Category: SKKN Luận Văn Luận Án

  • SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

    SKKN Một số biện pháp rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Sinh ra không phải trẻ đã có kỹ năng tự phục vụ mà đó là kết quả của quá
    trình giáo dục. Như chúng ta đã biết, tự phục vụ bản thân là một trong những
    kỹ năng được rèn ngay từ khi còn nhỏ. Mặc dù đây là một công việc khó khăn
    nhưng rất quan trọng. Ông cha ta đã từng nói “Dạy con từ thuở còn thơ” là vậy.
    Trong những năm đầu tiên của cuộc đời (năm thứ 2, thứ 3) nếu có sự hướng
    dẫn của người lớn, trẻ đã có thể nắm được một số kỹ năng tự phục vụ đơn giản
    (Tự xúc cơm, tự rửa tay, rửa mặt và biết giữ gìn quần áo gọn gàng sạch sẽ, biết
    cất đồ chơi vào đúng nơi quy định….). Chính vì vậy người lớn cần phải uốn
    nắn kỹ năng và thói quen của trẻ ngay từ nhỏ, tránh để những lệch lạc ấy trở
    thành thói quen khó sửa khó uốn. Cổ nhân đã dạy: “Tre non dễ uốn, tre già nổ
    đốt”, “Bé chẳng vin, cả gẫy cành”. Phải chăng những câu nói đó của người đời
    để khẳng định ý nghĩa to lớn của việc giáo dục trẻ cũng như rèn kỹ năng tự
    phục vụ cho trẻ ngay từ thuở còn thơ. Kỹ năng tự phục vụ bản thân rất quan
    trọng, giúp trẻ hoàn thiện mình một cách tốt nhất. Nó còn là cơ hội vàng giúp
    trẻ trưởng thành và khôn lớn trong cuộc sống.
    Tính tự phục vụ được hình thành rất sớm và là một trong những biểu hiện
    tâm lý có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành các phẩm chất nhân cách
    của trẻ. Một số dấu hiệu đáng tin cậy của sự bắt đầu hình thành tính tự phục vụ,
    đó là nhu cầu tự khẳng định mình xuất hiện, trẻ muốn tự làm một số công việc
    trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ qua đó giúp trẻ có kỹ năng chăm sóc cho bản
    thân mình như (tự cởi – mặc quần áo, thu dọn giường ngủ, đi giầy dép, tự xúc
    cơm, tự uống nước, cất đồ chơi đúng nơi qui định.vv…) và trong lời nói của trẻ
    như (con tự ăn, con tự chơi, con tự làm ….). Mặc dù tính tự phục vụ của trẻ ở lứa
    tuổi này còn mờ nhạt, chưa đầy đủ, rõ ràng nhưng nó là cơ sở, là nền tảng rất
    quan trọng đối với sự phát triển của trẻ. Do hành động được lặp đi lặp lại hàng
    ngày, các kỹ năng, kỹ xảo tự phục vụ được trẻ lĩnh hội vững chắc, tạo điều kiện
    thuận lợi cho trẻ nắm kinh nghiệm thực tế và độc lập hành động. Đồng thời trẻ ý
    thức được mọi người đều có trách nhiệm lao động liên quan đến những nhu cầu
    3
    sống hàng ngày của mình, ý thức được sự cần thiết của việc tự phục vụ bản thân,
    trẻ biết cách tự chăm sóc bản thân tăng cường tính độc lập. Trẻ tự tin vào bản
    thân khi thành công trong công việc tự phục vụ bản thân. Mặt khác trẻ hiểu được
    sự chăm sóc của cha mẹ nhiều hơn. Qua đó hướng tới sự phát triển toàn diện
    nhân cách trẻ.
    Theo góc độ tâm lý học, tính tự phục vụ vừa được coi là tính cách, vừa là
    phẩm chất ý chí của hoạt động cá nhân. Kỹ năng tự phục vụ được hình thành
    trong quá trình hoạt động và thể hiện mối quan hệ cá nhân với các sự vật hiện
    tượng, với người khác và với bản thân. Nó đặc trưng cho thái độ tự giác, tự tin,
    thể hiện khả năng tự đặt mục đích, nhiệm vụ, kế hoạch hành động, tự điều khiển
    bản thân với sự nỗ lực cao về trí tuệ, thể lực trong quá trình hoạt động nhằm
    thoả mãn nhu cầu bản thân và xã hội.
    Thực tế việc giáo dục, rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ở trường đã được
    giáo viên thực hiện, nhưng chưa đi sâu, đi sát nên kết quả chưa cao, trẻ thường
    ỷ lại vào cô giáo không muốn lao động, trẻ chưa có tính tự giác lao động. Ở
    nhà, chủ yếu là các bậc cha mẹ có nhiều sai lầm về giáo dục nói chung và giáo
    dục tính tự phục vụ nói riêng. Thứ nhất là nuông chiều con quá mức khiến trẻ
    chỉ biết hưởng thụ, thứ hai là không tin vào khả năng của trẻ, trẻ muốn làm
    nhưng thấy trẻ vụng về, lóng ngóng chậm chạp thì tỏ ra khó chịu, nên người
    lớn thường sốt ruột và làm thay trẻ, dần dần tạo ra sự ỉ lại, lười biếng và mất tự
    tin ở trẻ.
    Nhận thức được tầm quan trọng, lợi ích của việc rèn kỹ năng tự phục vụ
    cho trẻ tôi luôn suy nghĩ và băn khoăn làm thế nào để trẻ hứng thú làm những
    công việc tự phục vụ một cách tự nhiên không gò ép, tạo niềm hứng khởi say
    mê, hồn nhiên nơi trẻ.
    Xuất phát từ những lý do trên đã giúp tôi mạnh dạn, đưa ra sáng kiến:
    “Một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi’’
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KĨ THUẬT
    1. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KĨ THUẬT TRƯỚC KHI CÓ SÁNG KIẾN
    4
    Năm học 2019 -2020 tôi được phân công dạy lớp Mẫu giáo bé, sĩ số 40
    cháu. Trong quá trình làm quen với trẻ tôi thấy một số trẻ đã có kĩ năng tự phục
    vụ bản thân như cầm thìa xúc cơm ăn, tự cất ghế khi ngồi xong và chơi xong
    biết cất dọn đồ chơi đúng nơi qui định. Tuy nhiên vẫn còn có trẻ kĩ năng tự phục
    vụ bản thân còn hạn chế các bé chưa biết cầm thìa xúc cơm ăn, chưa biết cất đồ
    chơi khi chơi xong, chưa biết tự cởi – kéo quần khi đi vệ sinh…. Bên cạnh đó
    lớp Mẫu giáo bé của tôi thường xuyên đón các cháu mới nhập học nên các cháu
    còn chưa quen nền nếp của lớp, rụt rè, nhút nhát chưa tự tin thể hiện hiểu biết
    của mình.
    Vì vậy, trong quá trình triển khai nghiên cứu để thực hiện đề tài này, tôi có
    gặp một số thuận lợi và khó khăn sau:
    * Thuận lợi
    – Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, đầu tư cơ sở vật chất trường lớp
    sạch sẽ, thoáng mát tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên tổ chức các hoạt động
    trong ngày của trẻ.
    – 100% học sinh ở lớp được đầu tư đầy đủ đồ dùng học tập, đồ dùng cá
    nhân cho mỗi trẻ.
    Giáo viên luôn gương mẫu cho trẻ làm theo. Giáo viên trong lớp kết hợp
    chặt chẽ việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Đơn giản nhất là biết cất đồ dùng
    cá nhân của mình vào đúng tủ, đúng ngăn.
    – Môi trường sư phạm sạch đẹp khang trang, có đủ đồ dùng đồ chơi phù
    hợp với trẻ.
    – Phụ huynh luôn quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình trong mọi hoạt động.
    * Khó khăn
    – Lớp học chỉ có một phòng chung cho tất cả các hoạt động.
    – 30% phụ huynh không có thời gian chăm sóc trẻ vào buổi sáng, nhiều trẻ
    đến lớp với quần áo, đầu tóc không gọn gàng, sạch sẽ.
    – 25% phụ huynh ít đưa đón con đi học thường nhờ ông, bà, anh chị hàng
    xóm vì thế giáo viên không có cơ hội trao đổi về tình hình của trẻ ở lớp để cùng
    phối hợp.
    5
    – Nhận thức của phụ huynh về ngành học, về trẻ còn hạn chế, nuông chiều
    con quá mức luôn làm mọi công việc hộ con từ bé, không muốn con phải lao
    động dẫn đến trẻ không có tính tự giác, không có kỹ năng, ý thức tự phục vụ. Mặt
    khác nhiều phụ huynh không muốn cho con em mình phải lao động sợ con mệt,
    sợ con bị bẩn quần áo, phụ huynh thường làm hết việc hộ cho trẻ, vì thế nhiều trẻ
    không biết làm những việc phục vụ cho bản thân. Thiếu kỹ năng tự phục vụ sẽ
    dẫn đến lười biếng, thụ động và khó khăn khi tham gia vào các hoạt động của tập
    thể. Dẫn đến hay dỗi hờn làm nũng hay ỷ lại không có kỹ năng, ý thức tự phục vụ
    một số trẻ sống trong môi trường không lành mạnh từ gia đình. Do đó việc đưa
    trẻ vào nề nếp rất khó khăn.
    – Thực tế khảo sát trên 40 trẻ 3-4 tuổi (lớp Sóc Nâu 2) trường mầm non
    Thống Nhất vào đầu năm học 2019 -2020, kết quả như sau :

    Nội dungTrẻ thường
    xuyên thực
    hiện
    Trẻ thỉnh thoảng
    thực hiện
    Trẻ không thực
    hiện
    – Rửa tay, rửa mặt, vệ
    sinh răng miệng.
    16 trẻ đạt 40%18 trẻđạt 45%6 trẻ đạt 15%
    – Mặc quần áo phù hợp
    với thời tiết, gấp quần
    áo.
    16 trẻđạt 40%20 trẻđạt 50%4 trẻđạt 10%
    – Cất đồ dùng cá nhân
    gọn gàng, cất đồ chơi
    đúng nơi quy định.
    20 trẻđạt 50%15 trẻđạt 37.5%5 trẻđạt 12.5%
    – Chuẩn bị cho giờ ăn giờ
    học, chia màu, chia thìa,
    kê và cất ghế.
    20 trẻđạt 50%15 trẻđạt 37.5%5 trẻđạt 12.5%

    Việc bồi dưỡng kinh nghiệm sống, rèn luyện thói quen tốt giúp trẻ hình
    thành kỹ năng cần thiết trong cuộc sống, biết hợp tác cùng bạn, xây dựng tính
    6
    độc lập, kích thích óc tò mò, khả năng sáng tạo, biết yêu thương chia sẻ, biết
    lắng nghe người khác nói. Để bồi dưỡng, hình thành thói quen tốt cho trẻ ngay
    từ lứa tuổi mầm non, tôi đưa ra một số biện pháp sau đây.
    2. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KĨ THUẬT SAU KHI TẠO RA SÁNG KIẾN
    Giải pháp 1: Lựa chọn những kỹ năng tự phục vụ phù hợp và xây dựng kế
    hoạch tự phục vụ cho trẻ ở lứa tuổi 3 – 4 tuổi.
    a. Lựa chọn những kĩ năng tự phục vụ phù hợp với trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi.
    Lựa chọn những kỹ năng tự phục vụ cần dạy trẻ ở lứa tuổi này rất quan
    trọng. Nếu cô lựa chọn những nội dung đúng phù hợp để rèn cho trẻ thì sẽ mang
    lại hiệu quả cao và giúp cho trẻ có những kỹ năng tự phục vụ phù hợp với lứa
    tuổi. Nếu nội dung không phù hợp với lứa tuổi của trẻ như yêu cầu cao quá thì
    sẽ dẫn đến trẻ làm việc quá sức ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực ở trẻ. Chính
    vì vậy tôi đã nghiên cứu rất kỹ khi lựa chọn những kỹ năng tự phục vụ phù hợp
    với lứa tuổi của trẻ. Tôi đã căn cứ vào: chương trình giáo dục trẻ mầm non, sách
    giáo dục thường xuyên đặc biệt là chương trình hướng dẫn thực hiện chăm sóc
    giáo dục trẻ 3-4 tuổi. Đối với tâm sinh lý trẻ 3 tuổi thì có rất nhiều kỹ năng mà
    trẻ cần phải biết trước khi bước sang 4 tuổi. Thực tế nhiều nhà nghiên cứu cho
    thấy kỹ năng tự phục vụ là một trong những kỹ năng rất quan trọng nó đòi hỏi
    người lớn cần phải tạo cơ hội cho trẻ để trẻ rèn luyện những kỹ năng này. Trẻ có
    thể tự làm được những việc tự phục vụ bản thân phù hợp với khả năng của trẻ.
    Do đó tôi đã lựa chọn những nội dung sau:
    – Trẻ biết tự vệ sinh cá nhân của trẻ khi được nhắc nhở như: rửa tay, rửa
    mặt, vệ sinh răng miệng, đi giày dép.
    – Trẻ biết tự chăm sóc bản thân: tự mặc, cởi quần áo, mặc quần áo phù hợp
    với thời tiết, gấp quần áo, gập chăn gối khi ngủ dậy
    – Trẻ biết cất đồ dùng cá nhân gọn gàng, cất đồ chơi đúng nơi quy định
    – Trẻ biết chuẩn bị cho giờ học như: lấy và chia đồ dùng học. Kê bàn ghế
    chuẩn bị cho giờ ăn, chia thìa, cất ghế.
    Sau khi xác định được những kỹ năng tự phục vụ cần dạy trẻ ở lứa tuổi này
    tôi sẽ tiến hành khảo sát xem trẻ đã làm được những việc gì và đạt ở mức độ
    7
    nào. Từ đó tôi sẽ đưa ra một số biện pháp để rèn trẻ một số kỹ năng tự phục vụ
    cho trẻ. Tôi nhận thấy cần chọn ra những việc dễ nhất để trẻ thực hiện từ dễ đến
    khó. Việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ cần có kế hoạch rèn từ từ không nóng
    vội. Bên cạnh đó cần tỏ ra tôn trọng trẻ và động viên khuyến khích những gì trẻ
    làm được.
    b. Xây dựng kế hoạch rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
    Việc xây dựng kế hoạch giúp tôi định hướng đúng, chính xác những nội
    dung rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ trong cả năm học, giúp tôi chủ động
    trong từng thời gian cụ thể, tránh việc làm tự phát theo hứng, gặp đâu làm đấy
    dẫn đến tình trạng trùng lặp, bỏ sót. Xây dựng kế hoạch còn giúp tôi kết hợp
    lựa chọn các nội dung, phương pháp và hình thức rèn luyện cho trẻ một cách
    hợp lý khoa học và có hiệu quả. Khi xây dựng kế hoạch tôi dựa vào kế hoạch
    chung của trường, dựa vào đặc điểm tình hình thực tế của trẻ trong lớp và xây
    dựng có hệ thống đảm bảo nguyên tắc từ dễ đến khó, phù hợp với khả năng
    nhận thức của trẻ.

