. Nguyên lý dạy học môn Toán ở tiểu học: Học đi đôi với hành, lí luận gắn
    liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội,
    giáo dục kết hợp với lao động sản xuất
    Từ Luật Giáo dục tháng 6 năm 2005 đã xác định rõ nguyên lý giáo dục
    quan trọng đối với giai đoạn này, đến Hội nghị Ban chấp hành Trương ương
    Đảng khóa XI Số 29-NQ/TW tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện
    giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại một lần
    nhấn mạnh nguyên lý giáo dục và chỉ rõ tầm quan trọng của việc dạy – học phải
    gắn tri thức lý luận với thực tiễn cuộc sống.
    Các kiến thức kĩ, năng của môn Toán ở tiểu học được hình thành chủ yếu
    bằng thực hành, luyện tập và thường xuyên được ôn tập, củng cố, phát triển, vận
    dụng trong học tập và trong đời sống. Đây là sự thể hiện của nguyên lí giáo dục
    “học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn”. Thông qua hoạt động thực
    hành, bước đầu giúp học sinh tìm tòi, phát hiện các khái niệm toán học, các quy
    tắc tính toán, đồng thời sẽ củng cố các tri thức mới, rèn luyện các kĩ năng cơ
    bản, phát triển tư duy. HS bước đầu làm quen với cách vận dụng các kiến thức,
    kỹ năng của môn tóan để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong học tập và
    trong cuộc sống.
    b. Một số biện pháp thực hiện nguyên lý giáo dục trong dạy học Toán ở tiểu
    học.
    Tôi xin đưa ra một số biện pháp giúp giáo viên tăng cường đưa các ứng
    dụng của Toán học vào cuộc sống:
    – GV tìm hiểu với mỗi mạch kiến thức trong từng bài học có ứng dụng với thực
    tiễn, vận dụng vào cuộc sống như thế nào. Điều này rất quan trọng và là yếu tố
    quyết định khi GV đưa hoạt động ứng dụng toán học vào cuộc sống cho HS. Để
    hiểu và giảng dạy về những ứng dụng của mạch kiến thức toán học đó vào cuộc
    5
    sống, GV có thể tìm hiểu qua nhiều nguồn như: thông qua sách vở, đồng nghiệp
    hay trên internet…
    – GV phải nắm được nguồn gốc thực tiễn của các tri thức toán học trong chương
    trình môn Toán (Ví dụ: số tự nhiên ra đời do nhu cầu đếm, hình học xuất hiện do
    nhu cầu đo đạc lại ruộng đất sau những trận lụt bên bờ sông Nin…). Từ đó,
    trong một số bài học, GV có thể đưa những ứng dụng của tri thức đó bằng cách
    lồng ghép nguồn gốc thực tiễn của tri thức vào bài dạy như vậy HS vừa được
    tiếp thu những ứng dụng vừa cảm thấy ham thích, say mê tìm tòi.
    – GV cần phải hiểu rõ sự phản ánh thực tiễn của các tri thức toán học (Ví dụ:
    Diện tích được hiểu như là bề mặt hay sự chiếm chỗ của hình trong mặt phẳng,
    dấu hai chấm (:) để biểu thị phép chia hoặc phân số lần đầu vào năm 1684.…).
    Khi dạy học, GV đưa sự phản ánh thực tiễn của các tri thức toán học vào trong
    mỗi bài học tương ứng trong chương trình.
    – Sau khi đã làm rõ mối liên hệ giữa Toán học và thực tiễn, GV cần đưa ra hệ
    thống những bài tập và việc làm để HS kiến tạo tri thức, rèn luyện kĩ năng theo
    tinh thần sẵn sàng ứng dụng.
    + Thời lượng dành cho thực hành, luyện tập trong mỗi tiết học Toán ở tiểu học
    chiếm từ 60% – 70%, nên GV cần tận dụng đặc điểm này đưa bài toán có nội
    dung thực tế hoặc những tình huống thực tiễn để HS vận dụng.
    + GV nên chuyển nội dung từng tiết dạy học toán thành các phiếu học tập hay
    phiếu thực hành. Trong quá trình biên soạn các phiếu học tập, GV nên tích hợp
    nhiều nội dung giáo dục gắn với thực tế và gần gũi thu hút được hứng thú của
    HS, có thể sử dụng một số tranh ảnh, hình vẽ ngộ nghĩnh để minh hoạ cho các
    bài tập thêm sinh động, có thể thiết kế các bài tập dưới dạng bài tập trắc nghiệm,
    các trò chơi hay câu đố vui toán học…
    – GV cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học khác nhau, đặc biệt là hình thức
    lên lớp với hình thức tham quan học tập, hình thức thực hành, luyện tập …, tổ
    chức các hoạt động thực hành toán học giúp HS tăng cường vận dụng và thực
    hành toán học vào thực tiễn.
    1.2. Thực trạng
    6
    1.2.1. Về chương trình và Sách giáo khoa (theo Chương trình hiện hành
    năm 2000)
    – Hệ thống bài tập thực hành có tác dụng quan trọng trong việc làm cho học sinh
    hình thành thói quen và phát triển kĩ năng vận dụng toán học vào cuộc sống.
    Sách giáo khoa đã chú trọng đến điều đó, đặc biệt là hệ thống bài tập song còn ít
    và nặng về lí thuyết, chưa khai thác hết các ứng dụng và nhất là chưa giải quyết
    tốt việc xây dựng một hệ thống bài tập thực hành bao gồm những nội dung vừa
    có nội dung thiết thực vừa yêu cầu rèn luyện những thói quen và kĩ năng vận
    dụng cần thiết.
    – Sách giáo khoa Toán lớp 3 (theo Chương trình năm 2000) đã có một hệ thống
    bài tập bước đầu vận dụng Toán học vào cuộc sống. Sau đây là một số ví dụ:

    STTLĩnh vực ứng dụngBài – Trang
    1Sản xuấtBài 2 trang 37
    2Y tế – giáo dụcBài 2 trang 166
    3Giao thông vận tảiBài 1 trang 52
    4Kinh tếBài 3 trang 104
    5Thể thaoBài 4 trang 146
    6Văn hóa – xã hộiBài 4 trang 139
    7Môi trườngBài 3 trang 159
    8Đo lườngBài 1 trang 65
    9Xây dựngBài 2 trang 119
    10Sinh hoạt hàng ngàyBài 1 trang 125

    1.2.2. Về phía giáo viên
    – Ngay từ khi được đào tạo ở các trường sư phạm, trong chương trình (giáo
    trình, đánh giá, dạy học…) chưa thực sự chú ý đến vấn đề vận dụng toán học,
    ảnh hưởng trực tiếp đến tiềm năng dạy của giáo viên.
    – Nhiều giáo viên cho rằng Sách giáo khoa và Sách giáo viên là pháp lệnh phải
    tuân theo một cách tuyệt đối. Chính vì vậy, giáo viên không thay đổi nội dung
    7
    các bài tập về bước vận dụng Toán học và cuộc sống cũng như không có sự thay
    đổi cho phù hợp với cuộc sống và phù hợp với học sinh của mình.
    – Nhiều giáo viên hướng việc dạy toán về việc giải nhiều loại mà hầu hết không
    có nội dung thực tiễn, còn xem nhẹ công tác tính toán, thực hành toán học, rất ít
    hoặc không bao giờ tổ chức ngoại khóa và tham quan về những đề tài toán học
    gắn liền với đời sống…
    1.2.3. Về phía học sinh
    – Nhiều học sinh chưa chú ý rèn luyện để phát hiện và giải quyết các vấn đề
    thường gặp trong cuộc sống. Các em chưa quan tâm đến những vấn đề có thể
    vận dụng Toán học để giải quyết trong cuộc sống hàng ngày, chưa có sự liên hệ
    những điều đã học vào cuộc sống của bản thân.
    – Khi làm các bài tập về bước đầu vận dụng Toán học vào cuộc sống, học sinh
    không quan tâm đến nội dung của các bài tập đó mà chỉ chú tâm đến việc tìm ra
    đáp số của bài tập.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1. Mục tiêu của giải pháp
    2.1.1. Đặc điểm của tài liệu hướng dẫn học
    Tài liệu hướng dẫn học tập: là một thành phần cơ bản của chương trình
    VNEN. Trong một tài liệu bao gồm 3 tài liệu: SGK, sách hướng dẫn cho GV,
    sách hướng dẫn HS tự học ở nhà.
     Đối với HS:
    Đây là tài liệu có tính tương tác cao, thuận tiện cho việc học tập cá nhân cũng
    như học theo nhóm.Tài liệu gồm một chuỗi các hoạt động được thiết kế nhằm
    giúp HS tự học. Nó còn giúp HS sử dụng các đồ dùng học tập ở góc học tập, sử
    dụng sách, tài liệu tham khảo ở góc thư viện trong lớp học cũng như tìm tòi
    tham khảo tư liệu ở môi trường xung quanh các em, gia đình và cộng đồng. Từ
    đó mà khơi dậy hứng thú học tập, sự tìm tòi khám phá tri thức cho HS.
     Đối với GV:
    8
    Tài liệu thuận tiện cho GV khi tổ chức dạy học theo nhóm, đặc biệt là ở lớp
    ghép có nhiều trình độ. Tài liệu là sự tích hợp nội dung và quá trình dạy học
    (bao gồm cả phương pháp và hình thức tổ chức dạy học), khắc phục được tình
    trạng giảng dạy theo lối truyền thụ thường gặp. Tạo thuận lợi cho GV trong quá
    trình tổ chức hoạt động dạy học trên lớp, không mất nhiều thời gian soạn bài.
    Dựa vào tài liệu, GV có thể điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng HS lớp mình,
    có quyền thay đổi nội dung dạy học cho sát với đặc điểm cụ thể ở địa phương
    miễn sao đảm bảo mục tiêu.
     Đối với phụ huynh và HS:
    Tài liệu chú trọng đến các hoạt động học tập được thực hiện ở nhà của HS,
    tạo điều kiện thuận lợi cho cha mẹ HS và cộng đồng tham gia vào quá trình học
    tập của các em thông qua việc giúp đỡ, hướng dẫn HS học tập, bổ sung các kiến
    thức, kĩ năng cần thiết đáp ứng yêu cầu học tập của các em.
    2.2.2 Cấu trúc các dạng bài của tài liệu hướng dẫn học
    Cách trình bày Tài liệu Hướng dẫn học Toán 3 nói riêng và tài liệu HDH
    Toán nói chung có những đặc điểm nổi bật sau:
    • Ngôn ngữ diễn đạt trong tài liệu ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, đảm bảo
    phù hơp với vốn ngôn ngữ Tiếng Việt của học sinh lớp 3.
    • Tài liệu có sự nhất quán về cách trình bày của các chương, các bài học
    và các hoạt động trong các dạng bài.
    • Phù hợp với đặc điểm nhận thức của HS tiểu học
    Hình thức của tài liệu này rất “bắt mắt” từ bìa đến các trang sách in màu
    với những hình ảnh đẹp, sinh động, dễ thương, vui nhộn, một số hình ảnh chưa
    thật thân thuộc có những hình ảnh không gần gũi ngay xung quanh nhưng lại
    mang cho các em những hiểu biết mới. (VD: hình ảnh về những mệnh giá tiền
    Việt Nam…). Như vậy, tài liệu có sự cân đối, phù hợp giữa kênh hình và kênh
    chữ với nội dung dạy học. Cách trình bày này phù hợp với đặc điểm tâm lí trẻ
    Tiểu học.
    • Nhất quán về cấu trúc của các dạng bài học
    9
    Mỗi bài học được thiết kế theo trình tự: Tên bài học; Mục tiêu bài học;
    Hoạt động cơ bản; Hoạt động thực hành; Hoạt động ứng dụng.
    Trong 98 bài học của TL HDHT3 chia thành 3 dạng bài:
    – Dạng bài hình thành kiến thức mới: Mỗi bài thộc dạng này được thiết kế gồm
    3 hoạt động đó là: Hoạt động cơ bản, Hoạt động thực hành, Hoạt động ứng
    dụng.
    VD: bài 11: Bảng nhân 6 (TL HDHT3 – trang 23, Tập 1); bài 74: Các số
    có năm chữ số (TL HDHT3 – trang 58, Tập 2); …
    – Dạng bài luyện tập – ôn tập: Mỗi bài thộc dạng này được thiết kế gồm 2 hoạt
    động đó là: Hoạt động thực hành, Hoạt động ứng dụng.
    VD: bài 9: Em ôn lại những gì đã học (TL HDHT3 – trang 20,Tập 1); bài
    78: Luyện tập (TL HDHT3 – trang 68, Tập 2).
    – Dạng bài tự kiểm tra: Dạng bài này chủ yếu đưa ra các yêu cầu để HS thể hiện
    các đơn vị kiến thức và kĩ năng đã tích lũy được trong giai đoạn qua.
    VD: bài 10: Em đã học được những gì? (TL HDHT3 – trang 22, Tập 1);
    bài 98: Em đã học được những gì? (TL HDHT3 – trang 110, Tập 2)
    Trong các dạng bài tuy có cấu trúc hoạt động phong phú, nhưng điểm
    chung nhất là đều ghi rõ mục đích để HS tự chiếm lĩnh tri thức. Các hoạt động
    đều được gợi ý hình thức tổ chức. Cụ thể là:
    Trước mỗi hoạt động đều có các lô gô chỉ dẫn. HS nhìn lô gô biết hoạt
    động đó thực hiện cá nhân, hay nhóm đôi, nhóm lớn hoặc chung cả lớp.
    • Hoạt động nhóm đôi:
    • Hoạt động nhóm trên 2 người:
    • Hoạt động cá nhân :
    • Hoạt động có sự hỗ trợ của GV :
    10
    • Hoạt động có sự hỗ trợ của người lớn:
    Kết thúc các hoạt động có biểu tượng và khung màu ghi dòng chữ “Báo
    cáo với thầy/ cô giáo kết quả những việc em đã làm.” để thông báo các em đã
    hoàn thành một Hoạt động và báo cáo kết quả của hoạt động đó cho GV; kết
    thúc hoạt động ứng dụng có biểu tượng và khung màu với dòng chữ “Thầy/ cô
    giáo nhận xét và ghi nhận kết quả học tập của học sinh”.
    Phần chốt kiến thức trọng tâm thường được đặt trong khung tô màu xanh.
    2.2.3 Hoạt động ứng dụng trong tài liệu Hướng dẫn học Toán 3
    a)Đặc điểm của hoạt động ứng dụng trong tài liệu Hướng dẫn học Toán
    3
    Hoạt động ứng dụng là phần hoạt động yêu cầu HS sử dụng linh hoạt các
    kiến thức và kĩ năng đã học vào thực tế, cuộc sống hằng ngày. Mỗi hoạt động
    ứng dụng gồm từ 1 đến 2 hoạt động nhỏ gắn với các tình huống thực tế như : hỏi
    tuổi bố, mẹ….đo, tính diện tích, phòng học….cùng ước lượng quãng đường từ
    nhà đến trường ,…. Các hoạt động này thường được làm việc ở nhà cùng với sự
    hỗ trợ, giúp đỡ của gia đình ( bố, mẹ, anh, chị …), đánh giá vào trước tiết học
    của ngày hôm sau để GV ghi kết quả vào biểu đồ theo dõi sự tiến bộ và hoàn
    thành công việc của HS.
    Khi tìm hiểu và được trực tiếp giảng dạy Tài liệu HDH Toán theo mô
    hình VNEN, tôi thấy bài tập ứng dụng toán học vào cuộc sống được thể hiện
    một cách rõ nét trong một hoạt động dành riêng cho các bài tập đó – Hoạt động
    ứng dụng.
    Đặc điểm của hoạt động ứng dụng trong tài liệu Hướng dẫn học toán 3:
    – Thể hiện rõ được quan điểm “Học đi đôi với hành” (Học xong kiến thức, được
    vận dụng vào trong thực tế).
    – Việc thiết kế cụ thể các hoạt động ứng dụng đã khắc phục được nhược điểm
    trong SGK hiện hành – HS lúng túng trong việc vận dụng kiến thức vào thực tế.
    11
    Từ hoạt động này, HS sẽ được trải nghiệm, tự bản thân mình vận dụng kiến thức
    thông qua các tình huống gắn liền với cuộc sống gần gũi hằng ngày.
    – Thông qua hoạt động ứng dụng, HS thấy rõ được giá trị của kiến thức trong
    việc học tạo nên động lực học tập chính đáng ở HS. HS phải hoạt động cá nhân
    và được thực hiện ở nhà dưới sự hỗ trợ của phụ huynh HS.
    Các nhiệm vụ học tập trong phần Hoạt động ứng dụng giúp gắn kết những
    kiến thức toán học trở nên gần gũi xung quanh HS. Với cách thiết kế như thế, tài
    liệu HDH Toán 3 hình thành cho HS phương pháp học từ nhiều nguồn thông tin
    khác nhau, học tập từ những gì xung quanh và biết gắn liền nội dung học với
    thực tiễn cuộc sống.
    b) Cấu trúc của các hoạt động ứng dụng trong tài liệu Hướng dẫn học Toán
    3
    Mỗi hoạt động ứng dụng trong tài liệu HDH Toán 3 thường gồm : lô gô,
    phần lệnh, phần nội dung và chỉ dẫn.
     Phần lô gô :
    Điểm mới trong các tài liệu HDH Toán nói chung và tài liệu HDH Toán 3 nói
    riêng là những lô gô ( hình ảnh) súc tích để GV, HS hiểu yêu cầu hoạt động và thực
    hiện. Tương tự hoạt động ứng dụng trong các tài liệu HDH Toán, tài liệu HDH Toán
    3 thường xuyên sử dụng lôgô và kèm theo hình ảnh chỉ dẫn : (thể hiện sự hướng
    dẫn/ hỗ trợ của phụ huynh- người lớn trong gia đình).
    VD : Hoạt động ứng dụng trong bài 68 : Bài toán liên quan đến rút về
    đơn vị ( TL HDH T3 – trang 44, Tập 2)
    12
     Phần lệnh :
    Phần lệnh chủ yếu sử dụng các câu cầu khiến – dựa vào câu lệnh HS xác định
    được nội dung yêu cầu của hoạt động, cách thực hiện, hình thức thực hiện hoặc
    cách lưu giữ kết quả của hoạt động đề ra.
    Một số câu lệnh được sử dụng trong hoạt động ứng dụng Toán 3 :
    + Em hãy hỏi …. và viết vào vở…..
    VD : Trong bài 51: Các số có năm chữ số (TL HDHT3 – trang 3, Tập 2)
    yêu cầu :
    Em hãy hỏi mọi người trong gia đình, hoặc hàng xóm để tìm ví dụ về
    thực tế có sử dụng các số có bốn chữ số và viết vào vở.
    Chẳng hạn : Quãng đường từ nhà em đến Ủy ban xã dài khoảng 4200m.
    Một xe ô tô tải chở 5500kg hàng.
    + Đọc một số tình huống/ thông tin và trả lời câu hỏi/ thực hiện hoạt động
    sau
    + Hãy quan sát và ghi chép lại….
    VD : Trong bài 71: Làm quen với thống kê số liệu (TL HDHT3 – trang
    51, Tập 2) yêu cầu :
    Đọc bảng số liệu sau và trả lời câu hỏi :
    Bảng thống kê số dân của ba dân tộc ở xã Tả Phìn :

    Dân tộcTàyTháiHmông
    Số người356247852

    Nhìn vào bảng thống kê trên, hãy trả lời các câu hỏi sau :
    a) Ở xã Tả Phìn, mỗi dân tộc có bao nhiêu người ?
    b) Dân tộc nào có số dân ít nhất ? Dân tộc nào có số dân nhiều nhất ?
    + Giải bài toán
    VD: Trong bài 12: Nhân số có hai chữ số với số có một chữ số (không
    nhớ) (TL HDHT3 – trang 25, Tập 1) yêu cầu :
    Giải bài toán :
    Một ô tô chở được 32 người. Hỏi 3 ô tô như thế chở được tất cả bao nhiêu
    13
    người ?
     Phần nội dung và chỉ dẫn: Nêu những gợi ý để HS thực hiện hoạt động
    một cách dễ dàng và có hiệu quả hơn.
    VD : Trong bài 89: Luyện tập chung (TL HDHT3 – trang 94, Tập 2) chỉ dẫn
    như sau :
    a) Em hỏi người lớn trong nhà :
    – Giá một ki-lô-gam gạo là bao nhiêu tiền ạ ?
    – Mỗi tuần nhà mình ăn hết bao nhiêu ki-lô-gam gạo ạ ?
    b) Em hãy tính xem để mua gạo đủ ăn trong một tuần cần bao nhiêu tiền ?
     Quan phần chỉ dẫn này HS sẽ định hướng được cách làm nội dung nêu trên.
    c) Ưu điểm và hạn chế của hoạt động ứng dụng trong tài liệu Hướng dẫn học
    Toán 3
     Ưu điểm của tài liệu
    – Các hoạt động ứng dụng trong tài liệu HDH Toán 3 được thiết kế bám sát theo
    mục tiêu và chuẩn kiến thức – kĩ năng của chương trình toán 3, tạo cơ sở vững
    chắc để HS củng cố kiến thức toán mình đã được học ( ngay sau khi học xong
    nội dung bài học ). Đồng thời, là những hoạt động gắn với thực tiễn có sự lôi
    cuốn bởi hình thức thể hiện ( đố vui, thực hiện nhiệm vụ, giải quyết các tình
    huống….), các tình huống xây dựng phong phú, đa dạng và khá phù hợp với lứa
    tuổi HS lớp 3.Từ đó, đã kích thích được tinh thần tự học, khả năng tìm hiểu và
    khám phá những phương diện ứng dụng của kiến thức toán học trong đời sống
    hàng ngày.
    – Hầu hết các hoạt động ứng dụng được thiết kế trong tài liệu HDH Toán 3 đều
    có tính khả thi trong dạy – học HS. Các hoạt động đó phù hợp với số đông các
    HS ở nhiều vùng miền trong cả nước và là các tình huống thường xuyên gặp
    phải trong cuộc sống của HS.
     Hạn chế của tài liệu
    – Hoạt động ứng dụng trong tài liệu HDH Toán 3 còn mang tính dập khuôn về
    hình thức (có thể khác nhau về thời gian và hình thức tương tác). Ở một số hoạt
    động ứng dụng còn mang tính thực hành thuần túy vì vậy gần như trùng lặp với
    14
    hoạt động thực hành tại lớp; về nhà, HS chỉ cần “làm lại” hoạt động ứng dụng
    tương tự như làm hoạt động thực hành ở trên lớp mà không hiểu ý nghĩa thực
    tiễn mà hoạt động đề ra.
    VD : Trong bài 22: Tìm số chia (TL HDHT3 – trang 47, Tập 1):
    Trả lời các câu hỏi sau:
    1. Có 24 quả táo, em giúp bố mẹ chia đều cho bố mẹ, em gái và em. Hỏi
    mỗi người được mấy quả táo?
    2. Bà có 18 cái kẹo, bà chia đều cho các cháu, mỗi cháu được 6 cái kẹo.
    Hỏi bà chia được cho mấy cháu?
    Phân tích: Ở hoạt động ứng dụng này, các câu hỏi đưa ra dưới dạng các
    dạng bài giải toán có lời văn chỉ là tính thuần túy, chưa rõ ý nghĩa thực tiễn và
    giá trị ứng dụng. Mỗi câu hỏi này học sinh có thể dễ dàng áp dụng các bảng
    chia để trả lời, không gây hứng thú khi các em thực hiện hoạt động.
    – Nhiều hoạt động ứng dụng mang tính chất giả định ( rất khó để HS có thể hình
    dung được). Trong tài liệu HDH có nhiều hoạt động yêu cầu HS nghĩ tình huống
    và giải toán. Đối với yêu cầu của những hoạt động này, HS rất khó để hoàn
    thành vì bản thân các em chưa trải nghiệm nhiều, chưa hiểu được tri thức đó ứng
    dụng gì trong cuộc sống thì sao có thể đặt được đề toán.
    VD : Trong bài 63 : Chia số có bốn chữ số cho số có một chữ số (TL
    HDHT3 – trang 42, Tập 2):
    Các em hãy tự nghĩ ra một tình huống trong cuộc sống hàng ngày có sử
    dụng phép chia số có bốn chữ số cho số có một chữ số rồi viết vào vở.
    VD : Trong bài 84 : Tiền Việt Nam (TL HDHT3 – trang 84, Tập 2):
    Nói với người lớn, nếu em được người lớn cho 100 000 đồng thì em sẽ
    mua gì cho mình hoặc cho người thân để vừa đủ số tiền.
    – Ở một số hoạt động đưa ra yêu cầu “dập khuôn”, không gây hứng thú hay cần
    có sự tìm hiểu của HS trong thực tế.
    VD : Trong bài 91 : Em ôn tập các số trong phạm vi 100 000 (TL
    HDHT3 – trang 97, Tập 2):
    Em trả lời câu hỏi:
    15
    Tháng 1 nhà em dùng hết 95 000 đồng tiền điện, tháng 2 dùng hết 78 000
    đồng, tháng 3 nhà em dùng hết 87 000 đồng.
    Trong ba tháng 1, 2, 3, tháng nào nhà em sử dụng ít điện nhất? Tháng nào
    nhà em sử dụng nhiều điện nhất?
    2.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
    2.2.1 Mục tiêu, nội dung dạy học môn Toán lớp 3
    a. Số học
    * Phép nhân và phép chia trong phạm vi 1000 (tiếp):
    – Củng cố các bảng nhân với 2, 3, 4, 5 (tích không quá 50) và các bảng chia cho
    2, 3, 4, 5 (số bị chia không quá 50). Bổ sung cộng, trừ các số có 3 chữ số (có
    nhớ không quá 1 lần).
    – Lập các bảng nhân với 6, 7, 8, 9, 10 (tích không quá 100) và các bảng chia với
    6, 7, 8, 9, 10 (số bị chia không quá 100).
    – Hoàn thiện các bảng nhân và bảng chia.
    – Nhân, chia ngoài bảng trong phạm vi 1000: nhân số có 2, 3 chữ sốvới số có 1
    chữ số có nhớ không quá 1 lần, chia số có 2, 3 chữ số cho số có 1 chữ số. Chia
    hết và chia có dư.
    – Thực hành tính: tính nhẩm trong phạm vi các bảng tính; nhân nhẩm số có 2
    chữ số với số có 1 chữ số không nhớ; chia nhẩm số có 2 chữ số với số có 1 chữ
    số không có số dư ở từng bước chia. Củng cố về cộng, trừ, nhân, chia trong
    phạm vi 1000 theo các mức độ đã xác định.
    – Làm quen với biểu thức số và giá trị biểu thức.
    – Giới thiệu thứ tự thực hiện các phép tính trong biểu thức số có đến 2 dấu phép
    tính, có hoặc không có dấu ngoặc.
    – Giải các bài tập dạng: “Tìm x biết: a : x = b (với a, b là số trong phạm vi đã
    học)”.
    * Giới thiệu các số trong phạm vi 100 000. Giới thiệu hàng nghìn, hàng vạn,
    hàng chục vạn.
    16
    – Phép cộng và phép trừ có nhớ không liên tiếp và không quá 2 lần, trong phạm
    vi 100 000. Phép chia số có đến 5 chữ số cho số có 1 chữ số (chia hết và chia có
    dư).
    – Tính giá trị các biểu thức số có đến 3 dấu phép tính, có hoặc không có dấu
    ngoặc.
    – Giới thiệu các phần bằng nhau của đơn vị (dạng 1/n, với n là số tự nhiên từ 2
    đến 10 và n = 100, n = 1000). Thực hành so sánh các phần bằng nhau của đơn vị
    trên hình vẽ và trong trường hợp đơn giản.
    – Giới thiệu bước đầu về chữ số La Mã.
    b. Đại lượng và đo đại lượng
    – Bổ sung và lập bảng các đơn vị đo độ dài từ milimet đến kilomet. Nêu mối
    quan hệ giữa hai đơn vị tiếp liền nhau, giữa met và kilomet, giữa met và
    xangtimet, milimet. Thực hành đo và ước lượng độ dài.
    – Giới thiệu đơn vị đo diện tích: xăngtimet vuông.
    – Giới thiệu gam. Đọc, viết, làm tính với các số đo theo đơn vị gam. Giới thiệu
    1kg = 1000g.
    – Ngày, tháng, năm. Thực hành xem lịch.
    – Phút, giờ. Thực hành xem đồng hồ, chính xác đến phút. Tập ước lượng khoảng
    thời gian trong phạm vi một phút.
    – Giới thiệu tiếp về tiền Việt Nam. Tập đổi tiền với các trường hợp đơn giản.
    c. Yếu tố hình học
    – Giới thiệu góc vuông và góc không vuông. Giới thiệu êke. Vẽ góc bằng thước
    thẳng và êke.
    – Giới thiệu đỉnh, góc, cạnh của các hình đã học.
    – Tính chu vi hình chữ nhật, hình vuông.
    – Giới thiệu compa. Giới thiệu tâm và bán kínđường kính vủa hình tròn. Vẽ
    đường tròn bằng compa.
    – Thực hành vẽ trang trí hình tròn.
    – Giới thiệu diện tích của một hình. Tính diện tích hình chữ nhật và diện tích
    hình vuông.
    17
    d. Yếu tố thống kê
    – Giới thiệu bảng số liệu đơn giản.
    – Tập sắp xếp lại các số liệu của bảng theo mục đích, yêu cầu cho trước.
    e. Giải bài toán
    – Giải các bài toán có đến 2 bước tính với các mối quan hệ trực tiếp và đơn giản.
    – Giải bài toán quy về đơn vị và các bài toán có nội dung hình học.
    2.2.2 Các yêu cầu khi thiết kế hoạt động ứng dụng toán học
     Các yêu cầu cơ bản khi thiết kế hoạt động ứng dụng toán học

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn toán lớp 5

    SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn toán lớp 5

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Như chúng ta đã biết, việc ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trên tất cả
    các lĩnh vực đã cho thấy vai trò to lớn và những tác dụng kỳ diệu của công nghệ
    thông tin trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục. Ngày nay, với
    sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã xuất hiện nhiều phương tiện
    dạy học trực quan trong đó phương tiện nghe – nhìn chiếm một vị trí rất quan
    trọng. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi phải sử dụng phương tiện
    dạy học hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu dạy học hiện nay. Đối với môn Toán học
    thì việc “Ứng dụng công nghệ thông tin” trong dạy học là một yêu cầu cấp thiết
    góp phần phát triển tư duy cho học sinh, đặc biệt là học sinh tiểu học: các em thích
    được tiếp cận với kiến thức mới và các hoạt động Toán gần gũi với thực tế, ham
    học hỏi, khám phá những kiến thức mới lạ. Hơn nữa, việc tăng cường ứng dụng
    công nghệ thông tin trong dạy học luôn là một vấn đề được quan tâm, đẩy mạnh
    trong những năm gần đây, nó còn được coi là một giải pháp tích cực hữu ích nâng
    cao chất lượng giáo dục trong thời đại công nghệ số và cuộc cách mạng 4.0. Vì vậy
    chúng ta cần phải thấy được những ưu điểm của việc ứng dụng công nghệ thông tin
    vào dạy – học để phát huy được những điểm mạnh của nó… Đây cũng chính là nền
    tảng để kích thích sự hứng thú học tập của các em, từ đó các em sẽ chủ động và
    sáng tạo hơn trong học tập. Dựa vào thực tế, kinh nghiệm giảng dạy tôi quyết định
    lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn
    Toán lớp 5”.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Thực tế, tôi đã và đang tham gia giảng dạy theo mô hình trường Tiểu học
    mới VNEN, mô hình này đã tăng cường sự hợp tác giữa giáo viên với học sinh,
    giữa học sinh với học sinh, tạo không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện. Học sinh
    học không thụ động mà bắt buộc phải trao đổi, tìm tòi kiến thức với giáo viên và
    các bạn học trong lớp. Để mô hình vận dụng thành công, hiệu quả thì việc tăng
    cường đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học hiện đại có vai trò rất quan
    trọng. Năm học này, được sự quan tâm ủng hộ của Ban lãnh đạo nhà trường, địa
    phương cùng hội cha mẹ học sinh các lớp đã có đầy đủ màn hình ti vi – máy tính
    kết nối mạng Internet rất thuận tiện cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
    giảng dạy, đặc biệt là đối với môn Toán lớp 5.
    2
    Năm nay, tôi được chủ nhiệm và giảng dạy học sinh lớp 5A3 nhưng thực tế
    khi nhận lớp tôi thấy:
    + Một số học sinh lười suy nghĩ, thụ động tiếp thu kiến thức, ngại giao tiếp,
    không mạnh dạn và không linh hoạt. Do đó, hiệu quả dạy học chưa cao, đặc biệt là
    môn Toán.
    + Có nhiều em học lực còn kém, tư duy chậm vì vậy nhiều kiến thức toán
    trừu tượng các em rất khó nắm bắt, hình dung và mất rất nhiều thời gian, thậm chí
    có nhiều em không hiểu bài.
    + Nhiều học sinh rất hiếu động, thích tìm tòi, hào hứng với những tiết học có
    sử dụng công nghệ thông tin.
    + Lứa tuổi các em còn nhỏ nên quá trình nhận thức thường gắn với những
    hình ảnh, hoạt động cụ thể. Đặt biệt là các phương tiện trực quan sinh động, rõ nét
    sẽ thu hút được sự chú ý của học sinh. Bởi vậy các phương tiện trực quan rất cần
    thiết trong quá trình giảng dạy.
    + Trong những tiết học có đồ dùng trực quan học sinh sẽ chú ý đến bài giảng
    hơn, tiếp thu bài tốt hơn, nhớ lâu hơn. Đặc biệt đối với một môn học trừu tượng và
    cần tư duy như môn toán môn Toán việc ứng dụng công nghệ thông tin lại càng
    cần thiết.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    Từ thực tế giảng dạy, ngay đầu năm học, tôi thấy để học sinh tiếp thu kiến
    thức theo hướng tích cực chủ động, sáng tạo thì việc ứng dụng công nghệ thông tin
    hướng dẫn học sinh hình thành khái niệm, kiến thức và ghi nhớ kiến thức rất quan
    trọng. Tôi đã thực hiện một số biện pháp để việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
    giảng dạy môn Toán lớp 5 có hiệu quả.
    2.1. Đối với giáo viên
    Để việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học có hiệu quả giáo viên
    cần xác định được vài trò của công nghệ thông tin đối với giáo dục:
    + Mở ra một kho kiến thức vô cùng đa dạng, phong phú cho người dạy,
    người học, giúp cho việc tìm hiểu kiến thức đơn giản hơn, cải thiện chất lượng dạy
    – học.
    + Người dạy – học được tiếp cận thông tin đa chiều; trao đổi, tiếp cận thông
    tin một cách hiệu quả, từ đó thúc đẩy quá trình giáo dục mở.
    + Kiến thức đa dạng không chỉ từ sách vở mà còn được cung cấp trực tiếp từ
    internet giúp người học tiếp cận, tự học và giải quyết vấn đề giúp phát triển năng
    lực, phẩm chất của người học.
    3
    + Công nghệ thông tin còn tạo không gian, thời gian học linh động, thuận
    tiện; có thể học mọi lúc, mọi nơi.
    – Để soạn được một giáo án, bài giảng điện tử hoặc tra cứu, trao đổi thông
    tin, khai thác, tìm kiếm tài liệu giảng dạy… giáo viên phải có kiến thức cơ bản về
    tin học, phải tìm tòi, nghiên cứu; giáo viên cần thường xuyên soạn giảng và sử
    dụng bài giảng điện tử của mình. Khi đó sẽ giúp cho giáo viên rèn luyện được
    nhiều kỹ năng và phối hợp tốt các phương pháp dạy học tích cực khác.
    – Giáo viên cần tự tạo và lưu trữ cho mình một kho tài liệu các nội dung,
    kiến thức, hình ảnh, bài giảng liên quan đến nội dung kiến thức bộ môn của mình.