    ThángNội dungBiện pháp
    Tháng
    8/ 2019
    – Rèn trẻ đi vệ sinh đúng nơi
    quy định, rèn kỹ năng nhận
    đúng ký hiệu: cốc, khăn mặt
    Tham mưu với ban giám hiệu mua
    đầy đủ ca cốc, khăn mặt. Cô cắt đề
    can dán ký hiệu cho trẻ. Thêu khăn
    mặt cho trẻ
    Tháng
    9/2019
    – Tiếp tục rèn kỹ năng tháng
    8. Bổ xung rèn kỹ năng ngồi
    đúng chỗ ngồi học, nhận biết
    vở học tập tên của trẻ.
    – Rèn lấy cất đồ chơi đúng
    nơi quy định
    – Cô bổ xung thêu khăn mặt cho
    những trẻ mới ra lớp. Phân trẻ ngồi
    theo tổ. Khi ngồi cô rèn trẻ ngồi
    đúng tư thế.
    – Cô dạy trẻ trong giờ hoạt động
    góc, nhắc nhở trẻ thường xuyên.
    Tháng
    10/2019
    – Tiếp tục rèn kỹ năng tháng
    9. Đi sâu rèn kỹ năng rửa
    mặt, rửa tay đúng cách.
    – Cô rèn kỹ năng cho trẻ vào chiều
    thứ 3 hàng tuần
    – Quan sát trẻ thực hiện hàng ngày

    8

    và rèn trực tiếp cho trẻ.
    Tháng
    11/2019
    -Tiếp tục rèn kỹ năng rửa
    mặt rửa tay. Rèn kỹ năng xúc
    miệng nước muối sau khi ăn.
    – Cung cấp cho trẻ biết tác dụng
    của việc xúc miệng bằng nước
    muối. Sau khi ăn cô cho trẻ xúc
    miệng nước muối. Cô hướng dẫn
    trẻ cách xúc miệng
    Tháng
    12/2019
    – Tiếp tục rèn kỹ năng xúc
    miệng nước muối. Rèn kỹ
    năng mặc quần áo.
    – Cung cấp kiến thức cho trẻ về kĩ
    năng bảo vệ sức khoẻ. Hướng dẫn
    cho trẻ cách tự cởi, mặc quần áo…
    Tháng
    01/2020
    – Lấy cất đồ dùng đúng nơi
    qui định.
    – Hướng dẫn trẻ cách lấy, cất đồ
    dùng đúng nơi qui định, sắp xếp
    gọn gàng ngăn nắp.
    Tháng
    02/2020
    – Tiếp tục rèn kỹ năng gấp
    quần áo. Rèn kĩ năng lao
    động tự phục vụ: Tự lấy ghế
    ngồi vào bàn.
    – Hướng dẫn trẻ các kĩ năng thao
    tác lao động tự phục vụ: ghế, phục
    vụ cho hoạt động học tập và vui
    chơi trong ngày.
    Tháng
    03/2020
    – Rèn kĩ năng mặc quần áo
    phù hợp với thời tiết.
    Tiếp tục rèn kỹ năng gấp
    quần áo.
    – Trò chuyện với trẻ về sự thay đổi
    của thời tiết và việc mặc trang phục
    phù hợp với thời tiết.
    Tháng
    04/2020
    – Rèn kĩ năng lao động tự
    phục vụ: Tự lấy ghế ngồi vào
    bàn, ăn xong biết cất bát, cất
    ghế khi ngồi xong.
    – Hướng dẫn trẻ các kĩ năng thao
    tác lao động tự phục vụ: ghế, phục
    vụ cho hoạt động học tập và vui
    chơi trong ngày.
    Tháng
    05/2020
    – Rèn kỹ năng lao động tự
    phục vụ: Ngủ dậy biết cất
    gối, biết gấp chăn nhẹ giúp
    cô, biết gấp chiếu.
    – Cung cấp cho trẻ kiến thức về ý
    nghĩa của việc lao động. Rèn cho
    trẻ những kĩ năng cơ bản khi tham
    gia lao động: cất gối vào đúng tủ
    gối, biết cách gấp chăn, gấp chiếu

    9
    Kế hoạch đã được xây dựng cho cả năm học nhưng do năm nay dịch covid
    các con phải nghỉ học từ tháng 2 – > tháng 4/2020 để phòng chống dịch. Nhưng
    việc rèn kĩ năng tự phục vụ của các con tưởng rằng bị gián đoạn. Do lớp tôi có
    nhóm zalo nên việc học tập cũng như việc rèn kĩ năng của con không hề bị dán
    đoạn. Tôi đã đưa các bài học của các con lên nhóm zalo của lớp cũng như việc
    rèn kĩ năng tự phục vụ của các con vẫn được tiến hành nhờ có sự phối kết hợp
    của các bậc phụ huynh trong việc rèn kĩ năng tự phục vụ của các con ở nhà.
    Tuy rằng các con nghỉ học do dịch bệnh virut corona nhưng tháng năm các
    con đi học trở lại tôi đã kiểm tra các kĩ năng phục vụ của các con đã được tôi lên
    kế hoạch từ đầu năm học đã được các con thực hiện khá thuần thục như kĩ năng
    rửa tay với xà phòng, kĩ năng rửa mặt, tự mặc quần áo, tự đi dép…
    Ảnh trẻ tự rửa tay với xà phòng trước khi ăn cơm
    10
    Ảnh các con tự xúc cơm ăn buổi đầu tiên sau khi đi học trở lại tháng 5
    Giải pháp 2: Tạo môi trường rèn kỹ năng tự phục vụ.
    Tính tự phục vụ của trẻ được trẻtrải nghiệm trong hoạt động, trong sinh
    hoạt hàng ngày. Đối với trẻ 3 tuổi đã bắt đầu có khả năng làm một số việc đơn
    giản, trẻ đã có ý thức được điều đó và luôn muốn chính tỏ, thử thách năng lực
    của mình. Vì vậy, cần tạo ra môi trường vật chất cũng như môi trường tinh thần
    thật phong phú, hấp dẫn để tạo sự hứng khởi, niềm vui thích khi được tự làm
    những việc phục vụ bản thân, như: dọn đồ chơi, tự xúc cơm, tự cất ghế, tự dọn
    bàn ăn…dần dần sẽ hình thành cho trẻ tính tự giác, tính tự quyết định khả năng
    tự xoay sở của mình, giúp trẻ hình thành “kỹ năng tự phục vụ”.
    * Môi trường vật chất
    Ngay từ đầu năm học tôi đã căn cứ vào diện tích phòng học của lớp
    mình, đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 3 – 4 tuổi để tạo môi trường vật chất vừa
    mang tính thẩm mĩ đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ thực hiện các kĩ
    11
    năng tự phục vụ. Xây dựng môi trường trong lớp cho trẻ chính là “xây dựng
    các góc” cho trẻ hoạt động.
    Góc hoạt động là một trong những thành viên quan trọng của môi trường
    giáo dục. Góc hoạt động là nơi riêng biệt trong lớp, nơi trẻ có thể tự làm việc
    một mình hoặc trong nhóm nhỏ theo hứng thú và nhu cầu cá nhân để xem xét,
    tìm hiểu, khám phá cái mới và rèn luyện kĩ năng. Nói cách khác, góc hoạt
    động là nơi được thiết kế, che chắn, trang trí để thực hiện cách tiếp cận theo
    chủ đề nhằm mục đích giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu chơi cũng như rèn các kĩ
    năng tự phục vụ.
    Xây dựng góc hoạt động khác nhau trong lớp nhằm tạo điều kiện cho trẻ
    hoạt động cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ nhiều hơn, hình thức hoạt động phong
    phú hơn, đa dạng hơn, qua đó hình thành ở trẻ tính hợp tác và chia sẻ với
    nhau trong hoạt động.
    Để góc hoạt động thực sự có hiệu quả, giúp trẻ tự khám phá và phát triển
    các kĩ năng tụ phục vụ của bản thân nên khi xây dựng tôi luôn chú trọng đến
    các nguyên tắc nhất định:
    + Góc hoạt động phù hợp với mục tiêu và yêu cầu giáo dục theo chủ đề.
    + Ví trí góc phải hợp lí, thuận tiện cho trẻ hoạt động. Góc yên tĩnh xa góc
    hoạt động ồn ào. Vì vậy khi bố trí các góc hoạt động của lớp mình tôi thường
    bố trí những góc ồn ào cạnh nhau và cách xa góc tĩnh như góc xây dựng và
    góc phân vai là hai góc ồn ào nên thường được tôi bố trí cạnh nhau và cách xa
    góc học tập và góc nghệ thuật.
    + Có chỗ hoạt động chung và chỗ cho hoạt động cá nhân cho trẻ.
    + Tôi tạo ranh giới giữa các góc hoạt động (sử dụng tủ, giá nhỏ..) để giúp
    trẻ nhận dạng được phạm vi góc từ đâu đến đâu. Ranh giới giữa các góc
    không che tầm nhìn của trẻ và không cản trở việc quan sát của tôi cùng các
    đồng nghiệp đối với hoạt động của trẻ.
    + Đặc biệt tôi luôn chú trọng thay đổi, bố trí, sắp xếp lại một số góc sau
    mỗi chủ đề để tạo cảm giác mới lạ, kích thích hứng thú của trẻ, “làm mới cảm
    giác” về lớp học, môi trường đang sống.
    12
    + Đồ chơi ở các góc được sắp xếp gọn gàng ngăn nắp, dễ lấy dễ cất, đồ
    chơi phong phú, màu sắc bắt mắt thu hút sự hứng thú hoạt động của trẻ. Tủ để
    đồ chơi có ký hiệu rõ ràng để thuận tiện cho trẻ có thể cất đồ chơi đúng nơi qui
    định.
    Ngoài ra tôi còn làm bổ sung một số đồ chơi tự tạo để cho trẻ vui chơi và
    rèn kĩ năng tự phục vụ.
    Ví dụ như bổ sung thêm đồ chơi cho góc thực hành kĩ năng cuộc sống tôi
    đã may 10 bộ quần áo để cho trẻ tập mặc quần áo mùa hè, tập cài cúc, kéo khóa,
    10 bộ quần áo mùa thu đông vừa được vui chơi cũng như rèn cho trẻ biết chọn
    quần áo phù hợp với thời tiết… … May 5 bộ váy, 5 bộ quần áo cho búp bê để trẻ
    được chơi mặc quần áo cho búp bê. Qua trò chơi cũng rèn được cho trẻ các kĩ
    năng tự mặc quần áo, tự cài cúc, kéo khóa.. chọn trang phục phù hợp với thời
    tiết..
    Tôi xinđược 40 chiếc bàn chải đánh răng có hình các con vật ngộ nghĩnh
    như con chim cánh cụt, con cá ngựa, con rùa về cho các con thực hành tập đánh
    răng với mô hình hàm răng.
    Làm một số đồ ăn bằng mút xốp cắt vụn cho trẻ chơi đút cơm cho em búp
    bê qua đó cũng rèn được cho trẻ kĩ năng tự cầm thìa..
    Làm 10 giá để sách – truyện để thuận tiện cho việc cất sách truyện con rối
    của trẻ qua đó rèn kĩ năng cất đồ dùng đúng nơi qui định.
    Thiết kế 10 hộp để đựng con rối tay…
    Làm thêm 10 cây xanh có thể tháo lắp tán lá để cho trẻ chơi ở góc xây
    dựng.

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số biện pháp ứng dụng phương pháp Glenn Doman nhằm mở rộng vốn từ cho trẻ 5-6 tuổi tại trường mầm non

    SKKN Một số biện pháp ứng dụng phương pháp Glenn Doman nhằm mở rộng vốn từ cho trẻ 5-6 tuổi tại trường mầm non

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Giáo dục Mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân.
    Việc chăm sóc tốt cho trẻ lứa tuổi mầm non sẽ góp phần tạo nền móng vững chắc
    cho sự phát triển toàn diện của trẻ. Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục mầm
    non ngày càng khẳng định được vai trò to lớn của mình trong xã hội. Ý thức được
    tầm quan trọng của giáo dục mầm non đối với sự phát triển trong những năm đầu
    đời của trẻ nhà nước ta ngày càng chú trọng và đẩy mạnh phát triển giáo dục mầm
    non.
    Ngôn ngữ là thành tựu lớn nhất của con người nó là phương tiện giao tiếp
    quan trọng của con người trong xã hội. Hơn thế ngôn ngữ là công cụ để chúng ta tư
    duy, là chìa khóa vạn năng thông minh nhất để chúng ta mở kho tàng tri thức.Nhờ
    có ngôn ngữ con người có thể trao đổi cho nhau những kinh nghiệm, hiểu biết; chia
    sẻ với nhau những nguyện vọng, tình cảm. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non tạo
    điều kiện cơ hội cho trẻ lĩnh hội những bài học kinh nghiệm lịch sử – xã hội của xã
    hội loài người. Giúp trẻ tích lũy kiến thức, phát triển tư duy, giúp trẻ giao tiếp với
    mọi người xung quanh, giúp trẻ lĩnh hội, điều chỉnh những giá trị đạo đức chuẩn
    mực. Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong cuộc sống của con người. Nhờ có ngôn ngữ
    mà con người có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho nhau những kinh
    nghiệm, tâm sự với nhau những điều thầm kín.
    Vốn từ là nền móng để phát triển ngôn ngữ, mà ngôn ngữ đóng vai trò quan
    trọng cho sự phát triển trí tuệ của trẻ. Mở rộng vốn từ cho trẻ là một trong những nội
    dung của phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Vốn từ của trẻ Mẫu
    giáo lớn thì đã phát triển hơn các lứa tuổi trước, số lượng từ loại đã tăng lên, trẻ có
    thể hiểu và sử dụng được một số từ cơ bản vào trong giao tiếp, trẻ đã có thể hiểu
    4
    được những câu chuyện dài và phức tạp hơn, thậm chí còn kể lại được vài mẩu
    chuyện theo đúng trình tự câu chuyện. Vốn từ ngữ của trẻ phát triển không ngừng cả
    về số lượng lẫn chất lượng và trẻ biết cách sử dụng tốt vốn từ ngữ của mình trong
    giao tiếp tuy nhiên vẫn chưa hoàn thiện. Việc mở rộng vốn từ cho trẻ nhằm làm tăng
    số lượng từ trong trường nghĩa tạo điều kiện cho trẻ lựa chọn. Nếu vốn từ ít thì khả
    năng lựa chọn sẽ bị hạn hẹp, hiệu quả dùng từ sẽ giảm, ảnh hưởng đến chất lượng
    giao tiếp của trẻ. Vốn từ của trẻ mẫu giáo bé trẻ nói được khoảng 1200 từ, mẫu giáo
    nhỡ khoảng 2000 từ nhưng đối với trẻ mẫu giáo lớn thì vốn từ của trẻ phong phú
    hơn là khoảng 3000 từ. Đối với trẻ mấu giáo lớn, vốn từ của trẻ rất đa dạng, trẻ nghe
    và nói được rất nhiều từ, hiểu được nhiều từ ngữ, những câu chuyện, câu dố, thuộc
    các bài thơ, câu chuyện. Ở lứa tuổi này, ngôn ngữ của trẻ có tốc độ phát triển nhanh
    cả về số lượng lẫn chất lượng, ngôn ngữ phát triển giúp trẻ biết tự hướng sự chú ý
    của mình vào đối tượng nhất định. Tuy nhiên vốn từ của trẻ vẫn còn hạn chế, trẻ
    chưa hiểu được các nghĩa khác nhau của từ như từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, biểu
    cảm của từ và trẻ phát âm chưa mạch lạc nhất là các từ khó, có những trẻ hiểu được
    nghĩa của từ nhưng cũng có nhiều trẻ chưa nắm bắt được hết nghĩa của từ cũng như
    cách dùng từ ngữ chưa chính xác và không phù hợp với hoàn cảnh khiến giữa các
    trẻ có sự chênh lệch phát triển không đồng đều. Do đó, việc mở rộng vốn từ cho trẻ
    Mẫu giáo lớn là rất cần thiết để giúp trẻ giao tiếp tốt hơn. Ngày nay, có rất nhiều
    phương pháp giáo dục mới cho trẻ trong đó có phương pháp Glenn Doman, phương
    pháp này giúp sẽ phát triển toàn diện về cả thể chất, kích thích trí thông minh, trí tuệ
    cảm xúc và cả năng lực thông qua những bài học về vận động, ngôn ngữ, lượng số
    và cả thế giới xung quanh. Từ đó, vốn từ của trẻ được mở rộng, ngôn ngữ của trẻ
    phong phú và đa dạng là những kiến thức cần thiết, những hành trang quan trọng
    cho trẻ trong suốt chặng đường phía trước
    5
    Nhận thức được rõ về ý nghĩa và vai trò to lớn của nội dung nghiên cứu,
    tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp ứng dụng phương pháp Glenn
    Doman nhằm mở rộng vốn từ cho trẻ 5-6 tuổi tại trường mầm non”
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT
    1. Mô tả giải pháp kỹ thuật trước khi tạo ra sáng kiến
    * Thực trạng
    Trong quá trình triển khai nghiên cứu thực hiện đề tài này, tôi luôn được sự
    quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn đã có kế hoạch giáo
    dục từng chủ đề và tôi đã xây dựng kế hoạch với những biện pháp cụ thể để mở
    rộng vốn từ cho trẻ tại lớp tôi, đây chính là những định hướng giúp tôi thực hiện
    như: Nhà trường đã trang bị cơ sở vật chất, đồ dùng đồ chơi đầy đủ cho trẻ trong
    mọi hoạt động và giáo viên trong nhà trường đã được tiếp cận và làm quen với
    phương pháp Glenn Doman
    Nhưng bên cạnh đó, tôi cũng gặp một số những vấn đề sau:
    Về phía trẻ: Khả năng sử dụng ngôn ngữ mạch lạc, tự tin của trẻ còn hạn chế,
    trẻ chưa biết diễn đạt ngôn ngữ bằng lời một cách linh hoạt, khéo léo. Trẻ chưa hiểu
    được những từ đồng nghĩa, trái nghĩa, từ khó, ý nghĩa của tu từ do đó khi trả lời trẻ
    còn bị vấp chưa biểu đạt được ý của các từ, sử dụng từ sai ngữ cảnh. Vốn từ trẻ còn
    hạn chế, nghèo nàn chưa phong phú
    Về phía giáo viên: Một số giáo viên trẻ tuổi chưa có nhiều kinh nghiệm, vốn
    từ chưa phong phú và việc nắm nghĩa các từ của giáo viên còn hạn chế nên giải
    nghĩa cho trẻ còn chưa sâu. Giáo viên sử dụng phương pháp truyền thống, không
    có phương pháp đổi mới trong các tiết học, các hình thức dạy học chưa phong
    phú, chưa chú ý đến sự phát triển vốn từ cho trẻ
    Về phía các bậc cha mẹ: Do cha mẹ bị công việc lôi cuốn nên ít có thời gian
    quan tâm đến con và chưa nắm được đặc điểm phát triển vốn từ của con, nhiều trẻ
    6
    còn phát âm sai do ảnh hưởng của người lớn xung quanh
    Để đạt được kết quả cao thì việc điều tra thực trạng và việc nhìn lại để đánh giá
    kết quả của năm trước là vô cùng quan trọng . Vì đó là thước đo, từ đó giúp ta điều
    chỉnh và định hướng được việc làm cần thiết cho năm tới sao cho đạt kết quả tốt
    hơn.
    Để làm rõ những khó khăn trên tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng tổ chức
    hoạt động tại trường mầm non Thống Nhất và nhận thấy như sau:
    Bảng 2.1. Khảo sát 15 giáo viên mẫu giáo về những năng lực tổ chức hoạt
    động cho trẻ tại nhóm lớp theo phương pháp GD Glenn Doman của giáo viên

    STTNội dungKết quả trên giáo viên
    TôtTỷ
    lệ%
    KháTỷ
    lệ%
    Trung
    bình
    Tỷ lệ%
    1Lựa chọn nội dung
    và lập kế hoạch tổ
    chức các hoạt động
    320533747
    2Thực hiện hoạt
    động dựa trên
    phương pháp GD
    Glenn Doman
    173201173

    Nhận xét: Qua bảng khảo sát trên ta thấy
    Ở tiêu chí 1: Khả năng lựa chọn nội dung và lập kế hoạch tổ chức các hoạt
    động của giáo viên có 20% đạt loại Tốt, 33% đạt loại khá, 47% đạt loại trung bình
    Ở tiêu chí 2: Khả năng Thực hiện hoạt động dựa trên phương pháp GD Glenn
    Doman có 7% đạt loại Tốt, 20% đạt loại khá, 73% đạt loại trung bình
    -> Như vậy có thể thấy năng lực tổ chức các hoạt động cho trẻ tại nhóm lớp
    theo phương pháp giáo dục Glenn Doman của giáo viên hiện nay còn rất thấp
    7
    Bảng 2.2. Khảo sát 35 trẻ tại trường Mầm non Thống Nhất
    TP Nam Định
    Kết quả khảo sát tại trường Mầm Non Thống Nhất

    Nội dungTốtKháTrung
    bình
    KémGhi
    chú
    Trẻ biết sử dụng vốn từ
    một cách phong phú,
    đa dạng và phù hợp
    3
    trẻ
    9%7
    trẻ
    20%10
    trẻ
    28%15
    trẻ
    43%
    Trẻ hiểu được các từ
    mang tính chất biểu cảm,
    các từ đồng nghĩa,
    trái nghĩa, từ khó
    3
    trẻ
    9%5
    trẻ
    14%8
    trẻ
    23%19
    trẻ
    54%

    * Nhận xét:
    – Tiêu chí 1: Trẻ biết sử dụng vốn từ một cách phong phú, đa dạng và phù hợp
    ở mức tốt rất thấp là 9%, mức khá là 20%, mức trung bình là 28%, còn mức kém là
    43%
    – Tiêu chí 2: Trẻ hiểu được các từ mang tính chất biểu cảm, các từ đồng nghĩa,
    trái nghĩa, từ khó ở mức tốt rất thấp là 9%, mức khá là 14%, mức trung bình là 23%,
    còn mức kém là 54%
    => Vì vậy, để mở rộng vốn từ cho trẻ thì phải có nhiều giải pháp hay lôi cuốn
    và thu hút trẻ.
    2. Mô tả biện pháp kỹ thuật sau khi tạo ra sáng kiến
    Từ những khó khăn trên tôi đã đưa ra các biện pháp sau:
    2.1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch tổ chức các hoạt động nhằm mở rộng vốn
    từ cho trẻ thông qua phương pháp Glenn Doman
    Để trẻ phát triển vốn từ phong phú và đa dạng, ngay từ đầu năm học Tổ
    chuyên môn và các đồng chí giáo viên đã xây dựng kế hoạch về việc tổ chức các
    8
    hoạt động ứng dụng phương pháp Glenn Doman của các khối cho cả năm học. Sau
    các buổi họp về chuyên môn tôi định được các vẫn đề cốt lõi trong tổ chức thực hiện
    hoạt động này trong cả năm học như sau:
    + Gợi ý nội dung các bài dạy về các bài học cho trẻ tại nhóm
    + Thời gian thực hiện các hoạt động phân chia theo thời gian trong từng tuần,
    từng chủ đề
    + Hình thức tổ chức hoạt động sử dụng phương pháp Glenn Doman cho trẻ
    thông qua các hoạt động hàng ngày
    Nhờ có định hướng về các nội dung tổ chức hoạt động ứng dụng phương pháp
    Glenn Doman trong cả năm học nên tôi có thể luôn chủ động xây dựng được kế
    hoạch cho từng hoạt động cụ thể để tôi chuẩn bị tốt các bài học cho trẻ
    Sau khi xây dựng kế hoạch hoạt động ứng dụng phương pháp Glenn Doman,
    tôi tiếp tục tổ chức hoạt động học cho trẻ tại lớp của mình. Chính việc làm này đã
    giúp đỡ cho tôi không gặp khó khăn trong việc lựa chọn nội dung bài học cũng như
    dễ dàng tích hợp, lồng ghép nội dung của phương pháp Glenn Doman vào các hoạt
    động trong ngày của trẻ, đồng thời giúp trẻ linh hoạt hơn và phát triển vốn từ cho trẻ
    Ví dụ: Kế hoạch tổ chức hoạt động bằng phương pháp Glenn Doman
    năm học 2018- 2019
    KHUNG CHƯƠNG TRÌNH ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP GLENN DOMAN
    Lứa tuổi: Khối mẫu giáo 5-6 tuổi

    Thời gianNội dung hoạt độngChủ đề dự
    kiến
    Dự kiến địa
    điểm tổ
    chức
    Tháng
    9/2018
    – Tìm hiểu về các loại hoa qua thẻ chữ
    – Trẻ chơi với các thẻ chữ để gọi tên các
    loại hoa
    Các loại hoa

    9

    Tháng
    10/2018
    – Sự phong phú của các loại quả
    – Khám phá các loại quả thông qua thẻ
    chữ
    Các loại quả– Ngoài trời
    – Trong lớp
    học
    – Trong các
    góc hoạt
    động
    Tháng
    11/2018
    – Động vật nuôi trong gia đình
    – Động vật sống dưới nước
    – Động vật sống trong rừng
    – Các loại côn trùng
    Động vật
    Tháng
    12/2018
    – Tìm hiểu về một số nghềNghề nghiệp
    Tháng
    1/2019
    – Đặc điểm của các loại cờ của các nướcCờ các nước
    Tháng
    2/2019
    – Phương tiện giao thông đường bộ
    – Phương tiện giao thông đường thủy
    – Phương tiện giao thông đường sắt
    – Phương tiện giao thông đường hàng
    không
    Phương tiện
    giao thông
    Tháng
    03/2019
    – Đặc điểm của các hình khốiHình khối
    Tháng
    04/2019
    – Khám phá điều kì diệu của màu sắcMàu sắc