    2.2.Các hình thức ứng dụng công nghệ thông tin
    2.2.1. Sử dụng bài giảng điện tử

    Qua những năm đứng lớp, tôi luôn chú trọng làm đồ dùng và sử dụng đồ
    dùng dạy học trực quan (tranh, ảnh, sơ đồ, mô hình, vật mẫu,…) vào các tiết dạy.
    Bài giảng điện tử và các trang thiết bị công nghệ thông tin có thể coi là những
    công cụ dạy học đa năng vì nó có thể thay thế cho hầu hết các công cụ dạy học
    khác từ truyền thống (tranh vẽ, bản đồ, mô hình,…). Hơn nữa, nếu các bài giảng
    điện tử được đầu tư xây dựng cẩn thận thì sẽ đem lại hiệu quả hơn hẳn. Tôi đã tìm
    hiểu, ứng dụng thực tế và sử dụng bài giảng điện tử vào việc giảng dạy.
    – Giáo phải dành nhiều thời gian cho việc sưu tầm, chuẩn bị chu đáo về tài
    liệu, kiến thức để có được những hình ảnh minh hoạ, âm thanh phục vụ cho bài
    giảng. Giáo viên phải biết sử dụng thành thạo máy tính và một số phần mềm hỗ trợ
    cho việc soạn bài giảng điện tử như PowerPoint (trình chiếu), Mindmap (phần
    mềm vẽ sơ đồ tư duy). Violet (phần mềm tạo bài tập trắc nghiệm, trò chơi,
    vẽ…)…Khi thiết kế bài giảng điện tử (tôi thường trình chiếu Power point hoặc
    Violet) cần chuẩn bị trước kịch bản, tư liệu, … sau đó mới bắt tay vào soạn giảng.
    Cần lưu ý về font chữ, màu chữ, phông nền, màu nền: đảm bảo độ lớn, độ tương
    phản và hiệu ứng thích hợp (hiệu ứng đơn giản, nhẹ nhàng tránh gây mất tập trung
    vào nội dung bài giảng).
    – Nội dung bài giảng điện tử cần cô đọng, súc tích; chỉ nên đưa những kiến
    thức trọng tâm, ý chính của bài vào Slide. Những kiến thức cần nhớ chỉ nên chọn
    hiệu ứng đổi màu hoặc gạch chân, không nên chọn hiệu ứng quá sinh động làm cho
    học sinh chỉ chú ý xem không chú ý đến kiến thức của bài. Không nên nhấn mạnh
    quá nhiều ý trong một slide.
    – Không lạm dụng công nghệ thông tin nếu chúng không tác động tích cực
    đến quá trình dạy học và sự phát triển của người học
    4
    – Tìm hiểu cách sử dụng đa dạng các phần mềm soạn giảng, đầu tư thiết kế
    các hoạt động tương tác (các trò chơi, hoạt động kéo thả, …) để hướng sự tập trung
    của học sinh trong giờ học, tạo không khí vui tươi thoải mái trước khi vào giờ học
    và củng cố kiến thức cho học sinh.
    5
    Một số trò chơi trình chiếu bằng PowerPoint sử dụng trong môn Toán
    – Giáo viên cần hướng dẫn học sinh ghi chép:
    + Cần thể hiện bố cục của bài giảng trong suốt quá trình giảng dạy (tên bài
    dạy, các đề mục…) để học sinh dễ dàng củng cố.
    + Khi trình chiếu và giảng bài giáo viên cần quy định màu chữ, kí hiệu,
    hướng dẫn học sinh cách ghi bài học vào vở bằng kí hiệu riêng.
    + Trong tiết học, học sinh phải có sẵn trước mặt sách giáo khoa và dùng
    vở để ghi chép.
    – Khi sử dụng phần mềm Violet cần chọn những bài toán phù hợp với nội
    dung kiến thức của bài để học sinh chơi trò chơi, bài giảng có âm thanh, hình ảnh,
    chuyển động và tương tác… rất phù hợp với học sinh từ tiểu học
    – Violet cho phép tạo được một số kiểu bài tập trắc nghiệm:
    Bài tập kéo thả chữ
    6
    Bài tập lựa chọn đáp án đúng (một hoặc nhiều đáp án đúng)
    Bài tập Đúng/Sai
    – Để thiết kế, sử dụng bài giảng điện từ có hiệu quả thì giáo viên cần:
    Bước 1: Nghiên cứu phân tích mục tiêu, nội dung bài dạy, nội dung soạn bài
    giảng.
    Bước 2: Xây dựng kế hoạch và thiết kế bài giảng
    7
    Tập hợp các nội dung cần đưa lên màn chiếu.
    Xác định thứ tự các nội dung sẽ đưa lên màn chiếu.
    Nội dung có thể đưa lên màn chiếu là:
    + Những tình huống đặt vấn đề.
    + Nội dung câu hỏi, hình vẽ hay biểu đồ, bảng tổng hợp kiến thức
    + Những bài tập củng cố, bài tập tình huống, bài tập trắc nghiệm, trò
    chơi…
    + Những hình vẽ, đoạn Video clip minh hoạ.
    + Hướng dẫn bài về nhà…
    Bước 3: Thể hiện kịch bản trên máy vi tính, Tạo hiệu ứng cho nội dung trình
    chiếu.
    Bước 4: Xem xét, điều chỉnh, thể hiện trình chiếu thử.
    Ví dụ: Tôi đã trình chiếu một số slide hình minh họa để hình thành và củng
    cố khái niệm; công thức tính thể tích hình hộp như sau:
    Bài 76: Thể tích hình hộp chữ nhật
    Hoạt động cơ bản 3: Tính thể tích của hình hộp chữ nhật có chiều dài 20
    cm, chiều rộng 16 cm, chiều cao 10 cm.
    8
    Hoạt động ứng dụng:
    Câu 1: Tính thể tích của khối gỗ có dạng như hình sau:
    (Sử dụng slie trình chiếu có hiệu ứng cắt ghép)
    9
    Câu 2: Tính thể tích của hòn đá nằm trong bể nước theo hình:
    (Sử dụng slie trình chiếu có hiệu ứng chuyển động của viên đá, mực nước)
    10
    2.2.2. Tìm kiếm tài liệu, tra cứu thông tin trên mạng Internet
    Giáo viên cần phải có thói quen và khả năng tự học để bồi dưỡng nâng cao
    trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tích luỹ kiến thức. Tuy nhiên việc tìm kiếm tài
    liệu, tra cứu thông tin còn gặp khó khăn, do các thư viên truyền thống chưa đáp
    ứng đủ nhu cầu học hỏi, tìm hiểu và nghiên cứu của họ. Vì vậy, Internet và máy
    vi tính chính là một phương tiện giúp mỗi người tự học tốt nhất. Giáo viên và học
    sinh có thể tìm kiếm, tra cứu tri thức về mọi lĩnh vực. Tôi thường hay tra cứu,
    khai thác thông tin tại một số địa chỉ website: http://www.google.com.vn,
    11
    https://viettelstudy.vn, http://123doc.net, http://vndoc.com, http://violet.vn;
    www:toantuoitho.vn;… Từ cửa sổ của các trang web đó, người truy cập chỉ cần gõ
    trực tiếp những từ hoặc cụm từ cần tìm và gõ phím Enter, các trang chủ sẽ kết nối
    (link) đến các địa chỉ chứa những từ hoặc cụm từ người sử dụng cần tìm. Khi đó
    giáo viên có thể in trực tiếp hoặc lưu trữ bằng cách down load các tài liệu liên
    quan.
    2.2.3. Tham khảo sách điện tử, giáo trình
    Hiện nay, phần lớn các thư viện, nhà xuất bản, viện nghiên cứu, trường đại
    học, cao đẳng trong nước và nước ngoài đều có trang web riêng. Trên các trang
    web đó có đăng tải các công trình nghiên cứu khoa học, các cuốn sách và giáo
    trình điện tử. Giáo viên có thể tải các giáo án, bài giảng, tư liệu, đề thi và tài liệu
    phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy tại các trang web như: edu.net.vn
    (mạng giáo dục); vnschool.net (công ty công nghệ tin học nhà trường),
    thuvienkhoahoc.com; http://www.nlv.gov.vn (trang web của Thư viện Quốc
    gia); https://sachvui.com; https://nxbhcm.com.vn (nhà xuất bản tổng hợp thành
    phố Hồ Chí Minh); https://violet.vn (Thư viện trực tuyến)… Đây là những điểm
    truy cập tập trung các thông tin về giáo trình, bài giảng, nội dung tham khảo, các
    nguồn học liệu. Tại các website này, người dạy – học có thể tìm kiếm trực tuyến
    kho giáo trình, tài liệu ở các trình độ, cấp học.
    2.2.4. Gửi, nhận, trao đổi thông tin trên mạng Internet
    Kết nối mạng Internet, giáo viên không chỉ có thể tìm thấy ngay những kiến
    thức, nhưng tài nguyên mình cần mà còn có thể chia sẻ, trao đổi thông tin với
    nhau. Hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin với nhau đơn giản nhất là phổ biến nhất
    hiện nay là thông qua các diễn đàn trên mạng. Diễn đàn giáo viên: địa
    chỉ http://violet.vn, là diễn đàn chuyên cho giáo viên trao đổi với nhau về những
    kinh nghiệm dạy học, các kiến thức về ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
    học.
    Một hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin khác nữa trên internet là tham gia
    các mạng xã hội. Ở các mạng này, mỗi người có thể xây dựng các blog (có thể coi
    là trang web riêng) cho mình. Tại đó, giáo viên có thể chia sẻ các kinh nghiệm
    trong dạy học và trong cuộc sống. Bạn bè đồng nghiệp có thể vào xem các blog
    của nhau và gửi lên ý kiến của mình. Qua các trang mạng cá nhân tôi có thể tìm
    hiểu thêm tâm lý, sở thích của học sinh từ đó có những phương pháp giáo dục học
    sinh đạt hiệu quả.Tuy nhiên, tùy từng mục đích sử dụng, các blog có thể phát huy
    12
    tính tích cực rất cao, mà đặc biệt nếu các giáo viên biết sử dụng để làm tốt hơn cho
    công việc giảng dạy của mình.
    Giáo viên có thể lập blog hay trang web hay các câu lạc bộ để trao đổi cùng
    đồng nghiệp, phụ huynh và học sinh để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như
    nghiệp vụ sư phạm của mình.
    Năm nay là một năm học đặc biệt do dịch Covid – 19 bùng phát, việc dạy –
    học ở trường bị gián đoạn thì việc ứng dụng công nghệ thông tin để dạy học đóng
    một vai trò rất quan trọng và cần thiết. Thực hiện phương châm “tạm đừng đến
    trường, không dừng việc học”, tôi đã thực hiện triển khai việc học online trong thời
    gian nghỉ dịch dạy trực tuyến qua phần mềm Zoom; liên lạc, trao đổi với học sinh,
    phụ huynh qua Zalo, messenger; lập nhóm zalo kết nối với tất cả các phụ huynh
    để giao nhiệm vụ, trao đổi chấm chữa bài cho các em học sinh thường xuyên trong
    tuần.
    13
    Học trực tuyến qua phần mềm Zoom
    Ngoài ra tôi còn đăng kí, tạo lớp học trên SHub Classroom: là ứng dụng tạo
    bài tập từ file phi cấu trúc dưới mọi định dạng, bài tập được tạo chỉ với vài thao tác
    đơn giản mà không cần soạn thảo đề bài. SHub Classroom là công cụ có nhiều tính
    năng tiện ích cho cả giáo viên và học sinh là một công cụ tuyệt vời để quản lý lớp
    học dành cho giáo viên, với cách thức hoạt động như sau:
    + Giáo viên: Tạo lớp học, bài tập trên SHub Classroom và gửi mã lớp học
    đến học sinh
    + Học sinh: Tham gia lớp học thông qua mã lớp và làm bài trên ứng dụng
    do giáo viên tạo sẵn
    + Hệ thống: Tự động chấm bài, thống kê và tổng hợp giúp giáo viên dễ
    dàng nắm bắt tình hình lớp học, nâng cao hiệu quả giảng dạy và chất lượng học
    sinh.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2

    SKKN Rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    . ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Cơ sở lí luận
    Như chúng ta đã biết, bậc Tiểu học là bậc học rất quan trọng, là nền tảng
    đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn bộ nhân cách của học
    sinh. Mọi trẻ em sinh ra đều có quyền được chăm sóc và bảo vệ, được giáo dục
    và học hành. Nghị quyết Trung ương II của Đảng đã sáng suốt đưa nền giáo dục
    lên quốc sách hàng đầu. Chính vì vậy, Đảng và nhân dân ta đã không ngừng
    quan tâm và từng bước đổi mới quá trình dạy học một cách rõ rệt, tạo tiền đề
    đưa đất nước ta vào thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
    Cùng với các môn khoa học khác ở bậc Tiểu học, môn Toán có vai trò vô
    cùng quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết số lượng và hình dạng không gian
    của thế giới hiện thực. Đồng thời, nó cũng góp phần hình thành và phát triển
    những cơ sở ban đầu của nhân cách con người. Các khái niệm, quy tắc, kiến
    thức, kĩ năng toán có nhiều ứng dụng trong cuộc sống thực tiễn, do đó nó là một
    môn học không thể thiếu trong tất cả các cấp học.
    Toán học có khả năng giáo dục nhiều mặt: Khả năng phát triển tư duy
    logic, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
    rèn luyện các phương pháp suy nghĩ, suy luận, giải quyết vấn đề có căn cứ khoa
    học, phát triển trí thông minh, hình thành các phẩm chất cần thiết cho con người
    như cần cù, cẩn thận, ý thức vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, nề nếp, tác
    phong khoa học. Chính vì vậy, nó là một trong những môn học chính mà chúng
    ta cần phải quan tâm và là công cụ cần thiết cho việc học tập các môn học khác.
    Toán có lời văn được xem như cầu nối liền giữa kiến thức toán học trong
    nhà trường và ứng dụng kiến thức toán học trong xã hội. Thông qua việc dạy
    toán có lời văn giáo viên rèn cho học sinh biết tư duy logic và cách diễn đạt. Bài
    toán có lời văn là dạng toán phối hợp nhiều kiến thức kĩ năng các môn học trong
    nhà trường như: Tiếng Việt, Tự nhiên – xã hội,… Nó góp phần xây dựng cơ sở
    ban đầu cho những ước mơ và niềm say mê khoa học.
    3
    Giải toán là một thành phần quan trọng trong chương trình giảng dạy môn
    Toán ở bậc Tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu cơ với
    nội dung của số học và số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản và
    các yếu tố đại số, hình học có trong chương trình. Vì vậy, việc giải toán có lời
    văn có một vị trí quan trọng. Đó cũng là cơ hội rất tốt để học sinh được tập dượt
    và phát triển các tư duy cụ thể và tư duy trừu tượng. Một trong những hoạt động
    để tiếp thu những tri thức Toán học là hoạt động giải toán, trong đó có giải toán
    có lời văn được thể hiện ở các điểm sau:
    – Các khái niệm và các quy tắc về Toán trong sách nói chung đều được
    giảng dạy thông qua việc giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận
    dụng kiến thức, rèn kĩ năng tính toán. Đồng thời, thông qua việc giải toán, giáo
    viên có thể dễ dàng phát hiện ra những ưu điểm và thiếu sót của các em về mặt
    kiến thức, kĩ năng, tư duy. Từ đó, giúp các em phát huy tốt những mặt ưu điểm
    và khắc phục những mặt thiếu sót. Mặt khác, cũng thông qua hoạt động giải
    toán, học sinh tự rút ra những ưu điểm và hạn chế của bản thân để có cách khắc
    phục, góp phần nâng cao chất lượng dạy – học toán. Có thể coi việc dạy học giải
    toán có lời văn là “hòn đá thử vàng” của dạy học Toán.
    – Việc kết hợp giữa học và hành, kết hợp giữa giảng dạy với đời sống thực
    tiễn được thực hiện thông qua việc cho học sinh giải toán. Các bài toán có liên
    hệ với cuộc sống một cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện
    những kĩ năng thực hành cần thiết trong đời sống hàng ngày, giúp các em biết
    vận dụng những kĩ năng đó vào trong cuộc sống.
    – Thông qua việc giải toán, với những đề tài thích hợp giáo viên có thể
    giáo dục lòng yêu nước, yêu đồng bào, giới thiệu cho các em thấy được nhiều
    mặt của thực tế đời sống phong phú, ý thức bảo vệ môi trường, phát triển dân số
    có kế hoạch,…
    – Giải toán có lời văn là một trong năm mảng kiến thức quan trọng của
    chương trình Toán Tiểu học, nó có ngôn ngữ hỗ trợ do vậy nó gắn kết được giữa
    các kiến thức toán với thực tiễn đời sống. Giải toán có lời văn còn tạo điều kiện
    4
    cho học sinh có năng lực giải quyết các bài toán, tình huống toán học xảy ra
    trong thực tế đời sống.
    – Ngoài ra, nó còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh
    năng lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Giáo dục các
    em có ý chí vượt khó khăn, ý chí nhẫn nại, đức tính cẩn thận, chu đáo, cần cù, tỉ
    mỉ, chính xác, làm việc khoa học có kế hoạch, nề nếp, tác phong, thói quen tự
    kiểm tra kết quả công việc, có óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo, phát triển tư
    duy, trí thông minh,…
    – Có thể nói giải toán có lời văn là một trong những biểu hiện năng động
    nhất của hoạt động trí tuệ ở học sinh. Khi giải một bài toán, tư duy của học sinh
    phải hoạt động một cách tích cực. Các em biết tư duy logic, phân tích mối quan
    hệ, xác định dữ liệu bài toán (cái đã cho, cái cần phải tìm); suy luận, nêu lên
    những phán đoán, rút ra những kết luận, thực hiện những phép tính cần thiết để
    giải quyết vấn đề đặt ra; biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp giải
    toán, có kĩ năng đặt và giải phép tính đúng từ chỉ đơn vị. Từ đó, giúp học sinh
    phát triển khả năng phân tích – tổng hợp tốt.
    Từ đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học là dễ nhớ nhưng nhanh
    quên, sự tập trung chú ý trong giờ học chưa cao, trí nhớ chưa bền vững, tư duy
    cụ thể và tư duy ngôn ngữ trừu tượng còn non nớt, thích học nhưng cũng chóng
    chán. Vì vậy giáo viên cần phải có biện pháp giúp học sinh khắc sâu kiến thức
    và tạo ra không khí học tập sôi nổi để học sinh sẵn sàng, chủ động tích cực trong
    việc học tập, tiếp thu kiến thức, say mê và yêu thích môn học.
    Xuất phát từ cuộc sống thực tại có nhiều thay đổi về nền kinh tế, xã hội,
    văn hóa, thông tin,… đòi hỏi con người phải có bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, chủ
    động sáng tạo có khả năng giải quyết mọi vấn đề. Để đáp ứng các yêu cầu trên
    trong giảng dạy nói chung và trong dạy học Toán nói riêng giáo viên cần phải
    vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để giúp học sinh lĩnh hội được kiến
    thức, vận dụng tốt kiến thức đã học vào cuộc sống.
    5
    2. Cơ sở thực tiễn
    Giải toán có lời văn là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp, hình
    thành kĩ năng giải toán khó hơn nhiều so với kĩ xảo tính vì các bài toán là sự kết
    hợp đa dạng nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải toán có lời văn
    không chỉ nhớ mẫu rồi áp dụng mà đòi hỏi nắm chắc khái niệm, quan hệ toán
    học, nắm chắc ý nghĩa các phép tính, đòi hỏi khả năng độc lập suy luận của học
    sinh, đòi hỏi biết làm tính thông thạo. Nội dung bài toán được thông qua những
    câu văn nói về những quan hệ tương quan và phụ thuộc có liên quan đến cuộc
    sống thường xảy ra hằng ngày. Cái khó khăn của bài toán có lời văn là phải lược
    bỏ những yếu tố có lời văn che đậy bản chất toán học của bài toán, hay nói cách
    khác là chỉ ra các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán
    và nêu ra phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số bài toán. Đây chính là
    điều kiện thúc đẩy tôi lựa chọn và nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm “Rèn kĩ
    năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2”. Vì khi các em được rèn kĩ năng
    giải toán có lời văn một cách tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo ngay từ lớp
    2 sẽ là bước tạo đà vững chắc để các em giải toán có lời văn ở các lớp tiếp theo
    được tốt hơn, đem lại niềm vui và hứng thú, say mê với môn học được coi là
    khô khan này.
    Qua một số năm thực nghiệm tại trường Tiểu học Đại An, có thể chưa là
    tối ưu. Song, qua việc áp dụng thực nghiệm, tôi thấy học sinh có những kết quả
    nhất định. Vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm “Rèn kĩ năng giải
    toán có lời văn cho học sinh lớp 2” để chia sẻ với đồng nghiệp.
    6
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Thuận lợi
    – Nhà trường được sự quan tâm của chính quyền địa phương, hội cha mẹ
    học sinh.
    – Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát
    sao việc dạy – học của giáo viên và học sinh.
    – Đội ngũ giáo viên trong trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề mến
    trẻ.
    – Học sinh có tương đối đầy đủ sách, vở, đồ dùng.

    Các em đều ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập.
    1.2. Khó khăn

    – Là một xã dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, đời sống kinh tế còn
    nhiều khó khăn, chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập
    cũng như chất lượng học tập của các em.
    – Đồ dùng dạy học còn ít, chưa phong phú.
    – Việc phối kết hợp với cha mẹ học sinh còn khó khăn, gặp nhiều hạn chế
    khi liên lạc.
    – Nhiều gia đình bố mẹ đi làm ăn xa gửi con cho ông bà chăm sóc song do
    ông bà đã già yếu nên không quán xuyến được việc học hành của các
    cháu.
    – Một số học sinh gia đình chưa quan tâm, nhắc nhở không kịp thời còn
    khoán trắng cho cô giáo và nhà trường.
    – Do tâm lí chung của học sinh Tiểu học còn ham chơi, hiếu động, mau
    quên, chóng chán nên việc học hành của các em nếu không có sự giám sát
    chặt chẽ của gia đình thì khó có hiệu quả.
    – Trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều. Các em còn nhút nhát,
    chưa mạnh dạn phát biểu xây dựng bài trong giờ học.
    – Học sinh tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài máy móc.
    7
    – Môn Toán là môn học khô khan, học sinh dễ nhàn chán.
    1.3. Thực trạng giải toán có lời văn của học sinh lớp 2
    Học sinh Tiểu học có trí thông minh, khá nhạy bén sắc sảo, có óc tưởng
    tượng phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy Toán học nhưng dễ
    bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng, quá tải. Chính vì thế, nội dung
    chương trình, phương pháp giảng dạy, hình thức truyền tải, truyền đạt làm thế
    nào cho phù hợp với tâm lí lứa tuổi là điều kiện không thể xem nhẹ. Đặc biệt với
    học sinh lớp 2, lớp mà các em vừa mới vượt qua những mới mẻ ban đầu chuyển
    từ hoạt động chủ động chủ đạo là vui chơi sang hoạt động học tập. Muốn giờ
    học đạt hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học
    “Lấy học sinh làm trung tâm” hướng tập trung vào học sinh trên cơ sở hoạt
    động của các em.
    Từ lớp 1, các em đã được làm quen với việc giải toán có lời văn nhưng
    chỉ là những bài toán hết sức đơn giản. Lên lớp 2, các em bắt đầu gặp thêm
    nhiều dạng toán phức tạp hơn. Do đó, các em gặp phải không ít những khó khăn
    trong việc giải những bài toán có lời văn.
    Qua thực tế khi mô tả quy trình giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2, ở
    khối lớp 2, tôi thấy phần giải toán có lời văn chiếm thời gian tương đối nhiều
    của môn Toán, nhưng thực tế việc dạy và học giải toán có lời văn vẫn chưa đạt
    được kết quả cao. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải hay loay hoay đi
    tìm phép tính,…
    Việc đặt lời giải, tìm phép tính ngay từ lớp 1, lớp 2 sẽ là một khó khăn lớn
    đối với mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy ở lớp 1, 2 nhất là những tuần đầu dạy
    toán có lời văn, ngay ở việc giúp học sinh đọc đề, tìm hiểu đề bài. Đọc một đề
    toán còn đang khó vậy mà các em còn phải: Tìm hiểu đề toán, tóm tắt đề, đặt
    câu lời giải, phép tính, đáp số. Song nhận thức của học sinh không đồng đều có
    một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời được
    các câu hỏi giáo viên nêu dẫn đến khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng
    hoặc không có câu lời giải hoặc có một số em còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm
    tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán, dẫn tới
    8
    thường nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính còn sai, chưa bám sát
    vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. Kĩ năng tính và
    kĩ năng thực hành diễn đạt bằng lời còn hạn chế. Các em tiếp thu bài một cách
    thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên chóng quên các dạng bài toán, vì thế
    phải có phương pháp khắc sâu kiến thức. Giải toán có lời văn là hoạt động bao
    gồm những thao tác: Xác lập được mối quan hệ giữa các dữ liệu, giữa cái đã cho
    và cái phải tìm, chọn được phép tính thích hợp, trả lời đúng câu hỏi của bài toán.
    Đây là một hoạt động đầy trí tuệ tương đối phức tạp và khó đối với học sinh
    Tiểu học, đặc biệt là đối với học sinh lớp 2 tư duy của các em còn nặng nề tư
    duy cụ thể, tư duy ngôn ngữ trừu tượng còn nghèo nàn và non nớt. Các em chưa
    nắm được phương pháp giải kèm theo ngôn ngữ còn hạn chế nên việc hiểu nội
    dung, yêu cầu của bài toán có lời văn chưa được đầy đủ và chính xác. Ngoài ra
    phải tiếp xúc với nhiều loại toán khác nhau mà khả năng suy luận của các em
    còn kém, các thuật toán “hơn”, “kém”, “tăng”, “cao”, “thấp”,…các em hiểu
    chậm và chưa sâu sắc nên việc giải toán gặp nhiều khó khăn dẫn đến việc các
    em không thích học môn Toán.
    Ngay từ khi được bồi dưỡng để phục vụ yêu cầu dạy – học theo mô hình
    trường học mới VNNEN, tôi đã quan tâm đến khả năng giải toán có lời văn của
    học sinh. Qua các giờ lên lớp, khi chưa áp dụng sáng kiến thì tôi thấy các em
    giải toán có lời văn còn lúng túng, nhiều em chưa biết cách giải một bài toán có
    lời văn hoàn chỉnh. Có em làm sai lời giải mặc dù phép tính đúng hoặc có em lời
    giải đúng nhưng phép tính lại làm sai,…
    Năm học 2019 – 2020, tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp
    2D. Lớp có 31 học sinh, trong đó có 6 em bố mẹ bỏ nhau, 4 em bố mẹ đi làm xa
    nên các em sống với ông bà. Qua thực tế giảng dạy và thảo luận cùng đồng
    nghiệp, tôi nhận thấy đa số kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, chưa có
    kĩ năng giải toán có lời văn hoặc có thì bài giải chưa hoàn chỉnh, chưa chặt chẽ,
    chưa biết cách tự kiểm tra kết quả bài làm của mình xem đúng hay sai. Nhiều
    học sinh chưa hiểu được bản chất của bài toán nên chưa sáng tạo trong việc tìm
    9
    cách giải. Đa số học sinh chưa biết cách tóm tắt bài toán hoặc khi giải các em
    ghi lời giải chưa chính xác, nhiều khi còn xác định sai đơn vị,…
    Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là:
    + Việc tiếp thu bài trên lớp và tự học ở nhà còn yếu.
    + Giáo viên chưa có biện pháp hướng dẫn cụ thể phù hợp để các em
    phát triển năng lực tư duy của mình.
    + Phụ huynh còn chưa quan tâm sát sao đến việc học của con em mình.
    Từ thực trạng và nguyên nhân đó, ngay từ đầu năm học, sau khi nhận lớp
    2D, tôi đã tiến hành khảo sát thực tế giải toán có lời văn của lớp tôi.
    Kết quả khảo sát thực tế đầu năm 2019 – 2020 khi chưa áp dụng sáng kiến:

    Điểm dưới 5Điểm 5 – 6Điểm 7 – 8Điểm 9 – 10
    Số lượng%Số lượng%Số lượng%Số lượng%
    1032,21445,2619,413,2