    2.2. Biện pháp 2: Ứng dụng phương pháp Glenn Doman trong việc cung cấp
    vốn từ cho trẻ
    Glen Doman là phương pháp dạy con theo cách giáo dục sớm. Nhờ phương
    pháp này, trẻ phát triển trí thông minh tốt, kích thích tiềm năng của mỗi đứa trẻ ngay
    từ khi còn nhỏ. Cô hãy tạo cho trẻ sự thích thú trong mỗi “giờ học”. Với không khí
    vui vẻ, những tấm thẻ chứa đầy sự mới mẻ, hấp dẫn đối với trẻ và tình yêu thương
    của cô, trẻ sẽ có tâm lý thoải mái nhất và ghi nhớ một cách tốt nhất.
    10
    Tôi đã ứng dựng phương pháp Glenn Doman lồng ghép vào các hoạt động học
    cho các con. Phương pháp này tạo hứng khởi và định hướng giúp trẻ thông minh
    vừa học, vừa chơi, vừa mở trí thông minh, óc sáng tạo, tài năng cho trẻ. Trẻ được
    phát triển một cách tự nhiên “Học mà chơi, chơi mà học”. Tôi đã thường xuyên lồng
    ghép bài học cho các con, trẻ phát triển vốn từ rất nhiều và mang lại hiệu quả cao.
    Cô cần chuẩn bị các loại thẻ Dot Card (giúp trẻ làm quen với số lượng và phép
    toán), thẻ Flash Card (giúp trẻ làm quen với mặt chữ và từ vựng), thẻ theo chủ đề
    (cây cối, con vật, danh xưng, …) giúp bé làm quen với thế giới xung quanh.
    Để dạy trẻ theo phương pháp này thì cần những nguyên tắc nhất định. Cô phải
    gây hứng thú cho trẻ như bắt đầu 1 trò chơi và học khi trẻ thoải mái nhất và luôn
    dừng trước khi trẻ muốn dừng. Cô cho trẻ học đủ số lần rồi thì trẻ có muốn học
    thêm cũng không được, hãy để sự hứng thú sang ngày mai. Giọng điệu cô phải
    truyền cảm. Cô thực hiện thao tác đưa trẻ thật nhanh để duy trì sự hứng thú, nhưng
    phải chú ý giữ giọng điệu tự nhiên, truyền cảm, đừng biến thành 1 cái máy và mỗi
    thẻ chỉ đưa ra dưới một giây. Cô thao tác với 5 từ 1, sau khi hết 5 từ, hãy ôm hôn
    con và khen con thông minh, thật hứng khởi. Sau mỗi lần tráo phải thay đổi thứ tự
    thẻ.
    Để duy trì hứng thú, tính phù hợp, tôi luôn thiết kế chương trình phù hợp và vui
    nhộn, không được quá tải và chứa đầy kỳ vọng của cô, nên là những kiến thức gần
    gũi trong thực tế, nên dạy hàng ngày, lượng tài liệu mới phù hợp nhu cầu của trẻ.
    Cách thức tương tác phải thu hút. Cô thường xuyên để ý thái độ và tâm trạng của trẻ
    khi học. Khi tráo thẻ, cô đưa thẻ cao hơn tầm với của trẻ, không mô tả, không tỉ mỉ
    và nên chuẩn bị 200 từ đơn trước khi bắt đầu, phải chuẩn bị thẻ thật nhanhCô cần
    thành thạo thao tác: Cầm thẻ tay trái, đỡ thẻ bằng tay trái và dùng ngón cái giữ 1
    bên, 1 ngón còn lại giữ 1 bên, tráo bằng tay phải, tráo từ sau ra trước để nhìn thẻ.
    Nguyên tắc tiếp cận: Bắt đầu từ từ đơn -> từ ghép -> cụm từ -> câu -> sách. Khi
    11
    tăng từ thì nên dựa vào những từ đã học (từ từ đơn sang từ ghép). Bắt đầu từ các
    nhóm từ quen thuộc, trong nhóm cũng dạy các từ quen thuộc trước
    Ảnh minh họa: Bộ thẻ chữ
    Khi trẻ đã học được 200 thẻ từ đơn trở lên thì cô cho trẻ học từ ghép, cô cho
    ghép các từ đã học với nhau thành các từ ghép, có thể lồng ghép thêm các từ mới.
    Ghép các từ chỉ màu sắc với danh tư như: bưởi vàng, bưởi xanh v.v… Màu sắc: đỏ,
    tím, xanh da trời, cam, vàng, đen, hồng, trắng, xám, xanh lá cây, nâu, tím nhạt…
    Các từ trái nghĩa: to – nhỏ, dài – ngắn, béo – gầy, phải – trái, sạch – bẩn, vui vẻ -buồn,
    bằng phẳng – gồ ghề, rỗng – đầy, đẹp – xấu, tối – sáng… Sau đó, cô cho trẻ đọc các
    cụm từ (Có 3 cách, nên dùng cả 3): 5 thẻ tên người hoặc động vật + từ đơn + hành
    động, dùng 1 bảng 15×40 cm để tạo 1 cụm 5 từ, giảm cỡ chữ xuống 5cm, cho xem 3
    lần / ngày liên tục trong 5 ngày, sau đó bỏ đi 2, thêm mới 2. Chuyển nhanh vì trẻ sẽ
    học rất nhanh. Làm quyển các cụm từ đơn giản, 5 cụm từ, có hình minh họa ( hình
    của bé càng tốt), có thể làm cỡ 25cm x 60cm, gấp đôi, chữ cao 5m.
    Khi trẻ đọc được các cụm từ rồi thì cô nên chuyển ch trẻ đọc các câu. Câu hoàn
    chỉnh hơn: bổ sung trạng từ và tính từ vào các cụm từ bước thứ 3, ví dụ bước 3 là:
    “mẹ đang ăn”, thì giờ là “mẹ đang ăn một quả chuối màu vàng”. Cỡ chữ bây giờ còn
    12
    5 cm. Học xong câu có thể cho trẻ chuyển qua đọc sách.Có thể tạo ra các câu lạ. Ví
    dụ: bố đang ôm quả dâu… Việc ghép thành câu sẽ là 1 trò chơi thú vị, đôi khi nghe
    thật lạ nhưng thật vui. Sẽ rất hay nếu từ 50 từ ghép thành thật nhiều câu. Có thể
    dùng thẻ nhỏ hơn, giảm cỡ chữ (2,5cm), tăng số từ, chuyển sang chữ màu đen. Cỡ
    chữ giảm từ từ để trẻ quen.
    Mỗi ngày tôi cho trẻ xem 5 thẻ bất cứ theo chủ đề. Ngày hôm sau tôi bỏ 1 thẻ cũ đi
    và thêm 1 thẻ mới vào. Với cách dạy này tôi không cần mất nhiều thời gian để soạn
    thẻ theo chủ đề. Khi tôi vận dụng phương pháp này, trẻ hứng thú và học rất nhanh.
    Qua đó, vốn từ của trẻ được mở rộng, ngôn ngữ của trẻ phong phú và đa dạng hơn
    Phương pháp Glenn Doman khuyến khích trẻ hoạt động học một cách tự nhiên
    bằng phương pháp áp dụng lồng ghép những từ ngữ như khi trẻ học đọc, học viết,
    học nhìn nhận và ghi nhớ sự vật thông qua những hình ảnh, hoặc những mảnh bìa
    hết sức đơn giản. Điều này có thể cho thấy rằng vốn từ mà trẻ học được rất quan
    trọng, nhưng quan trọng hơn nữa đó chính là hiểu được tâm tư tình cảm của trẻ và
    giúp trẻ yêu thích nó một cách tự nguyện chứ không mang tính chất ép buộc. Giáo
    dục trẻ cần có thời gian cũng như phương pháp hiệu quả và hợp lý, luôn đặt trẻ lên
    trước tiên để mang đến những điều tốt nhất cho trẻ. Bài học này không chỉ giúp trẻ
    khỏe – thông minh – nhanh nhạy – vui vẻ mà còn rèn luyện cho bé kỹ năng tự học
    suốt đời, tự thích nghi, phát triển một cách tích cực và nổi trội nhất, giúp trẻ mở
    rộng vốn từ nhiều hơn.
    13
    Ảnh minh họa: Trẻ được học tráo thẻ bằng phương pháp Glenn Doman
    2.3. Biện pháp 3: Phát triển khả năng nói mạch lạc và sử dụng vốn từ một cách
    phong phú thông qua hoạt động làm quen với văn học
    Phương pháp Glenn Doman được ứng dụng thông qua hoạt động làm quen với
    văn học. Qua hoạt động này trẻ có thê biết lồng ghép các thẻ chữ thành những câu
    thơ, đoạn hội thoại trong câu chuyện hoặc trẻ có thể đọc những đoạn truyện ngắn.
    Hoạt động làm quen với văn học gồm các nội dung:
    – Đàm thoại
    Trò chuyện với trẻ theo câu hỏi: Đây là biện pháp chính hướng dẫn trẻ làm
    quen với đối tượng nhận thức. Giáo viên chuẩn bị một hệ thống câu hỏi để trẻ trả
    lời. Các câu hỏi có tác dụng hướng sự chú ý của trẻ tới đối tượng cần nhận thức, dạy
    trẻ biết quan sát đối tượng một cách tổng thể cũng như quan sát tỉ mỉ các đặc điểm,
    tính chất và các mối quan hệ của sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên. Các câu hỏi
    cũng đồng thời kích thích trẻ nói, gọi tên hoặc mô tả đối tượng đang quan sát. Qua
    đó vốn từ của trẻ ngày càng được mở rộng hơn. Giáo viên cần chú ý sao cho câu hỏi
    đa dạng, buộc trẻ trả lời bằng các từ loại khác nhau như hỏi về tên gọi, đặc điểm tính
    chất, công dụng, hoạt động,…
    14
    Ví dụ: Cô có con vật gì đây?
    Con gà mái có những bộ phận nào?
    Tiếng kêu của con gà mái như thế nào nhỉ?
    Thức ăn của gà mái là gì?
    Con gà mái có lợi ích gì?
    Khi trò chuyện, tôi cũng có thể sử dụng phối hợp một số thủ thuật như nói
    mẫu, nhắc lại, giảng giải, khen ngợi, cho trẻ sử dụng các thao tác sờ mó, cầm nắm
    (đối với các vật thật).
    Biện pháp sử dụng lời kể của cô giáo: Lời kể của cô giáo dễ gây hứng thú cho
    trẻ khi quan sát và giúp trẻ tri giác toàn bộ đối tượng, thấy được mối quan hệ giữa
    các sự vật, hiện tượng; điều này làm cho trẻ dần dần hiểu đầy đủ hơn ý nghĩa của từ.
    Lời kể của cô giáo còn tạo ra mẫu mực ngôn ngữ cho trẻ noi theo về giọng nói, ngữ
    âm, ngữ điệu, điệu bộ,… Yêu cầu lời kể của giáo viên phải rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu
    đối với trẻ, chủ yếu là mô tả các đặc điểm, tính chất các hành động của đối tượng.
    Lời kể cần logic đầy đủ các phần: mở đầu, mô tả, kết thúc. Mở đầu của lời kể là giới
    thiệu về đối tượng cho trẻ làm quen và sau đó mô tả các chi tiết, các đặc điểm, tính
    chất của đối tượng. Kết thúc lời kể là những nhận xét, đánh giá lời kể của trẻ. Giáo
    viên có thể tiến hành kể trước hoặc sau khi trò chuyện, nó tùy thuộc vào khả năng
    nhận thức của trẻ và mức độ phức tạp của chủ đề cho trẻ làm quen. Để trẻ hứng thú
    trong bài học tôi đã sử dụng mô hình kết hợp với lời kể giúp trẻ dễ hiểu bài và hăng
    hái trả lời các câu hỏi của cô, từ đó giúp trẻ nói nhiều hơn phát triển khả năng nói
    mạch lạc, rèn tính tự tin cho trẻ.
    15
    Ảnh minh họa: Trẻ quan sát mô hình thông qua truyện “Chú đỗ con”
    Cô cho trẻ tự kể những gì trẻ đã được làm quen: Đây là một biện pháp tích
    cực hóa vốn từ của trẻ. Khi trẻ tự kể chuyện, trẻ sẽ gọi tên, kể ra các đặc điểm của
    các loại hoa quả, con vật và đó là điều kiện để các từ ngữ ở trạng thái bị động
    chuyển thành chủ động, tích cực.
    Khi cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm văn học, tôi cần chú ý vận dụng các biện
    pháp phù hợp để giúp trẻ hiểu nghĩa của từ, nhất là những từ ngữ nghệ thuật. Có thể
    phối hợp vận dụng biện pháp dùng lời kết hợp với biện pháp quan sát. Để giải thích
    cho trẻ hiểu từ trong tác phẩm văn học bằng biện pháp này thì trước hết cần phải chọn
    từ có nghĩa cụ thể. Có như vậy thì việc sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với lời giải
    thích mới đạt hiệu quả cao.
    Ví dụ: Trong bài thơ Hoa kết trái có thể lựa chọn một số từ có nghĩa cụ thể
    sau để giải thích:
    “Chói chang” trong câu “Hoa lựu chói chang”
    “Rung rinh” trong câu “Rung rinh trong gió”
    16
    Khi giải thích từ tôi phải đọc cả câu một đến hai lần hay đọc cả đoạn, như vậy từ
    mới không bị tách khỏi ngữ cảnh và trẻ sẽ cảm nhận tốt hơn. Sau đó, tôi phải lựa chọn
    đồ dùng trực quan phù hợp với từ đó, kết hợp với lời giải thích để giúp trẻ hiểu nghĩa
    của từ mà tác giả dùng trong tác phẩm ấy. Lời giảng giải của tôi cần phải ngắn gọn, cô
    đọng, dễ hiểu, hấp dẫn trẻ.
    Ví dụ: Trong bài thơ Giữa vòng gió thơm
    Tôi giải thích từ “khép rủ” trong câu “Cánh màn khép rủ”. Tôi cho trẻ quan
    sát bức tranh vẽ một căn nhà nhỏ có chiếc giường, có người nằm bên trong, màn
    buông xuống, hai cánh màn khép lại. Sau đó cô chỉ vào bức tranh và dùng lời để giải
    thích cho trẻ hiểu. Tác giả đưa từ “khép rủ” vào câu thơ ý muốn nói tới cảnh bà bị
    ốm nằm trên giường, không gian cũng trở nên ảm đạm, buồn bã.
    Việc sử dụng biện pháp này yêu cầu giáo viên phải sử dụng đồ dùng trực
    quan một cách linh hoạt, sáng tạo, kết hợp với lời giảng giải diễn tả về nghĩa của từ
    trong văn cảnh đó sẽ giúp trẻ hiểu và cảm nhận từ ngữ nghệ thuật một cách sâu sắc,
    tạo cho trẻ niềm say mê, hứng thú, tích cực, tìm tòi khám phá thế giới xung quanh.
    – Giải nghĩa từ bằng cách so sánh, đối chiếu
    Giáo viên giải nghĩa của từ mới này bằng cách so sánh với từ khác để thấy
    được điểm khác nhau về nghĩa của hai từ. Từ đó trẻ sẽ khắc sâu hơn nghĩa của các
    từ được giáo viên cung cấp
    Ví dụ: + Giải nghĩa từ “đồi” bằng cách so sánh “đồi” với “núi”

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Sáng tạo từ nguyên liệu tái chế, tre, nứa, ống nhựa, làm đồ dùng cho trẻ trải nghiệm với nước trong trường mầm non

    SKKN Sáng tạo từ nguyên liệu tái chế, tre, nứa, ống nhựa, làm đồ dùng cho trẻ trải nghiệm với nước trong trường mầm non