    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1. Họp phụ huynh đầu năm – thống nhất biện pháp giáo dục
    Chúng ta đều biết học sinh lớp 2 đến trường còn phụ thuộc hoàn toàn vào
    sự quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ và thầy cô. Các em chưa có ý thức tự giác
    học tập, chính vì vậy giáo dục ý thức tích cực học tập cho các em là một yếu tố
    không kém phần quan trọng giúp các em học tốt hơn.
    Trong một lớp học, lực học của các em không đồng đều, ý thức học của
    nhiều em chưa cao. Để việc dạy – học đạt kết quả cao, tôi đã trao đổi với các
    phụ huynh nhất là những gia đình có cha mẹ đi làm ăn xa để con ở nhà với ông
    bà về các chỉ tiêu phấn đấu và những yêu cầu cần thiết giúp các em học tập như:
    Mua sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng, cách hướng dẫn các em tự học ở nhà; hướng
    dẫn phụ huynh xem các kí hiệu, các lệnh, yêu cầu của sách và hướng dẫn phụ
    huynh cách đánh giá học sinh ở nhà.
    Mặt khác, hiện nay việc dạy học theo mô hình trường học mới VNEN,
    nhất là đối với môn Toán có hoạt động ứng dụng gắn với thực tế, đặc biệt là gắn
    10
    với gia đình thì việc phụ huynh giúp đỡ, hướng dẫn con em mình học ở nhà là
    vô cùng quan trọng, cần thiết.
    Ở hoạt động ứng dụng có bài tập hỏi về tuổi, cân nặng,… của người thân
    trong gia đình, để làm bài đúng các em rất cần đến sự phối hợp của các bậc phụ
    huynh. Vì vậy, các bậc phụ huynh cần quan tâm sát sao hơn đến việc học ở nhà
    của các em.
    11
    Hoạt động ứng dụng bài 1 trang 7 vở Thực hành Toán tập 1A
    Hoạt động ứng dụng bài 2 trang 52 vở Thực hành Toán tập 1A
    12
    Hoạt động ứng dụng bài 2 trang 56 vở Thực hành Toán tập 1A
    2.2. Chuẩn bị cho việc giải toán
    Để giúp cho học sinh có kĩ năng thành thạo trong việc giải toán, chúng ta
    không chỉ hướng dẫn học sinh trong giờ toán mà một yếu tố không kém phần
    quan trọng đó là luyện kĩ năng nghe – nói – đọc – viết trong giờ Tiếng Việt.
    Chúng ta đã biết, học sinh lớp 2 còn thụ động, rụt rè trong giao tiếp.
    Chính vì vậy, để các em mạnh dạn, tự tin khi phát biểu, trả lời thì người giáo
    viên cần phải:
    + Luôn luôn gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp, tổ chức các trò
    chơi học tập, trao đổi, thảo luận với bạn bè. Luyện nói nhiều trong các giờ Tiếng
    Việt giúp các em có vốn từ ngữ phong phú, các em có thể nhận xét và trả lời một
    cách tự nhiên, nhanh nhẹn mà không rụt rè, tự ti.
    + Phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc cho học sinh: Đọc lưu loát, đúng
    tốc độ, ngắt nghỉ đúng chỗ để giúp cho học sinh có kĩ năng nghe, hiểu được
    những yêu cầu mà bài tập nêu ra.
    Tóm lại: Để giúp học sinh giải toán có lời văn thành thạo, giáo viên luôn
    luôn chú ý rèn luyện kĩ năng nghe – nói – đọc – viết cho học sinh trong các giờ
    13
    Tiếng Việt bởi vì học sinh đọc thông, viết thạo là yếu tố “đòn bẩy” giúp học
    sinh hiểu rõ vấn đề và tìm cách giải toán.
    Các em rất chăm chỉ luyện đọc trong tiết học Tiếng Việt
    2.3. Hướng dẫn các bước giải toán có lời văn
    Việc rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh là một việc làm rất cần
    thiết và không thể thiếu trong quá trình dạy – học Toán. Làm tốt vấn đề này sẽ
    giúp các em tự tin hơn trước mọi khó khăn, biết suy nghĩ cân nhắc rồi mới đi
    đến kết luận chính xác, biết cách lập luận mọi vấn đề một cách logic, ngắn gọn,
    mạch lạc, đáp ứng yêu cầu phát triển tư duy, trí tuệ và hình thành nhân cách cho
    mỗi học sinh. Và thông qua quá trình giải toán còn giúp giáo viên phát hiện
    được vùng kiến thức nào học sinh nắm vững, vùng kiến thức nào học sinh chưa
    nắm vững. Từ đó giáo viên có kế hoạch bồi dưỡng, phát huy hoặc khắc phục
    những mặt còn yếu kém cho học sinh. Trong giảng dạy giáo viên cần sự sáng
    tạo, tránh dập khuôn máy móc, giúp các em đi tới đích bằng con đường ngắn
    nhất, nhanh nhất.
    Đề bài của bài toán có lời văn bao giờ cũng có hai phần: Phần đã cho hay
    còn gọi là giả thiết của bài toán. Phần phải tìm hay còn gọi là kết luận của bài
    toán. Ngoài ra, trong đề toán có nêu mối quan hệ giữa phần đã cho và phần phải
    14
    tìm hay thực chất là mối quan hệ tương quan phụ thuộc vào giả thiết và kết luận
    của bài toán.
    Quy trình giải toán có lời văn:
    – Nghiên cứu kĩ đầu bài
    – Phân tích bài toán
    – Tóm tắt bài toán
    – Lập kế hoạch giải toán
    + Viết câu trả lời
    + Viết phép tính (viết tên đơn vị trong dấu ngoặc đơn)
    + Viết đáp số
    – Thử lại kết quả
    Mô tả quy trình giải toán có lời văn thường thông qua các bước sau:
    – Nghiên cứu kĩ đầu bài: Trước hết cần đọc cẩn thận đề toán, suy nghĩ về ý
    nghĩa bài toán, nội dung bài toán, đặc biệt chú ý đến câu hỏi bài toán. Chớ
    vội tính toán khi chưa đọc kĩ đề toán.
    – Phân tích bài toán: Thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho và cái phải
    tìm
    – Tóm tắt bài toán: Diễn đạt nội dung bài toán bằng ngôn ngữ hoặc tóm tắt
    điều kiện bài toán, hoặc minh họa bằng sơ đồ hình vẽ.
    – Lập kế hoạch giải toán: Học sinh phải suy nghĩ xem để trả lời câu hỏi của
    bài toán phải thực hiện phép tính gì? Suy nghĩ xem từ số đã cho và điều
    kiện của bài toán có thể biết gì?, có thể làm tính gì?, phép tính đó có thể
    giúp trả lời câu hỏi của bài toán không?, …
    – Thử lại kết quả: Giải xong bài toán, cần thử xem đáp số tìm được có trả
    lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các điều kiện của bài toán
    không?
    15
    Muốn làm được điều đó, trước hết giáo viên phải cho học sinh hiểu và
    nắm chắc quy trình giải một bài toán có lời văn gồm 5 bước như đã trình bày
    trên. Đồng thời giáo viên phải đặc biệt coi trọng phương pháp luyện tập, thực
    hành. Có như vậy học sinh mới hoạt động được nhiều và hoạt động thường
    xuyên, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo trong hoạt động học
    tập của học sinh.
    Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán
    Giáo viên yêu cầu học sinh phải đọc kĩ đề toán (2 – 3 lần) đọc để hiểu chứ
    không đọc suông. Đọc song phải phân biệt được dữ kiện của bải – xác định được
    cái đã cho và cái phải tìm.
    Lưu ý khi đọc giáo viên cần giúp học sinh hiểu được một số từ khóa quan
    trọng nói lên tình huống toán học bị che lấp bởi cái vỏ ngôn ngữ thông thường
    như: “ít hơn”, “nhiều hơn”, “tất cả”, “cả hai”, “hơn”, “kém”, … Khi đọc giáo
    viên nên cho học sinh gạch chân dưới các từ đó để học sinh dễ nhìn thấy. Nếu
    học sinh chưa hiểu thì giáo viên phân tích, giảng giải để các em hiểu được nghĩa
    của những từ đó. (Về sau học sinh giải thành thạo rồi thì không cần gạch chân
    nữa).
    Ví dụ: Lan có 17 cái kẹo, Huệ có 23 cái kẹo. Hỏi cả hai bạn có bao nhiêu cái
    kẹo?
    Bước 2: Phân tích bài toán
    Sau khi học sinh đọc xong bài toán, giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi gợi
    mở để hướng dẫn học sinh hiểu được đề bài.
    + Bài toán cho biết gì? (Lan có 17 cái kẹo, Huệ có 23 cái kẹo)
    + Bài toán hỏi điều gì? (cả hai bạn có bao nhiêu cái kẹo? cho học
    sinh gạch chân từ “cả hai” và giải thích hỏi “cả hai” tức là bài toán yêu cầu ta
    gộp số kẹo của Lan và Huệ lại với nhau và tính xem tổng số kẹo của Lan và Huệ
    có bao nhiêu cái?)
    + Làm cách nào để tìm được Tổng số kẹo của cả hai bạn? (Lấy số
    kẹo của Lan cộng với Số kẹo của Huệ, 17+ 23)
    + Nhìn vào bài ta có:
    16
    Số kẹo của Lan + Số kẹo của Huệ = Tổng số kẹo của cả hai
    17 + 23 = ?
    + Số kẹo của Lan được gọi là số gì? (Số hạng)
    + Số kẹo của Huệ được gọi là số gì? (Số hạng)
    + Số kẹo của cả hai được gọi là gì? (Tổng)
    + Biết Lan có 17 cái, Huệ có 23 cái. Bài toán yêu cầu tìm Tổng?
    Vậy đây là dạng toán gì? (Tìm Tổng khi biết các số hạng)
    + Vậy muốn tìm Tổng ta chỉ cần áp dụng công thức:
    Số hạng + Số hạng = Tổng
    Đế tránh sự nhàm chán các câu hỏi lặp lại nhiều lần, giáo viên cần thay
    đổi câu hỏi để phát huy tư duy của học sinh. Ta có thể hỏi bằng nhiều cách:
    + Ta biết điều gì ở bài toán?
    + Bài toán hỏi điều gì? Bài toán yêu cầu làm gì? Bài toán yêu cầu
    tìm gì?
    Khi học sinh đã hiểu được bải toán, giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt
    bài toán.
    Bước 3: Tóm tắt bài toán
    Việc này giúp các em bỏ bớt được những câu, những chữ không thật quan
    trọng trong đề toán. Biểu thị được bằng lời hoặc hình vẽ các mối quan hệ trong
    bài toán, làm cho bài toán được rút gọn lại, mối quan hệ giữa các số đã cho và số
    phải tìm hiện ra rõ hơn. Các em nhìn tóm tắt có thể đọc lại bài toán một cách
    chính xác (học sinh sẽ giải bài toán dễ dàng hơn). Bước tóm tắt giúp các em
    nhận diện được bài toán, từ đây các em có cơ sở để đặt phép tính đúng cho bài
    toán. Thông qua hệ thống câu hỏi tìm hiểu nội dung giáo viên dẫn dắt học sinh
    cách tóm tắt cho phù hợp với bài toán.
    Với bài toán trên giáo viên hướng dẫn cho học sinh biết có nhiều cách để
    tóm tắt.
    * Tóm tắt:
    Cách 1:
    Lan: 17 cái kẹo
    17
    Huệ: 23 cái kẹo
    Cả hai bạn: … cái kẹo?
    Cách 2:
    ? cái kẹo
    Lan 17 cái kẹo Huệ 23 cái kẹo
    Cách 3:
    ? cái kẹo
    17

    Lan Huệ

    23
    18
    Cách 4:
    17 cái kẹo
    Lan:
    23 cái kẹo
    Huệ:
    Cách 5:
    Lan : 17 cái kẹo
    Huệ : 23 cái kẹo
    Lưu ý: Đối với tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng giáo viên nhắc học sinh để
    ý về số cái kẹo của hai bạn để vẽ cho chính xác. (Ở đây Lan có 17 cái, Huệ có
    23 cái, Huệ nhiều hơn Lan 6 cái. Vậy khi vẽ đoạn thẳng của Huệ ta lưu ý sẽ vẽ
    dài hơn đoạn của Lan 1 ít).
    Bước 4: Giải bài toán

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Phương pháp xây dựng các tình huống dạy toán có hiệu quả khơi nguồn sáng tạo dạy toán gắn với thực tiễn cuộc sống cho học sinh lớp 4 5

    SKKN Phương pháp xây dựng các tình huống dạy toán có hiệu quả khơi nguồn sáng tạo dạy toán gắn với thực tiễn cuộc sống cho học sinh lớp 4 5

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    I/ ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Nội dung môn Toán ở tiểu học được cấu trúc theo nguyên tắc đồng
    tâm, các mạch kiến thức được sắp xếp đan xen hợp lý với trọng tâm là mạch
    kiến thức số học và quán triệt các tư tưởng của toán học hiện đại, phù hợp với
    từng giai đoạn phát triển của HS tiểu học.
    Nguyên lí giáo dục “học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn”
    được thể hiện nhất quán trong dạy học toán ở tiểu học. Đặc biệt, đối tượng
    Toán học mang tính trừu tượng và khái quát cao, các tri thức toán học có tính
    hệ thống và logic chặt. Tư duy của HS tiểu học đang trong giai đoạn “tư duy
    cụ thể”, HS bước đầu có khả năng thực hiện phân tích, tổng hợp, trừu tượng
    hóa, khái quát hóa và những hình thức đơn giản của sự suy luận, phán đoán.
    Tuy nhiên, sự phân tích, tổng hợp phát triển không đồng đều, các lập luận
    thường là lập luận có lý mà chưa lập luận logic. HS tiểu học dễ thích nghi và
    tiếp nhận cái mới nhưng sự tập trung chưa cao, khả năng ghi nhớ và chú ý có
    chủ định chưa được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn bộc lộ
    rõ nét. Trẻ nhớ rất nhanh và quên cũng nhanh, HS tiểu học có trí nhớ trực
    quan – hình tượng phát triển chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ
    Xuất phát từ xu thế trong dạy học hiện nay theo tinh thần đổi mới
    phương pháp, vị trí của người giáo viên đã có những thay đổi đáng kể so với
    trước kia. Trước đây nhiệm vụ trọng tâm của người thầy là chủ động cung
    cấp kiến thức cho học sinh, còn học sinh thụ động tiếp thu kiến thức từ
    thầy. Quan sát, theo dõi thầy làm để bắt chước và làm theo. Như vậy một
    trong những đổi mới quan trọng nhất hiện nay là trong quá trình dạy học
    chúng ta đã nhanh chóng chuyển từ hình thức thầy giảng- trò ghi sang thầy tổ
    chức – trò hoạt động. Nói cách khác là dạy học toán cần được tiến hành dưới
    dạng tổ chức các hoạt động học tập. Rõ ràng, công việc trọng tâm của người
    thầy bây giờ là tổ chức tốt các hoạt động để cho học sinh tự mình tiếp thu, tự
    mình chiếm lĩnh kiến thức, thầy chỉ làm công việc trọng tài và hướng dẫn cho
    các hoạt động của các em, bổ sung kiến thức cho các em nếu thấy cần thiết.
    Hoạt động học tập đã đòi hỏi ở người học tính tự giác tích cực và độc lập,
    không ai có thể học tập thay mình. Học sinh không chủ yếu tiếp nhận thông
    tin từ phía giáo viên mà chủ động lĩnh hội thông tin, suy nghĩ, tìm tòi, khám
    phá các khía cạnh khác nhau của thông tin, sắp xếp lại thông tin. Biết hợp
    tác với bạn cùng học để giúp đỡ nhau trong học tập… Hình thành và phát
    triển các kỹ năng học tập, phát triển cách học. Chính vì vậy các em sẽ tiếp
    thu được kiến thức một cách chủ động, khi vận dụng kiến thức sẽ có nhiều
    sáng tạo. Do được tự mình tìm tòi khám phá nên sẽ rèn ở các em tính chủ
    động sáng tạo, các em sẽ hiểu sâu nhớ lâu các kiến thức do mình tự tìm ra
    hoặc có góp phần cùng các bạn của mình tự tìm tòi kiến thức đó. Thông qua
    đó rèn được tính kiên trì, vượt khó khăn và một số phẩm chất tốt của người
    học toán như: Tự tin, suy luận có cơ sở, coi trọng tính chính xác, tính hệ
    thống,…Về phía giáo viên thì nhanh chóng nắm bắt được khả năng của học
    2
    sinh để có những thay đổi phù hợp trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy
    học cho học sinh từ đó có những tác động phù hợp tới từng cá nhân học sinh.
    Đặc biệt nội dung giảng dạy của Tiểu học luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ
    thiết thực cho cuộc sống. Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình
    thành và phát triển nhân cách học sinh. Tất cả các kiến thức kĩ năng của môn
    Toán đều được ứng dụng trong thực tế cuộc sống và rất cần thiết cho người lao
    động. Toán học có liên hệ mật thiết với thực tiễn và có ứng dụng rộng rãi
    trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học, công nghệ cũng như trong
    sản xuất và đời sống. Với vai trò đặc biệt, Toán học trở nên thiết yếu đối với
    mọi ngành khoa học, góp phần làm cho đời sống xã hội ngày càng hiện đại và
    văn minh hơn. Bởi vậy, việc rèn luyện cho học sinh năng lực vận dụng kiến
    thức Toán học vào thực tiễn là điều cần thiết đối với sự phát triển của xã hội
    và phù hợp với mục tiêu của giáo dục. Để dạy học môn Toán có hiệu quả,
    người GV không chỉ “truyền thụ” cho HS những tri thức toán học trong
    chương trình, mà phải làm cho HS hiểu được những tri thức toán học đó được
    bắt nguồn, nảy sinh từ đâu, hoàn thiện như thế nào, toán học có liên hệ và có
    ứng dụng vào thực tiễn ra sao?” dạy học Toán ở tiểu học muốn có hiệu quả tốt
    yêu cầu phải có những tình huống dạy học hiệu quả ở đó HS được tham gia
    các hoạt động trong môi trường tương tác để tự chiếm lĩnh tri thức, phát triển
    năng lực. Việc thiết kế những tình huống dạy học hiệu quả tạo được thói quen
    chủ động tìm tòi, khai thác, phát triển, ứng dụng toán học vào cuộc sống sẽ
    giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn kiến thức đã học, phát triển tư duy sáng tạo và
    tiếp thu tốt những kiến thức mới. Đó là một phong cách học toán tốt, góp phần
    tìm kiếm cái mới trong toán học.
    II / MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy dạy học môn Toán ở tiểu học bằng
    tình huống dạy học (THDH) hiệu quả là một vấn đề còn khá mới mẻ nên cả
    giáo viên (GV) và học sinh (HS) đều gặp những khó khăn.
    Về phía GV, do chưa có những hiểu biết thấu đáo về THDH hiệu quả,
    cách thiết kế và sử dụng, dẫn đến tâm lý ngại thay đổi (nếu có) những THDH
    đưa ra còn mang tính hình thức trong giờ học môn Toán phần lớn GV chỉ chú
    trọng giảng giải cho HS để HS nắm được kiến thức, kỹ năng, vận dụng làm
    bài tập, HS lắng nghe và trả lời câu hỏi của cô một cách bị động. GV ít tổ
    chức các hoạt động trải nghiệm ở đó HS tự tìm ra kiến thức, kỹ năng trong
    môi trường tương tác.
    Thực tế giảng dạy cho thấy HS mong muốn được học những vấn đề gần
    gũi và có nhiều ứng dụng trong cuộc sống được tham gia các hoạt động trải
    nghiệm cùng các bạn, được chia sẻ những hiểu biết, những thắc mắc của mình
    với bạn, với thầy cô, với người thân, được giải quyết các tình huống bằng các
    kiến thức, kỹ năng toán học và tích hợp nhiều kiến thức ở các môn học khác,
    các hiểu biết ở nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, những mong muốn này chưa được
    GV quan tâm. Thật vậy, thông qua các hoạt động mang tính tích cực như:
    3
    thảo luận nhóm, tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau đã được thực hiện nhưng
    không thường xuyên và ít nhiều mang tính hình thức nên không gây được
    hứng thú cho HS; các hoạt động ngoại khóa toán học, trò chơi toán học,… rất
    hiếm được tổ chức thực hiện.
    Về phương pháp dạy học Toán của giáo viên
    GV dạy học Toán chủ yếu tập trung truyền đạt lý thuyết, hướng dẫn làm
    bài tập ít chú trọng đến hoạt động thực hành trong học tập cũng như ít quan
    tâm đến dạy học phát triển năng lực của HS, GV có tổ chức cáchoạt động tích
    cực như thảo luận nhóm, giải quyết các tình huống,… nhưng chưa thường
    xuyên và ít nhiều mang tính hình thức. Đặc biệt, các hoạt động ngoại khóa
    toán học hầu như không được thực hiện.
    Đa số GV đều nhận thấy việc thiết kế một giờ dạy Toán ở tiểu học cần
    làm cho HS tự giác, hứng thú tham gia các hoạt động trải nghiệm trong môi
    trường tương tác để tìm tòi, phát hiện một phần kiến thức, từ đó nâng cao hiệu
    quả day học môn Toán ở tiểu học là cần thiết. Tuy nhiên, cả về động cơ, nhận
    thức kỹ năng thiết kế và sử dụng THDH hiệu quả của GV Tiểu học còn những
    hạn chế, gặp không ít khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Ngoài ra,
    dạy học môn Toán ở tiểu học bằng THDH hiệu quả đặt ra yêu cầu mới về cơ
    sở vật chất, phương tiện dạy học, quy mô lớp học… Đó là thách thức không
    nhỏ?
    Về tình hình học Toán của học sinh
    HS tiểu học phần lớn chỉ quen giải quyết những tình huống, bài toán
    tương tự, kỹ năng phân tích, phát hiện vấn đề còn yếu (thể hiện ở việc không
    có thói quen phân tích, đi sâu tìm ra những gì thuộc về bản chất của tình
    huống, bài toán). HS thường giải được các bài toán theo mẫu hoặc thuật toán
    đã học chứ chưa biết sử dụng các chiến lược để giải quyết vấn đề. HS tiểu học
    cũng không có thói quen giải bài toán bằng nhiều cách rồi tìm cách giải tối ưu
    cũng như khái quát cách giải để áp dụng cho các bài toán, tình huống tương tự
    nên có thể thấy khả năng đánh giá và mở rộng giải pháp của HS còn yếu.
    Trong quá trình hợp tác, HS còn nhút nhát, thiếu tự tin, không mạnh dạn trao
    đổi, bảo vệ ý kiến của mình, hoạt động nhóm ít nhiều mang tính hình thức cho
    thấy HS còn thiếu và yếu kỹ năng hợp tác. Đồng thời do quen với cách học
    tiếp thu kiến thức thụ động, nên gặp trở ngại khi phải tự tìm tòi, phát hiện,
    hợp tác, chia sẻ trong việc giải quyết vấn đề đặt ra trong quá trình học tập.
    Một số ít HS yêu thích môn Toán là do được thầy (cô), bố mẹ khuyến
    khích và giúp đỡ,các em được tham gia các trò chơi toán học, các hoạt động
    ngoại khóa , tham gia các hoạt động trải nghiệm. Tuy nhiên, dựa vào kết quả
    thăm dò và quan sát thực tiễn cho thấy không nhiều HS được tham gia các
    hoạt động trên.
    Vì vậy, vấn đề đặt ra là “Làm như thế nào để thiết kế được những THDH
    hiệu quả?”, “Sử dụng những THDH đó như thế nào để mang lại hiệu quả tốt
    4
    nhất?”. Đây là những câu hỏi tôi luôn trăn trở và đi tìm câu trả lời cho việc
    dạy học môn Toán của mình.
    Từ những suy nghĩ đó cùng với thực tế giảng dạy trong SKKN này tôi
    mạnh dạn đưa ra một số “Phương pháp xây dựng các tình huống dạy Toán
    có hiệu quả – Khơi nguồn sáng tạo – Dạy toán gắn với thực tiễn cuộc sống
    cho học sinh lớp 4-5” nhằm gây hứng thú và tạo cho các em một phong cách
    học toán sáng tạo
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    Để nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán Tiểu học, đối chiếu với thực
    tiễn dạy học Toán ở tiểu học tôi cho rằng: Để dạy học hiệu quả, GV cần thiết
    kế được những THDH hiệu quả và sử dụng hợp lý trong quá trình dạy học,
    xem đó như là một giải pháp căn bản và phù hợp trong bối cảnh đổi mới giáo
    dục theo chương trình giáo dục phổ thông mới hiện nay.
    Dạy học hiệu quả là dạy học đảm bảo kết quả tốt của việc học của HS:
    Không những phát triển về kiến thức, kĩ năng cơ bản mà còn giúp cho HS
    hiểu nguồn gốc và ý nghĩa của kiến thức; khuyến khích HS hứng thú tích cực
    tham gia các hoạt động trải nghiệm, tự học và hợp tác. Từ đó hình thành cho
    HS thói quen và khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, phát triển được
    những năng lực cần thiết, đặc biệt là năng lực giải quyết vấn đề..
    Nhờ việc học của HS thông qua các hoạt động thâm nhập và giải quyết
    vấn đề những tình huống có tính thực tiễn trong môi trường tương tác nên HS
    hứng thú học tập, dễ hiểu và dễ nhớ những vấn đề lý thuyết phức tạp. Thông
    qua quá trình phân tích, thảo luận, tìm hướng giải quyết vấn đề nảy sinh trong
    tình huống, HS không chỉ tham gia vào việc xây dựng tri thức cho bản thân
    mà còn hình thành khả năng vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống
    thực tiễn; phát triển năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự học, năng lực hợp
    tác …
    Dạy học bằng tình huống thể hiện sự gắn nội dung dạy học với thực tiễn
    cuộc sống, hướng đến mục tiêu cuối cùng là hiệu quả dạy học – thể hiện ở
    những năng lực cần thiết của HS.
    Nhờ tiến hành dạy học thông qua những THDH gắn với thực tiễn (nội bộ
    môn học, môn học khác, đời sống) mà dạy học bằng tình huống góp phần
    phát triển năng lực liên hệ, vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề
    trong thực tiễn đa dạng.
    THDH làm cho HS hứng thú học tập thông qua các hoạt động học tập
    bằng trải nghiệm, không những kiến tạo được kiến thức, kỹ năng cần thiết mà
    còn hình thành thói quen và khả năng tích hợp vận dụng kiến thức vào giải
    quyết vấn đề trong thực tiễn tạo điều kiện để HS đạt được những mục tiêu dạy
    học với sự tác động phù hợp của GV cũng như các điều kiện dạy học khác.
    Như vậy, một THDH hiệu quả lôi cuốn được người học tập trung vào
    các hoạt động thực hành hướng tới mục tiêu bài học. Có nghĩa là nhiệm vụ
    5
    học tập giao cho HS phải thú vị tạo ra được động lực học tập. Tạo môi trường
    học tập thân thiện, ở đó mọi ý tưởng đều được tôn trọng. Sự chủ động của HS
    thể hiện tính tích cực khi tham gia các hoạt động trải nghiệm, được đưa ra
    những ý tưởng sáng tạo trong môi trường tương tác, tạo cơ hội phát triển
    những năng lực cần thiết cho các em.
    Với nhũng lý do nêu trên trong quá trình dạy học tôi luôn cố gắng xây
    dụng các tình huống dạy học hiệu quả phù hợp với từng tiết, từng bài. Sau
    đây tôi xin đưa ra một số ví dụ về “Tình huống dạy học có hiệu quả – Khơi
    nguồn sáng tạo – Dạy toán gắn với thực tiễn cuộc sống”
    2.1. Tình huống trải nghiệm thực tế tìm ra kiến thức mới.
    Tình huống: THDH hiệu quả hình thành kiến thức mới: Bài “Số trung bình
    cộng” (trang 26 – SGK Toán 4)
    Các kiến thức về số trung bình cộng thuộc mạch kiến thức số học trong
    chương trình Toán 4, trước đó HS được trang bị các kiến thức về các phép
    tính nhân chia cho số có một chữ số trong phạm vi 100 000.
    Mục tiêu: Giúp HS có hiểu biết ban đầu về số trung bình cộng bằng cách
    kết nối các thông tin trong báo, đài, …, hiểu được ý nghĩa của số trung bình
    cộng trong thực tiễn, từ đó có nhu cầu, hứng thú để tìm ra quy tắc tính số
    trung bình cộng của nhiều số. Khuyến khích HS phát triển năng lực vận dụng
    toán học vào thực tiễn, năng lực hợp tác, năng lực tư duy logic, năng lực giải
    quyết vấn đề.
    Tình huống thiết kế: Số trung bình cộng
    Thực hiện lần lượt các hoạt động sau:
    (1) Cá nhân đọc kỹ thông tin sau:
    Sau đợt kiểm tra sức khỏe đầu năm học, phòng y tế nhà trường cho biết
    chiều cao trung bình của các HS lớp 4A là 138 cm.
    (2) Cá nhân trả lời các câu hỏi sau:
    Các em có thường nghe, nhìn thấy từ in nghiêng trong thông tin trên
    không? Ở đâu?
    Các em hiểu cụm từ chiều cao trung bình ở thông tin trên như thế nào?
    (Giải thích: Trong lớp 4A có những HS cao hơn 138 cm nhưng cũng có
    những HS thấp hơn 138 cm, lấy số lượng cao hơn bù cho số lượng ít hơn để
    được chiều cao mỗi HS là 138 cm. 138 cm gọi là chiều cao trung bình của
    HS lớp 4A và 138 gọi là số trung bình cộng của các số đo chỉ chiều cao của
    các HS trong lớp 4A).
    (3) Kể tên một số ví dụ trong cuộc sống có liên quan đến tính số trung
    bình cộng?
    (VD: Tính bình quân thu nhập của mỗi người, sản lượng bình quân trên
    một sào ruộng, lượng nước bình quân mỗi người cần uống trong một ngày,
    6
    lượng lương thực, thực phẩm bình quân mỗi người cần ăn trong một
    ngày…Căn cứ vào mức tính trung bình đó để con người điều chỉnh mức chi
    tiêu, ăn uống, sinh hoạt, sản xuất phù hợp).
    (4) Nhóm (4-5 HS) nhận kẹo từ GV (cá nhân nhận) rồi thảo luận để chia
    kẹo sao cho mỗi thành viên trong nhóm được số kẹo bằng nhau.
    (GV phát kẹo cho từng nhóm sao cho mỗi HS trong nhóm có số kẹo
    khác nhau và tổng số kẹo của thành viên trong nhóm phải chia hết cho số các
    thành viên của nhóm).
    (5) Đại diện nhóm trình bày cách chia của nhóm mình, nhận xét cách
    chia của nhóm bạn. (GV khẳng định, số kẹo mỗi bạn được chia đều gọi là
    trung bình cộng số kẹo các bạn được chia).
    Thống nhất cách chia nhanh, phù hợp nhất (lấy tổng số kẹo rồi chia cho
    tổng số người).
    (6) Nhóm thảo luận để viết vào chỗ chấm:
    – Nhóm em có ……… bạn.
    – Bạn …… được chia……cái kẹo, bạn …. được chia……..cái kẹo……..
    – Trung bình mỗi bạn được chia ………… cái kẹo
    Để tìm trung bình mỗi bạn được chia………. cái kẹo ta làm như sau:
    ………………………………………………………………………………………………………
    (Phụ lục 1)
    (7) Quan sát GV giải thích số trung bình cộng và cách tìm số trung bình
    cộng bằng sơ đồ đoạn thẳng.
    (8) Nêu quy tắc tìm số trung bình cộng của các số và học thuộc quy tắc.
    Tình huống 2: THDH hiệu quả hình thành kiến thức mới: Bài “Diện tích
    hình tròn” (Toán 5 – trang 99)
    Hình thành công thức tính diện tích hình tròn thuộc mạch kiến thức hình
    học, trong chương trình Toán 5. Trước đó HS đã trang bị kiến thức về: diện
    tích một hình, hình tròn, bán kính, đường kính, chu vi hình tròn, diện tích các
    hình chữ nhật, hình bình hành,.. Vì vậy, cần giúp HS tự tìm ra công thức tính
    diện tích tròn từ tình huống gắn với hoạt động thực tế của mình.
    Mục tiêu: Giúp HS kết nối các kiến thức về hình tròn, diện tích các hình
    đã học cũng như các hoạt động cắt, ghép hình để hình thành được công thức
    tính diện tích hình tròn, nắm được ý nghĩa thực tiễn của việc tính diện tích
    hình tròn. Khuyến khích HS phát triển năng lực hợp tác, năng lực sáng tạo,
    năng lực học Toán (năng lực tư duy logic, năng lực giải quyết vấn đề, năng
    lực mô hình hóa toán học).
    Tình huống thiết kế: Hình thành công thức tính diện tích hình tròn
    Nhóm (4 HS) thảo luận và thực hiện lần lượt các hoạt động sau:
    7
    Tìm bán kính, đường kính, chu vi của tấm bìa hình tròn của nhóm.
    (mỗi nhóm nhận một tấm bìa hình tròn có bán kính, màu sắc khác nhau có sẵn
    tâm)
    Nhắc lại cách xác định bán kính, đường kính, cách tính chu vi hình tròn.
    Đưa ra các ý tưởng về mối liên quan giữa diện tích hình tròn với các số
    liệu: bán kính, đường kính, chu vi hình tròn dưới sự gợi ý của GV.
    (Chu vi hình tròn bằng bán kính nhân 2 rồi nhân với 3,14 hoặc đường
    kính nhân với 3,14. Vậy diện tích hình tròn có liên quan đến các số liệu: bán
    kính, đường kính, chu vi, số 3,14 hay không?)
    Tính diện tích tấm bìa hình tròn.
    Cắt tấm bìa hình tròn để được các phần bằng nhau (theo đường kẻ đã
    phân chia) và ghép các mảnh đó lại thành hình có hình dạng của hình hình
    học quen thuộc đã biết cách tính diện tích theo sự hướng dẫn của GV.
    (Chẳng hạn, cắt tấm bìa thành 8 phần, 16 phần rồi ghép thành hình có
    dạng giống hình bình hành. Cắt tấm bìa thành càng nhiều mảnh thì hình ghép
    được càng giống hình bình hành. Do đó, có thể coi diện tích hình ghép được
    bằng diện tích hình bình hành
    So sánh diện tích hình tròn với diện tích hình bình hành ghép được.
    So sánh chiều cao, cạnh đáy của hình vừa ghép được với bán kính,
    đường kính chu vi của tấm bìa hình tròn (chiều cao hình bình hành bằng bán
    kính hình tròn, đáy bằng nửa chu vi hình tròn).
    Tìm mối quan hệ giữa diện tích hình tròn với bán kính của hình tròn đó?
    8
    Để tính diện tích hình tròn ta làm như thế nào?
    Phát biểu quy tắc diện tích hình tròn và viết công thức tính diện tích hình
    tròn.
    Tính diện tích hình tròn của nhóm mình.
    Tình huống 3: THDH hiệu quả hình thành kiến thức mới: Bài “Ôn tập và
    bổ sung về giải toán (tiếp theo)” (SGK Toán 5 – Trang 20)
    Trước khi học đơn vị kiến thức này, HS đã được học về bài toán liên
    quan đến quan hệ tỉ lệ và ý nghĩa thực tiễn của nó. Trong thực tế gặp rất nhiều
    bài toán, những vấn đề liên quan đến quan hệ tỉ lệ. Vì vậy, cần thiết phải cho
    HS hiểu và nắm được ý nghĩa 2 đại lượng có quan hệ tỉ lệ
    Mục tiêu: Giúp HS kết nối các kiến thức về thống kê số liệu, so sánh 2
    số gấp (kém) nhau bao nhiêu lần đã học để hình thành khái niệm tỉ lệ , nắm
    được ý nghĩa thực tiễn của khái niệm đó thông qua giải quyết tình huống thực
    tiễn. Khuyến khích HS phát triển năng lực hợp tác, năng lực sáng tạo, năng
    lực học Toán (năng lực tư duy logic, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực mô
    hình hóa toán học).
    Tình huống lựa chọn là tình huống học tập, dữ kiện cho là 2 đại lượng có
    liên quan đến gấp lên một số lần, giảm đi một số lần, HS cần tự tìm ra mối
    quan hệ giữa hai đại lượng để hình thành khái niệm và vận dụng khái niệm
    vào thực tiễn.
    Tình huống thiết kế: Làm quen với bài toán liên quan đến quan hệ tỉ lệ
    Thực hiện lần lượt các hoạt động sau:
    (1) Cá nhân giải và trình bày cách giải bài toán sau: Mua 12 quyển vở
    hết 24000 đồng. Hỏi mua 30 quyển vở như thế hết bao nhiêu tiền?
    (2) Cá nhân trả lời các câu hỏi:
    Đại lượng số vở và số tiền là 2 đại lượng có mối quan hệ như thế nào
    Giải bài toán liên quan đến quan hệ tỉ lệ có mấy cách giải? Nêu các cách
    giải đó?
    (3) Các nhóm (mỗi nhóm 4 HS) thảo luận và giải bài toán sau:
    Có 200 người được chia đều thành các nhóm. Hãy hoàn thiện bảng số
    liệu:

    Số người mỗi nhóm5 người10 người20 người40 người
    Số nhóm chia được

    (4) Các nhóm dựa vào bảng số liệu của mình so sánh cặp giá trị được
    giao: Số người ở 1 nhóm 10 người với số người ở 1 nhóm 5 người? (gấp 2
    lần)
    9
    Số nhóm 10 người được chia với số nhóm 5 người được chia? (giảm 2
    lần)
    Nêu nhận xét mối quan hệ giữa số người mỗi nhóm với số nhóm chia
    được? (GV khẳng định: Số người mỗi nhóm gấp lên bao nhiêu lần thì số
    nhóm chia được giảm đi bấy nhiêu lần. )
    Nêu nhận xét về tích của số người mỗi nhóm và nhóm được chia tương
    ứng? (đều bằng 200 người)
    (5) Lấy VD về bài toán liên quan đến quan hệ tỉ lệ trong thực tiễn?
    Chẳng hạn : Em hãy tìm hiểu số kg gạo dùng để nấu cơm trong một tuần
    của gia đình em. Giả định rằng số gạo dùng mỗi tuần như nhau. Em hãy hoàn
    thành bảng sau:

    Số tuần1234
    Số gạo để nấu cơm (kg )

    Tình huống 4: THDH hiệu quả hình thành phân số trong bài “Phân số”
    (SGK Toán 4 – trang 106)
    Bài này là bài đầu tiên dạy về phân số, trước đó đã trang bị cho HS các
    khái niệm: một phần của đơn vị, bảng chia các số tự nhiên, sau kiến thức này
    HS sẽ được học về phân số bằng nhau, các phép tính về phân số. Vì vậy, cần
    giúp HS tự tìm ra khái niệm về phân số từ tình huống gắn với thực tiễn bằng
    cách vận dụng kiến thức đã biết.
    Mục tiêu là: Giúp HS kết nối các kiến thức: một phần của đơn vị cùng
    các hoạt động chia, tô màu để hình thành được các phân số, từ đó nhận biết
    phân số: cấu tạo, cách đọc, cách viết. Thông qua các hoạt động trải nghiệm
    phát triển năng lực hợp tác, năng lực tư duy logic, năng lực giải quyết vấn đề.
    Trên cơ sở nội dung trong SGK Toán 4, bổ sung các yếu tố thực tiễn
    (mỗi nhóm HS tự lập nên một phân số) để xây dựng nội dung dạy học. Nội
    dung này tồn tại vấn đề cần giải quyết đó là phải tìm ra khái niệm phân số
    (khái niệm mới) thông qua một tình huống mà GV đưa ra và cần giải quyết
    tình huống đó. HS có nhu cầu và tin tưởng có thể lĩnh hội được kiến thức này
    bởi vì các em đã biết: Một phần của đơn vị (Chia một vật thành một số phần
    bằng nhau và lấy một phần); các bảng chia; các kinh nghiệm thực tế ở các
    mức độ khác nhau.
    Tình huống thiết kế: Hình thành khái niệm số thập phân
    (1) Nhóm đôi thực hiện lần lượt các hoạt động sau:
    Chia hình đã chuẩn bị của nhóm mình thành các phần bằng nhau (GV
    yêu cầu mỗi nhóm chuẩn bị sẵn một hình: hình vuông, hình chữ nhật, hình
    tròn bằng giấy trắng).
    (2) Tô màu một số phần được chia tùy ý của hình. Chẳng hạn:
    10
    Hình 1 Hình 2 Hình 3
    (3) GV giải thích cách chia, cách đọc, cách viết, cấu tạo của phân số.
    (GV làm mẫu trên một hình, chẳng hạn hình 2. Ta nói ta tô màu 4 phần 9
    của hình tròn, viết là 4
    9
    gọi là phân số, mẫu số là 9 chỉ số phần được chia, tử
    số là 4 chỉ số phần được tô màu).
    (4) Các nhóm đôi trình bày cách làm của nhóm mình, rồi viết, đọc, nêu
    cấu tạo của phân số chỉ phần đã tô màu trong hình của mình. (Mỗi nhóm gắn
    hình lên bảng, trình bày, viết phân số tương ứng).
    (5) GV nhận xét các nhóm đã hình thành được những phân số, yêu cầu
    các nhóm nêu nhận xét về cấu tạo của phân số.
    (6) Cả lớp đọc thầm nhận xét: Mỗi phân số có tử số và mẫu số. Tử số là
    số tự nhiên viết trên gạch ngang. Mẫu số là số tự nhiên khác 0 viết dưới gạch
    ngang.
    (Hệ thống câu hỏi gợi ý phù hợp giúp HS giải quyết tình huống: 1. Chia
    hình của mình thành mấy phần bằng nhau? 2. Tô màu mấy phần? 3. Đã tô
    bao nhiêu phần của hình? 4. Nêu phân số vừa lập được? 5. Tử số, phân số
    cho ta biết điều gì? 6. Nêu cách viết, cách đọc và cấu tạo của phân số).
    Tình huống 5: Luyện tập kiến thức đã học về tỷ lệ bản đồ.
    “Ứng dụng của tỉ lệ bản đồ” (trang 156 – SGK Toán 4)
    Bài học nằm cuối chương trình lớp 4, trước bài học HS đã được học tỉ lệ
    bản đồ, các đơn vị đo độ dài, có kỹ năng đo độ dài đoạn thẳng, thực hiện các
    phép tính trên số tự nhiên,..Với mục tiêu giúp HS vận dụng tỉ lệ bản đồ để
    tìm khoảng cách thật giữa 2 địa điểm, biết tỉ lệ bản đồ và khoảng cách giữa 2
    địa điểm trên bản đồ cũng như giúp HS phát triển năng lực. GV cần cho HS
    tham gia hoạt động trải nghiệm thông qua tình huống dạy học hiệu quả.
    Tình huống thiết kế: Ứng dụng của tỉ lệ bản đồ thực hiện lần lượt các
    hoạt động sau:
    (1) Cá nhân viết số thích hợp vào chỗ chấm:

    Tỉ lệ bản đồ1: 10001: 100001: 500000
    Độ dài thu nhỏ1 dm1 cm1 mm
    Độ dài thật…………….dm…………….cm…………….mm

    (2) Nhắc lại ý nghĩa của tỉ lệ bản đồ.
    11
    (Tỉ lệ bản đồ cho biết hình vẽ trên bản đồ được vẽ thu nhỏ lại bao nhiêu
    lần)
    (3) Nhóm (4-5 HS) quan sát bản đồ sau được vẽ theo tỉ lệ 1: 10000 và
    hoàn thành phiếu học tập sau trong 15 phút.
    Trường học
    UBND xã
    Hồ Bệnh viện
    Bưu điện
    (Giả sử khoảng cách trên bản đồ: Từ UBND xã đến Trường học là 7cm;
    từ UBND xã đến Bưu điện là 13cm; từ Bưu điện đến Bệnh viện là 10cm; từ
    Bệnh viện đến Trường học là 20cm; từ Bưu điện đến Trường học là 17 cm).
    PHIẾU HỌC TẬP
    Nhóm: ……………………………………………………..
    1. Viết vào chỗ chấm:
    Trên bản đồ, quãng đường từ UBND xã đến cổng trường học đo được
    là……………..quãng đường từ UBND xã đến Bưu điện đo được là ………………..;
    quãng đường từ Bưu điện đến Bệnh viện đo được là ……..; quãng đường từ
    Bệnh viện đến Trường học đo được là …………………………..
    2. Trả lời các câu hỏi sau:
    Độ dài thật của quãng đường từ UBND xã đến Trường học là bao nhiêu
    mét?………………………………………………………………………………………………………
    Độ dài thật của quãng đường từ UBND xã đến Bưu điện là bao nhiêu
    mét?………………………………………………………………………………………………………
    Độ dài thật của quãng đường từ Bưu điện đến Bệnh viện là bao nhiêu
    mét?
    ………………………………………………………………………………………………………
    Độ dài thật của quãng đường từ Bệnh viện đến Trường học là bao nhiêu
    mét?
    ………………………………………………………………………………………………………
    (Phụ lục 2)
    (4) Điền vào chỗ chấm: Muốn tính độ dài thực tế ……………………………..
    12
    (Muốn tính độ dài thực tế ta lấy độ dài thu nhỏ nhân với số lần thu nhỏ theo tỉ
    lệ)
    (5) Dựa vào bản đồ ở hoạt động 3 trả lời các câu hỏi sau
    Hãy tìm quãng đường ngắn nhất từ Trường học đến Bưu điện?
    Hãy tìm quãng đường ngắn nhất từ UBND xã đến Bệnh viện?
    (6) Cá nhân hãy khoanh vào kết quả đúng.
    Trên bản đồ tỉ lệ 1: 2 500 000, quãng đường Thành phố Hồ Chí Minh –
    Quy Nhơn đo được 27 cm. Tìm độ dài thật của quãng đường Thành phố Hồ
    Chí Minh – Quy Nhơn.

    a. 67 500 mb. 6750 km
    c. 675 kmd. 675 000 dm

    Cá nhân suy nghĩ tìm cách giải và giải bài toán sau: Một mảnh đất hình
    chữ nhật được vẽ trên bản đồ có tỉ lệ và kích thước như hình vẽ. Tính diện
    tích thật của mảnh đất đó?
    5 cm

    3cmTỉ lệ 1: 500

    Tình huống 6: Bài “Luyện tập” (trang 88 – SGK Toán 5)
    Tình huống được thiết kế dựa vào vị trí, mục tiêu của nội dung kiến thức
    vận dụng công thức tính diện tích hình tam giác, HS đã biết các đặc điểm của
    hình tam giác, biết vẽ đường cao của tam giác và vừa được trang bị công thức
    tính diện tích hình tam giác. Mục tiêu: HS biết vận dụng công thức tính diện
    tích hình tam giác để tính diện tích các hình tam giác cụ thể, biết vẽ hình tam
    giác có diện tích cho trước trên giấy ô ly. Phát triển cho HS năng lực vận
    dụng toán học vào thực tiễn, năng lực hợp tác, năng lực tư duy logic, năng lực
    giải quyết vấn đề.
    Nội dung được xác định từ yêu cầu của mục tiêu và gắn với những tình
    huống yêu cầu HS vận dụng nhiều kỹ năng: xác định vẽ đường cao của tam
    giác; vẽ tam giác trên giấy ô ly; vận dụng công thức … gây hứng thú học tập
    cho HS.
    Tình huống thiết kế: Vận dụng công thức tính diện tích hình tam giác.
    Thực hiện lần lượt các hoạt động sau:
    (1) Nhóm đôi quan sát 4 hình tam giác được vẽ trong lưới ô vuông cạnh
    1cm sau:
    13
    A B C D
    Chỉ ra đáy và đường cao tương ứng của 4 tam giác.
    Nhận xét về những đường cao và đáy của 4 hình tam giác đó. (Độ dài
    đáy 3 cm, chiều cao tương ứng 4 cm).
    Tính diện tích các tam giác đó (6 cm2).
    Đưa ra nhận xét về 4 hình tam giác này. (4 tam giác này có diện tích
    bằng nhau).
    (2)Cá nhân hoàn thiện bảng sau:

    Hình tam giácĐộ dài đáyChiều caoDiện tích
    Tam giác ABC30,5 dm12 dm
    Tam giác MNP16 dm5,3 m
    Tam giác EGH5 m24 dm

    3) Nhóm đôi đo độ dài các cạnh của hình chữ nhật ABCD, và độ dài đoạn AE
    rồi tính:

    Diện tích hình chữ nhật ABCD.
    – Diện tích hình tam giác ADC.
    AEB

    – Tổng diện tích tam giác ADE và
    diện tích tam giác BCE.
    – Diện tích tam giác EDC
    D C
    (4) Nhóm (4 HS) tham gia trò chơi: Vẽ hình tam giác có diện tích cho
    trước
    GV phổ biến luật chơi, làm trọng tài cho cuộc chơi, nhận xét, kết luận
    đội thắng, phân tích cách làm đúng, sai của các đội. .
    14
    Các nhóm (mỗi nhóm 4 HS) được phát một tấm bìa có kẻ lưới ô vuông
    1cm và thực hiện trò chơi.
    Luật chơi: Mỗi nhóm thảo luận để vẽ các hình tam giác có diện tích 12
    cm2 trên mảnh bìa vừa được nhận trong 7 phút. Nhóm nào vẽ được nhiều hình
    và đúng thì nhóm đó chiến thắng.
    (Gợi ý nếu cần: 1) Mỗi nhóm có những nhiệm vụ gì? 2) Để vẽ tam giác
    có diện tích 12 cm2 ta cần biết gì? Chiều cao tương ứng và đáy là bao nhiêu?
    3) Nhóm của bạn có thể vẽ được bao nhiêu hình tam giác có diện tích 12 cm2?
    4) Ta có thể vẽ được hình tam giác khi biết diện tích của chúng không? Có thể
    vẽ được bao nhiêu hình như vậy?)
    (Phụ lục 3)
    Tình huống 7: Bài ” Luyện tập” (trang 134 – SGK Toán 5)
    Tình huống được thiết kế dựa vào vị trí, mục tiêu của nội dung kiến thức
    củng cố về xem đồng hồ và cộng, trừ số đo thời gian. Mục tiêu: HS biết phân
    biệt được thời gian và thời điểm, củng cố cộng, trừ số đo thời gian. Phát triển
    cho HS năng lực vận dụng toán học vào thực tiễn, năng lực hợp tác, năng lực
    tư duy logic, năng lực giải quyết vấn đề.
    Nội dung lấy từ SGK và gắn với những tình huống xảy ra trong thực tiễn
    đời sống của HS. Tình huống tồn tại vấn đề cần giải quyết đó là cần phải xác
    định được các thời điểm, tìm ra phép tính và thực hiện phép tính để tìm ra kết
    quả.
    Tình huống thiết kế: Cùng nhau giải toán
    Thực hiện lần lượt các HĐ sau:
    (1) Cá nhân giải bài toán sau:
    Điền số thích hợp vào chỗ chấm:

    12 ngày =…….giờ3,4 ngày=……. giờ
    4 ngày 12 giờ =…….giờ1,6 giờ =…….phút
    2 giờ 15 phút =…….phút2,5 phút =……. giây

    (2) Các nhóm (mỗi nhóm 4 HS) thực hiện lần lượt các hoạt động sau:
    Đọc kỹ bài toán: “Một người thợ làm bánh ngọt đến hiệu bánh lúc 6 giờ
    50 phút, ông ấy bắt đầu làm bánh lúc 7 giờ 05 phút, những chiếc bánh được
    đưa vào lò nướng lúc 7 giờ 35 phút và nướng xong lúc 8 giờ 05 phút. Người
    làm bánh để nguội bánh trong vòng 15 phút rồi làm lạnh bánh xong lúc 8 giờ
    40 phút. Sau đó ông ấy sắp xếp bánh vào khay và hoàn thành công việc này
    lúc 8 giờ 55 phút, tiếp theo ông dọn dẹp căn bếp. Hiệu bánh bắt đầu mở cửa
    lúc 9 giờ và đóng cửa vào 11giờ 30 phút”.
    b) Trả lời các câu hỏi:
    15
    Những chiếc bánh được nướng trong bao lâu?
    Những chiếc bánh được làm lạnh trong bao lâu?
    Người làm bánh có bao nhiêu thời gian để dọn dẹp trước khi hiệu bánh
    mở cửa?
    Hiệu bánh mở cửa trong bao lâu?
    c) Mỗi nhóm đặt một câu hỏi cho các nhóm khác và trả lời câu hỏi nhóm
    khác đưa ra.
    (3) Tham gia Trò chơi “Ai nhanh tay”
    GV phổ biến luật chơi, làm trọng tài cho cuộc chơi, nhận xét, kết luận
    đội thắng, phân tích cách làm đúng, sai của các đội. .
    Các nhóm (mỗi nhóm 5 HS) được phát một tấm bìa ghi nội dung câu hỏi
    và thực hiện trò chơi.
    Luật chơi: Mỗi người của nhóm vẽ kim đồng hồ hoặc viết số trên một
    mặt đồng hồ tương ứng với câu hỏi rồi đến người tiếp theo làm tiếp, cứ như
    vậy đến khi hoàn thành các câu hỏi. Nhóm nào làm đúng nhiều câu hỏi và
    trong thời gian nhanh nhất thì đội đó chiến thắng.
    Câu hỏi: Vẽ kim đồng hồ hoặc viết số trên mặt đồng hồ cho mỗi thời
    gian bắt đầu và thời gian kết thúc
    Bắt đầu Kết thúc
    a) Lan đi bơi lúc 6 giờ 10 phút và Lan trở về nhà sau 1
    1 2
    giờ
    b) Đoàn tàu SE3 đi từ Hà Nội lúc 10 giờ 5 phút, đến ga Vinh sau 4 giờ
    45 phút
    16
    c) Trận bóng đá bắt đầu lúc 15 giờ 30 phút và kết thúc sau 105 phút.
    d) Cô Hương đi chợ lúc 8 giờ 40 phút và về nhà sau 125 phút.
    e) Phương đến trường lúc 7 giờ 15 phút và về nhà sau 9 giờ 15 phút.
    Tình huống 8: Bài “Luyện tập” (Trang 110 – SGK Toán 5)
    Mục tiêu: Củng cố và vận dụng quy tắc tính diện tích xung quanh, diện
    tích toàn phần của hình hộp chữ nhật; HS biết vận dụng toán học vào thực
    tiễn; Phát triển cho HS năng lực hợp tác, năng lực tư duy logic, năng lựcgiải
    quyết vấn đề, năng lực sáng tạo. Nội dung xuất phát từ vấn đề rèn kỹ năng
    vận dụng quy tắc tính diện tích xung quanh, diện tích toàn phần của hình hộp
    chữ nhật. Với mục tiêu phát triển năng lực, cần thiết cho HS giải quyết một
    tình huống gắn kiến thức với thực tiễn cuộc sống.
    Tình huống thiết kế: Ôn tập về diện tích
    Thực hiện lần lượt các hoạt động sau:
    (1) Cá nhân hoàn thiện bảng và chữa bài theo nhóm đôi:
    17

    Hình hộp
    chữ nhật
    Chiều dàiChiều rộngChiều caoDiện tích
    xung quanh
    Diện tích
    toàn phần
    (1)25 dm1,5 m18 dm
    (2)mmm

    5
    4
    1 3
    1 4
    Nhắc lại cách làm và nêu lại quy tắc tính diện tích xung quanh và diện
    tích toàn phần của hình hộp chữ nhật.
    (2) Mỗi nhóm (4 HS) được cung cấp vật hình hộp chữ nhật (cứ 2 nhóm
    cho 2 vật như nhau nhưng để vị trí khác nhau) và thực hiện lần lượt các hoạt
    động sau:
    a) Tìm các kích thước và tính diện tích xung quanh, diện tích toàn phần
    của vật đó rồi điền vào bảng sau:

    Vật của
    nhóm
    Chiều dàiChiều rộngChiều
    cao
    Diện tích
    xung quanh
    Diện tích
    toàn phần

    (Gợi ý: Đo các cạnh để tìm chiều dài, chiều rộng, chiều cao; Vận dụng
    quy tắc để tính diện tích xung quanh, diện tích toàn phần của vật)
    (3) Các nhóm có các vật mà diện tích xung quanh, diện tích toàn phần
    bằng nhau ghép bảng với nhau và để 2 vật gần nhau bằng cách hoàn thiện
    bảng sau:

    Vật của
    nhóm
    Chiều dàiChiều rộngChiều
    cao
    Diện tích
    xung quanh
    Diện tích
    toàn phần

    Nêu nhận xét về các vật có diện tích xung quanh, diện tích toàn phần
    bằng nhau.
    (4) Cá nhân giải bài toán sau và chữa bài theo nhóm đôi: Hãy tính số tiền
    cần để sơn bên ngoài một căn nhà hình hộp chữ nhật có chiều dài 10,2 m;
    chiều rộng 5,3 m và chiều cao 3,8 m. Biết cửa chiếm 15% diện tích và 1m2
    sơn hết 215 000 đồng?
    2.2. Tình huống dạy học: Sử dụng đồ dùng dạy học tự làm để giải
    quyết vấn đề – khơi nguồn sáng tạo.
    Tình huống 1: Bài “Luyện tập chung” (trang 101 – SGK Toán 5)
    Tình huống được thiết kế dựa vào mục tiêu của nội dung kiến thức vận
    dụng công thức tính diện tích hình vuông, hình tròn, HS đã biết các đặc điểm
    của hình vuông, hình tròn, biết xác định đường kính, bán kính của hình tròn
    18
    và vừa được trang bị công thức tính diện tích hình hình vuông, hình tròn, có
    khả năng sáng tạo, các em luôn tò mò, ham tìm hiểu thế giới xung quanh
    Mục tiêu: HS biết vận dụng công thức tính diện tích hình vuông, hình

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Thiết kế và sử dụng phiếu học tập trong dạy học Đọc  hiểu nhằm nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 5

    SKKN Thiết kế và sử dụng phiếu học tập trong dạy học Đọc  hiểu nhằm nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 5