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN.
    Trong trường mầm non, vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ và đồ chơi là
    phương tiện giúp trẻ thực hiện hoạt động đó, đồng thời là phương pháp phát
    triển nhân cách toàn diện tốt nhất cho trẻ.
    Đối với trẻ nhỏ, đồ chơi là một nhu cầu thiết yếu, không thể thiếu được trong
    cuộc sống. Nó cần cho sự phát triển tư duy, nhân cách toàn diện của một đứa trẻ,
    đồ dùng tự tạo giúp phát triển nhận thức phát triển tư duy khả năng ghi nhớ có
    chủ đích, kích thích sự sáng tạo, tính độc lập của trẻ.
    Hiện nay khi thực hiện chương trình mầm non mới điều khó khăn nhất đối
    với chúng ta là làm thế nào để hoạt động thật đơn giản, tiết kiệm, nhưng lại đạt
    hiệu quả cao. Một trong những yếu tố để làm được điều đó là biết tận dụng
    nguyên vật liệu mở có sẵn ở địa phương gần gũi an toàn đối với trẻ. Đây cũng
    chính là hình thức dạy trẻ biết yêu quý sức lao động ngay từ khi còn bé.
    Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển và kỹ thuật điện tử xâm nhập
    đến từng mái trường, từng gia đình, từng trẻ em. Chúng ta không thể yên tâm
    với con em mình khi từng ngày, từng giờ những mặt trái của thời đại công nghệ
    đang ảnh hưởng không mấy tích cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách
    trẻ. Vậy làm thế nào để trẻ vừa chơi, vừa học, lại vừa sáng tạo là mối quan tâm
    và cũng là nhu cầu thiết yếu của các bậc phụ huynh và giáo viên mầm non. Để
    thỏa mãn được nhu cầu đó của trẻ đòi hỏi giáo viên mầm non phải luôn sáng tạo,
    tạo ra nhiều đồ dùng, đồ chơi phù hợp với nội dung bài dạy, phù hợp với tình
    huống giáo dục trong các hoạt động. Đồ dùng sáng tạo giúp trẻ dễ dàng hòa
    nhập vào hành động chơi giống như đáp ứng nhu cầu bắt chước hành động của
    người lớn và làm quen thế giới xung quanh. Chính đồ dùng, đồ chơi là sợi dây
    bền chắc nhất liên kết trẻ với nhau để cùng chơi, cùng hành động và để duy trì
    hứng thú của trẻ với trò chơi đồng thời đồ chơi còn giúp trẻ hình thành sự chú ý
    và ghi nhớ có chủ định, góp phần phát triển trí tuệ, tích luỹ các biểu tượng làm
    cơ sở cho hoạt động phát triển tư duy của trẻ.
    2
    Việc làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ mầm non cũng đóng một vai trò hết sức quan
    trọng trong việc giáo dục trẻ. Trong quá trình làm đồ dùng cô giáo cũng phải
    xem xét mọi điều kiện, khía cạnh thực tế để phù hợp với điều kiện của địa
    phương, tình hình của lớp học mình, nhận thức của trẻ. Trẻ nhận thức ở mức độ
    như thế nào để cô tìm hướng, cách làm đồ dùng sao cho phù hợp với sự tiếp thu
    của trẻ. Với những đồ dùng do tự tay mình làm ra bản thân giáo viên sẽ rất dễ
    dàng trong việc hướng dẫn trẻ trong quá trình thực hiện, trẻ sẽ lĩnh hội được
    những kinh nghiệm, dễ dàng tiếp thu kiến thức, có thể sẽ đưa ra những sáng kiến
    riêng, dần dần kỹ năng kỹ xảo sẽ ngày một hoàn thiện hơn. Ngoài ra, trẻ sẽ học
    được cách chia sẻ trong quá trình lao động. Điều này sẽ giúp trẻ tích cực, tự chủ
    trong hoạt động liên quan.
    Là một giáo viên mầm non, tôi nhận thức được vấn đề này trong chăm sóc
    và giáo dục trẻ. Bên cạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong
    giảng dạy tôi luôn tìm tòi học hỏi và sáng tạo ra các hình thức, phương pháp
    giáo dục trẻ. Từ đó tôi đã tìm ra cho mình một phương pháp dạy học khá hay,
    rất tiết kiệm mà lôi cuốn trẻ vào các hoạt động giúp trẻ học tập tốt hơn, tôi đã sử
    dụng phương pháp sáng tạo từ các vật liệu tái sử dụng, nguyên liệu sẵn có tại địa
    phương để làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ bằng nhiều nguyên liệu khác nhau. Năm
    2018 tôi đã nghiên cứu và làm thành công một số mẫu đồ dùng cho trẻ trải
    nghiệm trong trường mầm non. Tôi đã kết hợp với một số giáo viên đang trực
    tiếp giảng dạy ở một số trường mầm non trên toàn quốc ứng dụng đồ dùng cho
    trẻ mầm non vui chơi với nước do chính bản thân tôi làm ra. Sau khi đưa vào
    ứng dụng thực hành tại một số trường tôi nhận được phản hồi tích cực từ các
    thầy cô giáo. Trẻ tiếp thu kiến thức nhẹ nhàng hơn, hứng thú, sáng tạo hơn trong
    các hoạt động. Từ những lí do đó năm học 2019- 2020 tôi đã ứng dụng đồ dùng
    này tại trường Mầm Non xã Nghĩa Thành với đề tài: “ Sáng tạo từ nguyên liệu
    tái chế, tre nứa, ống nhựa làm đồ dùng cho trẻ trải nghiệm với nước trong
    trường mầm non”. Mục đích giúp cho lớp học của tôi có được nhiều đồ dùng
    sáng tạo cho trẻ hoạt động với nước ngày một nhiều hơn, sáng tạo hơn. Đồng
    3
    thời cũng chia sẻ với đồng nghiệp cách làm những đồ dùng sáng tạo để phục vụ
    chính cho lớp học của mình, nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả giảng dạy cho
    trẻ mầm non với mong muốn mang những thành công của mình đến với những
    đồng nghiệp, những người luôn quan tâm đến công tác chăm sóc sáo dục trẻ.
    Đồng thời mong muốn đào tạo ra những thế hệ tương lai năng động, sáng tạo
    luôn biết giữ gìn bản sắc dân tộc nhưng lại thích ứng nhanh với sự tiến bộ của xã
    hội, góp một phần nhỏ bé vào công cuộc xây dựng đất nước văn minh giàu đẹp.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP.
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến.
    Việc làm đồ dùng tự tạo là trách nhiệm của mỗi giáo viên, ngoài giờ lên lớp
    giáo viên còn tự lựa chọn thời gian hợp lí để tìm tòi cách làm đồ dùng phục vụ
    cho chính tiết dạy của mình, nhằm phục vụ cho việc dạy và học đồng thời nâng
    cao sự tìm tòi, ham hiểu biết của trẻ giúp trẻ phát triển toàn diện nhân cách. Tuy
    nhiên trên thực tế cho thấy việc làm đồ dùng sáng tạo cho trẻ chiếm khá nhiều
    thời gian làm ảnh hưởng đến các nhiệm vụ khác của giáo viên, giáo viên đôi khi
    không có nhiều thời gian cho việc chuẩn bị giáo án, đồ dùng lên lớp để đạt kết
    quả cao. Chính vì vậy, năm học 2019 – 2020 tôi được nhà trường phân công
    giảng dạy nhóm trẻ 24- 36 tháng với tổng số học sinh là 25 cháu, với nhận thức
    của trẻ chưa đồng đều, bản thân tôi trong quá trình thực hiện việc làm đồ dùng
    sáng tạo cho trẻ về đề tài này tôi còn gặp những thuận lợi và khó khăn như sau:
    a) Thuận lợi.
    – Được sự chỉ đạo của Phòng Giáo dục đào tạo huyện Nghĩa Hưng cùng với
    sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường về đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết
    bị nhóm lớp, lớp tôi đã đạt 83% danh mục đồ dùng, trang thiết bị theo thông tư
    01.
    – Ban giám hiệu thường xuyên tạo điều kiện cho tôi được tham gia các lớp
    tập huấn bồi dưỡng và nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ dành cho giáo viên
    cũng như tạo điều kiện cho tôi nghiên cứu và ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm
    trong thực tiễn giảng dạy.
    4
    – Trẻ đi học chuyên cần, khỏe mạnh nhanh nhẹn, tích cực tham gia vào các
    hoạt động của lớp.
    – Bản thân là một giáo viên được đào tạo Cao đẳng sư phạm, nắm vững
    chuyên môn, luôn nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, tâm huyết với nghề, ham học hỏi
    nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tôi thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu
    cách làm đồ dùng, đồ chơi sáng tạo cho trẻ mầm non, luôn tìm cách làm đồ dùng
    với nước cho trẻ với nhiều đồ dùng, vật liệu khác nhau.
    – Hai giáo viên đứng lớp luôn kết hợp thống nhất phương pháp, biện pháp
    giáo dục trẻ, thường xuyên tổ chức các hoạt động chơi, dành thời gian trao đổi
    với phụ huynh để phụ huynh thu lượm giúp những vật liệu sẵn có tại địa phương
    phục vụ cho việc làm đồ dùng.
    b) Khó khăn.
    – Kinh phí nhà trường còn hạn hẹp chưa thể bổ sung trang thiết bị, cở sở
    vật chất đầy đủ cho nhà trường, cho nhóm lớp.
    – Bản thân tôi gặp không ít khó khăn trong việc tìm tòi đồ dùng, vật liệu
    sẵn có tại địa phương, đồ dùng cho trẻ với nước còn thiếu trong quá trình cho trẻ
    chơi, lao động hoạt động tập thể.
    – Thời gian dành cho việc làm đồ dùng sáng tạo chưa nhiều do vậy khi
    thực hiện làm một số đồ dùng sáng tạo cho trẻ chơi với nước cần rất nhiều thời
    gian.
    – Trẻ được sống trong môi trường quá bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm,
    không có tính tự lập, ích kỷ, ít được tiếp xúc với môi trường xung quanh.
    – Nhiều phụ huynh chưa có hành vi đúng đắn và lời nói mẫu mực.
    – Mỗi trẻ lại có đặc điểm cá tính riêng biệt vì thế việc quan tâm, sát sao tất
    cả trẻ trong các hoạt động là điều hết sức khó khăn.
    – Môi trường xã hội nơi trẻ sống bên cạnh nhiều mặt tích cực còn có mặt
    tiêu cực làm ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách ở trẻ. Nhiều trẻ bị ảnh
    hưởng bởi cuộc sống hiện đại như: Internet, tivi, các trò chơi điện tử… nên trẻ
    không quan tâm nhiều đến các hoạt động khác.
    5
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
    Dựa vào những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện tìm tòi và khám phá
    trước đó, bản thân tôi đã áp dụng những biện pháp mới và sau đây là những biện
    pháp mà tôi mạnh dạn đưa ra để áp dụng trong đề tài này như sau:
    a) Giải pháp1: Tham mưu với ban giám hiệu nhà trường về vấn đề đầu
    tư cơ sở vật chất.
    – Như chúng ta đã biết mua sắm trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học
    cho giáo viên và học sinh là một việc làm vô cùng cần thiết. Ngay từ đầu năm
    học khi thực hiện đề tài sáng kiến bản thân tôi đã xây dựng kế hoạch, tham mưu
    với ban giám hiệu nhà trường về cơ sở vật chất phục vụ cho năm học dựa trên
    nhóm đồ dùng phục vụ cho trẻ chơi với nước có trong danh mục đồ chơi theo
    thông tư 01.
    + Ca cốc bằng inoc đảm bảo an toàn vệ sinh, có quai cầm chắc chắn.
    + Bát ăn cơm, thìa xúc cơm chất liệu bằng inoc.
    + Bình nước có vòi: Đảm bảo chắc chắn, đảm bảo vệ sinh, tiện lợi cho trẻ
    khi mở vòi, khóa vòi.
    + Chậu đựng nước bằng inoc.
    + Bộ đồ chơi đong nước: Để trẻ chơi đong nước trong các học động chơi
    và học đảm bảo khoa học và sáng tạo.
    + Thùng đựng nước có vòi phục vụ cho rửa tay vệ sinh cho trẻ.
    + Khăn lau tay để trẻ lau khô tay khi chơi với nước.
    + Khăn mặt, khăn lau khô cho trẻ.
    + Xô đựng nước chất liệu bằng nhựa.
    + Bình ủ nước: Sử dụng cho mùa đông đựng nước nóng cho học sinh.
    + Nhà vệ sinh có lắp hệ thống nóng lạnh phục vụ vệ sinh cho trẻ theo
    mùa.
    Trong quá trình tham mưu và đề xuất bản thân tôi đã chắt lọc những đồ
    dùng chính phục vụ cần thiết nhất, ngoài ra còn đưa thêm một số đề xuất đồ
    dùng sáng tạo cho trẻ chơi với nước trong các giờ chơi, giờ học của trẻ để trẻ
    6
    tham gia đầy đủ và đảm bảo tính sáng tạo giúp trẻ hứng thú, say mê, sáng tạo
    trong các hoạt động hàng ngày góp phần cho sự phát triển toàn diện nhân cách
    của trẻ.
    Cô giáo hướng dẫn trẻ lấy nước uống
    b) Giải pháp 2: Tuyên truyền với các bậc phụ huynh về việc thu gom
    phế liệu để làm đồ dùng cho trẻ chơi với nước.
    Để thực hiện tốt việc làm đồ dùng sáng tạo cho trẻ chơi với nước thì
    7
    chuẩn bị phế liệu, đồ dùng là rất quan trọng. Dựa trên các chủ đề, tôi đã xây
    dựng những tiết học có sử dụng đồ dùng chơi với nước sau đó tôi đã tích cực
    tuyên truyền với các bậc phụ huynh về việc ủng hộ những phế liệu để làm đồ
    dùng phục vụ cho các cháu tại lớp. Trong giờ đón trẻ tôi trao đổi với phụ huynh
    một cách thân thiện. Luôn lắng nghe tâm tư nguyện vọng của phụ huynh, trao
    đổi với phụ huynh về công tác chăm sóc giáo trẻ. Phụ huynh thấy được tầm quan
    trọng của việc học của con em mình nên rất đồng tình trong quá trình thu gom
    phế liệu.
    Sau khi đã có kế hoạch hoạt động trong một năm học của nhà trường, bản
    thân tôi đã xây dựng kế hoạch tháng, tuần của lớp dựa trên kế hoạch năm học tôi
    lên kế hoạch thu gom nguyên liệu tái chế làm đồ dùng theo các chủ đề.
    Để làm tốt việc làm đồ dùng tự tạo bản thân tôi đã luôn suy nghĩ và tìm ra
    những phế liệu có thể tái chế hiệu quả và an toàn để phục vụ cho việc làm đồ
    dùng cho trẻ.
    Tôi thường xuyên trao đổi trực tiếp với phụ huynh một số kiến thức về việc
    làm đồ dùng, đồ chơi, khuyến khích phụ huynh cho trẻ tự làm đồ dùng, đồ chơi
    và đóng góp những nguyên vật liệu thiên nhiên đã qua sử dụng cho lớp. Tôi nghĩ
    đây cũng là một hình thức khá hay trong việc giúp cô giáo làm được nhiều đồ
    dùng không chỉ là những đồ dùng cho trẻ chơi với nước mà còn làm được nhiều
    đồ chơi khác giúp phát huy ở trẻ tính tích cực sáng tạo trong các hoạt động học,
    đồng thời đây cũng hình thức tuyên truyền khá hay về công tác chăm sóc giáo
    dục trẻ giữa giáo viên và gia đình.
    Bên cạnh đó tôi thường xuyên mời phụ huynh tham quan góc học tập, xem
    các đồ dùng đồ chơi do chính tay tôi làm để phục vụ trẻ, ghi lại video để phụ
    huynh thấy được con em mình được học, được chơi gì ở trường.
    Tổ chức các buổi họp phụ huynh tuyên truyền về công tác chăm sóc giáo
    dục trẻ. Hướng dẫn phụ huynh làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ tại nhà.
    Mời phụ huynh tham dự một số hoạt động vui chơi trải nghiệm của trẻ với
    đồ dùng tự làm từ nguyên liệu tái chế do phụ huynh ủng hộ.
    8
    Cô giáo hướng dẫn phụ huynh làm đồ chơi cho trẻ tại nhà