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Đặt vấn đề
    Môn Tiếng Việt có vai trò quan trọng trong các môn học ở Tiểu học. Bởi vì
    Tiếng Việt không những dạy cho các em biết các kiến thức về ngữ pháp, về
    ngôn ngữ trong giao tiếp mà còn giúp các em giữ gìn tiếng mẹ đẻ. Tiếng Việt có
    nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh và hướng dẫn học sinh sử dụng từ – câu
    một cách chính xác trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
    Qua thực tế giảng dạy lớp 5 nói chung và ở môn Tiếng Việt lớp 5 nói riêng,
    tôi nhận thấy rằng: “Sách Hướng dẫn học Tiếng Việt 5” giúp học sinh hình
    thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ
    được thể hiện trong bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng sử
    dụng Tiếng Việt (nghe – nói – đọc – viết), kĩ năng thực hành giao tiếp cụ thể.
    Nội dung sách hướng dẫn học tinh giản, tích hợp các kiến thức thiết thực mang
    tính cập nhật, phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi học sinh tiểu học trong thời đại
    mới hiện nay. Trong đó, Tập đọc là phân môn giữ vị trí hết sức quan trọng trong
    quá trình học tập của học sinh. Trước hết, Tập đọc giúp học sinh trau dồi kiến
    thức tiếng Việt, kiến thức đời sống, gia đình, con người, giáo dục tư tưởng đạo
    đức, tình cảm thẩm mĩ. Nó là chìa khoá, là phương tiện để giúp học sinh Tiểu
    học tiếp xúc với kho tàng kiến thức vô tận của nhân loại. Những kinh nghiệm
    của đời sống, những thành tựu văn hóa, khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế
    hệ trước và của cả người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết.
    Giáo dục tiểu học là nền tảng cơ bản trong hệ thống giáo dục quốc dân nên
    giáo dục tiểu học cũng cần chuẩn bị cho học sinh những năng lực cần thiết và
    phù hợp với tâm sinh lí của các em. Một trong những năng lực quan trọng là
    năng lực đọc – hiểu. Năng lực đọc – hiểu là sự hiểu biết, phản hồi lại trước một
    bài đọc, bài viết nhằm đạt được mục đích, phát hiện tr i thức cũng như việc tham
    gia vào các hoạt động xã hội của cá nhân. Đọc – hiểu có vai trò rất quan trọng
    trong đời sống xã hội. Đọc – hiểu là hoạt động tiếp nhận văn học và rèn kĩ năng
    vận dụng ngôn ngữ cho học sinh. Ngoài ra, đọc hiểu còn là công cụ để học sinh
    2
    học các môn học khác. Trong đó kỹ năng đọc hiểu xác định những cái đích mà
    việc đọc của học sinh cần hướng tới, đồng thời cũng là phương tiện để đạt được
    sự thông hiểu văn bản của học sinh. Để tiếp thu những thành tựu văn hóa khoa
    học của nhân loại, để hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho các em.
    Đổi mới phương pháp dạy học là một việc làm cần thiết nhằm nâng cao chất
    lượng dạy học trong nhà trường. Như chúng ta đã biết, vấn đề sử dụng phiếu học
    tập đưa vào giảng dạy tuy không mới nhưng vẫn chưa được phổ biến một cách
    rộng rãi. Vì vậy, việc thiết kế và sử dụng phiếu học tập nhằm nâng cao chất
    lượng học Tiếng Việt, cụ thể là phân môn Tập đọc ( đọc hiểu ) ở Tiểu học là
    việc làm vô cùng cần thiết đối với mỗi giáo viên đứng lớp.
    Xuất phát từ những lí do trên, cùng với kinh nghiệm đứng lớp, tôi đã
    thường xuyên thiết kế và sử dụng Phiếu học tập vào các tiết học Tiếng Việt.
    Tôi thấy các Phiếu học tập ấy thật sự có hiệu quả cao trong giờ học, kích thích
    tư duy độc lập và khả năng sáng tạo của học sinh. Vì vậy, tôi đã chọn và nghiên
    cứu sáng kiến kinh nghiệm: “Thiết kế và sử dụng phiếu học tập trong dạy học
    Đọc – hiểu nhằm nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 5”.
    2. Đối tượng nghiên cứu
    Chương trình Tiếng Việt lớp 5 mới được chia thành các phân môn: Tập đọc
    (đọc – hiểu), Luyện từ và câu, Tập làm văn, Chính tả, Kể chuyện. Mỗi phân môn
    đều đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành kiến thức, kỹ năng và
    nhân cách cho học sinh. Đối với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi sẽ chỉ tập trung
    thiết kế Phiếu học tập dạy học các bài Đọc – hiểu ( Tập đọc) Tiếng Việt lớp 5.
    3. Phạm vi nghiên cứu
    Trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm này tôi tập trung nghiên cứu “Thiết
    kế và sử dụng phiếu học tập nhằm nâng cao chất lượng học Tiếng Việt cho học
    sinh lớp 5” tại Trường Tiểu học Thị trấn Rạng Đông.
    4. Phương pháp nghiên cứu
    3
    – Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
    – Phương pháp tìm hiểu thực tế.
    – Phương pháp phân tích –tổng hợp.
    – Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê.
    – Phương pháp thực nghiệm.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Cơ sở lý luận
    Xuất phát từ thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước cần có những con
    người lao động năng động sáng tạo, phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất
    tiềm năng, khả năng sáng tạo của cá nhân. Vì vậy cùng với việc đổi mới nội
    dung chương trình thì đổi mới phương pháp dạy học đặc biệt là thiết kế và sử
    dụng Phiếu học tập trong mỗi tiết học có một vị trí hết sức quan trọng. Đây là
    việc làm cần thiết góp phần nâng cao chất lượng dạy học cũng như thực hiện
    được mục tiêu giáo dục mà Đảng và nhà nước, ngành giáo dục và đào tạo đề ra.
    Trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt, giáo viên là người tổ chức, hướng
    dẫn hoạt động của học sinh, mọi học sinh đều hoạt động học tập để phát triển
    năng lực cá nhân. Giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh huy động vốn hiểu biết
    và kinh nghiệm của bản thân để học sinh chiếm lĩnh tri thức rồi vận dụng các tri
    thức đó vào thực hành. Tạo cho học sinh thói quen tự giác, chủ động, không dập
    khuôn máy móc, biết tự đánh giá và đánh giá kết quả của bạn. Đồng thời tạo
    điều kiện để học sinh phát huy năng lực, sở trường của mình, biết áp dụng kiến
    thức mới trong bài học vào thực tế đời sống xã hội.
    Môn Tiếng Việt theo chương trình mới có một vị trí quan trọng trong giáo
    dục ở Tiểu học. Thiết kế phiếu học tập phục vụ cho từng nội dung, từng hoàn
    cảnh cụ thể trong dạy học đọc hiểu lớp 5, nhằm tạo ra sự hứng thú học tập cho
    học sinh, phát huy tính sáng tạo, độc lập suy nghĩ và tính tự chủ của học sinh.
    Qua đó, góp phần tăng khả năng sáng tạo và sử dụng phiếu học tập trong giảng
    4
    dạy của giáo viên cũng như hoàn thành mục tiêu bài học Tiếng Việt. Mà cụ thể
    mục tiêu của môn Tiếng Việt ở tiểu học là:
    – Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt
    (đọc, viết, nghe, nói) và cung cấp những kiến thức sơ giản gắn trực tiếp với việc
    học Tiếng Việt nhằm từng bước tạo ở học sinh năng lực dùng Tiếng Việt để học
    tập ở tiểu học và các bậc học cao hơn, để giao tiếp trong các môi trường hoạt
    động của lứa tuổi. – Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt theo chương trình
    trường tiểu học mới Việt Nam góp phần rèn luyện cho học sinh các thao tác tư
    duy cơ bản (phân tích, phán đoán tổng hợp,…)
    – Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những
    hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người; về văn hoá và văn học của
    Việt Nam và nước ngoài để từ đó:
    + Góp phần bồi dưỡng tình yêu cái đẹp, cái thiện, lòng trung thực, lòng tốt, lẽ
    phải và sự công bằng trong xã hội; góp phần hình thành lòng yêu mến và thói
    quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt.
    + Góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, có tri thức, biết
    tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc; biết rèn luyện đời sống lành mạnh,
    ham thích làm việc và thích ứng với cuộc sống xã hội sau này.
    Tóm lại: Ở bậc Tiểu học, môn Tiếng Việt có vị trí đặc biệt quan trọng.
    Học tốt môn Tiếng Việt, học sinh sẽ có cơ sở để tiếp thu và diễn đạt tốt các môn
    học khác. Và chỉ khi nào học sinh hiểu được điều mình đang đọc mới được coi
    là biết đọc. Khi đọc mà hiểu được thì học sinh sẽ hứng thú hơn, ham học hơn.
    Tuy nhiên học sinh Tiểu học không phải lúc nào cũng hiểu được dễ dàng những
    điều mình đang đọc vì còn phải chú ý vào mặt chữ để đọc trơn và lưu loát.
    Ngoài ra do hạn chế về kỹ năng liên kết thành câu, thành ý, nên việc hiểu và nhớ
    nội dung còn khó khăn. Đây là cơ sở đề xuất các biện pháp tối ưu nhất nhằm
    giúp học sinh lớp 5 tự mình chiếm lĩnh tri thức mới và chất lượng đọc hiểu đạt
    được kết quả cao nhất.
    5
    1.2. Thực trạng
    Những năm gần đây do càng ngày càng nhận thức được vai trò của
    phương pháp dạy học trong việc nâng cao chất lượng giáo dục nên ngành đã liên
    tục phát động phong trào đổi mới phương pháp dạy học.
    Thực trạng dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học hiện nay như sau:
    *Thuận lợi
    + Được sự quan tâm của Phòng Giáo dục và Ban giám hiệu nhà trường, sự đồng
    thuận và vào cuộc của cha mẹ học sinh.
    + Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo sát sao qua các buổi sinh
    hoạt chuyên môn, dự giờ tiết dạy, xây dựng các bước dạy cũng như bài dạy,
    cách tổ chức lớp học một cách phù hợp.
    + Giáo viên cũng đã biết cách xây dựng các câu hỏi theo 4 mức độ và vận dụng
    các phương pháp dạy học cũng như hình thức đánh giá nhằm phát huy năng lực
    của từng học sinh.
    + Học sinh có cơ hội chia sẻ những trải nghiệm, được thực hành và vận dụng
    những kiến thức, kĩ năng đã học vào đời sống hàng ngày.
    * Khó khăn
    – Đối với giáo viên:
    + Giáo viên còn ảnh hưởng nhiều cách dạy truyền thụ của chương trình sách
    giáo khoa truyền thống, thiên về truyền đạt nội dung kiến thức, chưa tạo cơ hội
    để học sinh được rèn kĩ năng làm bài, kĩ năng tự học, kĩ năng trải nghiệm và đặc
    biệt chưa quan tâm đến việc giúp học sinh ứng dụng, liên hệ kiến thức đã học
    vào giải quyết các tình huống trong cuộc sống.
    + Một số giáo viên còn chưa nắm rõ các bước thiết kế phiếu học tập và xây dựng
    các đề kiểm tra nên chưa đảm bảo ôn luyện đúng kiến thức trọng tâm trong
    chương trình giúp HS hoàn thành tốt mục tiêu của bài học.
    – Đối với học sinh nói chung và đặc biệt là học sinh lớp 5:
    + Đa số học sinh làm được bài tập trong sách giáo khoa, các câu hỏi và bài tập ở
    mức 1 và mức 2. Song khi làm bài tập vận dụng ( mức 3) và vận dụng sáng tạo (
    6
    mức 4) thì học sinh thường gặp khó khăn, chưa hiểu rõ và nắm chắc nội dung
    của bài học nên làm bài chưa đúng, đạt kết quả chưa cao.
    – Đối với phụ huynh:
    + Một số phụ huynh chưa thực sự vào cuộc, chưa quan tâm và đôn đốc, nhắc
    nhở các em học tập.
    Với thực trạng này bản thân tôi nhận thấy cần phải có phương pháp dạy học
    phù hợp hơn trong quá trình giảng dạy môn Tiếng Việt 5. Đó chính là thiết kế và
    sử dụng phiếu học tập trong dạy học Đọc – hiểu nhằm nâng cao chất lượng dạy
    học môn Tiếng Việt.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1 Mục tiêu của giải pháp
    Lấy học sinh làm trung tâm, học sinh biết hợp tác với các bạn trong
    nhóm và tự làm việc cá nhân. Học sinh phải tham gia các hoạt động học tập một
    cách tích cực và hứng thú. Thông qua các phiếu học tập giúp từng cá nhân, từng
    nhóm học tập tự phát hiện và giải quyết vấn đề của bài học, tự chiếm lĩnh nội
    dung kiến thức và sau bài học biết vận dụng kiến thức đó vào luyện tập thực
    hành và trong cuộc sống hàng ngày. Đây là phương pháp khá mới mẻ đối với
    việc dạy đọc hiểu trong tiết Tập đọc, nhưng đây là một phương tiện có hiệu quả,
    là phương pháp rất cần thiết của việc rèn luyện kỹ năng đọc hiểu, giúp HS có
    năng lực ngôn ngữ và phát triển tư duy. Khi sử dụng phiếu cần thao tác nhịp
    nhàng theo từng bước.
    2.2 Nội dung chương trình và các cách thức thực hiện giải pháp
    2.2.1 Nội dung chương trình, tài liệu sách Hướng dẫn học Tiếng Việt 5
    2.2.1.1. Nội dung chương trình môn Tiếng Việt lớp 5
    Tiếp theo chương trình tập đọc lớp 1,2,3,4, phân môn Tập đọc ở lớp 5 được
    học mỗi tuần 2 tiết. Thông qua 61 bài tập đọc thuộc các loại hình văn bản nghệ
    thuật, báo chí, khoa học, trong đó có 44 bài văn xuôi ( 4 bài là trích đoạn kịch),
    17 bài thơ ( có 3 bài ca dao ngắn được dạy trong cùng một tiết), phân môn Tập
    7
    đọc ở lớp 5 tiếp tục củng cố, nâng cao kĩ năng đọc trơn, đọc thầm, tiếp tục rèn
    luyện kĩ năng đọc diễn cảm là kĩ năng bắt đầu được rèn luyện từ lớp 4.
    Qua phần hướng dẫn sư phạm cuối mỗi bài tập đọc ( bao gồm các mục giải
    nghĩa từ, câu hỏi), phân môn Tập đọc còn giúp học sinh nâng cao kĩ năng
    đọc – hiểu văn bản, cụ thể là:
    – Nhận biết đề tài, cấu trúc của bài.
    – Biết cách tóm tắt bài, làm quen với thao tác đọc lướt để nắm ý.
    – Phát hiện giá trị của một số biện pháp nghệ thuật trong các văn bản.
    Chương trình Tập đọc lớp 5 hướng đến đạt được chuẩn về kĩ năng đọc như
    sau:
    – Tốc độ đọc tối thiểu khoảng 120 tiếng / phút.
    – Đọc hiểu:
    + Biết tìm đại ý, tóm tắt bài văn, chia đoạn, rút ra dàn ý của bài.
    + Nhận ra các mối quan hệ giữa các nhân vật, sự kiện trong bài.
    + Bước đầu biết đánh giá nhân vật, chi tiết, ngôn ngữ trong các bài tập đọc có
    giá trị văn chương.
    + Hiểu các kí hiệu, các số liệu trên sơ đồ, biểu đồ, bảng hiệu, …
    2.2.1.2. Các chủ điểm trong sách hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 5
    Sách hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 5 được chia thành 10 chủ điểm, mỗi chủ
    điểm sẽ được học trong 3 tuần. Các chủ điểm đó là:
    + Chủ điểm 1: Việt Nam- Tổ quốc em
    + Chủ điểm 2: Cánh chim hòa bình
    + Chủ điểm 3: Con người với thiên nhiên
    + Chủ điểm 4: Giữ lấy màu xanh
    + Chủ điểm 5: Vì hạnh phúc con người
    + Chủ điểm 6: Người công dân
    + Chủ điểm 7: Vì cuộc sống thanh bình
    + Chủ điểm 8: Nhớ nguồn
    + Chủ điểm 9: Nam và nữ
    8
    + Chủ điểm 10: Những chủ nhân tương lai
    2.2.2 Đặc điểm của phiếu học tập
    2.2.2.1 Khái niệm về phiếu học tập
    Phiếu học tập vẫn được hiểu đó là những bài tập được giáo viên thiết kế sẵn
    các vấn đề học tập dưới dạng làm bài tập trắc nghiệm, gạch, nối, trả lời câu hỏi,
    hoàn thành sơ đồ hay bảng biểu, phát biểu suy nghĩ của học sinh về một vấn đề
    nào đó trên mẫu giấy rời nhằm yêu cầu học sinh thực hiện trong một thời gian
    ngắn của tiết học tại lớp hoặc cũng có thể giao cho học sinh thực hiện trước ở
    nhà. Hay ta có thể nói là có thể sử dụng phiếu học tập giao cho học sinh thực
    hiện với mọi thời điểm nhằm rèn luyện kĩ năng và hoàn thành nội dung trọng
    tâm của bài học cũng như đem lại kết quả học tập tốt hơn cho học sinh.
    2.2.2.2 Vai trò của phiếu học tập
    Cung cấp thông tin và sự kiện: Phiếu học tập chứa đựng thông tin, dữ liệu
    hoặc sự kiện hoặc dùng làm cơ sở cho một hoạt động nhận thức nào đó. Công cụ
    hoạt động và giao tiếp: Phiếu học tập chứa đựng các câu hỏi, bài tập, yêu cầu
    hoạt động, những vấn đề để yêu cầu học sinh giải quyết, hoặc thực hiện kèm
    theo những hướng dẫn, gợi ý cách làm…
    2.2.2.3 Phân loại phiếu học tập
    + Dựa vào mục đích: Phiếu học tập, phiếu ôn tập, phiếu kiểm tra.
    + Dựa vào nội dung: Phiếu thông tin: Nội dung gồm các thông tin bổ sung, mở
    rộng, minh họa cho các kiến thức cơ bản của bài. Phiếu bài tập: Nội dung là các
    bài tập nhận thức hoặc bài tập củng cố. Phiếu yêu cầu: Nội dung là các vấn đề và
    tình huống cần phải giải quyết. Phiếu thực hành: Nội dung liên quan đến những
    nhiệm vụ thực hành, rèn luyện kĩ năng.
    + Dựa vào hình thức, cách thức tổ chức: Giáo viên có thể thiết kế phiếu học tập:
    trò chơi, hành trình khám phá tri thức môn Toán, môn học khác cũng như các
    kiến thức trong xã hội; đóng vai người có trách nhiệm (thám tử, quan tòa, nhà
    phân tích…) để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống…
    9
    2.3 Một số giải pháp để thiết kế và sử dụng phiếu học tập trong dạy học Đọc
    – hiểu nhằm nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp 5
    2.3.1 Giải pháp 1: Xây dựng phiếu học tập theo từng chủ đề nhằm phát triển
    năng lực đọc hiểu cho từng cá nhân học sinh.
    2.3.1.1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống phiếu bài tập theo chủ đề.
    * Hệ thống phiếu bài tập cần xây dưng sao cho kiểm tra, bôi dưỡng, phát triển
    được các kiến thức, kĩ năng cơ bản; nhằm đạt mục tiêu dạy học.
    Định hướng này nhằm xác định rõ tính mục tiêu của việc xây dựng hệ thống
    bài tập là nhằm củng cố kiến thức, rèn luyện kĩ năng cơ bản cho học sinh
    * Hệ thống phiếu bài tập cần được xây dưng sao cho phù hợp với nhiều đối
    tượng học sinh với khả năng học tập khác nhau về môn Tiếng Việt.
    Định hướng này nhằm giúp giáo viên xác định đến tính đa đối tượng của hệ
    thống bài tập, phù hợp cho việc dạy học phân hoá.
    *Hệ thống phiếu bài tập phải đảm bảo tính thưc tiễn.
    Nội dung các bài tập phải gắn kiến thức với thực tiễn cuộc sống. Câu hỏi là
    công cụ mở rộng kiến thức vốn hiểu biết của học sinh một cách đa dạng không
    nhàm chán mà còn mang hiệu quả tích cực.
    2.3.1.2. Các bước xây dựng hệ thống câu hỏi trong phiếu học tập theo hướng
    phát triển năng lực.
    + Bước 1: Lựa chọn chủ đề: Đọc hiểu văn bản căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ
    năng của môn học. Mỗi chủ đề lớn có thể chia thành những chủ đề nhỏ để xây
    dựng câu hỏi/ bài tập.
    + Bước 2: Xác định mục tiêu kiểm tra, yêu cầu của kiến thức, nội dung đạt được
    trong bài làm của học sinh: Chuẩn kiến thức- kỹ năng theo yêu cầu của môn học.
    Chú ý kĩ năng cần hướng đến những năng lực có thể hình thành và phát triển sau
    mỗi bài tập.
    + Bước 3: Lập bảng mô tả mức độ đánh giá theo định hướng năng lực. Bảng mô
    tả mức độ đánh giá theo năng lực được sắp xếp theo các mức: nhận biết – thông
    10
    hiểu – vận dụng – vận dụng cao. Khi xác định các biểu hiện của từng mức độ,
    đến mức độ vận dụng cao chính là học sinh đã có được những năng lực cần
    thiết theo chủ đề.

    Các bậc nhận thứcĐộng từ mô tả
    Biết: Sự nhớ lại, tái hiện kiến thức,
    tài liệu được học tập trước đó như
    các sự kiện, thuật ngữ hay các
    nguyên lí, quy trình.
    – (Hãy) định nghĩa, mô tả, nhận biết,
    đánh dấu, liệt kê, gọi tên, phát biểu,
    chọn ra, …
    Hiểu: Khả năng hiểu biết về sự kiện,
    nguyên lý, giải thích tài liệu học tập,
    nhưng không nhất thiết phải liên hệ
    các tư liệu.
    – (Hãy) phân biệt, ước tính, giải thích,
    mở rộng, khái quát, cho ví dụ.
    Vận dụng thấp: Khả năng vận dụng
    các tài liệu đó vào tình huống mới cụ
    thể hoặc để giải quyết các bài tập.
    – (Hãy) xác định, khám phám,sửa đổi,
    dự đoán, chuẩn bị, tạo ra, thiết lập liên
    hệ, giải quyết.
    – (Hãy) vẽ sơ đồ, phân biệt, minh họa,
    suy luận, tách biệt, chia nhỏ ra…
    Vận dụng cao:
    Khả năng đặt các thành phần với
    nhau để tạo thành một tổng thể hay
    hình mẫu mới, hoặc giải các bài tập
    bằng tư duy sáng tạo.
    Khả năng phê phán, thẩm định giá trị
    của tư liệu theo một mục đích nhất
    định.
    – (Hãy) phân loại, tổ hợp lại, biên tập
    lại, thiết kế, lí giải, tổ chức, lập kế
    hoạch, sắp xếp lại, cấu trúc lại, tóm tắt,
    sửa lại, viết lại, kể lại.
    – (Hãy) đánh giá, so sánh, đưa ra kết
    luận thỏa thuận, phê bình, mô tả, suy
    xét, phân biệt, giải thích, đưa ra nhận
    định.

    11
    + Bước 4: Xác định hình thức công cụ đánh giá (các dạng câu hỏi/bài tập):
    Công cụ đánh giá bao gồm các câu hỏi/bài tập định tính, định lượng, nhằm cung
    cấp các bằng chứng cụ thể liên quan đến chuyên đề và nội dung học tập tương
    ứng với các mức độ trên. Chú ý các bài tập thực hành gắn với các tình huống
    trong cuộc sống, tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm theo bài học.
    2.3.1.3 Thiết kế hệ thống phiếu học tập cần dựa theo bốn mức độ trong Thông
    tư 22
    Theo điều 10 trong thông tư 22, đã quy định về đề kiểm tra cần phù hợp với
    chuẩn kiến thức, kĩ năng và định hướng phát triển năng lực, gồm các câu hỏi và
    bài tập được thiết kế theo các mức sau:
    -Mức độ 1: nhận biết, nhắc lại được kiến thức, kĩ năng đã học
    – Mức độ 2 : hiểu kiến thức, kĩ năng đã học, trình bày, giải thích được kiến thức
    theo cách hiểu của cá nhân.
    -Mức độ 3: biết vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết những vấn đề
    quen thuộc tương tự trong học tập, cuộc sống.
    -Mức độ 4: vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học giải quyết những vấn
    đề mới hoặc đưa ra những phản hồi hợp lí trong học tập, trong cuộc sống một
    cách linh hoạt. Học sinh có khả năng vận dụng các khái niệm cơ bản để giải
    quyết một vấn đề mới hoặc không quen thuộc, chưa từng được học hoặc trải
    nghiệm trước đây.
    Việc xây dựng câu hỏi, hệ thống bài tập kiểm tra theo bốn mức độ trong
    Thông tư 22 phải phù hợp với đối tượng học sinh, thời gian học tập, lượng chủ
    đề kiến thức để tiến hành kiểm tra đánh giá.
    2.3.1.4 Thiết kế một số phiếu học tập cho các chủ điểm trong sách hướng dẫn
    học Tiếng Việt lớp 5
    * Chủ điểm Việt Nam – Tổ quốc em:
    Chủ điểm này được học trong 3 tuần: từ tuần 1 đến tuần 3.
    12
    PHIẾU HỌC TẬP CHỦ ĐIỂM VIỆT NAM – TỔ QUỐC EM
    Quang cảnh làng mạc ngày mùa
    Mùa đông, giữa ngày mùa, làng quê toàn màu vàng – những màu vàng
    rất khác nhau.
    Có lẽ bắt đầu từ những đêm sương sa thì bóng tối đã hơi cứng và sáng
    ngày ra thì trông thấy màu trời có vàng hơn thường khi. Màu lúa chín dưới
    đồng vàng xuộm lại. Nắng nhạt ngả màu vàng hoe. Trong vườn, lắc lư
    những chùm quả xoan vàng lịm không trông thấy cuống, như những chuỗi
    tràng hạt bồ đề treo lơ lửng.
    Từng chiếc lá mít vàng ối. Tàu đu đủ, chiếc lá sắn héo lại mở năm cánh
    vàng tươi. Buồng chuối đốm quả chín vàng. Những tàu lá chuối vàng ối xõa
    xuống như những đuôi áo, vạt áo. Nắng vườn chuối đương có gió lẫn với lá
    vàng như những vạt áo nắng, đuôi áo nắng, vẫy vẫy. Bụi mía vàng xọng, đốt
    ngầu phấn trắng. Dưới sân, rơm và thóc vàng giòn. Quanh đó con gà, con
    chó cũng vàng mượt. Mái nhà phủ một màu rơm vàng mới. Lác đác cây lụi
    có mấy chiếc lá đỏ. Qua khe giậu, ló ra mấy quả ớt đỏ chói.
    (Tô Hoài)
    Câu 1 ( M1). Tìm những chi tiết nói về con người khiến bức tranh làng quê
    thêm sinh động?
    A. Hồ như không ai tưởng đến ngày hay đêm, mà chỉ mải miết đi gặt, kéo
    đá, cắt rạ, chia thóc hợp tác xã.
    B. Ai cũng vậy cứ buông bát đũa lại đi ngay, cứ trở dậy là ra ngoài đồng
    ngay.
    C. Có lẽ bắt đầu từ những đêm sương sa thì bóng tối đã hơi cứng và sáng
    ngày ra thì trông thấy màu trời có vàng hơn thường khi.
    D. Cả A và B
    Câu 2 (M1). Chi tiết nào về thời tiết làm cho bức tranh làng quê thêm đẹp
    và sinh động?
    A. Không có cảm giác héo tàn hanh hao lúc sắp bước vào mùa đông.
    13
    B. Hơi thở của đất trời, mặt nước thơm thơm, nhè nhẹ.
    C.Ngày không nắng, không mưa
    D. Tất cả các đáp án trên.
    Câu 3 (M2) Từ nào sau đây có nghĩa là “màu vàng gợi cảm giác như được
    phơi khô bởi nắng”?
    A. vàng giòn C. vàng hoe
    B. vàng xuộm D. vàng mượt
    Câu 4 ( M2) Từ nào sau đây có nghĩa chỉ “Màu vàng gợi sự giàu có, ấm
    no”?
    A. Vàng trù phú, đầm ấm C. Vàng tươi
    B. Vàng mới D. Vàng giòn
    Câu 5 (M2) Các sự vật trong bài đều được miêu tả bằng một màu vàng với
    nhiều mức độ khác nhau, theo em màu vàng trong bài biểu thị điều gì?
    A. Màu vàng của sự giàu có, trù phú.
    B. Màu vàng của sự vàng vọt, yếu ớt
    C. Màu vàng của sự bền vững
    D. Màu vàng của sự sống động, tươi mới.
    Câu 6 ( M3): Tìm các từ chỉ màu vàng có trong bài văn và đặt câu với một
    trong các từ em vừa tìm được.
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………..
    Câu 7 ( M3) Bài văn “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” thể hiện tình cảm
    gì của tác giả đối với quê hương?
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………..
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………..
    14
    Đối với mỗi phiếu học tập tôi thường thiết kế như sau:
    + Câu 1, câu 2 sẽ được thiết kế ở mức độ 1 để dành cho tất cả học sinh trong
    lớp, đặc biệt là học sinh có học lực trung bình yếu. Những câu hỏi này giúp học
    sinh nhận biết, tìm được các ý trả lời ngay trong đoạn văn đọc hiểu.
    Ví dụ : Câu 1 trong phiếu học tập ở trên, sau khi học sinh đọc xong bài văn,
    các em sẽ tìm được những chi tiết nói về con người khiến bức tranh làng quê
    thêm sinh động, gạch chân dưới các ý tìm được trong bài văn và chọn được đáp
    án đúng.
    Tương tự với câu hỏi số 2 là tìm các chi tiết về thời tiết làm cho bức tranh
    làng quê thêm đẹp và sinh động, học sinh cũng tìm ý và gạch chân trong bài văn,
    sau đó sẽ tìm được đáp án đúng.
    Câu 8 ( M3)Ý nghĩa của bài văn Quang cảnh làng mạc ngày mùa là gì?
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………..
    Câu 9 ( M4). Em hãy viết 5-7 câu văn tả về quang cảnh làng mạc ngày mùa
    ở quê em.
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………..
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………..
    15
    + Câu 3, câu 4 hoặc câu 5 sẽ được thiết kế ở mức độ 2 để dành cho tất cả học
    sinh trong lớp, đặc biệt là học sinh có học lực trung bình. Với những câu hỏi này
    các em sẽ trình bày, giải thích được kiến thức theo cách hiểu của bản thân mình.
    Ví dụ: câu số 3 trong phiếu học tập yêu cầu học sinh tìm từ có nghĩa là
    “màu vàng gợi cảm giác như được phơi khô bởi nắng”. Sau khi đọc bài văn, hiểu
    nghĩa của các từ chỉ màu vàng trong từng câu văn, các em sẽ tìm được từ chỉ
    màu vàng có nghĩa như yêu cầu của câu hỏi.
    + Câu 6, câu 7 hoặc câu 8 sẽ được thiết kế ở mức độ 3 chủ yếu dành cho học
    sinh có nhận thức khá.
    Ví dụ : câu số 6 trong phiếu học tập yêu cầu: Tìm các từ chỉ màu vàng có
    trong bài văn và đặt câu với một trong các từ vừa tìm được. Học sinh sẽ đọc
    đoạn văn và tìm các từ chỉ màu vàng, sau đó chọn một trong các từ đó để đặt
    thành một câu có ý nghĩa và trình bày câu đúng ngữ pháp.
    Câu 7: yêu cầu học sinh nêu lên tình cảm của tác giả được thể hiện trong
    bài văn. Các em sẽ đọc bài văn, tóm tắt ý và nêu lên được tình cảm của tác giả.
    + Câu cuối cùng trong phiếu học tập sẽ được thiết kế dành cho học sinh có nhận
    thức tốt ( học lực giỏi).
    Ví dụ: Câu 9 yêu cầu học sinh viết 5-7 câu văn tả về quang cảnh làng mạc
    ngày mùa ở quê em. Sau khi đọc bài văn, các em đã hiểu được nội dung, ý nghĩa
    của bài văn và dựa vào các chi tiết, hình ảnh trong bài văn cũng như những hiểu
    biết, quan sát của mình về quang cảnh làng mạc ngày mùa ở nơi mình ở để viết
    được đoạn văn theo đúng yêu cầu.
    *Chủ điểm Cánh chim hòa bình
    – Chủ điểm này được dạy trong 3 tuần: từ tuần 4 đến tuần 6
    16
    PHIẾU HỌC TẬP CHỦ ĐIỂM CÁNH CHIM HÒA BÌNH
    Những con sếu bằng giấy
    Ngày 16-7-1945, nước Mĩ chế tạo được bom nguyên tử. Hơn nửa
    tháng sau, chính phủ Mĩ quyết định ném cả hai quả bom mới chế tạo xuống
    Nhật Bản.
    Hai quả bom ném xuống các thành phố Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki đã
    cướp đi mạng sống của gần nửa triệu người. Đến năm 1951, lại có thêm
    gần
    100 000 người ở Hi-rô-si-ma bị chết do nhiễm phóng xạ nguyên tử.
    Khi Hi-rô-si-ma bị ném bom, cô bé Xa-xa-cô Xa-xa-ki mới hai tuổi đã
    may mắn thoát nạn. Nhưng em bị nhiễm phóng xạ. Mười năm sau, em lâm
    bệnh nặng. Nằm trong bệnh viện nhẩm đếm từng ngày còn lại của đời
    mình, cô bé ngây thơ tin vào một truyền thuyết nói rằng nếu gấp đủ một
    nghìn con sếu bằng giấy treo quanh phòng, em sẽ khỏi bệnh. Em liền lặng
    lẽ gấp sếu..
    Biết chuyện, trẻ em toàn nước Nhật và nhiều nơi trên thế giới đã tới tấp gửi
    hàng nghìn con sếu giấy đến cho Xa-xa-cô. Nhưng Xa-xa-cô chết khi em
    mới gấp được 644 con.
    Xúc động trước cái chết của em, học sinh thành phố Hi-rô-si-ma đã
    quyên góp tiền xây một tượng đài tưởng nhớ những nạn nhân bị bom
    nguyên tử sát hại. Trên đỉnh tượng đài cao 9 mét là hình một bé gái giơ cao
    hai tay nâng một con sếu. Dưới tượng đài khắc dòng chữ: “Chúng tôi muốn
    thế giới này mãi mãi hòa bình”.
    (Theo Những mẩu chuyện lịch sử thế giới)
    Câu 1(M1) . Nước Mĩ đã chế tạo và ném thứ gì lên Nhật Bản?
    A. Tàu vũ trụ
    B. Bom B52
    C. Hạt nhân nguyên tử
    D. Bom nguyên tử
    Câu 2 (M1). Hai quả bom nguyên tử đã được ném xuống thành phố nào
    của Nhật Bản?
    17
    A. Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki
    B. Na-ga-sa-ki và Tô-ky-ô
    C. Hi-rô-si-ma và Ô-sa-ka
    D. Na-ga-sa-ki và Ky-ô-tô
    Câu 3 (M2). Mĩ ném hai quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản đã để lại hậu
    quả nghiêm trọng như thế nào?
    A. Hàng trăm nghìn người mất nhà, lưu lạc, thương vong.
    B. Hàng trăm nghìn người chết đói vì bom phá tan các ruộng đồng, nhà cửa,
    C. Gần nửa triệu người thiệt mạng, sau 6 năm có thêm gần 100 000 người
    chết do nhiễm phóng xạ nguyên tử.
    D. Gần triệu người thiệt mạng, sau 6 năm có thêm gần 100 000 người ở Naga-sa-ki chết do nhiễm phóng xạ nguyên tử.
    Câu 4 (M2). “Chúng tôi muốn thế giới này mãi mãi hòa bình”. Em hãy tìm
    từ trái nghĩa với từ gạch chân trong câu văn trên?
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    Câu 5(M3) Điền vào chỗ trống một từ trái nghĩa với từ in đậm và đặt câu
    với từ đó?
    Xa-xa-cô đã chết nhưng hình ảnh của em còn………. Mãi trong kí ức
    của loài người như lời nhắc nhở về thảm họa của chiến tranh hủy diệt.
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    ………………………………………………………………………………
    18
    Câu 6(M3). Em thấy Xa-xa-cô là cô bé như thế nào? Em hãy viết 1- 2 câu
    nêu lên nhận xét của em?
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………….
    ………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………….
    Câu 7 (M3). Nội dung của bài “Những con sếu bằng giấy” là gì?
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………….
    Câu 8 (M4): Nếu là em, em sẽ làm gì để bày tỏ nguyện vọng hòa bình?
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………….…………
    …………………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………………
    19
    *Chủ điểm Con người với thiên nhiên
    PHIẾU HỌC TẬP CHỦ ĐIỂM CON NGƯỜI VỚI THIÊN NHIÊN
    Kì diệu rừng xanh

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Thiết kế phiếu đánh giá bài Tập làm văn dành cho học sinh lớp 5

    SKKN Thiết kế phiếu đánh giá bài Tập làm văn dành cho học sinh lớp 5

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Ngay từ bậc Tiểu học,Tiếng Việt đã được xem là một trong những
    môn học có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành các phẩm chất
    của con người và trong việc thực hiện những nhiệm vụ giáo dục. Trong các
    phân môn của môn Tiếng Việt, Tập làm văn có vị trí đặc biệt quan trọng.Bởi vì
    Tập làm văn (TLV) sử dụng và hoàn thiện một cách tổng hợp các kiến thức và
    kĩ năng tiếng Việt mà các phân môn khác đã hình thành; rèn cho học sinh kĩ
    năng sản sinh ngôn bản, nhờ đó tiếng Việt không chỉ được xem xét từng phần,
    từng mặt qua từng phân môn mà còn trở thành một công cụ tổng hợp để giao
    tiếp. Có thể thấy, TLV là cái đích cuối cùng của việc học tiếng Việt ở Tiểu
    học.Từ đó, các em được mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm
    hồn, cảm xúc , thẩm mỹ, hình thành nhân cách.
    2. Chúng ta đều biết kiểm tra, đánh giá là một khâu rất quan trọng của
    quá trình giáo dục. Thông qua kiểm tra, đánh giá, người học nắm rõ hơn tình
    hình học tập của mình, người dạy thông qua đó để có thể điều chỉnh chương
    trình dạy học sao cho phù hợp với khả năng của người học cũng như phân loại
    HS chính xác hơn.Hình thức, nội dung của kiểm tra đánh giá cũng có ảnh
    hưởng lớn đến quy trình, nội dung và phương pháp giảng dạy.Như vậy, vấn đề
    đặt ra là phải tổ chức kiểm tra đánh giá như thế nào để quá trình dạy học đạt
    hiệu quả nhất.Theo quan niệm “truyền thống”, chủ thể đánh giá luôn là giáo
    viên. Hiện nay, theo quan điểm mới về đánh giá coi trọng sự tự đánh giá của
    người học. Đồng thời, qua nhận xét sản phẩm lời nói của bản thân và của bạn,
    một cách tự nhiên, học sinh bước đầu hiểu thế nào là một bài văn hay và cần
    làm thế nào để có một bài văn hay.
    Hướng đến việc tích cực hóa người học, giáo viên thiết kế một tập hợp
    các hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người học từ thụ động sang
    chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức đến chủ thể tìm kiếm tri thức để
    3
    nâng cao hiệu quả học tập. Trong đó, việc khuyến khích và tạo cơ hội cho học
    sinh tự đánh giá là cần thiết.Kết hợp với các hình thức kiểm tra, đánh giá được
    tổ chức định kì trong chương trình môn học, tự đánh giá sẽ phản ánh kết quả
    học tập của học sinh toàn diện hơn.
    Trong đánh giá, phiếu đánh giá có vai trò quan trọng. Đó là công cụ gợi ý
    cho người đánh giá các chỉ tiêu để biết một bài văn có đủ ý không, các chi tiết
    có được sắp xếp theo trình tự hợp lí không, trong bài có chi tiết nào hay và chi
    tiết nào cần sửa, thậm chí cần gạch bỏ.Các công cụ hỗ trợ quá trình tự đánh
    giá không chỉ là hướng dẫn học sinh đánh giá kết quả đạt được mà hơn thế
    nữa là định hướng cho học sinh tự đánh giá quá trình thực hiện các nhiệm vụ
    trong học tập môn học.
    Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Thiết kế
    phiếu đánh giá bài Tập làm văn (dành cho học sinh lớp 5)” với hi vọng
    góp phần nâng cao chất lượng dạy và học văn cũng như khả năng tự đánh giá
    kết quả học tập của học sinh lớp 5.
    II MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp khi tạo ra sáng kiến
    Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã đàm thoại, phỏng vấn, dùng phiếu
    hỏi để làm rõ những vấn đề lí luận và những nội dung cần tìm hiểu. Bên cạnh
    đó, tôi còn trao đổi, phỏng vấn trực tiếp với học sinh hoặc hỏi ý kiến các em
    qua các phiếu hỏi dành cho học sinh.
    Sau đây là một số phiếu tôi đã thu được sau quá trình điều tra , dạy học
    về thực trạng học Tập Làm Văn đối với 34 học sinh lớp 5C Trường Tiểu học
    Thị trấn Nam Giang – Nam Trực – Nam Định
    4
    Phiếu hỏi số 1 học sinh đã thực hiện
    5
    Phiếu hỏi số 2 học sinh đã thực hiện
    6
    Phiếu hỏi số 3 học sinh đã thực hiện
    7
    2. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN
    2.1 .Những vấn đề về đánh giá và tự đánh giá trong dạy học
    Một xu hướng chung của dạy học hiện đại là “lấy người học làm trung
    tâm”. Quan điểm này có cơ sở lí luận từ việc nhận thức quá trình dạy học là
    quá trình có hai chủ thể: Thầy và Trò. Cả hai chủ thể này đều chủ động, tích
    cực, bằng hoạt động của mình hướng tới tri thức, thầy thì hoạt động truyền
    đạt tri thức, còn trò thì hoạt động chiếm lĩnh tri thức và biến nó thành vốn
    hiểu biết của mình để tiếp tục hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
    Hoạt động của thầy và hoạt động của trò đều là hoạt động có ý thức, dưới sự
    chỉ huy của ý thức để đạt được mục tiêu của mình.Vì vậy, kết quả nhận thức
    của họ trong các quá trình nhận thức là công cụ cho họ thực hiện mục đích
    của mình.
    Thực hiện chương trình dạy học theo quan điểm dạy học lấy người học
    làm trung tâm trong hoạt động kiểm tra đánh giá của thầy và trò tương ứng
    như sau: Người học tự hành động, tự kiểm tra, tự điều chỉnh – Thầy làm cố
    vấn chỉ dẫn cho học sinh cách thức hoạt động và tháo gỡ những thắc mắc, khó
    khăn chung. Khâu đánh giá chất lượng, hiệu quả dạy học có tác dụng quan
    trọng đến việc điều chỉnh cách dạy, cách học, đảm bảo thực hiện nội dung và
    mục đích đã quy định. Trong dạy học lấy học sinh làm trung tâm, học sinh tự
    giác chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mình, được tham gia tự đánh giá
    và đánh giá lẫn nhau về mức độ đạt các mực tiêu của từng phần trong chương
    trình học, chú trọng bổ khuyết những mặt chưa đạt được. Giáo viên phải
    hướng dẫn cho học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá, không thể chỉ dừng lại
    ở yêu cầu tái hiện kiến thức, lặp lại kĩ năng đã học mà phải khuyến khích óc
    sáng tạo, phát hiện sự chuyển biến thái độ và xu hướng hành vi của học sinh
    trước những vấn đề của đời sống gia đình và cộng đồng, rèn luyện khả năng
    phát triển và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong tình huống thực tế. Việc
    sử dụng các phương tiện kĩ thuật sẽ tạo điều kiện tăng nhịp độ kiểm tra, giúp
    8
    học sinh có thể thường xuyên tự kiểm tra, làm giảm nhẹ hoạt động kiểm tra
    đánh giá của giáo viên. Đặt người học vào vị trí trung tâm của hoạt động dạy
    học, xem cá nhân người học – với những phẩm chất và năng lực của riêng mỗi
    người – vừa là chủ thể vừa là mục đích của quá trình đó, phấn đấu tiến tới cá
    thể hóa quá trình học tập với sự trợ giúp của các phương tiện thiết bị hiện đại,
    để cho tiềm năng của mỗi học sinh được phát triển tối ưu, góp phần có hiệu
    quả
    2.2. Những vấn đề thực tiễn trong việc sử dụng phiếu tự đánh giá và
    phiếu đánh giá bài tập làm văn cho học sinh lớp 5
    2.2.1. Cấu trúc và nội dung dạy học Tập làm văn lớp 5
    a. Cấu trúc và phân phối chương trình dạy TLV lớp 5