    Phụ huynh ủng hộ băng đĩa DVDPhụ huynh ủng hộ chai lọ tái chế

    9
    c) Giải pháp 3: Thực hiện làm đồ dùng sáng tạo cho trẻ chơi với nước
    Đối với trẻ mầm non, đồ dùng đồ chơi là thứ không thể thiếu trong cuộc
    sống của trẻ. Thông qua đồ dùng đồ chơi trẻ có thể tìm tòi, khám phá, trẻ được
    thao tác với các đồ vật… qua đó giúp trẻ phát triển một cách toàn diện. Khi trẻ
    được tìm hiểu, khám phá các đồ dùng đồ chơi giúp trẻ hiểu biết về tên gọi, đặc
    điểm, công dụng…về thế giới xung quanh, giúp trẻ biết được cách sử dụng của
    các đồ dùng, đồ vật, qua đó giúp trẻ phát triển về nhận thức. Khi được thao tác
    với đồ dùng đồ chơi: cầm, nắn, sờ, mó… giúp trẻ được phát triển thể chất về các
    vận động tinh. Bên cạnh đó, khi được tiếp xúc với các đồ dùng đồ chơi, trẻ cảm
    nhận được cái đẹp, tạo cho trẻ yêu thích và mong muốn tạo ra cái đẹp qua đó
    giúp trẻ phát triển thẩm mĩ một cách tốt nhất. Không những thế, khi được chơi
    với các đồ dùng đồ chơi, vốn từ của trẻ được phát triển một cách nhanh nhất
    giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, rèn luyện cho trẻ sự tự tin, mạnh dạn khi chơi với
    bạn, với cô qua đồ dùng đồ chơi, qua đó trẻ được phát triển ngôn ngữ và tình
    cảm kĩ năng xã hội. Đồ dùng đồ chơi mua sẵn không phải lúc nào cũng đẹp, lúc
    nào cũng tốt, chúng không đủ về chủng loại và phong phú về chất liệu. Hơn nữa
    không phải trường mầm non nào cũng có đủ điều kiện để mua tất cả các đồ dùng
    đồ chơi có sẵn, đủ để phục vụ nhu cầu chơi cho trẻ.
    Trẻ mầm non hiểu và tiếp thu mọi điều về thế giới xung quanh thông qua
    việc tìm hiểu, khám phá các sự vật, hiện tượng; học cách làm người qua việc
    thể hiện tình cảm, thái độ đối với các đồ vật, đồ dùng đồ chơi.
    Trong thực tế, qua nhiều năm giảng dạy, hàng ngày được tiếp xúc với trẻ,
    được xem trẻ chơi, được trò truyện cùng trẻ tôi nhận thấy được rằng trẻ nhỏ rất
    thích được chơi với những đồ chơi mới lạ, đặc biệt là những đồ chơi tự tạo.
    Được chơi, khám phá với đồ dùng tự tay mình làm ra trẻ sẽ phát huy được hết
    tính tích cực và khả năng tư duy sáng tạo của trẻ. Từ những lý do trên, bản thân
    tôi là một giáo viên trực tiêp giảng dạy, tôi đã dựa vào kinh nghiệm của bản thân
    và những ý kiến đóng góp từ các đồng nghiệp, dựa vào sách báo…tôi xin đưa ra
    ý tưởng từ tre nứa, vỏ chai nước, ống nhựa, ống nước cũ dư thừa của gia đình
    10
    lắp ghép lại để tạo ra đồ chơi cho trẻ chơi và qua đó giúp trẻ khám phá ra nhiều
    trò chơi từ ống nhựa, ống nước này.
    Sau đây là những đồ dùng sáng tạo làm cho trẻ chơi với nước mà bản thân
    tôi thực sự tâm đắc:
    * Đồ dùng chơi với nước làm bằng ống nhựa.
    – Chất liệu: Đồ dùng làm từ ống nhựa, nguyên liệu tái chế.
    – Lựa chọn đồ dùng bằng ống nhựa làm đồ dùng cho trẻ chơi với nước là
    tiêu chí của bản thân tôi vì:
    Thứ nhất: Đồ dùng khi ứng dụng hoạt động bằng nước không sử dụng điện.
    An toàn tuyệt đối với trẻ.
    Thứ hai: Bản thân tôi thấy đồ dùng dễ dàng tìm kiếm, phù hợp với độ tuổi
    mầm non.
    Thứ ba: Chất liệu nhựa nhẹ, dễ cắt, khoan, đục.
    Thứ tư: Bản thân tôi rất dễ lắp ghép. Ngoài việc làm cho cô sử dụng, mục
    đích còn để trẻ có thể tự tháo lắp được không cần sự giúp đỡ của giáo viên trong
    suốt quá trình chơi.
    – Công dụng:
    + Từ ống nhựa trên đầu tiên bản thân tôi cho trẻ chơi với ống nhựa trong
    tiết hoạt động góc, hoạt động với đồ vật nhằm tạo giúp ra cho trẻ kích thích sự
    khám phá, tìm tòi.
    + Sau khi đã cho trẻ trải nghiệm và khám phá tôi đã ghép cho trẻ nhìn thấy
    để trẻ hứng thú chơi, để thấy được sự phát huy của đồ dùng tôi đã chuẩn bị
    những chậu nước to để giữa lớp (Trẻ ngồi xung quanh để quan sát). Sau đó dùng
    nước đổ từ trên ống cao nhất xuống nước chảy vào ống và thoát ra đều đều kích
    thích trẻ khám phá vì sao? Có những trẻ hỏi: Cô ơi nước chảy nhiều thế? Cô ơi
    sao nước chảy ở đâu ra cái vòi này? Sao cái kia lại quay được ạ? … Ôi thích quá.
    Từ những khám phá trên giúp trẻ kích thích tư duy, quan sát có chủ định và
    hứng thú tìm tòi, sáng tạo.
    + Ngoài việc cho khám phá trong tiết học, đồ dùng này còn được phục vụ
    11
    trong các hoạt động chơi với nước ở ngoài trời, các hoạt động trải nghiệm của
    trẻ với nước.
    +Ngoài những trò chơi trên, từ ống nhựa nhỏ trẻ còn chơi được với các trò
    chơi khác: Xâu ống vào trụ, xâu ống vào dây kéo đi chơi, chơi xếp cạnh, xếp
    chồng, lắp ghép, làm ống nghe khám bệnh cho búp bê…
    +Tôi nhận thấy, khi trẻ chơi với đồ chơi này còn giúp cho trẻ phát triển rất
    nhiều mặt:
    + Phát triển các giác quan: Trẻ biết cầm, nắm, lăn xoay; biết phối hợp tay
    và mắt: xâu, xếp, lắp ghép…
    + Phát triển trí tuệ: Trẻ phân biệt được kích thước to – nhỏ, dài- ngắn, tính
    chất cứng – mềm…
    + Phát triển ngôn ngữ: Trẻ nói được rất nhiều và phát triển hơn so với yêu
    cầu thực: trong quá trình trẻ chơi, trẻ được tiếp xúc với nhau kích thích trẻ giao
    tiếp nhiều hơn qua đó sẽ giúp trẻ phát triển được ngôn ngữ của trẻ.
    + Phát triển cảm xúc, tình cảm: Trẻ vui, thích thú, vui cười nói chuyện với
    nhau trong quá trình chơi.
    Cô giáo hướng dẫn trẻ lắp ghép thác nước
    12

    Cô và trò đang vui chơi với thác nướcTrẻ đang tự mình trải nghiệm với thác nước
    Trẻ thích thú vui chơi với guồng quay nướcTrẻ khám phá trải nghiệm với guồng quay
    nước

    13
    * Đồ dùng chơi với nước làm bằng cây tre.
    Trong cuộc sống có muôn vàn vạn vật. Vật chất, đồ dùng xung quanh được
    làm ra không chỉ mang tính chất thẩm mỹ, dùng để trưng bày được thể hiện qua
    sự khéo léo của con người. Ngoài ra, chúng còn dùng phục vụ rất nhiều trong
    công việc, trong học tập, trong cuộc sống hàng ngày… đặc biệt thông qua những
    đồ dùng, vật liệu sẵn có tại địa phương đã giúp cho mọi người sáng tạo ra nhiều
    đồ dùng phục vụ cho học tập và giảng dạy.
    – Cách làm:
    Tận dụng những phế liệu sẵn có tại địa phương, tôi đã lựa chọn những đoạn
    tre dài ngắn, to nhỏ khác nhau, sau đó cắt, khoan, lắp ghép để tạo thành đồ chơi
    sáng tạo cho trẻ vui chơi và trải nghiệm.

    Bước 1. Cắt tre thành nhiều đoạn dài ngắnBước 2. Lắp ghép guồng
    Bước 3. Lắp khungBước 4. Lắp chi tiết phụ và trang trí

    1

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Kinh nghiệm xây dựng bảng tính khẩu phần ăn cho trẻ trong trường mầm non thông qua ứng dụng EXCEL

    SKKN Kinh nghiệm xây dựng bảng tính khẩu phần ăn cho trẻ trong trường mầm non thông qua ứng dụng EXCEL