    Học kì I
    (số tiết)
    Học kì II
    (số tiết)
    Cả năm
    (số tiết)
    Kể chuyện (ôn tập)0303
    Miêu tả
    – Miêu tả đồ vật (ôn tập)
    – Miêu tả cây cối (ôn tập)
    – Miêu tả con vật (ôn tập)
    – Miêu tả cảnh
    – Miêu tả người



    14
    08
    04
    03
    03
    04
    07
    04
    03
    03
    18
    15
    Các loại văn bản khác
    – Báo cáo thống kê
    – Đơn
    – Thuyết trình, tranh luận
    – Biên bản
    – Chương trình hoạt động
    – Chuyển đoạn văn thành kịch
    02
    03
    02
    03





    03
    03
    02
    03
    02
    03
    03
    03
    Tổng số tiết323062

    b.. Nội dung dạy học TLV lớp 5
    9
    Trong phân môn Tập làm văn lớp 5, cụ thể ở phần văn miêu tả, bên
    cạnh việc tiếp tục ôn tập miêu tả đồ vật, cây cối, con vật, học sinh bắt đầu học
    văn tả cảnh và tả người. Đây là hai nội dung có yêu cầu cao hơn so với những
    nội dung trước đó và cũng chiếm đa phần trong các tiết học Tập làm văn.Cụ
    thể, văn tả cảnh chiếm 18/62 tiết, văn tả người chiếm 15/62 tiết còn các văn
    miêu tả khác chỉ từ 3 đến 4 tiết ôn tập trong cả chương trình Tập làm văn lớp
    5.Chính vì thế, việc tìm tòi ra những biện pháp nhằm năng cao kĩ năng viết
    văn cho học sinh lớp 5 ở hai dạng văn mới này là việc làm rất cần thiết. Văn
    miêu tả cảnh và miêu tả người tuy có những điểm khác biệt về bố cục phần
    thân bài, nội dung và trình tự miêu tả nhưng vẫn tập trung vào việc học sinh
    thể hiện rõ sự quan sát và chọn lọc chi tiết làm nổi bật đối tượng miêu tả mà
    các em đưa vào bài văn của mình.
    2.2.2. Thực trạng dạy học về vấn đề kiểm tra, đánh giá của học sinh
    lớp 5 hiện nay
    Sau khi đã điều tra bằng phiếu hỏi với 34 học sinh lớp 5C Trường Tiểu
    học Thị trấn Nam Giang – Nam Trực – Nam Định, tôi nhận thấy đa phần học
    sinh mới chỉ có thói quen kiểm tra lại bài sau khi giáo viên đã chấm chữa vào
    tiết trả bài. Ngay cả ở bước này, tuy được thực hiện trong cả một tiết nhưng
    vẫn tồn tại một số học sinh còn lơ đãng, chưa chú tâm đến phần bài chữa của
    mình, của cô và các bạn khác. Rất ít em thực hiện được bước rà soát, tự kiểm
    tra bài trước khi nộp hay trao đổi bài với bạn dù đa phần các em đều nhận
    thấy bước kiểm tra, đánh giá là cần thiết hoặc rất cần thiết. Vì thế, chúng tôi
    chọn đề tài này nhằm phát huy hết tính ưu điểm của bước kiểm tra, đánh giá.
    2.3 THIẾT KẾ, SỬ DỤNG PHIẾU ĐÁNH GIÁ BÀI VĂN TẢ CẢNH VÀ
    ĐÁNH GIÁ BÀI VĂN TẢ NGƯỜI CỦA HỌC SINH LỚP 5
    I. Phiếu tự đánh giá trong phân môn Tập Làm Văn lớp 5
    1. Phương pháp tự đánh giá trong dạy học tiểu học
    1.1. Vai trò của tự đánh giá
    10
    Đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình
    giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo
    dục và sẽ trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu
    cầu cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một qúa trình giáo dục. Đánh giá
    kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lí thông tin về trình độ, khả năng
    thực hiện mục tiêu học tập của học sinh về tác động và nguyên nhân của tình
    hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà
    trường cho bản thân học sinh để học sinh học tập ngày một tiến bộ hơn.
    Tự đánh giá đáp ứng được những yêu cầu mới của mục tiêu là kiểm tra,
    đánh giá theo hướng phát triển trí thông minh sáng tạo của học sinh, khuyến
    khích vận dụng linh hoạt các kiến thức kĩ năng đã học vào những tình huống
    thực tế, làm bộc lộ những cảm xúc, thái độ của học sinh trước những vấn đề
    nóng hổi của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng. Đồng thời, việc kiểm
    tra, đánh giá hướng vào việc bám sát mục tiêu và nội dung của từng bài, từng
    phần và mục tiêu giáo dục của môn học. Các câu hỏi, các tiêu chi sẽ đo được
    mức độ thực hiện các mục tiêu được xác định, hướng tới yêu cầu kiểm tra
    đánh giá công bằng, khách quan kết quả học tập của học sinh; chú ý hơn tới
    đánh giá cả quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh, quan tâm tới mức độ hoạt
    động tích cực, chủ động của học sinh trong từng tiết học.
    1.2. Ưu điểm và hạn chế
    1.2.1.Ưu điểm
    – Kiểm soát được việc học của bản thân, giúp học sinh nhận thức sâu sắc
    hơn về những gì mình đã học, đã tiến bộ và những gì cần cố gắng.
    – Học sinh phải biết chịu trách nhiệm về kết quả học tập của chính bản
    thân minh.
    – Tự tin hơn về những gì mà các em đã hoàn thành được.
    – Giải quyết tư duy phê phán, độc lập trong giải quyết một nhiệm vụ học
    tập.
    11
    – Đảm bảo tính rõ ràng, công bằng trong kiểm tra – đánh giá.
    1.2.2. Hạn chế
    – Việc tự đánh giá của học sinh có thể chưa chính xác, gây mất lòng tin ở
    người học.
    – Tốn nhiều thời gian để giáo viên hướng dẫn và cho học sinh làm quen
    với việc tự đánh giá kết quả học tập của bản thân theo phương pháp mới.
    2. Phiếu tự đánh giá
    2.1. Khái niệm phiếu tự đánh giá
    Phiếu tự đánh giá là một bảng mô tả chi tiết có tính hệ thống (theo
    chuẩn, tiêu chí), những kết quả (kiến thức, kĩ năng) mà người học nên làm và
    cần làm để đạt được mục tiêu khi thực hiện một nhiệm vụ học tập nhất định.
    2.2. Ích lợi của phiếu tự đánh giá
    – Phiếu tự đánh giá là công cụ hướng dẫn học sinh cách hoàn thành
    nhiệm vụ học tập. Nhìn vào các tiêu chí trong phiếu tự đánh giá, ta biết được
    nhiệm vụ học tập và kết quả học tập mong đợi sau khi học của học sinh.Không
    những thế, phiếu tự đánh giá còn là bảng hướng dẫn đánh giá kết quả thực
    hiện nhiệm vụ học tập bằng cách đối chiếu sản phẩm cụ thể của mỗi học sinh
    với các tiêu chí có trong phiếu để xác định mức độ hoàn thành của từng em.
    – Học sinh sẽ được tự đánh giá kết quả bài làm của mình và của bạn dựa
    trên các tiêu chí mà giáo viên đã đề ra trong phiếu tự đánh giá. Sau đó, giáo
    viên sẽ kiểm tra lại kết quả đánh giá của học sinh và thu được những thông tin
    cần thiết về khả năng tự đánh giá của học sinh cũng như kết quả học tập của
    học sinh. Do đó, giáo viên có thể dễ dàng phân hóa và đánh giá được trình độ
    nhận thức của học sinh trong lớp học. Từ đó có những điều chỉnh thích hợp
    hơn khi đưa ra các phương pháp giảng dạy.
    – Việc tự đánh giá sẽ giúp học sinh trở thành những người học tự chủ,
    độc lập, tự giác trong việc học. Thông qua phiếu tự đánh giá, học sinh sẽ biết
    12
    cách tự sửa các lỗi trong bài của mình đồng thời biết tự đặt ra mục tiêu phấn
    đấu và biết mình cần phải làm gì để đạt được mục tiêu đó.
    2.3. Thiết kế phiếu tự đánh giá trong bài văn tả cảnh và tả người
    cho học sinh lớp 5
    2.3.1. Quy trình thiết kế phiếu tự đánh giá bài tập làm văn lớp 5
    Quy trình thiết kế phiếu tự đánh giá bài tập làm văn lớp 5 được thực
    hiện theo các bước sau
    – Xác định mục tiêu bài tập làm văn cần đạt được (theo chuẩn chung):
    Mục tiêu chỉ rõ những khả năng mà học sinh có thể làm được sau bài học.
    – Xác định nhiệm vụ của học sinh khi viết bài tập làm văn: Nhiệm vụ
    được thiết kế cho đánh giá sự thực hiện, yêu cầu học sinh hoàn thiện một bài
    văn, chứng minh cho sự vận dụng các kiến thức, các kĩ năng đã học hoặc khả
    năng ứng dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá những kiến thức, kĩ năng đó
    trong tình huống cuộc sống.
    – Xây dựng các tiêu chí đánh giá một bài tập làm văn: tiêu chí là những chỉ
    số của việc hoàn thành tốt nhiệm vụ. Các tiêu chí được xác định để đánh giá mức
    độ hoàn thành nhiệm vụ của học sinh, mức độ đạt mực tiêu và đáp ứng các
    chuẩn đề ra.
    – Viết, mô tả chi tiết các tiêu chí đánh giá.
    – Thử nghiệm và chỉnh sửa phiếu tự đánh giá bài tập làm văn.
    Trong nghiên cứu khoa học này, tôi sẽ chỉ tập trung hoàn thiện phiếu tự
    đánh giá của hai kiểu bài là văn tả cảnh và văn tả người.Sau đây, tôi xin đưa ra
    hai phiếu tự đánh giá cho văn miêu tả cảnh và miêu tả người trong phân môn
    Tập làm văn lớp 5.
    2.3.2. Phiếu tự đánh giá bài tập làm văn lớp 5
    2.3.2.1. Phiếu tự đánh giá trong văn tả cảnh
    PHIẾU TỰ ĐÁNH GIÁ BÀI VĂN TẢ CẢNH
    13
    PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 5
    Đề bài:………………………………………………………………………………………………………..
    …………………………………………………………………………………………………………….
    ……………………………………………………………………………………………………………

    STTNội dungKhông
    1Bài văn có đủ 3 phần Mở bài, Thân bài, Kết bài không?
    2Đối tượng miêu tả có được giới thiệu rõ ràng trong phần
    Mở bài không? (Gạch chân câu văn chứa đối tượng miêu tả)
    3Trình tự miêu tả cảnh vật trong bài văn có hợp lý từ đầu
    đến cuối bài không?
    Bài văn được viết theo trình tự …………………………………
    ………………………………………………………………………………….
    4Các chi tiết được chọn trong bài văn có làm nổi bật vẻ
    đẹp đặc sắc của cảnh vật không?
    5Các chi tiết, đặc điểm của cảnh vật có được con miêu tả
    thông qua các giác quan không? (Gạch chân câu văn)
    Những giác quan đó là ………………………………………….
    ………………………………………………………………………
    6a) Con có sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa khi
    miêu tả cảnh vật không?(Gạch chân những câu văn sử
    dụng biện pháp đó)
    b) Con có sử dụng các từ ngữ biểu cảm, giàu hình ảnh
    khi miêu tả cảnh vật không?
    – Từ láy: …………………………………………………………………………….
    – Từ ngữ biểu cảm: ……………………………………………………………..
    7Kết bài có thể hiện được tình cảm, cảm xúc của con dành
    cho cảnh vật không? (Gạch chân câu văn thể hiện tình cảm
    của con)
    8Các từ trong bài văn của con có được viết đúng chính tả
    không? (Gạch chân và chữa lại các từ đó nếu mắc lỗi)
    9Các đoạn, các câu trong bài văn có liên kết với nhau
    không? (Thêm các từ liên kết giữa các câu, các đoạn văn nếu
    thiếu)

    2.3.2.2.Phiếu tự đánh giá trong văn tả người
    PHIẾU TỰ ĐÁNH GIÁ BÀI VĂN TẢ NGƯỜI
    14
    PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 5
    Đề bài:……………………………………………………………………………………………..
    ………………………………………………………………………………………………………….
    ……………………………………………………………………………………………………………

    STTNội dungKhông
    1Bài văn có đủ 3 phần Mở bài, Thân bài, Kết bài không?
    2Đối tượng miêu tả có được giới thiệu rõ ràng trong
    phần Mở bài không? (Gạch chân đối tượng miêu tả)
    3Bài văn có miêu tả đủ về ngoại hình và tính tình, hoạt
    động của đối tượng miêu tả không?
    4Các chi tiết được chọn trong bài văn có làm nổi bật vẻ
    đẹp đặc sắc của đối tượng được miêu tả không?
    5Các chi tiết, đặc điểm của đối tượng có được con miêu
    tả thông qua các giác quan không? (Gạch chân câu văn)
    Những giác quan đó là …………………………………………..
    ……………………………………………………………………….
    6a) Con có sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa khi
    miêu tả đối tượng không?(Gạch chân những câu văn sử
    dụng biện pháp đó)
    b) Con có sử dụng những từ ngữ biểu cảm, giàu hình
    ảnh khi miêu tả đối tượng không?
    – Từ láy: ………………………………………………………………………………
    – Từ ngữ biểu cảm: ……………………………………………………………….
    7Kết bài có thể hiện được tình cảm, cảm xúc của con
    dành cho người được tả không? (Gạch chân câu văn thể
    hiện tình cảm của con)
    8Các từ trong bài văn của con có được viết đúng chính tả
    không? (Gạch chân và chữa lại các từ đó nếu mắc lỗi)
    9Các đoạn, các câu trong bài văn có liên kết với nhau
    không? (Thêmcác từ liên kết giữa các câu, các đoạn văn nếu
    thiếu)

    2.3.3. Phương pháp sử dụng phiếu tự đánh giá
    Trước hết, để sử dụng phiếu giúp học sinh tự đánh giá trong bước kiểm
    tra bài làm, đặc biệt thuận tiện cho việc bổ sung và chữa bài của các em, ngay
    từ trước khi bắt tay vào viết, giáo viên cần yêu cầu học sinh trình bày bài viết
    15
    của mình thành hai cột. Cột một là phần bài chữa (có thể rộng khoảng 3 ô li)
    và cột còn lại là phầndành cho các em viết bài văn của mình.
    Tiếp theo, sau khi đã hoàn thiện bài viết, học sinh sẽ dành ra từ 10-15
    phút cho việc tự đánh giá này. Dựa trên phiếu đánh giá, học sinh sẽ lần lượt
    trả lời từng câu hỏi bằng cách tích vào ô Có (nếu đạt yêu cầu câu hỏi đề ra)
    hoặc ô Không (nếu chưa đạt yêu cầu câu hỏi đề ra), điền câu trả lời vào chỗ
    chấm hay gạch chân và sửa trực tiếp vào bài làm của mình. Tôi yêu cầu học
    sinh gạch chân các từ khóa trong mỗi câu hỏi nhằm giúp các em nắm rõ yêu
    cầu ở từng câu hơn.Ở mỗi câu, học sinh sẽ sử dụng màu chì khác nhau để gạch
    chân đồng thời trong phiếu và trong bài văn của mình.Chẳng hạn, ở câu hỏi
    thứ 9: “Các từ trong bài văn của con có được viết đúng chính tả không? (Gạch
    chân và chữa lại các từ đó nếu mắc lỗi),học sinh sẽ gạch ý như sau: “Các từ trong
    bài văn của con có được viết đúng chính tả không?” và dùng chính bút màu đó
    gạch chân các từ chưa đúng chính tả trong bài làm và tự sửa lại trong phần bài
    chữa. Chúng tôi xin đưa ra một ví dụ cho câu hỏi thứ 9:

    Bài chữaBài làm
    trò
    đẹp
    Trường học chính là ngôi nhà thứ hai của em, nơi đã gắn bó
    với em biết bao kỉ niệm của tuổi học chò. Trường học của
    em thật lộng lẫy, nhất là vào buổi sáng sớm.

    Nếu học sinh nhận thấy bài mình vẫn còn có lỗi, các em sẽ đánh dấu (x)
    vào ô Không và ngược lại, nếu học sinh nhận thấy bài mình không có lỗi chính
    tả nào, các em sẽ đánh dấu (x) vào ô Có.
    Sau khi đã đi lần lượt hết các câu hỏi, học sinh sẽ nhận ra được những
    điểm được và chưa được trong bài văn của mình và biết được cách sửa cho
    những lỗi đó, sẵn sàng chuyển sang phần đánh giá nhóm tiếp theo. Tôi tin
    rằng bên cạnh việc tự đánh giá, việc bàn bạc, thảo luận với bạn bè sẽ giúp các
    em tiến bộ và hoàn thiện bài viết của mình hơn nữa.
    II.Phiếu đánh giá nhóm trong phân môn Tập Làm Văn lớp 5
    1. Phương pháp đánh giá nhóm trong dạy học Tiểu học
    1.1. Khái niệm
    16
    Phương pháp đánh giá hay thảo luận nhóm là một trong những phương
    pháp có sự tham gia tích cực của người học mà trong đó người học tự chủ
    động giải quyết vấn đề với các thành viên trong nhóm của mình dưới sự giúp
    đỡ hay gợi ý của giáo viên. Phương pháp này đang ngày càng nắm vai trò quan
    trọng trong quá trình học tập, đặc biệt là trong xu hướng dạy học tích cực, lấy
    người học làm trung tâm như hiện nay, tức người học sẽ tự hoạt động, tự
    kiểm tra, tự điều chỉnh và người thầy sẽ làm người cố vấn.
    Phương pháp thảo luận nhóm này là phương tiện học hỏi có tính dân
    chủ, mọi cá nhân trong nhóm đều có cơ hội được tự do bày tỏ quan điểm của
    mình, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng và
    giúp hình thành các quan điểm cá nhân. Từ đó, học sinh sẽ rèn luyện được kĩ
    năng giải quyết vấn đề khó khăn.
    1.2. Ưu điểm và hạn chế
    1.2.1.Ưu điểm
    – Kích thích lòng ham mê học tập của học sinh, tránh lối học thụ động.
    – Giúp học sinh phát triển kĩ năng giải quyết vấn đề theo nhóm, có tinh
    thần đoàn kết cao.
    – Học sinh hợp tác hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình học tập, tự đánh giá,
    tự điều chỉnh vốn tri thức của bản thân bằng phương pháp tự học, tự đánh giá
    và khám phá thêm những kiến thức liên quan từ thực tiễn.
    – Đa số học sinh đều dùng phương pháp suy luận và tư duy để giải quyết
    vấn đề. Nên những tri thức khoa học mà các em thu thập được sẽ khắc sâu và
    dễ nhớ.
    1.2.2. Nhược điểm
    – Khi thảo luận, nhất là ở lứa tuổi học sinh tiểu học dễ mất tập trung,
    dẫn đến việc nói chuyện riêng, đùa giỡn, chưa thực sự lắng nghe,…
    – Giáo viên cần phải đầu tư nhiều thời gian hơn trong các tiết học trên
    lớp, giúp học sinh có thời gian để thảo luận và viết lại bài.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số giải pháp rèn kĩ năng viết câu văn sinh động, dựng đoạn trong bài văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 ở Trường Tiểu học

    SKKN Một số giải pháp rèn kĩ năng viết câu văn sinh động, dựng đoạn trong bài văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 ở Trường Tiểu học

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
    Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
    nước, với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam sẽ từ một nước nông nghiệp trở
    thành một nước công nghiệp, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Nguồn lực con
    người là nhân tố quyết định đến thắng lợi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
    nước. Nguồn nhân lực được phát triển về số lượng và chất lượng là liên quan
    trực tiếp đến chất lượng giáo dục.
    Trong hệ thống giáo dục, tiểu học là bậc học đầu tiên đặt nền móng để
    xây dựng kho tàng tri thức và hình thành nhân cách cho học sinh, đây là bậc học
    đặt nền tảng vững chắc cho cả hệ thống giáo dục. Nó góp phần quan trọng vào
    việc tạo ra lớp người tự chủ, năng động, sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề.
    Hiện nay, ngành giáo dục đã tiến hành đổi mới chương trình sách giáo khoa về
    nội dung và phương pháp dạy học theo tinh thần phát huy những ưu điểm của
    phương pháp dạy học truyền thống, kết hợp áp dụng những phương pháp dạy
    học tiên tiến, phát huy được tính tích cực, chủ động của người học, đáp ứng
    được mục tiêu về kiến thức, kĩ năng, thái độ ở tiểu học. Môn Tiếng Việt là một
    trong những môn học có nhiều giờ trong trường tiểu học nên có đổi mới nhiều
    về chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy.
    Ở môn Tiếng Việt, phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh các kĩ năng
    sản sinh ngôn bản. Nó có vị trí đặc biệt trong quá trình dạy học tiếng mẹ đẻ.
    Ngoài ra, phân môn Tập làm văn còn góp phần rèn luyện tư duy và hình thành
    nhân cách cho học sinh. Nó rèn luyện tư duy hình tượng: óc quan sát, trí tưởng
    tượng, từ khả năng tái hiện các chi tiết đã quan sát được đến khả năng nhào nặn
    các chất liệu trong đời sống…
    Dạy Tập làm văn trong trường tiểu học là giúp học sinh mở rộng vốn
    sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thẩm mĩ, hình thành nhân
    cách cho các em. Dạy Tập làm văn là dạy cho các em cách viết, cách nghĩ, cách
    cảm chân thật, sáng tạo, luyện cách diễn đạt chính xác, sinh động, hồn nhiên tiến
    tới có nét độc đáo riêng của mình. Đồng thời cũng dạy các em cách ghi lại sự
    nhìn nhận của mình về các sự vật hiện tượng, cảnh vật, con người qua các văn
    bản còn gọi là đoạn văn, bài văn một cách chính xác về đối tượng. Tập làm
    văn nó còn thể hiện kĩ năng cảm thụ văn học và các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt
    một cách tổng hợp.
    Hơn nữa khi học văn miêu tả, các em có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của
    con người, thiên nhiên qua các đoạn văn, bài văn miêu tả điển hình. Khi quan sát
    đối tượng miêu tả, học sinh được rèn luyện cách nhìn đối tượng trong quan hệ
    gần gũi giữa con người với thiên nhiên. Những cơ hội đó làm cho tình cảm yêu
    mến, gắn bó với thiên nhiên, con người và sự vật xung quanh của học sinh được
    2
    nảy nở; tâm hồn, tình cảm của các em thêm phong phú, khơi gợi ở các em sự
    hiểu biết và tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, với con người và vạn vật
    xung quanh. Từ đây, tâm hồn và nhân cách của các em sẽ được hình thành và
    phát triển.
    Tập làm văn lớp 5 gồm nhiều nội dung, một trong những nội dung chính
    của chương trình tập làm văn 5 là văn miêu tả. Nó có hệ thống xây dựng lí
    thuyết riêng cho từng thể loại như tả cảnh, tả người, tả đồ vật, tả cây cối, tả
    con vật,… và ở từng thể loại đòi hỏi GV phải có những cách rèn khác nhau để
    đạt được những kĩ năng cần thiết. Một bài văn tả cảnh hay, có giá trị không
    phải chỉ ở chỗ trình bày mạch lạc, dễ hiểu mà quan trọng hơn đó là sức truyền
    cảm. Để viết được bài văn hay các em cần rèn luyện năng lực quan sát, năng
    lực thu thập thông tin, năng lực tưởng tượng, năng lực phân tích tổng hợp và
    các khả năng biểu đạt, bố cục, tạo phong cách. Làm thế nào để cho HS viết
    văn hay và có hiệu quả là cả một vấn đề rất khó khăn, cần phải suy nghĩ và
    dày công nghiên cứu của những người làm công tác giáo dục đặc biệt là GV.
    Trong thực tế giảng dạy tập làm văn phần Tả cảnh, bản thân GV là
    người hướng dẫn đôi khi cũng cảm thấy còn lúng túng, bí từ và không biết
    phải hướng dẫn các em như thế nào để HS có thể viết được bài văn hay, có
    hình ảnh, có cảm xúc. Hơn nữa một số tài liệu SGK, sách giáo viên, sách thiết
    kế thì viết chung chung, một số sách khác như văn mẫu thì lại chỉ có các bài
    văn mẫu viết sẵn mà không có một hướng dẫn nào để định hướng cho GV
    cũng như HS. Do vậy tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để HS thích làm
    văn, viết văn chân thật có cảm xúc và sinh động. Để nâng cao chất lượng các
    giờ dạy Tập làm văn đặc biệt là văn tả cảnh và giúp các em rèn luyện kĩ năng
    sản sinh văn bản, tạo điều kiện cho các em tự tìm, tự thể hiện những ý kiến,
    suy nghĩ của mình một cách độc lập, không máy móc rập khuôn, tôi đã
    nghiên cứu để đưa ra các giải pháp nâng cao năng lực viết câu văn, đoạn văn
    hay trong kiểu văn tả cảnh để góp phần nâng chất lượng giảng dạy phân môn
    Tập làm văn.
    Trong các thể loại văn các em được học thì thể loại văn miêu tả có đặc
    điểm là giàu cảm xúc, giàu trí tưởng tượng và sự đánh giá của người viết đối với
    đối tượng miêu tả. Trong thể loại văn miêu tả, kiểu bài văn tả cảnh yêu cầu các
    em phải biết dùng lời để vẽ lên bức tranh phong cảnh giàu hình ảnh, giàu màu
    sắc, âm thanh trong cùng một thời gian hay cùng một thời điểm nào đó. Để viết
    được bài văn đạt những yêu cầu nêu trên, ngoài các kĩ năng phân tích đề, tìm ý,
    lập dàn bài, dựng đoạn, các em cần phải biết dùng từ, đặt câu diễn tả chính xác
    sinh động nội dung miêu tả.
    Trong chương trình Tập làm văn lớp 5, thể loại văn miêu tả chiếm số
    lượng nhiều tiết nhất, trong đó kiểu bài tả cảnh có số tiết nhiều hơn các kiểu bài
    miêu tả khác. Qua thực tế giảng dạy phân môn Tập làm văn ở Tiểu học trong
    3
    những năm qua tôi nhận thấy, cùng với sự đổi mới về nội dung, chương trình thì
    yêu cầu đặt ra là phải đổi mới phương pháp dạy học. Với đặc trưng của phân
    môn này là thực hành, do đó giáo viên cần phải tổ chức cho học sinh sao cho có
    hiệu quả, tránh dạy theo lối cũ (làm mẫu) cho học sinh làm theo. Tuy nhiên, đây
    là vấn đề không phải người giáo viên nào cũng có thể làm tốt được.
    Một thực tế nữa là hiện nay chất lượng bài Tập làm văn của các em chưa
    cao. Hầu hết các em chỉ viết được bài văn hoàn chỉnh đủ ý nhưng còn khô khan,
    khuôn sáo, tẻ nhạt. Có em sa vào liệt kê các hình ảnh và hoạt động tiêu biểu, ít
    miêu tả, kĩ năng dùng từ đặt câu còn hạn chế. Các em chủ yếu viết câu đúng đủ
    2 bộ phận chính hoặc những câu văn mở rộng thành phần phụ nhưng chưa có
    hình ảnh, thiếu cảm xúc, từ dùng chưa chắt lọc, chưa phù hợp với văn cảnh.
    Điều này khiến tôi băn khoăn trăn trở cần phải tìm ra biện pháp tối ưu để giúp
    các em sáng tạo khi viết văn. Với lòng mong mỏi muốn đóng góp một phần kinh
    nghiệm của bản thân với đồng nghiệp nhằm mục đích nâng cao chất lượng bài
    Tập làm văn nói chung và bài văn tả cảnh nói riêng nên tôi đã đưa ra “Một số
    giải pháp rèn kĩ năng viết câu văn sinh động, dựng đoạn trong bài văn tả
    cảnh cho học sinh lớp 5 ở Trường Tiểu học H¶i Minh”.để trao đổi với đồng
    nghiệp và đúc rút kinh nghiệm cho bản thân.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP:
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
    1.1. Thực trạng của vấn đề dạy – học viết câu văn sinh động và dựng
    đoạn trong bài văn tả cảnh của học sinh trường Tiểu học H¶i Minh:
    Việc dạy – học Tập làm văn ở Tiểu học nói chung và và việc dạy học văn tả
    cảnh ở lớp 5 nói riêng, bên cạnh những điểm tốt mang lại một số kết quả nhất
    định cũng còn nhiều khuyết điểm. Khuyết điểm lớn nhất, dễ thấy nhất là bệnh
    công thức, khuôn sáo, máy móc, thiếu tính chân thực trong cả cách dạy và cách
    học… Cụ thể, giáo viên thường làm như sau:
    – Khi tìm hiểu cấu tạo của kiểu bài, giáo viên cho học sinh đọc bài mẫu, thực
    hiện các yêu cầu, rút ra nhận xét và làm bài luyện tập.(HS làm bài cá nhân, cả lớp)
    – Các bài luyện tập viết đoạn, lập dàn ý….học sinh thường làm cá nhân, sau
    đó GV gọi một số em đọc bài của mình, GV hướng dẫn học sinh nhận xét, góp ý
    cho bài của bạn.
    – Tiết trả bài, GV nhận xét chung về bài làm của học sinh, ưu nhược điểm,
    đọc một số bài viết tốt, một số bài chưa tốt để HS nhận xét, sau đó trả bài cho
    HS sửa. (Thực tế tiết này thường bị cắt đi).
    – Giáo viên còn dạy theo phương pháp truyền thống, chưa lấy người học làm
    trung tâm, chưa tạo được hứng thú cho HS, chưa phát huy được tính sáng tạo,
    chủ động của các em. Nhiều em chưa quan sát được thực tế các cảnh đẹp nhưng
    GV chưa có các tranh ảnh hoặc những đoạn clip minh họa để các em biết được
    4
    các cảnh đó. Ví dụ thực tế: các em ở trường Tiểu học Hải Minh hầu hết chưa
    biết được cảnh đẹp biển Thịnh Long hay Tam Cốc, Bích Động… nhưng GV
    chưa có đồ dùng trực quan để các em quan sát (trong khi các em chưa có điều
    kiện đi tham quan). Thường là GV yêu cầu các em tả theo ý của cô. Mặt khác,
    có những em có điều kiện quan sát đối tượng miêu tả nhưng GV chưa hướng
    dẫn các em cách ghi chép lại những điều mà các em nhìn thấy, nghe thấy, ngửi
    thấy…
    – Để đối phó với việc học sinh làm bài kém, để đảm bảo chất lượng khi
    kiểm tra nhiều giáo viên cho học sinh học thuộc một số bài bài văn mẫu để các
    em khi gặp đề bài tương tự cứ thế chép ra. Vì thế dẫn đến tình trạng cả thầy và
    trò nhiều khi bị lệ thuộc vào văn mẫu.
    Qua thực tế dạy – học Tập làm văn, tôi thấy có những ưu điểm, hạn chế sau:
    *Về phía học sinh:
    + Ưu điểm:
    – Phần lớn các em biết làm bài văn miêu tả nói chung và tả cảnh nói riêng
    có bố cục đầy đủ, diễn đạt tương đối đủ ý.
    – Một số em có hứng thú khi học phân môn Tập làm văn, thích đọc những
    đoạn văn, bài văn mẫu hay.
    – Học sinh được tiếp cận với các bài, đoạn văn miêu tả có tính chuẩn mực
    của các tác giả nổi tiếng. Qua đó, bồi dưỡng cái hay, cái đẹp của văn chương
    ngôn từ và tình yêu với văn học.
    – Đa số học sinh đạt được mức độ hoàn thành.
    + Hạn chế:
    – Các em không biết tự học, tự sáng tạo mà còn vay mượn ý của người
    khác, thường là của bài văn mẫu. Nói cách khác học sinh thường học thuộc bài
    văn mẫu để đưa vào bài của mình. Với cách học ấy các em không cần quan sát,
    không cần cảm xúc về đối tượng được tả.
    – Miêu tả hời hợt, chung chung không có sắc thái riêng biệt nào của đối
    tượng được tả… Vì thế bài làm ấy gắn cho đối tượng miêu tả nào cùng loại cũng
    được. Một bài miêu tả như vậy đọc lên thấy mờ nhạt. Nguyên nhân chủ yếu là
    các em không quan sát hoặc không biết cách quan sát hoặc các em không biết
    cách hồi tưởng lại để viết văn.
    – Nhiều HS không hề nắm được đặc điểm đối tượng mình đang tả và đã
    viết không chân thực. Do vậy bài văn khó có thể truyền cảm cho người đọc.
    Việc học tập trên lớp, vì thiếu tập trung và chưa có phương pháp học nên cũng
    có những hạn chế nhất định. Có HS khi đọc đề bài lên, không biết mình cần viết
    những gì và viết như thế nào, viết cái gì trước, cái gì sau.
    – Học sinh học tương đối nhàn, ít khi tư duy cho việc rèn câu văn sinh
    động để bài văn được hấp dẫn.
    5
    * Về phía giáo viên:
    + Ưu điểm:
    – Nắm được nội dung, chương trình về thể loại văn miêu tả, kiểu bài tả cảnh.
    – Dạy học theo đúng quy trình của kiểu bài tả cảnh.
    – Dạy phân môn Tập làm văn tích hợp với các môn học khác.
    + Hạn chế:
    – Nhiều giáo viên còn chưa tự bồi dưỡng vốn kiến thức, chưa chịu khó
    viết các đoạn văn có các câu văn sinh động, hấp dẫn trước.
    – Còn dạy mang hình thức chung chung để học sinh tự mày mò.
    – Chỉ có một con đường duy nhất hình thành các hiểu biết về lý thuyết,
    các kỹ năng làm bài là qua phân tích các bài mẫu. Còn ngại khó, ngại khổ khi sử
    dụng phương pháp mới. Thiếu linh hoạt khi phối kết hợp nhiều phương pháp để
    hướng dẫn học sinh học văn.
    ** Từ thực trạng dạy và học Tập làm văn tả cảnh ở lớp 5, tôi thấy hầu
    hết giáo viên thường cho là kiểu bài văn khó, học sinh thường lúng túng trong
    khi diễn đạt để có một đoạn văn hoặc bài văn hay. Đa số các em viết tương đối
    đủ ý, nhưng dùng từ chưa thật chính xác, diễn đạt chưa trôi chảy, chưa sử dụng
    được các nghệ thuật so sánh, nhân hóa … để làm cho bài văn sinh động, hấp dẫn.
    Vì vậy, khi dạy văn tả cảnh giáo viên thường mất nhiều công sức.
    1.2- Đánh giá về chất lượng làm bài văn tả cảnh của HS lớp 5 năm
    học 2017- 2018. (Chưa áp dụng sáng kiến)
    Trong quá trình giảng dạy phân môn Tập làm văn (kiểu bài tả cảnh) tôi
    thấy các em biết viết bài văn có đầy đủ ý, bố cục rõ ràng nhưng bài văn còn khô
    khan, thiếu cảm xúc, thiếu tự nhiên, câu văn chưa sinh động, chưa sáng tạo thậm
    chí còn lủng củng. Nhìn chung, phần lớn các em chưa biết viết câu văn có hình
    ảnh. Điều đó khiến tôi băn khoăn, trăn trở. Để giải quyết băn khoăn đó, tôi
    hướng dẫn các em quan sát, tìm ý, dựng đoạn văn tả cảnh cụ thể và tiến hành
    khảo sát chất lượng ở lớp 5A năm học 2017- 2018 với một đề cụ thể như sau:
    Đề bài: Hãy tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn
    cây (hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy).
    Kết quả thu được như sau:

    Lớpsố SĩBài văn sinh động, giàu
    cảm xúc.
    Bài văn đảm bảo
    bố cục, nhưng diễn
    đạt còn khô khan
    Bài văn đảm bảo bố cục,
    nhưng diễn đạt nghèo
    hình ảnh, dùng từ chưa
    chính xác
    5A353/35 = 8,6%24/35 = 68,5%8/35 = 22,9 %

    6
    * Đánh giá kĩ năng viết câu văn sinh động qua việc làm bài của HS
    Sau khi chấm bài tôi tiến hành phân loại bài và tổng hợp các lỗi phổ biến
    về dùng từ, đặt câu, diễn đạt ngoài một số lỗi học sinh thường mắc phảỉ trong
    Tập làm văn, tôi thấy kĩ năng viết câu văn gợi tả, gợi cảm của các em còn nhiều
    hạn chế. Nếu có viết được các em thường tham khảo những câu văn đó trong
    văn mẫu mà không có sáng tạo. Nhìn chung, phần lớn các em chưa biết viết câu
    văn có hình ảnh, từ dùng chưa chắt lọc, lỗi phổ biến trong các bài Tập làm văn
    của các em là kĩ năng chọn lọc từ trong miêu tả còn nhiều hạn chế, ít sáng tạo.
    Số học sinh biết dùng từ gợi tả, gợi cảm để miêu tả còn rất ít, một số em đã cố
    gắng viết câu văn sinh động nhưng thiếu tự nhiên, còn mang tính công thức, gò
    bó sáo rỗng, không chân thực.
    1.3- Nguyên nhân của những hạn chế:
    1.3.1-Nguyên nhân từ phía học sinh (người học)
    – Trong quá trình viết văn các em không nắm được trình tự miêu tả, sắp
    xếp ý còn lộn xộn, diễn đạt ý lặp lại, lặp từ, không biết cách liên kết câu, đoạn
    văn cho nội dung lôgic, phù hợp, lắp ghép câu từ không mạch lạc, tối nghĩa.
    – Các em chưa biết sử dụng từ ngữ, dùng sai từ ngữ, không phù hợp với
    đối tượng miêu tả, viết câu không đủ ý hoặc quá dài dòng không có chấm câu.
    – Vốn hiểu biết thực tế cuộc sống và vốn từ ngữ của học sinh còn nghèo
    nàn. Các em ít được tiếp xúc với những đoạn văn, đoạn thơ giàu hình ảnh, nhạc
    điệu nên năng lực cảm thụ văn học còn hạn chế.
    – Các em chưa có kĩ năng quan sát thực tế cảnh vật. Khả năng tư duy
    tưởng tượng của các em chưa tốt.
    – Học sinh ít được luyện tập các dạng bài về rèn kĩ năng viết câu văn gợi
    tả, gợi cảm mà chủ yếu là viết văn luôn.
    – Quỹ thời gian dành cho việc học Tập làm văn còn ít nên các em không
    được luyện tập thường xuyên, liên tục.
    – HS bị lệ thuộc vào các bài văn mẫu nhiều. (Do cách học ở những lớp dưới)
    1.3.2- Nguyên nhân từ phía giáo viên
    – Tích lũy vốn kiến thức Tập làm văn chưa phong phú, còn dạy theo
    phương pháp truyền thống (chưa để các em chủ, động sáng tạo trong việc viết
    văn)
    – Chưa quan tâm đúng mức tới việc cung cấp, mở rộng vốn từ, rèn luyện
    tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ cho học sinh.
    – Giáo viên chưa chú trọng hướng dẫn học sinh có thói quen đọc sách, ghi
    chép lại từ hay, câu hay, chưa tập viết câu văn sinh động.
    – Việc dạy liên môn chưa có hiệu quả cao.
    7
    1.3.3- Một số nguyên nhân khác
    – Phụ huynh còn nhận thức chưa đúng: không thích cho con học văn mà
    thích học môn Toán nhiều hơn.
    – Do sự đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa mới kéo theo sự
    đổi mới phương pháp dạy học nên một số giáo viên nắm bắt “cái mới” còn chậm
    và chưa có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy.
    – Hệ thống bài tập rèn kĩ năng cho học sinh chưa toàn diện, thiếu bài tập
    về luyện viết câu văn hay.
    – Kiến thức sách vở cũng như kiến thức thực tế còn rất nhiều lỗ hổng.
    Nhiều HS ở nông thôn chưa hề được ra thành phố, có em chưa từng được đến
    công viên, vườn bách thú hay những danh lam thắng cảnh khác… Nhiều HS ở
    thành phố chưa hề được nhìn thấy những đêm trăng sáng, hoặc quan sát cánh
    đồng lúa khi thì xanh mướt, lúc thì vàng óng, trĩu bông…. Qua đó có thể thấy,
    khi làm bài, nhiều HS không hề nắm được đặc điểm đối tượng mình đang tả và
    đã viết không chân thực. Do vậy bài văn khó có thể truyền cảm cho người đọc.
    – Ngoài ra có thể kể đến các nguyên nhân khác, như sự hấp dẫn của các trò
    chơi hiện đại. Ngoài giờ học, các em thường bị thu hút vào các trò chơi GAMES
    hoặc các trang WEB hấp dẫn khác trên INTERNET mà quên đi rằng thế giới
    thiên nhiên xung quanh các em thực sự có sự hấp dẫn khác…. Đây mới là thế
    giới có khả năng làm phong phú tâm hồn tuổi thơ và rèn luyện óc quan sát, nhận
    xét,…
    – Việc đọc sách của các em hiện nay cũng đang bị xem nhẹ. Cho nên vốn
    liếng về cuộc sống, về văn học của HS tiểu học rất hạn chế. Chính điều này đã
    tác động không nhỏ đến việc học văn và tập làm văn của HS.
    – Do những nguyên nhân hạn chế nêu trên và thực tế dạy học ở trường
    Tiểu học Hải Minh cho thấy khó có thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra nếu chỉ
    máy móc thực hiện chương trình theo quy định. Và nếu người giáo viên không
    mạnh dạn cải tiến và vận dụng những biện pháp dạy học hữu hiệu khác thì chất
    lượng bài tập làm văn của học sinh đạt chưa cao. Điều đó đã thôi thúc tôi tìm tòi,
    nghiên cứu, đề xuất một số biện pháp, cách thức dạy học rèn kĩ năng viết câu
    văn sinh động trong bài văn tả cảnh giúp học sinh vận dụng vào qua trình tập
    làm văn đạt hiệu quả hơn. (Áp dụng trong năm học 2018 – 2019, 2019-2020)
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến : Rèn kĩ năng viết câu văn sinh
    động, dựng đoạn trong bài văn tả cảnh của lớp 5.
    *Tính mới, tính sáng tạo của giải pháp: Đó là:
    – Thay đổi cách dạy của GV, cách học của học sinh.
    – Đổi mới cách đánh giá.
    8
    – Giúp học sinh sáng tạo trong học tập làm văn, biết tìm ý phong phú, diễn
    đạt câu văn giàu hình ảnh, có cảm xúc, chân thực để có được đoạn văn, bài văn
    sinh động, hấp dẫn.
    * Mô tả chi tiết các giải pháp:
    Giải pháp 1: Làm tốt công tác chuẩn bị:
    a/Giáo viên: Tập trung nghiên cứu nội dung chuẩn kiến thức, kĩ năng cần
    đạt của từng bài học, từ đó xây dựng kế hoạch bài dạy chi tiết cho từng tiết học
    theo phương pháp “lấy học sinh làm trung tâm” sao cho trong mọi hoạt động
    học, học sinh được cùng nhau trải nghiệm, tương tác. Kế hoạch bài dạy cần xây
    dựng kĩ ở phần nào ? Kiến thức trọng tâm nào nên thể hiện ở trò chơi ? Trong
    mọi tiết học cần có những đồ dùng dạy học nào để hỗ trợ, có đáp án, thang điểm
    đánh giá thi đua ở từng hoạt động. Các tình huống nào có thể xảy ra trong mỗi
    đơn vị kiến thức bài học? Cách xử lí như thế nào? … Ngoài ra giáo viên cần
    chuẩn bị trước gợi ý và hướng dẫn quan sát, ghi chép cho học sinh ở bài học tiếp
    theo. Tất cả những việc làm trên đều góp phần quan trọng cho thành công việc
    giảng dạy nói chung và việc dạy học sinh viết văn tả cảnh nói riêng.
    b/Học sinh:
    – Trước hết, các em phải hiểu: Thế nào là câu văn sinh động?
    Câu văn sinh động: Những câu văn gợi tả, gợi cảm nếu được kết hợp sử
    dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa,… khéo léo sẽ làm cho
    câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn. Câu văn sinh động mang tính thông báo
    thẩm mỹ, chứa đựng tình cảm riêng của người viết. Như vậy, câu văn sinh động
    là câu văn vừa gợi tả, gợi cảm giúp người đọc hình dung một cách cụ thể hình
    ảnh của sự vật thông qua những nét tinh tế, những rung động sâu sắc thể hiện
    cảm xúc thẩm mĩ của người viết.
    – Xây dựng nề nếp, thói quen hợp tác trong nhóm để cùng nhóm giải
    quyết các yêu cầu đề ra một cách chủ động. Xây dựng sẵn các phương án cơ cấu
    nhóm học tập linh hoạt, luân phiên và ưu tiên cho những em rụt rè, mặc cảm,
    nhút nhát là nhóm trưởng, là người báo cáo. Những em khá giỏi làm người dẫn
    dắt.
    Giải pháp 2: Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học và làm giàu vốn từ
    cho HS.
    Không phải em học sinh nào cũng có vốn từ phong phú và cảm nhận được
    đúng nội dung đoạn văn, đoạn thơ. Do vậy, giáo viên phải hướng dẫn các em
    cách làm để các em có vốn từ phong phú, đa dạng. Muốn viết được câu văn giàu
    hình ảnh trước hết các em phải có vốn từ. Vốn từ ấy đã có sẵn trong quá trình
    sống của các em và được tích luỹ qua các bài học, các môn học trong chương
    trình mà GV giảng dạy. Cụ thể:
    a. Làm giàu vốn từ qua Sổ tay văn học:
    9
    – Ngay từ đầu năm học, tôi đã giới thiệu cho học sinh những thể loại và
    kiểu bài mà các em sẽ được học trong chương trình Tập làm văn lớp 5. Giúp các
    em có thể ghi nhớ và tích luỹ được vốn văn học có hệ thống, tôi hướng dẫn các
    em lập một cuốn sổ để ghi chép những từ ngữ, câu văn, đoạn văn hay, những
    áng thơ đặc sắc, những đoạn văn, bài văn giàu cảm xúc gọi là: Sổ tay văn học.
    – Ngoài ra, tôi còn hướng dẫn các em có thói quen đọc sách (văn hóa đọc);
    giới thiệu những bài văn hay, ghi lại những từ ngữ hay dùng chính xác, những
    câu văn hay, tinh tế có khả năng miêu tả sâu sắc theo từng đối tượng cảnh vật
    vào Sổ tay văn học. Và hàng tháng thi đua giữa các cá nhân xem ai tích lũy được
    nhiều vốn từ nhất để nhận thưởng. Điều này đã kích thích được sự ham thích tìm
    tòi sưu tầm vốn từ cho học sinh khá hiệu quả.
    – Với việc tích lũy vốn từ ngữ, câu văn hay, GV cần hướng dẫn học sinh
    ghi chép một cách khoa học theo từng chủ đề, từng đối tượng cảnh vật.
    Ví dụ:
    Tả về mưa:
    + Mưa xuân: lắc rắc, lất phất, những hạt mưa bé nhỏ, mềm mại rơi mà
    như nhảy nhót, mưa xuân duyên dáng, bịn rịn lưu luyến người qua đường, mưa
    xuân nhè nhẹ rơi, hạt nọ nối tiếp hạt kia thành một mầu trắng ngà như tấm khăn
    voan mỏng tang của một nàng tiên mùa xuân vắt hờ hững lên làng quê, ….
    + Mưa rào: tầm tã, ào ào, rào rào, ầm ầm, những cơn mưa rào mùa hạ có
    khi đến rất bất ngờ, như một vị khách đột ngột ghé thăm mà không báo trước.
    Chợt đến rồi lại chợt đi ngay., ….
    Tả hoàng hôn: mặt trời dần xuống nui, bầu trời hắt lên màu hồng rực,
    những tia nắng yếu ớt bao trùm dãy nui tim thẫm phia xa, ông mặt trời vội vã
    đạp xe về đỉnh nui phia Tây, từng áng mây trắng mây hồng bồng bềnh trôi, Phia
    chân đê, từng đàn trâu đủng đỉnh ra về, ….
    Các từ dùng để miêu tả cây cối: xanh mướt, xanh rì, xanh mơn mởn,
    xanh non, xanh lá mạ, xanh biết, xanh lục, …. rung rinh, um tùm, sum suê,
    khẳng khiu, rực rỡ, mỡ màng, vàng ua, xơ xác, trơ trụi, lác đác, xào xạc, lả tả,…
    Các từ ngữ dùng để miêu tả âm thanh: vi vu, ầm ầm, đì đùng, xoèn
    xoẹt, lách cách, cót két, phành phạch, râm ran, riu rit, rào rào, ti tách, đồm
    độp, loong boong, loảng xoảng,…
    Các từ dùng để tả mùi vị: thơm thoang thoảng, ngòn ngọt, chan chát,
    nồng nồng, cay xè, ngai ngái, hăng hắc, dìu dịu, ngào ngạt, sực nức, ngọt mát,…
    ……..
    b. Bồi dưỡng học sinh cảm thụ văn học:
    – Bên cạnh đó, việc hướng dẫn học sinh tích luỹ vốn văn học còn rất hiệu
    quả thông qua các tiết Tập đọc, Luyện từ và câu đặc biệt là các bài đọc về thể
    10
    loại văn miêu tả. Việc này đòi hỏi sự chuẩn bị hết sức chu đáo bài giảng của
    giáo viên.
    Ví dụ 1: Bài: Quang cảnh làng mạc ngày mùa (Tiếng Việt 5-Tập 1, tr.10)
    Khi phân tích đoạn 2, đoạn 3, tôi giúp các em nhận thấy tác giả sử dụng
    hàng loạt các từ đồng nghĩa đã được chọn lọc, giàu hình ảnh để gợi cho người
    đọc những cảm nhận riêng về đặc điểm của từng cảnh vật: lua (vàng xuộm),
    nắng (vàng hoe), quả xoan (vàng lịm), lá mit (vàng ối), tàu đu đủ và lá sắn héo
    (vàng tươi), quả chuối (chin vàng), bụi mia (vàng xọng), rơm, thóc (vàng giòn),
    mái nhà rơm (vàng mới), tất cả (màu vàng trù phu, đầm ấm). Qua đó, tôi giúp
    học sinh hiểu rằng chính cách quan sát, cách lựa chọn chi tiết và dùng từ thật
    tinh tế, đặc sắc của tác giả khi tả những màu vàng cụ thể của cảnh vật trong bức
    tranh làng quê đã làm cho cảnh vật làng quê thật đẹp, thật trù phú và thể hiện rất
    rõ tình yêu quê hương tha thiết của tác giả.
    Ví dụ 2: Bài Mùa thảo quả (Tiếng Việt 5 – Tập 1, trang 113)
    Trong phần tìm hiểu bài, tôi giúp các em thấy được tác giả dùng điệp từ,
    câu ngắn đặt cạnh câu dài nhằm nhấn mạnh hương thơm đặc biệt và lan tỏa của
    thảo quả. Các từ hương và thơm được lặp lại có tác dụng nhấn mạnh mùi hương
    thơm đặc biệt của thảo quả. Tác giả dùng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm: lướt thướt,
    quyến, rải, ngọt lựng, thơm nồng gợi cảm giác thảo quả lan tỏa khắp không gian.
    Các câu văn ngắn lặp lại từ thơm “Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm” làm
    cho người đọc có cảm giác tất cả không gian núi rừng đều chìm đắm trong
    hương thơm đặc biệt của thảo quả. Bên cạnh đó, tôi cũng giúp học sinh hiểu
    được sự phát triển mạnh mẽ của thảo quả được thể hiện rất rõ nét qua các từ
    ngữ: qua một năm, một năm sau nữa, thoáng cái,… Đây chính là cách liên kết
    đoạn văn theo thời gian – áng chừng.
    Ngoài các giờ Tập đọc, Tập làm văn, tôi còn giúp các em hiểu thêm về
    cách dùng từ, đặt câu của tác giả qua giờ cảm thụ văn học (học buổi 2)
    Ví dụ 3: (Dạy vào buổi học thứ 2)
    “Đồng chiêm phả nắng lên không
    Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng
    Gió nâng tiếng hát chói chang
    Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời.”
    (Tiếng hát mùa gặt – Nguyễn Duy)
    Tôi cho học sinh nhận xét về cách dùng từ của tác giả và phát hiện những
    hình ảnh đẹp gây ấn tượng nhất trong đoạn thơ qua các câu hỏi gợi ý sau:
    Đoạn thơ trên có những hình ảnh nào đẹp? Em có nhận xét gì về về cách
    dùng từ của tác giả?
    11
    Sau khi cho học sinh phát hiện hình ảnh đẹp, những từ dùng hay, tôi gợi ý
    để các em thấy được tác giả đã sử dụng một loạt động từ gợi cảm “phả, dẫn,
    nâng, liếm” để miêu tả nhằm toát lên ý nghĩa đẹp đẽ cảnh mùa gặt ở nông thôn
    Việt Nam thật vui tươi náo nức. Tất cả các hình ảnh đẹp đẽ đó đã tạo nên một
    không khí đầm ấm, thanh bình nơi thôn quê khi mùa gặt đến. Nếu thay các từ “
    toả, kéo, đưa, cắt” vào vị trí của các động từ trong đoạn thơ thì câu thơ không
    còn nguyên giá trị biểu đạt nữa. Và mục đích là giúp các em hiểu được tác giả
    đã sử dụng từ ngữ như thế nào để diễn tả cảnh vật chính xác mà lại sinh động,
    hấp dẫn.
    * Với cách bồi dưỡng cảm thụ văn học cho các em như thế sẽ giúp các em
    làm giàu vốn từ ngữ, cách chọn lựa từ ngữ chính xác khi miêu tả từng đối tượng
    cảnh vật đồng thời dần dần các em còn biết vận dụng các nghệ thuật so sánh,
    nhân hóa, dùng điệp từ, điệp ngữ, đảo ngữ làm cho các câu văn thêm sinh động,
    hấp dẫn giàu hình ảnh.
    c. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của các từ ngữ:
    – Tôi còn rèn cho các em có thói quen tìm hiểu nghĩa của từ qua từ điển
    Tiếng Việt, qua mạng… để sử dụng từ ngữ chính xác khi miêu tả cảnh vật. Điều
    này cũng khá thuận lợi vì lớp tôi có ti vi kết nối mạng và điện thoại thông minh
    và mạng in-tơ-nét nhà em nào cũng có. Tôi hướng dẫn và tạo cho học sinh hứng
    thú trao đổi với bạn khi có từ hay, có sức gợi tả, gợi cảm mạnh, ấn tượng qua
    các trò chơi ngoại khóa, biết lựa chọn những từ ngữ phù hợp với từng văn cảnh
    qua các bài tập phù hợp.
    Ví dụ: Sử dụng từ láy: Trong Tiếng Việt, từ láy thường có giá trị gợi tả,
    biểu cảm rất lớn. Chính vì vậy, sử dụng từ láy chính xác trong viết văn tả cảnh
    sẽ làm cho người đọc, người nghe cảm nhận và hình dung được một cách cụ thể,
    tinh tế và sống động hơn về sự vật hình tượng được miêu tả. Câu văn sẽ trở lên
    “đát giá” hơn rất nhiều. Tôi thường lồng ghép các bài tập trong các tiết học Tập
    làm văn, Luyện từ và câu, Chính tả hoặc trong các giờ ngoại khóa như:
    Tìm các từ láy thay vào các từ ngữ in đâm để đoạn văn sinh động hơn.
    Hồ Tơ-nưng năm ở phia bắc thị xã Plây-cu. Hồ rộng …, nước trong như
    lọc. Hồ sáng đẹp….dưới ánh nắng ……của những buổi trưa hè. Hàng trăm thứ
    cá ra đời….., nảy nở ở đây. Cá đi từng đàn, khi thì tự do……bơi lội, khi thì lao
    nhanh….như những con thoi. Chim chóc cung đua nhau đến bên hồ làm tổ.
    Những con bói cá mỏ dài, lông nhiều màu sắc….. Những con cuốc đen trui… len
    lách giữa các bụi bờ.
    * Đáp án: Các từ láy thay từ in đậm lần lượt là: mênh mông, long lanh,
    chói chang, sinh sôi, tung tăng, vun vut, sặc sỡ, đen trùi trui.
    Từ láy “xanh xao” dùng để tả màu sắc của đối tượng:
    a. da người c. lá cây đã già b. lá cây còn non d. trời.
    12
    Tìm từ láy trong đoạn văn sau và cho biết chúng dùng để miêu tả sự
    vât nào?
    Bản làng đã thức giấc. Đó đây, ánh lửa hồng bập bùng trên các bếp.
    Ngoài bờ ruộng đã có bước chân người đi, tiếng nói chuyện rì rầm, tiếng gọi
    nhau í ới. Tảng sáng, vòm trời cao xanh mênh mông. Gió từ trên đỉnh núi tràn
    xuống thung lung mát rượi.
    …………..
    Ví dụ: Sử dụng tính từ: Tính từ là từ có khả năng biểu thị những đặc
    điểm, màu sắc với sắc thái riêng biệt của sự vật hiện tượng. Chính vì vậy, trong
    văn tả cảnh thì tính từ là yếu tố ngôn ngữ không thể thiếu bởi vì các sự vật, hiện
    tượng, hành động… trở nên sinh động, cụ thể và chúng có hồn khi gắn liền với
    các đặc điểm, thuộc tính riêng vốn có của chúng. Tôi thường yêu cầu học sinh
    làm các bài tập dạng :
    Tìm các tính từ phù hợp cho các câu văn sau:
    Vi dụ 1: Cánh đồng lua chin vàng xuộm đang chờ tay người đến gặt mang
    về. (Tả cánh đồng lúa chín)
    Vi dụ 2: Thế rồi những cơn gió bất chợt nổi lên. Gió điên cuồng vặt từng
    đám lá cuốn lên cao rồi vứt tung tóe. Bụi bặm cung bị gió cuộn tung mù mịt.
    Sấm ì ầm phia xa và những đám mây đen kịt ùn ùn kéo tới. (Tả cơn mưa).
    Viết các tính từ sau vào từng cột cho phù hợp:
    – xanh biếc, chắc chắn, tròn xoe, lỏng lẻo, mềm nhũn, xám xịt, vàng hoe, đen kịt,
    cao lớn, mênh mông, trong suốt, chót vót, tí xíu, kiên cường, thật thà, xanh
    mướt, xa tít, cao vút,

    Tính từ chỉ màu sắcTính từ chỉ hình dángTính từ chỉ tính chất
    phẩm chất

    ……………………………………
    Giải pháp 3- Hướng dẫn HS làm dạng bài tâp về tìm hiểu và vân dụng
    một số biện pháp tu từ
    Để viết được bài văn hay, hấp dẫn, ngoài việc dùng từ viết câu phù hợp
    văn cảnh còn cần đến nghệ thuật sử dụng biện pháp tu từ trong tiếng Việt, tôi rất
    chú trọng rèn cho các em tìm hiểu tác dụng của một số biện pháp tu từ gần gũi
    với học sinh tiểu học (so sánh, nhân hoá, dùng điệp từ, điệp ngữ, đảo ngữ) thông
    qua các ví dụ cụ thể để các em học tập cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật đó
    viết văn cho sinh động.
    a. Sử dụng biện pháp nghệ thuât nhân hóa: Nhân hóa là biến sự vật (cỏ
    cây, hoa lá, gió trăng, chim thú,… ) thành con người bằng cách gọi nó như con
    13
    người( dùng danh từ chỉ người: ông, bà, …) hoặc gán cho nó những hoạt động,
    đặc điểm mang tính cách con người bằng các động từ, tính từ. Sử dụng biện
    pháp nhân hóa trong văn tả cảnh sẽ giúp cho cảnh vật sống động và có hồn hơn.
    Ví dụ:- Con đường làng chậm rãi bò qua những ngọn đồi, vươn về phia
    xa xa,… (Tả con đường )
    – Ông mặt trời cung dần lên cao. Thế mà sông vẫn năm đấy, ườn
    mình ra đón những ánh vàng lấp loáng. (Tả dòng sông)
    Ví dụ bài tâp 1 : Hãy chỉ ra biện pháp nhân hóa trong đoạn thơ sau và
    cho biết tác dụng của nó.
    “Chị chổi tre chải tóc bên ao
    Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương
    Bác nồi đồng hát bùng boong
    Bà chổi loẹt quẹt lom khom trong nhà”.
    (Trần Đăng Khoa)
    Sau khi học sinh phát hiện ra các biện pháp nhân hoá là dùng danh từ chỉ
    người để gọi sự vật và dùng các động từ chải tóc, ghé vào, hát, loẹt quẹt, lom
    khom, tôi gợi mở để học sinh thấy được tác dụng của biện pháp nhân hoá góp
    phần diễn tả nội dung sinh động như thế nào?
    Ví dụ bài tâp 2: Hãy sử dụng biện pháp nhân hoá để diễn đạt lại cho
    các câu văn sau sinh động hơn:
    a) Những bông hoa nở trong nắng sớm.
    b) Mùa xuân, sân trường xanh mướt màu lá.
    c) Chim hót ríu rít trong vòm cây.
    Nhiều em đã viết được những câu văn có sử dụng biện pháp nhân hoá thích hợp.
    HS1:
    a)Trong vườn, những bông hoa đang hé nụ tươi cười chào đón bình minh.
    b)Xuân sang, sân trường khoác chiếc áo màu xanh mướt.
    c)Mấy chú chim ca hát véo von trong vòm cây.
    HS 2:
    a) Trong nắng sớm, những nàng hồng, nàng cuc đang tươi cười làm duyên.
    b) Mùa xuân đến, sân trường thay chiếc áo màu xám khô khốc băng chiếc
    áo màu xanh non mỡ màng.
    c) Mấy chu chim đang trò chuyện riu rit trong vòm cây.
    b. Sử dụng biện pháp so sánh: Là đối chiếu 2 sự vật, hiện tượng cùng có
    một dấu hiệu chung nào đó với nhau, góp phần làm cho sự vật, hiện tượng được
    miêu tả trở lên phong phú, cụ thể, sinh động và rõ ràng hơn.
    14
    Ví dụ: – Dưới làn cát trắng mát lạnh óng ánh như những hạt pha lê ấy là
    vô vàn những chu ốc biên nhỏ xinh đáng yêu. (Tả cảnh biên luc bình minh)
    – Hoàng hôn dần buông như ai đó rắc những tia nắng cuối cùng
    trên mặt biên xanh êm đềm. (Tả cảnh biên luc hoàng hôn)
    – Dòng sông như một dải lụa mềm ôm lấy những cánh đồng, xóm
    thôn trù phu. (Tả dòng sông)
    Ví dụ bài tâp 1: Chỉ ra những hình ảnh so sánh có trong đoạn thơ sau
    và nêu tác dụng của biện pháp so sánh trong đoạn văn đoạn thơ đó.
    Mùa thu của em
    Là vàng hoa cúc
    Như nghìn con mắt
    Mở nhìn trời êm
    Tôi hướng dẫn để các em chỉ ra hình ảnh so sánh rồi tìm hiểu tác dụng của
    hình ảnh so sánh đó. Chẳng hạn đoạn thơ trên: Hình ảnh so sánh “như nghìn con
    mắt /mở nhìn trời êm” diễn tả nội dung sinh động gợi tả như thế nào?
    Hình ảnh “Nghìn con mắt mở nhìn trời êm” góp phần diễn tả vẻ đẹp tươi
    sáng, dịu dàng của hoa cúc; như hàng nghìn con mắt trong sáng, hồn nhiên mở
    nhìn trời êm gợi cảm xúc yêu mến mùa thu tươi đẹp mà yên bình. Từ đó học
    sinh thấy được tác dụng của biện pháp so sánh và biết vận dụng vào các bài văn
    miêu tả cảnh vật phù hợp.
    Ví dụ bài tâp 2: Viết lại các câu văn sau cho gợi tả, gợi cảm bằng cách
    sử dụng biện pháp so sánh
    a) Cây phượng vĩ ở cổng trường đang nở hoa đỏ rực.
    b) Những chiếc nón trắng nhấp nhô trên ruộng lua xanh.
    c) Những giọt sương long lanh còn đọng trên lá.
    d) Hai hàng cau thẳng tắp đứng nghiêm trang hai bên đường làng.
    HS 1:
    a) Cây phượng vĩ ở sân trường nở hoa đỏ rực giống như một bó đuốc khổng lồ.
    b) Những chiếc nón lá như những bông hoa trắng thấp thoáng trên ruộng lua
    xanh mượt.
    c) Những giọt sương như những hạt ngọc đọng long lanh trên những chiếc lá
    lua mỏng manh.
    d) Hai hàng cau thẳng tắp đứng nghiêm trang như hai hàng quân danh dự
    chào đón những người học trò ngoan chung em đi học.
    c. Sử dụng biện pháp điệp từ, điệp ngữ: Là sự nhắc đi nhắc lại một từ
    hoặc một cụm từ, một câu nhằm nhấn mạnh một ý nào đó, làm cho nó nổi bật
    và hấp dẫn người đọc.
    15

    Ví dụ: Em yêu màu đỏ
    Như máu con tim
    Lá cờ Tổ quốc
    Khăn quàng đội viên.
    Em yêu màu xanh
    Đồng băng, rừng nui
    Biên đầy cá tôm
    Bầu trời cao vợi. …..