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
    [TÊN TÁC GIẢ] 2
    Con người là một thực thể sống, nhưng sự sống không thể có được nếu
    không ăn uống. Tất cả chúng ta đều thấy rõ tầm quan trọng của việc ăn uống,
    đây là nhu cầu hàng ngày, cấp bách và bức thiết không thể không có. Không
    chỉ giải quyết chống lại cảm giác đói, ăn uống là để cung cấp năng lượng cho
    cơ thể hoạt động. Ngoài ra thức ăn còn cung cấp các axitamin, vitamin,chất
    khoáng là những chất cần thiết cho sự phát triển của cơ thể, duy trì các tế bào,
    tổ chức…
    Thật vậy, nếu thiếu hoặc thừa các chất dinh dưỡng đều có thể gây bệnh
    hoặc ảnh hưởng bất lợi cho sức khoẻ. Nhờ có sự phát triển của khoa học dinh
    dưỡng, nhiều loại bệnh đã từng một thời là mối nguy hiểm với tính mạng của
    con người như bệnh scocbút do thiếu Vitamin C đối với các thuỷ thủ, bệnh tê
    phù do thiếu Vitamin B1 ở các vùng do ăn gạo xay xát quá kỹ, bệnh pellagrơ
    do thiếu niaxin ở những vùng do ăn toàn ngô; những bệnh này đã lùi vào quá
    khứ. Tuy vậy hiện nay trong thời kì của nền kinh tế thị trường các vấn đề nảy
    sinh do chế độ dinh dưỡng không đầy đủ và không hợp lí vẫn còn là điều phải
    quan tâm xem xét. Chúng ta biết rằng tình trạng dinh dưỡng tốt của mọi người
    phụ thuộc vào khẩu phần dinh dưỡng thích hợp, được chăm sóc sức khoẻ đầy
    đủ, có môi trường sống hợp vệ sinh. Ngoài ra, tình trạng dinh dưỡng còn phụ
    thuộc vào các kiến thức ăn uống khoa học của mỗi người, các thói quen và tập
    quán ăn uống của địa phương. Muốn khoẻ mạnh cần ăn uống hợp hợp lí và
    được chăm sóc sức khoẻ đầy đủ. Vì vậy vấn đề đặt ra là chúng ta phải ăn
    uống như thế nào cho hợp lí, cơ cấu bữa ăn nên như thế nào cho phù hợp với
    lứa tuổi, phù hợp với quá trình lao động… nhằm giúp con người phát triển
    khoẻ mạnh và phòng tránh được bệnh tật.
    Nếu chế độ ăn của mỗi người thiếu về số lượng và không cân đối về chất
    lượng sẽ bị giảm cân, thiếu máu, giảm khả năng lao động, tăng khả năng mắc
    bệnh, bệnh tật sẽ nhiều hơn, nặng hơn và kéo dài hơn. Ngược lại, ăn quá
    nhiều, ăn không cân đối hoặc cơ thể ốm yếu, khả năng tiêu hoá, hấp thu, sử
    dụng các chất dinh dưỡng không tốt sẽ dẫn đến rối loạn các chức phận, thay
    đổi các chỉ số hoá sinh, diễn ra các biểu hiện lâm sàng về các bệnh suy dinh
    dưỡng và các bệnh không lây truyền như bệnh huyết áp cao, tim mạch, đái
    đường và một số loại ung thư.
    [TÊN TÁC GIẢ] 3
    Ở trẻ em, tuổi cơ thể đang phát triển mạnh, nhu cầu dinh dưỡng rất lớn.
    Nếu thiếu ăn, trẻ em sẽ là đối tượng đầu tiên chịu hậu quả của các bệnh về
    dinh dưỡng như: suy dinh dưỡng protein-năng lượng, các bệnh do thiếu vi
    chất dinh dưỡng (đần độn do thiếu iốt, hỏng mắt do thiếu viatmin A…), ở
    nước ta vấn đề thiếu dinh dưỡng hiện nay vẫn còn là vấn đề nghiêm trọng ở
    các vùng nghèo và tầng lớp nghèo. Bên cạnh đó, căn bệnh béo phì ở trẻ em có
    xu hướng gia tăng ở một số đô thị lớn (như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh
    và một số thành phố khác).
    Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ đúng cách ngay từ những năm đầu đời có
    ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định đến tương lai phát triển lâu dài của
    trẻ. Chế độ dinh dưỡng hợp lý không chỉ giúp trẻ em tăng trưởng tốt về thể
    chất, sức khỏe mà còn cả về trí tuệ. Chế độ dinh dưỡng của trẻ ở trường mầm
    non góp phần quan trọng trong sự phát triển đó vì thời gian trẻ hoạt động, ăn,
    ngủ ở trường chiếm tỷ lệ khá lớn so với thời gian trong ngày. Nếu có chế độ
    dinh dưỡng ở trường mầm non khoa học, hợp lý sẽ giúp trẻ phát triển hài hòa
    về thể chất, tinh thần.
    [TÊN TÁC GIẢ] 4
    * Xây dựng khẩu phần cân đối, hợp lý cho trẻ tại trường mầm non cần
    phải đảm bảo các nguyên tắc:
    – Bữa ăn cần đảm bảo nhu cầu của cơ thể không chỉ về số lượng, năng
    lượng và các chất dinh dưỡng cần thiết mà các chất đó còn tồn tại trong mối
    tương quan cân đối và hợp lý. Nhu cầu năng lượng đủ và tỷ lệ giữa các chất
    dinh dưỡng cân đối.
    – Xây dựng thực đơn trong thời gian dài, ít nhất 7-10 ngày giúp cho việc
    điều hòa khối lượng thực phẩm (mua, bảo quản…) cũng như để tổ chức công
    việc chế biến, chi tiêu. Thực đơn sắp xếp trong thời gian dài giúp ổn định
    công tác nuôi ăn.
    – Số bữa ăn và giá trị năng lượng của từng bữa phù hợp với nhu cầu của
    trẻ, loại hình vận động, tình trạng sinh lý và các điều kiện khác để phân chia
    và áp dụng các bữa ăn cho hợp lý.
    – Đảm bảo tính đa dạng về giá trị dinh dưỡng của mỗi bữa ăn. Để thực
    hiện mục đích đó mỗi bữa không chỉ cần có đủ các nhóm thực phẩm mà ngay
    trong cùng nhóm thực phẩm cũng nên thay thế nhiều loại khác nhau kể cả
    thịt, ngũ cốc hay rau quả. Một phần rau quả nên ăn tươi. Các món ăn cần
    phong phú về màu sắc, mùi vị, nấu nướng ngon lành, nhiệt độ thích hợp.
    * Một khẩu phần cân đối và hợp lý đối với trẻ cần hội đủ các yếu tố sau
    – Đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng cho chuyển hóa cơ bản, tăng trưởng và
    vận động. Cân bằng giữa năng lượng tiêu thụ và năng lượng tiêu hao chính là
    nguyên tắc dinh dưỡng hợp lý.
    – Đáp ứng đủ nhu cầu các chất dinh dưỡng: chất đạm, chất béo, đường
    bột, vitamin và muối khoáng theo tuổi, tình trạng sinh lý và vận động. Nhu
    cầu một số dưỡng chất thường tỷ lệ với năng lượng khẩu phần.
    – Phân bổ bữa ăn hợp lý ra các bữa ăn trong ngày và đảm bảo tính cân
    đối giữa các chất đạm-béo-bột đường.
    – Phân chia thực phẩm theo nhóm – Thay thế thực phẩm
    + Nhóm 1: Chất đạm bao gồm sữa thịt, cá, trứng, đậu đỗ và chế phẩm
    của chúng (đậu phụ, sữa đậu nành…).
    + Nhóm 2: Các chất béo bao gồm chất béo động vật (mỡ, bơ…) và chất
    béo thực vật (dầu, lạc vừng, dừa…).
    + Nhóm 3: Nhóm ngũ cốc cung cấp nhiều tinh bột (gạo, ngô, khoai,
    sắn…). Là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu của bữa ăn (50-60%).
    [TÊN TÁC GIẢ] 5
    + Nhóm 4: Nhóm rau quả cung cấp chất khoáng, vitamin.
    * Trong đó cần chú ý: Không có loại thức ăn nào là không có chất dinh
    dưỡng, tuy nhiên cũng không có thực phẩm nào chứa đầy đủ tất cả các chất
    dinh dưỡng. Khẩu phần có giá trị cao chỉ khi trong thành phần có đủ mặt các
    nhóm ở tỷ lệ thích hợp. Đó là nguyên tắc cơ bản của dinh dưỡng hợp lý.
    * Khi xây dựng khẩu phần, không phải các thực phẩm luôn luôn có mặt
    đầy đủ để tùy ý ta lựa chọn mà khác nhau tùy theo điều kiện cung cấp, thời
    tiết. Mặt khác, tùy theo tập quán dinh dưỡng, món ăn cần được thay đổi, ngon
    miệng, hợp khẩu vị. Do đó cần thay đổi thực phẩm này bằng thực phẩm khác.
    Tuy nhiên để thành phần và giá trị dinh dưỡng của khẩu phần không bị thay
    đổi, cần tôn trọng nguyên tắc:
    – Chỉ thay thế thực phẩm trong cùng một nhóm. Ví dụ có thể thay thế thịt
    bằng cá hay đậu phụ, thay gạo bằng ngô hay bột mỳ…
    – Trong trường hợp cần thiết có thể thay thế các thực phẩm thuộc nhóm
    có tính chất tương tự ví dụ thay thế một phần thịt bằng pho-mát hay đậu đỗ.
    [TÊN TÁC GIẢ] 6
    – Khi thay thế cần chú ý tính lượng tương đương thế nào để cho giá trị
    dinh dưỡng của khẩu phần không bị thay đổi.
    Vậy làm cách nào để các nhà trường xây dựng được khẩu phần ăn hợp lý
    cho trẻ trong điều kiện thiếu nhân lực, nhân viên kế toán chủ yếu là kiêm
    nhiệm. Bên cạnh đó, việc một khẩu phần ăn hợp lý để trẻ phát triển tốt còn
    phụ thuộc vào thu nhập của phụ huynh ở từng khu vực và mức đóng góp cho
    nhà trường để phục vụ công tác tổ chức bữa ăn cho trẻ cho trẻ. Với trăn trở
    phải làm sao để có khẩu phần ăn hợp lý, đủ các yêu cầu năng lượng, cân đối
    về ding dưỡng và phù hợp về giá thành, đồng thời giảm tiện cho công tác tính
    toán của Giám hiệu và kế toán, tôi đã nghiên cứu và áp dụng đề tài “Xây
    dựng bảng tính khẩu phần ăn cho trẻ trong trường mầm non thông qua
    ứng dụng EXCEL”
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT.
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
    Công tác tổ chức nuôi ăn bán trú trong trường mầm non là một nhiệm vụ
    vô cùng quan trọng. Nếu như việc không đảm bảo an toàn vệ sinh gây hậu
    quả tức thì thì việc cung cấp cho trẻ một khẩu phần ăn không hợp lý sẽ có tác
    hại lâu dài hơn như: trẻ còi xương suy dinh dưỡng, trẻ béo phì, trẻ phát triển
    không cân đối…..Với cách tính cũ, các nhà trường chỉ xây dựng thực đơn, sau
    khi tổ chức cho trẻ ăn rồi mới ngẫu nhiên tính khẩu phần ăn để kiểm tra điều
    chỉnh nếu không cân đối. Quy trình này ngược và mất thời gian, không cho ra
    một thực đơn với khẩu phần ăn hợp lý ngay từ đầu.
    Việc tính khẩu phần ăn nhằm cung cấp cho trẻ bữa ăn hợp lý, cân đối
    luôn được các nhà trường chú trọng và được các cấp quản lý thường xuyên
    kiểm tra, rà soát, cải tiến. Việc tính khẩu phần ăn cũng đã được một số công
    ty phần mềm xây dựng và đưa vào ứng dụng tại một số đơn vị nhưng đều gặp
    phải một số hạn chế và không hiệu quả với lý do; các nhà trường không chủ
    động thực hiện và thường xuyên điều chỉnh nếu không hợp lý; các nhà trường
    không chủ động sửa chữa nếu phần mềm bị lỗi; không phù hợp thực tế, nảy
    [TÊN TÁC GIẢ] 7
    sinh nhiều vấn đề cần giải quyết khi triển khai nhưng việc giải quyết phải chờ
    công ty phần mềm xử lý; tốn kém tiền bạc.
    Để thực hiện đề tài, tôi đã tiến hành khảo sát về việc tính khẩu phần ăn
    theo cách cũ đối với 20 người gồm; cán bộ, giáo viên, nhân viên dinh dưỡng,
    nhân viên kế toán với nội dung như sau:

    Nội dung khảo sát.Không
    Việc xây dựng thực đơn có đảm bảo cung
    cấp tỉ lệ dinh dưỡng phù hợp và đủ năng lượng
    không?
    20/20
    Một số vi chất dinh dưỡng có được đánh
    giá trong bảng tính khẩu phần ăn không?
    20/20
    Cách tính khẩu phần ăn có đảm bảo việc
    điều chỉnh phù hợp tối đa không?
    20/20
    Cách tính khẩu phần ăn có tiết kiệm thời
    gian và thuận tiện cho nhân viên kế toán, thay
    thế được nhiều loại sổ không?
    20/20
    Tổng hợp:0%100%

    Đánh giá: 100% cá nhân được khảo sát đều nhận định không hiệu quả.
    – Việc xây dựng thực đơn trước khi tính khẩu phần ăn chỉ đáp ứng được
    yêu cầu đảm bảo đủ các nhóm thực phẩm, tương đối cân đối. Các món ăn
    không lặp lại trong tuần.
    – Không đảm bảo việc cung cấp đủ năng lượng, cân đối giũa các bữa ăn
    và cân đối giữa các chất. Không xác định tỉ lệ cung cấp vi chất, muối, Ca, B1.
    – Việc tính khẩu phần ăn chỉ mang tính kiểm tra về độ phù hợp, nếu
    không phù hợp thì điều chỉnh nhưng không xác định được rõ kết quả điều
    chỉnh có tối ưu không?
    – Các xây dựng thực đơn và cách tính khẩu phần ăn cũ mất nhiều thời
    gian và không thuận tiện cho nhân viên kế toán
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
    [TÊN TÁC GIẢ] 8
    Thực hiện việc “Xây dựng bảng tính khẩu phần ăn cho trẻ trong trường
    mầm non thông qua ứng dụng EXCEL” tôi muốn đạt được các mục đích sau.
    – Việc xây dựng thực đơn và tính khẩu phần ăn phải đi đồng thời và cùng
    điều chỉnh cho nhau.
    – Thực đơn được kiểm chứng bằng bảng tính khẩu phần ăn trước khi tiến
    hành tổ chức cho trẻ ăn phải đảm bảo về các yêu cầu:
    + Đủ lượng năng lượng cần cung cấp cho trẻ trong một ngày đến trường.
    Đáp ứng tỉ lệ năng lượng trong các bữa ăn.
    + Đủ các nhóm chất cần cung cấp cho trẻ, tỉ lệ giữa các chấtcân đối .
    + Cung cấp phù hợp các vi lượng theo khuyến nghị như muối, Ca, B1.
    – Đơn vị chủ động trong việc xây dựng thực đơn và khẩu phần ăn, đảm
    bảo linh hoạt, phù hợp với mức thu và tận dụng được nguồn thực phẩm của
    địa phương.
    – Xác định được giá tiền của các bữa ăn để đảm bảo công tác chi tài chính
    ổn định, phù hợp với kế hoạch thu chi.
    – Tiết kiệm thời gian cho nhân viên kế toán và thay thế được 3 loại sổ
    quản lý nuôi ăn.
    Để thực hiện đề tài “Xây dựng bảng tính khẩu phần ăn cho trẻ trong
    trường mầm non thông qua ứng dụng EXCEL” đảm bảo các yêu cầu đặt ra,
    tôi đã thực hiện các giải pháp sau:
    2.1 Nghiên cứu các văn bản chỉ đạo về tổ chức các bữa ăn cho trẻ tại
    trường mầm non.
    a. Các văn bản chỉ đạo về việc tổ chức nuôi ăn cho trẻ của Bộ GD – ĐT.
    Theo chương trình Giáo dục mầm non ban hành theo Thông tư số
    17/2009/TT – BGD ĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng bộ GD –
    ĐT và thông tư số 28/2016/TT – BGD ĐT ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
    Bộ trưởng Bộ GD – ĐT sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Chương trình
    GD MN ban hành kèm theo thông tư số 17/2009/TT – BGD – ĐT. Việc tổ
    chức nuôi ăn cho trẻ phải đảm bảo những yêu cầu sau.
    * Đối với trẻ nhà trẻ từ 12 – 36 tháng;
    [TÊN TÁC GIẢ] 9
    – Nhu cầu khuyến nghị năng lượng/ngày/trẻ trong khoảng 930 –
    1000Kcal
    – Nhu cầu khuyến nghị năng lượng tại cơ sở giáo dục mầm non/ngày/trẻ
    chiếm 60 – 70% nhu cầu cả ngày.
    – Số bữa ăn tại cơ sở giáo dục mầm non: Gồm 3 bữa (Hai bữa ăn chính
    và một bữa ăn phụ)
    + Năng lượng phân phối cho các bữa ăn
    -> Bữa ăn 1: Bữa ăn trưa, cung cấp từ 30 – 35% năng lượng cả ngày.
    -> Bữa phụ cung cấp từ 5 – 10% năng lượng cả ngày.
    -> Bữa ăn buổi chiều cung cấp từ 25 – 30% năng lượng cả ngày
    + Tỉ lệ các chất cung cấp năng lượng được khuyến nghị theo cơ cấu:
    -> Chất đạm (Protit) cung cấp khoảng 13 – 20% năng lượng khẩu phần.
    -> Chất béo (Lipit) cung cấp khoảng 30 – 40% năng lượng khẩu phần.
    -> Chất bột (Glxit) cung cấp khoảng 47 – 50% năng lượng khẩu phần.
    – Nước uống: khoảng 0,8 – 1,6 lít/trẻ/ngày (kể cả nước trong thức ăn)
    – Xây dựng thực đơn hằng ngày theo tuần, theo mùa.
    * Đối với trẻ mẫu giáo (Từ 3 – 6 tuổi)
    – Nhu cầu khuyến nghị năng lượng/ngày/trẻ trong khoảng 1230Kcal –
    1320Kcal
    – Nhu cầu khuyến nghị năng lượng tại cơ sở giáo dục mầm non/ngày/trẻ
    chiếm 50-55% nhu cầu cả ngày.
    – Số bữa ăn tại cơ sở giáo dục mầm non: Một bữa chính và một bữa phụ
    + Năng lượng phân phối cho các bữa ăn
    -> Bữa ăn buổi trưa, cung cấp từ 30 – 35% năng lượng cả ngày.
    -> Bữa phụ cung cấp từ 15 – 25% năng lượng cả ngày.
    + Tỉ lệ các chất cung cấp năng lượng được khuyến nghị theo cơ cấu:
    -> Chất đạm (Protit) cung cấp khoảng 13 – 20% năng lượng khẩu phần.
    -> Chất béo (Lipit) cung cấp khoảng 25 – 35% năng lượng khẩu phần.
    -> Chất bột (Glxit) cung cấp khoảng 52 – 60% năng lượng khẩu phần.
    – Nước uống: khoảng 1,6 – 2,0 lít/trẻ/ngày (kể cả nước trong thức ăn)
    – Xây dựng thực đơn hằng ngày theo tuần, theo mùa.
    b. Chuẩn bị các tài liệu tham khảo khác.
    [TÊN TÁC GIẢ] 1
    0
    – Bảng thành phần thực phẩm Việt Nam do bộ y tế làm chủ biên và được
    nhà xuất bản y học xuất bản. Trong đó có 567 trang, cung cấp về thành phần
    dinh dưỡng và vi chất của 554 loại thực phẩm.
    – Khuyến nghị về lượng muối, Ca, B1 của viên dinh dưỡng quốc gia.
    – Bài viết “Xây dựng khẩu phần cân đối và hợp lý cho trẻ tại trường
    mầm non” của BS. Nguyễn Minh Huyền chuyên viên Vụ Giáo dục Mầm
    non, được đăng trên Tạp chí Giáo dục Mầm non.- Số 1/2014.- Tr.: 32 – 33
    – “Giáo trình dinh dưỡng trẻ em” của tác giả Lê Thị Mai Hoa – Lê Trọng
    Sơn – Trường Đại học sư phạm Hà Nội chủ biên và xuất bản.
    2.2 Xây dựng yêu cầu cần thực hiện trong bảng tính khẩu phần ăn
    Để có một bảng tính khẩu phần ăn hiệu quả tôi đã tự xác định các yêu
    cầu cần thể hiện trong bảng tính.
    – Có số liệu thể hiện số trẻ ăn trong ngày, cụ thể cả nhà trẻ và mẫu giáo.
    – Số liệu về tỉ lệ % năng lượng cung cấp cho trẻ 01 ngày ở trường. Tỉ lệ
    này cố định, được nhà trường xác định dựa trên quy định tại các văn bản, đặc
    điểm vùng miền và mức thu nhập của phụ huynh.
    Trong đó chú ý: Vì trẻ mẫu giáo và nhà trẻ đóng góp tiền ăn như nhau ở
    trường, vì vậy cần lựa chọn% năng lượng để đảm bảo công bằng cho trẻ (1).
    Ví dụ:

    Nhà trẻMẫu giáo
    -Nhu cầu khuyến nghị năng
    lượng/ngày/trẻ trong khoảng 930
    – 1000Kcal
    – Nhu cầu khuyến nghị năng
    lượng tại cơ sở giáo dục mầm
    non/ngày/trẻ chiếm 60 – 70% nhu
    cầu cả ngày.
    => Khi lựa chọn cung cấp cho
    trẻ 1000Kcal trong ngày và 65%
    khi ở trường thì sẽ bằng 650kcal.
    -Nhu cầu khuyến nghị năng
    lượng/ngày/trẻ trong khoảng
    1230Kcal – 1320Kcal
    – Nhu cầu khuyến nghị năng lượng
    tại cơ sở giáo dục mầm non/ngày/trẻ
    chiếm 50 – 55% nhu cầu cả ngày.
    => Khi lựa chọn cung cấp cho trẻ
    Mẫu giáo 1300Kcal trong ngày và
    50% khi ở trường thì sẽ bằng
    650kcal.

    – Số liệu về tỉ lệ năng lượng cung cấp cho trẻ 01 ngày ở trường được
    phân chia thành các bữa ăn. Tỉ lệ này cố định, được nhà trường lựa chọn phân
    [TÊN TÁC GIẢ] 1
    1
    phối vào các bữa ăn trong ngày sao cho phù hợp, đảm bảo trẻ ăn hết suất và
    khoảng cách thời gian giữa các bữa đủ để tiêu hóa.
    – Số liệu về tỉ lệ các chất (Prootein, Lipit, Gluxit để) có tổng số là 100%.
    Các bữa ăn có thể cân đối về tỉ lệ các chất hoặc cân đối trong 01 ngày ăn tại
    trường về tỉ lệ các chất.
    Ví dụ: Nếu bữa phụ trẻ chỉ uống sữa sẽ không cân đổi được tỉ lệ các chất
    ở bữa đó. Vì vậy có thể chỉ cần tính tổng các chất trong 1 ngày ăn ở trường có
    tỉ lệ cân đối là đảm bảo yêu cầu.
    – Thực đơn trong ngày đảm bảo đủ 03 bữa với nhà trẻ và 02 bữa với mẫu
    giáo. không lặp lại trong 1 tuần, thực đơn có đủ 3 nhóm chất, trong 1 ngày
    không quá nhiều loại thực phẩm. Quan tâm đến giá thành và các loại thực
    phẩm theo mùa, thực phẩm có sẵn tại địa phương. Quan tâm đến các món ăn
    mà trẻ đang hào hứng để đưa vào thực đơn.
    – Tên, số lượng, số gam thực phẩm để nấu các món có trong thực đơn,
    trong đó phải thể hiện được; Số gam thực phẩm còn sau khi sơ chế; số các
    chất có trong thực phẩm; số Kcalo năng lượng có được sau khi tiêu thụ thực
    phẩm; số g Ca, B1 có trong thực phẩm và đơn giá các loại thực phẩm để nấu
    thành món có trong thực đơn dành cho 01 bữa của 01 trẻ, dành cho 01 bữa
    của toàn bộ trẻ mẫu giáo, nhà trẻ và cả trường trong 01 ngày
    – Đơn giá các loại thực phẩm. Trong đó: đơn giá phải ổn định ít nhất
    trong 1 tháng.
    – Lượng muối ăn cả 1 ngày của trẻ khuyến nghị 1g/10kg trọng lượng.
    Với mức quy đổi 1g muối tương đương 5ml mắm.
    – Quan tâm đến tỉ lệ thức ăn có Vitamin B1, và Ca, tuy nhiên không phải
    ngày nào cũng cần cung cấp đủ nguồn đến thực phẩm có chứa vi chất.
    – Nếu mức thu tiền ăn không đủ để đảm bảo các yêu cầu: Trẻ ăn ngon,
    đủ năng lượng, cân đối các chất, thì phải lựa chọn phương án trẻ ăn no, đủ
    năng lượng, cố gắng cân đối các chất ở mức có thể.
    – Lựa chọn thực phẩm giàu Protein và lipit có cả nguồn gốc thực vật,
    động vật.
    – Năng lượng được tạo ra khi tiêu thụ các chất được tính theo công thức.
    Năng lượng = số g Prôtein x 4,1+ số g Lipit x 9 + số g Gluxit x 4,1
    [TÊN TÁC GIẢ] 1
    2
    2.3. Chuyển đổi tài liệu Bảng thành phần thực phẩm Việt Nam do bộ y tế
    làm chủ biên.
    Trong đó có 567 trang, cung cấp về thành phần dinh dưỡng và vi chất
    của 554 loại thực phẩm thành 554 dòng trên định dạng EXCEL để chuẩn bị
    cho việc lập bảng tính khẩu phần ăn. Trong đó quan tâm đến 05 chỉ số:
    – Lượng Protein
    – Lượng Lipit
    – Lượng Gluxit
    – Lượng Vitamin B1
    – Lượng Ca.
    * Bên cạnh đó chú ý đến ô tỉ lệ sử dụng: Tỉ lệ này không cố định mà do
    chính nhà trường xác định tùy thuộc loại thực phẩm lựa chọn.
    Ví dụ: Tỉ sử lệ dụng của rau = khối lượng ban đầu của rau – khối lượng
    đã thải bỏ. Nếu như nhà trường nhập rau đã sơ chế thì khối lượng thải bỏ = 0.
    Tỉ lệ sử dụng = 100%.
    [TÊN TÁC GIẢ] 1
    3
    2.4. Xây dựng bảng tính.
    a. Việc đầu tiên khi xây dựng bảng tính, tôi phải lựa chọn các thông tin
    mình cần có để xây dựng các cột dòng. Các thông tin được liệt kê như sau:
    + Ngày tháng áp dụng bảng tính.
    + Thực đơn sử dụng trong ngày.
    + Năng lượng trong ngày.
    + Tỉ lệ năng lượng giữa các bữa.
    + Tỉ lệ các chất.
    + Các loại thực phẩm trong ngày theo thực đơn, trong đó có thông tin:
    -> Số gam thực phẩm chia theo các bữa ăn. Tổng số gam thực phẩm
    trong 1 ngày cho riêng trẻ nhà trẻ và mẫu giáo. Tỉ lệ sử dụng của từng loại
    thực phẩm.
    -> Số gam các chất có trong từng loại thực phẩm với nguồn gốc động vật
    và thực vật.
    -> Thành tiền số gam thực phẩm của từng trẻ, thành tiền số gam thực
    phẩm cho riêng trẻ nhà trẻ và mẫu giáo, thành tiền số gam thực phẩm của cả
    trường trong 1 ngày trẻ ở trường.
    + Năng lượng được tạo từ việc tiêu thụ các chất thể hiện theo từng bữa
    ăn và tổng số bữa ăn trong ngày.
    + Tổng số gam Prôtein, Lipit, Gluxit cần đạt trong ngày.
    + Tổng số gam Prôtein, Lipit, Gluxit đã ăn trong ngày.
    + Tỉ lệ các chất đã đạt được trong 1 ngày ăn của trẻ ở trường.
    b. Xây dựng bảng tính:
    [TÊN TÁC GIẢ] 1
    4
    – Sau khi xác định các yêu cầu, tôi tiến hành xây dựng bảng tính trên ứng
    dụng EXCEL với hình thức được gói trọn trong 02 trang A4 (Tại phụ lục 1)
    c. Thuyết minh bảng tính khẩu phần ăn đã xây dựng.

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số giải pháp ứng dụng phương pháp Montessori trong hoạt động làm quen với chữ cái cho trẻ 5-6 tuổi

    SKKN Một số giải pháp ứng dụng phương pháp Montessori trong hoạt động làm quen với chữ cái cho trẻ 5-6 tuổi

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Trong cuộc sống chúng ta ai cũng phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với mọi
    người và để nhận thức thế giới xung quanh. Ngôn ngữ chính là phương tiện giao
    tiếp giữa con người với con người, là phương tiện cho việc dạy và học. Ngôn ngữ
    nói, đọc, viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nhân cách của trẻ
    mầm non nói riêng, của con người và xã hội nói chung. Lứa tuổi mầm non là thời
    kỳ phát triển ngôn ngữ tốt nhất. Là giai đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho
    sự lĩnh hội ngôn ngữ nói và các kỹ năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của trẻ. Phát
    triển ngôn ngữ và giao tiếp có ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực phát triển khác của
    trẻ. Ngôn ngữ chính là công cụ để tư duy vì thế ngôn ngữ có ý nghĩa quan trọng đến
    việc phát triển nhận thức giải quyết vấn đề của trẻ. Đối với trẻ mẫu giáo lớn thì
    ngôn ngữ, nhận thức của trẻ đã rất phong phú và đa dạng, nhưng để chuẩn bị cho trẻ
    một hành trang vững trãi, cơ bản và cần thiết cho trẻ bước vào lớp 1thì kỹ năng
    nghe hiểu, trả lời câu hỏi,…là chưa đủ. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài: “ Một số
    giải pháp ứng dụng phương pháp Montessori trong hoạt động làm quen với chữ cái
    cho trẻ 5-6 tuổi”.
    Qua quá trình dạy trẻ hoạt động làm quen với chữ cái tôi nhận thấy trẻ chưa
    thực sự yêu thích “ Hoạt động làm quen với chữ cái”, các kỹ năng còn hạn chế nên
    trẻ hoạt động làm quen với chữ cái chưa hứng thú, chưa thể hiện hết khả năng về
    đọc và viết của mình. Làm quen với chữ cái theo phương pháp truyền thống vẫn là
    lấy người thầy làm trung tâm, là truyền tải kiến thức từ cô giáo sang trẻ, trẻ thụ
    động tiếp thu kiến thức, hoạt động học dễ đơn điệu, buồn tẻ, kỹ năng vận dụng
    những gì đã học vào đời sống thực tế bị hạn chế. Với thời đại “ Cách mạng công
    nghiệp 4.0” đang diễn ra trên toàn thế giới, các phương pháp giáo dục cũng phải
    được phát huy theo hướng tích cực, chủ động của trẻ, mà ở đó giáo viên chỉ là
    người giữ vai trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho trẻ tự học, tự tìm kiếm, khám
    phá. Là một người giáo viên, với mong muốn tìm ra phương pháp học đạt hiệu quả
    4
    }
    tốt nhất cho học sinh của mình luôn thôi thúc trong tâm trí tôi, cho nên tôi luôn tìm
    kiếm, tham khảo, nghiên cứu tất cả các phương pháp dậy và học đang được áp dụng
    trên các nước tiên tiến trên thế giới cho tới khi tôi được biết về “ Phương pháp
    Montessori”.
    Phương pháp Giáo dục Montessori là một phương pháp sư phạm giáo dục trẻ
    em dựa trên nghiên cứu và kinh nghiệm của bác sĩ và nhà giáo dục Ý Maria
    Montessori (1870–1952). Đây là phương pháp với tiến trình giáo dục đặc biệt dựa vào
    việc học qua cảm giác. Phương pháp Montessori chấp nhận sự duy nhất của mỗi trẻ và
    cho phép trẻ phát triển tuỳ theo những khả năng riêng của mình và thời gian riêng của
    mình. Phương pháp chủ yếu được áp dụng cho trẻ nhỏ từ 2-6 tuổi do các bản năng và
    sự nhạy cảm duy nhất của trẻ nhỏ đối với các điều kiện trong môi trường. Đặc điểm
    nổi trội ở phương pháp Montessori là nhấn mạnh đến vai trò của tính tự lập, tự
    do (trong khuôn khổ cho phép) trong việc hình thành nhân cách trẻ. Ngoài ra, phương
    pháp này rất tôn trọng sự phát triển tâm sinh lí tự nhiên của trẻ. Trẻ có thể tự lựa chọn
    hoạt động (với điều kiện là các hoạt động này đã được giáo viên lên kế hoạch sắp xếp
    trước), trẻ không bị ngắt quãng hay làm phiền trong quá trình hoạt động, trẻ học hỏi
    khái niệm, kiến thức thông qua trải nghiệm thực tế với các học cụ, mô hình mang tính
    chất khám phá, xây dựng, hơn là học theo chỉ dẫn trực tiếp từ phía giáo viên.
    Phương pháp Montessori được cộng đồng quốc tế công nhận và đã được áp dụng
    ở trên 110 quốc gia trên thế giới, đặc biệt có 22.000 trường đặt tên là Montessori. Tất
    cả các trường ở các nước Tây Âu đều đã chuyển đổi theo tinh thần của phương pháp
    Montessori. Hiện nay rất nhiều Quốc gia trên thế giới đã thành lập Hiệp hội
    Montessori để trao đổi thông tin và đảm bảo các trường Montessori giữ được đúng
    tinh thần của phương pháp giáo dục Montessori. Năm 1967, Ủy Ban Kiểm Tra Cấp
    Bằng Sáng Chế Mỹ đã công nhận phương pháp giáo dục Montessori và cho phép các
    trường ở Mỹ và các nước khác được được sử dụng rộng rãi, nếu đảm bảo nó ứng dụng
    5
    }
    đúng tinh thần của phương pháp Montessori. Có rất nhiều người nổi tiếng theo học
    phương pháp Montessori ở giai đoạn đầu trong cuộc đời của họ, họ ca ngợi rằng với
    những nền tảng mà họ đã tiếp nhận từ phương pháp này chính là yếu tố quan trọng
    quyết định đến những thành công trong cuộc đời họ. Như ca sĩ Beyonce Knowless –
    Ca sĩ nhạc Pop, nhạc sĩ, diễn viên và nhà thiết kế thời trang, 16 lần chiến thắng giành
    giải Grammy, nhiều hơn bất cứ ai trong lịch sử hay Jacqueline Kennedy OnassisCựu đệ nhất phu nhân tổng thống Kennedy,…
    Phương pháp Montessori được biết đến tại Việt Nam trong khoảng 10 năm trở lại
    đây và đang ngày càng phổ biến tại Việt Nam. Một số trường mầm non Montessori
    tiêu biểu ở Việt Nam: Hệ thống trường mầm non song ngữ Shakura Montessori,
    trường mầm non American Montessori, trường mầm non Sunrise Kids… Các bậc phụ
    huynh thực sự cảm thấy rất yên tâm và hài