    Ví dụ bài tâp 1: Tìm điệp từ và nêu tác dụng của điệp từ trong đoạn
    văn sau:
    Thoắt cái, lác đác lá vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu. Thoắt cái, trắng
    long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào lê, mận. Thoắt cái, gió xuân
    hây hẩy nồng nàn với những bông hoa lay ơn màu đen nhung hiếm quý.
    Học sinh nhận ra được:
    Điệp từ “thoắt cái” được sử dụng tới 3 lần tạo cho người đọc cái cảm xuc
    đột ngột, ngỡ ngàng trước sự thay đổi nhanh chóng của thời tiết ở Sa Pa. Sự
    thay đổi nhanh chóng đến mức bất ngờ ấy khiến du khách Sa Pa không những
    được tận hưởng cảnh đẹp nên thơ mà còn được chứng kiến sự biến đổi huyền ảo
    của thời tiết Sa Pa. và như lạc vàc một tiên cảnh vậy.
    Ví dụ bài tâp 2: Dùng điệp ngữ viết lại những câu văn sau để nhấn
    mạnh và gợi cảm xúc cho người đọc:
    a) Tôi yêu căn nhà đơn sơ, khu vườn đầy hoa trái và cả luỹ tre quen thuộc
    làng tôi.
    b) Bức tranh buổi sớm quê hương tôi đẹp quá!
    c) Làng quê tôi tràn ngập màu xanh của đồng lúa, bãi ngô, thảm cỏ.
    d) Hoa hồng, hoa huệ, hoa nhài đều thơm, hương thơm lan toả khắp vườn.
    e) Cánh đồng quê tôi tràn ngập màu vàng của ánh nắng và những thảm lúa chín.
    *Đáp án:
    a) Tôi yêu căn nhà đơn sơ, yêu khu vườn đầy hoa trái và yêu cả luỹ tre
    quen thuộc của làng tôi.
    b) Bức tranh buổi sớm quê hương tôi đẹp quá! Đẹp vô cùng!
    c) Làng quê tôi tràn ngập màu xanh của đồng lua, màu xanh của bãi ngô,
    màu xanh của thảm cỏ.
    d) Hoa hồng thơm nồng nàn, hoa huệ thơm thanh tao, hoa nhài thơm tinh
    khiết, hương thơm hoà quyện vào nhau lan toả khắp vườn.
    e) Cánh đồng quê tôi tràn ngập một màu vàng, màu vàng chói chang của
    ánh nắng ban trưa, màu vàng trù phu của những thảm lua đang mùa chin rộ.
    Song song với việc rèn cho học sinh cách vận dụng biện pháp tu từ trong
    viết văn, tôi rèn cho các em kĩ năng diễn đạt qua các dạng bài tập về câu nhằm
    giúp các em diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn, mạch lạc tiến tới diễn đạt chặt chẽ, sinh
    động.
    Giải pháp 4- Rèn kĩ năng viết những câu văn sinh động, gợi tả gợi
    cảm, giàu hình ảnh và nhạc điệu:
    16
    – Câu văn là một bộ phận của một đoạn văn, bài văn. Vì vậy, muốn có một
    đoạn văn hay thì phải có các câu văn hay. Muốn viết được câu văn hay, ngoài
    việc dùng từ chính xác, câu văn cần phải có hình ảnh. Có hình ảnh, câu văn sẽ
    có màu sắc, đường nét, hình khối,… Để câu văn có hình ảnh, giáo viên cần lưu ý
    hướng dẫn các em sử dụng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm và các biện pháp nghệ
    thuật như so sánh, nhân hoá, điệp ngữ, đảo ngữ. Các hình thức nghệ thuật này sẽ
    làm cho câu văn trở nên sinh động hơn rất nhiều.
    – Từ cách dẫn dắt, gợi ý của giáo viên và từ một ý cho trước hay từ một
    câu đơn chỉ có một cụm chủ ngữ, vị ngữ, giáo viên hướng dẫn học sinh tập mở
    rộng câu bằng cách thêm thành phần phụ cho câu như trạng ngữ, bổ ngữ, động
    từ, tính từ, từ láy, từ tượng thanh, tượng hình,…; sử dụng biện pháp nhân hóa,
    so sánh, điệp từ, điệp ngữ, … phù hợp làm cho câu văn diễn đạt thêm cụ thể,
    sống động, hấp dẫn giúp người đọc như cùng cảm nhận với mình. Yêu cầu rèn
    luyện kĩ năng này có thể thực hiện ở các tiết học Luyện từ và câu hoặc tiết trả
    bài tập làm văn hoặc các tiết học buổi hai hay ngoại khóa. Các bài tập luyện viết
    câu sẽ giúp học sinh có ý thức viết văn ngày càng chặt chẽ về ý tứ, sinh động,
    giàu cảm xúc. … Từ đó giúp các em thêm hứng thú học môn Tập làm văn hơn.
    – Qua các giờ tập đọc, luyện từ và câu và tập làm văn hay các giờ ngoại
    khóa tôi giúp các em hiểu được các từ ngữ đặc sắc, cảm thụ được cái hay, cái
    đẹp của bài văn, bài thơ và luyện viết câu văn sinh động giàu hình ảnh. Tôi đã
    hướng dẫn học sinh luyện tập thông qua các dạng bài tập sau:
    a- Hướng dẫn HS làm dạng bài tâp dùng từ, đặt câu
    Ví dụ: Bài tâp 1: Thêm từ ngữ vào chỗ trống để câu văn có sức gợi tả,
    gợi cảm hơn:
    a) Phía đông, … mặt trời …. nhô lên đỏ rực.
    b) Bụi tre… ven hồ… nghiêng mình…. theo gió.
    c) Trên cành cây…, mấy chú chim non… kêu………..
    d) Khi hoàng hôn ….. xuống, tiếng chuông chùa lại ngân….
    *Đáp án dự kiến:
    a) Ông, đang, từ từ.
    b) Ngà , đang, đu đưa.
    c) Cao, đang riu rit, trong nắng chiều.

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Định hướng dạy học STEM thông qua việc sử dụng bộ gõ đệm tự làm trong các giờ học âm nhạc phát huy năng lực, phẩm chất của học sinh

    SKKN Định hướng dạy học STEM thông qua việc sử dụng bộ gõ đệm tự làm trong các giờ học âm nhạc phát huy năng lực, phẩm chất của học sinh

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    I . ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Dân tộc Việt Nam là một dân tộc vốn có năng khiếu nghệ thuật và một
    truyền thống yêu âm nhạc từ rất lâu đời. Với người Việt Nam, âm nhạc cần thiết
    như cơm ăn nước uống, như không khí để thở. Bởi vậy, cha ông ta đã tận dụng mọi
    cơ hội để “làm” âm nhạc nhằm tô điểm cho cuộc sống thêm tươi đẹp. Qua tìm hiểu
    về nhạc khí dân tộc Việt, tôi nhận thấy, hầu như mọi vật liệu sẵn có trong thiên
    nhiên đều có thể trở thành nhạc khí dưới những đôi tay khéo léo của người Việt.
    Tất cả các nguyên vật liệu từ thực vật, động vật cho đến khoáng sản đều được
    người Việt khai thác để làm nhạc cụ, tạo nên những màu âm đa dạng và mang tính
    đặc trưng của âm nhạc Việt Nam. Bên cạnh những nhạc cụ cổ truyền phong phú đa
    dạng về loại hình, cấu trúc, âm sắc, âm lượng là sự đa dạng về phương thức, kĩ
    thuật diễn tấu cũng như tập quán sử dụng mang một nét đặc trưng riêng của người
    Việt .
    Âm nhạc gắn liền với cuộc sống của chúng ta. Giáo dục âm nhạc có tác động
    tới quá trình hình thành nhân cách rất lớn cho học sinh. Quá trình hình thành nhân
    cách của con người được tôi luyện ngay từ lúc ấu thơ, chịu sự ảnh hưởng quan
    trọng từ gia đình, xã hội và nhà trường. Khi đến trường học sinh được làm quen với
    bạn bè cùng trang lứa, kết thành những nhóm nhỏ để sinh hoạt môn học cũng như
    sinh hoạt vui chơi. Âm nhạc nói chung và chương trình âm nhạc nói riêng là cơ sở
    hình thành, nuôi dưỡng tâm hồn, sự sáng tạo, óc tưởng tượng dường như vô biên
    của trẻ thơ.
    Trong hệ thống giáo dục từ năm 2002 Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định
    thay đổi sách giáo khoa môn Âm nhạc và đã đưa bộ môn âm nhạc vào trong
    chương trình đào tạo khối tiểu học và trung học cơ sở. Do vậy giáo dục đào tạo nói
    chung và giáo dục âm nhạc nói riêng được nhìn nhận là con đường quan trọng nhất
    để phát triển năng lực cho con người một cách toàn diện cả về tinh thần lẫn thể
    2
    chất, giáo dục âm nhạc ở phổ thông góp phần vào việc hình thành nhân cách toàn
    diện của con người mới hướng tới cái đích cuối cùng: Chân – Thiện – Mĩ. Chính vì
    vậy, ở cấp học THCS môn âm nhạc là một trong những phương tiện hiệu quả nhất.
    Giáo dục âm nhạc là phương tiện nâng cao khả năng trí tuệ, giúp học sinh phát triển
    trí tưởng tượng, củng cố kiến thức thông qua học tập, vui chơi trong cuộc sống giúp
    hình thành ở các em những yếu tố của một nhân cách phát triển toàn diện, hài hòa.
    Trong nhà trường, bộ môn âm nhạc được ví như bộ môn đạo đức thứ hai.
    Âm nhạc là phương tiện truyền tải thông điệp đạo đức một cách dễ dàng và có sức
    lan tỏa rộng rãi bởi những giai điệu trầm bổng dễ đi vào lòng người, tạo dựng sự
    đồng cảm sâu sắc. Đối với học sinh, việc giáo dục tình cảm đạo đức thông qua âm
    nhạc giúp học sinh ghi nhớ tốt hơn, đặc biệt là khi học sinh được tham gia hoạt
    động biểu diễn âm nhạc. Để đáp ứng được yêu cầu giáo dục, ta phải có cái nhìn
    đúng về tầm quan trọng của môn Âm nhạc trong chương trình trung học cơ sở. Âm
    nhạc trong trường THCS tuy không đào tạo các em thành những ca sỹ, nhạc sỹ
    nhưng thông qua môn học này đã hình thành cho các em những kiến thức ban đầu,
    đặc biệt là trang bị cho các em một thế giới tinh thần thoải mái hơn, giúp các em
    phát triển hài hòa và toàn diện hơn, từ đó giúp các em học tốt các môn học khác.
    Thông qua những phương tiện của nghệ thuật âm nhạc để bồi dưỡng khả năng nhận
    thức, phát triển tư duy, óc sáng tạo góp phần cùng các môn học khác phát triển
    năng lực trí tuệ cho học sinh, bồi dưỡng năng khiếu nghệ thuật, đẩy mạnh phong
    trào văn nghệ quần chúng làm cho không khí của nhà trường thêm vui tươi lành
    mạnh.
    Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy vai trò của thiết bị dạy học rất
    quan trọng: nó góp phần nâng cao tính trực quan của quá trình dạy học, giúp học
    sinh nhận ra những sự vật, hiện tượng, khái niệm một cách cụ thể hơn, nâng cao
    hiệu quả dạy và học, thoả mãn nhu cầu và sự say mê của học sinh… Để các tiết học
    3
    âm nhạc thật sự hiệu quả và tạo niềm say mê hứng thú trong các bài học tôi đã
    hướng dẫn các em học sinh cùng nhau tự làm đồ dùng dạy học. Với các chất liệu
    đơn giản, dễ tìm, dễ kiếm như vỏ lon, hộp nhựa, đồ chơi đã qua sử dụng hay những
    nắp bia, vỏ hộp bánh, vỏ thùng sơn cũng là những dụng cụ gõ đệm trong các tiết
    âm nhạc. Thông qua các nhạc cụ tự làm giúp các em hình thành và phát triển được
    cảm xúc thẩm mỹ và tình yêu âm nhạc; có ý thức trân trọng, bảo vệ và phổ biến các
    giá trị âm nhạc truyền thống; đồng thời hình thành và phát triển những phẩm chất
    cao đẹp, những năng lực cốt lõi chung như: tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác,
    giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đặc biệt, các em hình thành và phát triển được năng
    lực âm nhạc, biểu hiện của năng lực thẩm mĩ trong lĩnh vực âm nhạc đó là: biết tái
    hiện, trình bày hoặc biểu diễn âm nhạc thông qua các hoạt động hát, đọc nhạc, chơi
    nhạc cụ, đánh nhịp, vận động … với nhiều hình thức và phong cách; cảm thụ âm
    nhạc biết thưởng thức và cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị
    và đẹp đẽ của âm nhạc, được thể hiện trong tác phẩm; các em biết vận dụng kiến
    thức, kỹ năng, tư duy âm nhạc để phân tích và đánh giá về các phương tiện diễn tả
    của âm nhạc và phong cách biểu diễn sáng tạo và ứng dụng âm nhạc, HS biết kết
    nối các năng lực, biết vận dụng kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm âm nhạc vào
    thực tiễn.
    Trong năm học 2019- 2020, chúng tôi hướng dẫn học sinh làm “Bộ gõ đệm”
    sử dụng trong tất cả các giờ học nhạc của trường THCS Hàn Thuyên giúp chúng
    em được trải nghiệm và phát triển các năng lực thực hành, cảm thụ, ứng dụng âm
    nhạc, góp phần phát triển năng khiếu âm nhạc. “Bộ gõ đệm tự làm” của học sinh
    Trường THCS Hàn Thuyên tham gia “Ngày hội STEM dành cho học sinh trung
    học năm học 2019- 2020” do Sở giáo dục đào tạo Tỉnh Nam Định tổ chức đạt
    giải xuất sắc. Những kinh nghiệm và tâm huyết rút ra qua hoạt động trên là lí do
    chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Định hướng dạy học STEM thông qua việc
    sử dụng bộ gõ đệm tự làm trong các giờ học âm nhạc phát huy năng lực, phẩm
    chất của học sinh ”.
    4
    5
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Như chúng ta đã biết, Âm nhạc là một môn học mang tính nghệ thuật cao, nó
    khác rất nhiều so với môn học khác, tuy nó không đòi hỏi sự chính xác một cách
    tuyệt đối nhưng lại đòi hỏi người học phải có sự yêu thích, sự đam mê thậm chí là
    một chút “năng khiếu”, điều này không phải học sinh nào cũng có được.
    Những bộ nhạc cụ gõ đệm, thanh phách là những dụng cụ được kích âm
    nhằm mục đích giữ nhịp cho bài hát và là phương tiện phục vụ cho các hoạt động
    biểu diễn văn nghệ. Hiện nay trong các trường phổ thông bộ nhạc cụ gõ đệm còn
    nghèo nàn và số lượng ít rất hạn chế trong các giờ học:
    – Một số giáo viên đã có sáng tạo làm đồ dùng dạy học trong các giờ học, trong các
    hội thi đạt hiệu quả tốt.
    6
    – Bên cạnh những ưu điểm của đồ dùng tự làm của một số nơi bản thân
    chúng tôi nhận thấy vẫn còn một số hạn chế nhất định như: một số dụng cụ cần đòi
    hỏi kĩ thuật và giá thành kinh tế cao; khả năng áp dụng đại trà vào học tập còn hạn
    chế và còn mang tính chất trưng bày hoặc làm đạo cụ biểu diễn trong một số buổi
    hoạt động ngoại khoá; nhiều dụng cụ chỉ sử dụng trong một số bài học nhất định
    không có tính phổ thông:
    7
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    Để khắc phục nhược điểm của những bộ đồ dùng dạy học tự làm có từ trước
    và chú ý hơn đến phát huy tính tích cực của học sinh nhằm phát huy năng lực phẩm
    chất của người học chúng tôi đã:
    – Hướng dẫn học sinh làm bộ gõ đệm trong dạy học âm nhạc từ các nguyên
    vật liệu có sẵn trong tự nhiên tạo ra các nhạc cụ được sử dụng trong các giờ học âm
    8
    nhạc và chương trình ngoại khoá tạo nên những màu âm đa dạng và mang tính đặc
    trưng của âm nhạc.
    – Học sinh vận dụng kiến thức liên môn vào để hoàn thành bộ gõ đệm như
    môn: toán học, vật lí, công nghệ, mĩ thuật, lịch sử, sinh học, hoá học.
    – Sử dụng bộ gõ đệm tự làm trong dạy học âm nhạc và trong các giờ học
    ngoại khoá của nhà trường. Học sinh hình thành và phát triển được cảm xúc thẩm
    mỹ và tình yêu âm nhạc; có ý thức trân trọng, bảo vệ và phổ biến các giá trị âm
    nhạc truyền thống; đồng thời hình thành và phát triển những phẩm chất cao đẹp,
    những năng lực cốt lõi chung như: tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết
    vấn đề và sáng tạo cụ thể:
    + Học sinh biết tái hiện, trình bày hoặc biểu diễn âm nhạc thông qua các hoạt
    động hát, đọc nhạc, chơi nhạc cụ, đánh nhịp, vận động,… với nhiều hình thức và
    phong cách.
    + Học sinh biết thưởng thức và cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều
    sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ của âm nhạc.
    + Học sinh biết kết nối các năng lực, biết vận dụng kiến thức, kĩ năng và
    kinh nghiệm âm nhạc vào thực tiễn; ứng tác và biến tấu, đưa ra những ý tưởng âm
    nhạc hay, độc đáo.
    2.1. Bộ gõ đệm tự làm
    – Giảng dạy cho học sinh ở trường THCS đòi hỏi phải có những phương
    pháp và những đồ dùng dạy học đặc thù riêng. Hơn nữa người giáo viên còn phải
    biết lựa chọn các phương pháp và sử dụng sẵn có làm đồ dùng dạy học sao cho phù
    hợp với từng đối tượng học sinh. Về phía bản thân, với những phương pháp và kỹ
    năng làm đồ dùng cũng như sử dụng đồ dùng trong các giờ học tôi nhận thấy hiệu
    quả đem lại đó là các tiết học sôi nổi không nhàm chán, học sinh thích học. Học
    sinh học hát và đọc nhạc chắc nhịp, không bị cuốn nhịp. Mặt khác đồ dùng dạy học
    sẵn có trong nhà trường còn ít và thiếu hoặc đã xuống cấp (đàn organ, phách…)
    9
    nên bộ gõ đệm tự làm của chúng tôi đã có hỗ trợ đắc lực cho các giờ học âm nhạc
    trong nhà trường.
    – Giáo viên hướng dẫn học sinh cách làm bộ gõ đệm để sử dụng trong các
    giờ học âm nhạc nhằm phát huy năng lực sáng tạo, kích thích sự tìm tòi và hợp tác
    giữa khoa học và nghệ thuật cụ thể:
    + Nhạc cụ làm phong phú về nội dung bài dạy giúp học sinh được học âm
    nhạc bằng đa giác quan: mắt nhìn, tai nghe, tay được tiếp xúc và chơi nhạc cụ, …
    + Học sinh sử dụng bộ gõ đệm được trải nghiệm và phát triển được các năng
    lực thực hành, cảm thụ, ứng dụng âm nhạc, góp phần phát triển năng khiếu âm nhạc
    là phương tiện để các em thể hiện được bản thân mình.
    + Sử dụng bộ gõ đệm trong các giờ học âm nhạc giúp HS phát triển năng lực
    giao tiếp, hợp tác, tự học và nhiều năng lực khác.
    – Để tiếp cận với mục tiêu chương trình sách giáo khoa mới theo hướng phát
    huy năng lực và phẩm chất của người học lấy học sinh làm trung tâm chúng tôi đã
    hướng dẫn học sinh làm đồ dùng dạy học phục vụ cho giờ học âm nhạc.
    – Đầu năm học, ở các lớp chúng tôi chia lớp thành các nhóm nhỏ (khoảng 4-
    6 học sinh), mỗi nhóm thiết kế một dụng cụ gõ đệm bằng các chất liệu khác nhau,
    tận dụng những đồ dùng đã qua sử dụng. Sau thời gian một tuần học sinh báo cáo ý
    tưởng và các sản phẩm thô (chưa trang trí) của nhóm mình, chúng tôi tập hợp kết
    quả và gợi ý học sinh hoàn thành bộ gõ đệm với 6 sản phẩm sau:
    + Bộ gõ phách: các em học sinh làm bằng thanh tre và nắp chai bia. Tất cả
    được làm từ những thanh tre có chiều dài 20cm, nắp chai bia dùng búa gõ tạo thành
    hình tròn và đục lỗ ở giữa, sau đó xỏ đinh vào nắp bia rồi dùng búa đóng vào thanh
    tre , mỗi bộ gõ này gồm 2 thanh. Các chất liệu khác nhau (tre và kim loại là sắt) khi
    va vào nhau tạo nên những âm thanh rất sinh động.
    10
    +Trống: làm từ chất liệu đó là vỏ xô sơn đã qua sử dụng. Một miệng xô
    được được bọc mê ka, một miệng xô bọc bằng da. Khi gõ sẽ tạo ra âm thanh để giữ
    nhịp, sản phẩm này dùng để nhấn vào những phách mạnh.
    + Mõ 2 âm sắc: được làm từ vỏ quả dừa, phơi khô rồi lấy giấy giáp bào
    nhẵn vỏ, mỗi cặp mõ gồm 2 chiếc:
    Một chiếc chúng em bào thật mỏng vỏ để khi gõ sẽ vang lên âm thanh nghe
    vừa cao vừa thanh.
    11
    Một chiếc chúng em để vỏ dày để khi gõ sẽ vang lên âm thanh trầm.
    Sau khi bào xong 2 vỏ quả dừa theo kích thước 1 dày, 1 mỏng chúng em úp
    vào miếng gỗ rồi dùng keo gắn chặt vào miếng gỗ đó. Cuối cùng chúng em đục
    một lỗ thủng ở một góc quả dừa để âm thanh được vang và trong.
    Sản phâm này khi gõ đệm, chúng em dùng một thanh tre gõ vào 2 gáo dừa ở
    trên, phách mạnh chúng em gõ vào bên vỏ dày(cộc); phách nhẹ chúng em gõ bên
    vỏ mỏng (cắc).
    12
    + Quả lắc: Làm từ vỏ hộp kẹo mút. Sau khi những chiếc kẹo mút nhiều màu sắc
    được chia cho các bạn chúng em lấy những viên sỏi nhỏ hoặc hạt đỗ bỏ vào trong
    hộp và dùng băng dính chặt vào.
    13
    +Sắc xô: tận dụng vỏ hộp bánh có đường kính 15cm đã qua sử dụng và nắp
    chai bia. Trên vỏ hộp bánh, cứ 7cm chúng em gắn một dây thép và xỏ những nắp
    chai bia đã đập phẳng và xuôn lỗ. Sản phẩm này rất dễ sử dụng, khi đệm chúng ta
    cầm ở tay thuận và vỗ vào tay còn lại theo tiết tấu, các chất liệu bằng kim loại khi
    va vào nhau tạo nên âm thanh rất hay và to.
    14
    +Cốc nhựa: Với những chiếc cốc nhựa mang nhiều màu sắc khác nhau, chúng em
    chỉ cần nắm khoảng 5 đến 8 động tác cơ bản, kết hợp sự luân chuyển khéo léo của
    đôi tay là có thể đệm hát cho bất kì bài nào hoặc tự tạo ra một bản nhạc vui tai. Đặc
    biệt khi gõ đệm cùng với các nhạc cụ khác sẽ cộng hưởng tạo nên một bản hoà tấu
    đặc sắc.
    – Sau khi các em học sinh ở các nhóm đã hoàn thành cơ bản, chúng tôi hướng dẫn
    các em tiếp tục trang trí các nhạc cụ tự làm của nhóm mình. Các em đã vận dụng
    kiến thức môn mĩ thuật: sơn, cắt, dán, tạo hình để trang trí và sáng tạo các dụng cụ
    âm nhạc của nhóm mình theo các chủ đề khác nhau. Tiêu biểu một số nhóm đã
    làm:
    +Nhóm học sinh trang trí trống: đã sáng tạo cắt dán trang trí thân trống với chủ đề
    em yêu hoà bình.
    15
    +Nhóm học sinh trang trí mõ hai âm sắc: lại có ý tưởng trang trí bông hoa thược
    dược gợi nhở tới mùa xuân:
    16
    +Nhóm học sinh trang trí quả lắc: lại tạo hình bông hoa hướng dương:
    +Với các dụng cụ khác học sinh tự do sáng tạo trang trí các sản phẩm của nhóm
    mình:
    17
    – Trong các giờ học hoạt động ngoại khoá tôi đã sáng tạo và mạnh dạn dạy học
    sinh chơi tiết tấu bằng vật dụng sẵn:
    Trong số những vật dụng sẵn có, cốc nhựa được dùng khá phổ biến để chơi
    tiết tấu, bởi vật dụng này vừa an toàn vừa tạo được nhiều âm sắc. Nếu không có cốc
    nhựa, có thể thay thế bằng mẩu gỗ hoặc bút chì…
    Một số bài tập tiết tấu thực hành gõ cốc và kết hợp gõ tay:
    Bài tập 1:

    -Vỗ hai tay
    -Tay trái vỗ xuống mặt bàn
    -Tay phải cầm cốc úp xuống bàn (hoặc cầm bút chì gõ xuống bàn)

    Ứng dụng đệm cho các bài hát: Tiếng chuông và ngọn cờ (Nhạc và lời: Phạm
    Tuyên), Hành khúc tới trường (Nhạc Pháp), Tia nắng, hạt mưa (Khánh Vinh, Lệ
    Bình), Lá thuyền ước mơ (Nhạc và lời: Thảo Linh), Hô-la-hê Hô-la-hô (Dân ca
    Đức), Lí cây đa (Quan họ Bắc Ninh), Chúng em cần hòa bình (Nhạc và lời: Hoàng
    18
    Long- Hoàng Lân), Xuân về trên bản (Nhạc và lời: Nguyễn Tài Tuệ), Ca-chiu-sa
    (Nhạc: Blan-te (Nga), Lời Việt: Phạm Tuyên)…
    Bài tập 2:

    -Vỗ hai tay
    -Hai tay vỗ xuống mặt bàn
    -Tay phải cầm cốc úp xuống bàn
    -Tay phải úp miệng cốc vào lòng tay trái
    -Tay phải cầm cốc úp xuống bàn; tay trái vỗ xuống mặt bàn

    Ứng dụng đệm cho các bài hát: Tiếng chuông và ngọn cờ (Nhạc và lời: Phạm
    Tuyên), Hành khúc tới trường (Nhạc Pháp, Lời Việt: Phan Trần Bảng- Lê Minh
    Châu), Em yêu giờ học hát (Nhạc và lời: Đặng Viễn), Tia nắng, hạt mưa (Nhạc:
    Khánh Vinh, Lời: Thơ Lệ Bình), Lá thuyền ước mơ (Nhạc và lời: Thảo Linh),
    Chúng em cần hòa bình (Nhạc và lời: Hoàng Long- Hoàng Lân), Xuân về trên bản
    (Nhạc và lời: Nguyễn Tài Tuệ), Ca-chiu-sa (Nhạc: Blan-te (Nga), Lời Việt: Phạm
    Tuyên)…
    Bài tập 3:

    -Vỗ hai tay
    -Vỗ tay phải xuống mặt bàn
    -Vỗ tay trái xuống mặt bàn
    -Vỗ hai tay
    -Vỗ hai tay
    -Vỗ tay phải xuống mặt bàn
    -Vỗ tay trái xuống mặt bàn

    Ứng dụng đệm cho các bài hát: Thật là hay (Nhạc và lời: Hoàng Lân), Em yêu
    giờ học hát (Nhạc và lời: Đặng Viễn), Bạn ơi lắng nghe (Dân ca Tây Nguyên), Em
    19
    là bông hồng nhỏ (Nhạc và lời: Trịnh Công Sơn), Tiếng chuông và ngọn cờ (Nhạc
    và lời: Phạm Tuyên), Xuân về trên bản (Nhạc và lời: Nguyễn Tài Tuệ)…
    Bài tập 4:

    -Tay phải vỗ xuống mặt bàn
    -Tay trái cầm cốc úp xuống mặt bàn
    -Tay phải vỗ xuống đáy cốc
    -Tay trái cầm cốc úp xuống mặt bàn
    -Tay phải vỗ xuống mặt bàn
    -Tay phải vỗ xuống mặt bàn
    -Tay trái cầm cốc úp xuống mặt bàn
    -Tay phải vỗ xuống đáy cốc
    -Tay trái cầm cốc úp xuống mặt bàn

    Ứng dụng đệm cho các bài hát: Tiếng chuông và ngọn cờ (Nhạc và lời: Phạm
    Tuyên), Hành khúc tới trường (Nhạc Pháp), Lá thuyền ước mơ (Nhạc và lời: Thảo
    Linh), Xuân về trên bản (Nhạc và lời: Nguyễn Tài Tuệ), Ca-chiu-sa (Nhạc: Blan-te
    (Nga), Lời Việt: Phạm Tuyên)…
    Bài tập 5:

    -Tay phải vỗ xuống mặt bàn
    -Tay trái vỗ xuống mặt bàn
    -Vỗ hai tay
    -Tay phải cầm cốc lên
    -Tay trái vỗ xuống mặt bàn
    -Tay phải cầm cốc úp xuống bàn

    Ứng dụng đệm cho các bài hát: Tiếng chuông và ngọn cờ (Nhạc và lời: Phạm
    Tuyên), Hành khúc tới trường (Nhạc Pháp), Lá thuyền ước mơ (Nhạc và lời: Thảo
    20
    Linh), Xuân về trên bản (Nhạc và lời: Nguyễn Tài Tuệ), Ca-chiu-sa (Nhạc: Blan-te
    (Nga), Lời Việt: Phạm Tuyên)…
    Bài tập 6:

    -Vỗ hai tay
    -Vỗ hai tay
    -Tay phải vỗ xuống mặt bàn
    -Tay trái vỗ xuống mặt bàn
    -Tay phải vỗ xuống mặt bàn
    -Vỗ hai tay
    -Tay phải cầm cốc lên
    -Tay phải cầm cốc úp xuống bàn
    -Vỗ hai tay
    -Tay phải cầm cốc, lòng bàn tay hướng
    về bên phải
    -Tay phải úp miệng cốc vào lòng tay
    trái
    -Tay phải gõ đáy cốc xuống
    -Tay phải đưa cốc vào tay trái
    -Tay phải vỗ xuống mặt bàn
    -Tay trái cầm cốc úp xuống bàn

    Ứng dụng đệm cho các bài hát: Long lanh ngôi sao nhỏ (Nhạc Pháp), Lá thuyền
    ước mơ (Nhạc và lời: Thảo Linh), Em yêu giờ học hát (Nhạc và lời: Đặng Viễn),
    Tiếng chuông và ngọn cờ (Nhạc và lời: Phạm Tuyên), Mái trường mến yêu (Nhạc
    và lời: Lê Quốc Thắng), Ánh trăng (Nhạc Pháp), Em là bông hồng nhỏ (Nhạc và
    lời: Trịnh Công Sơn), Xuân về trên bản (Nhạc và lời: Nguyễn Tài Tuệ)…

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa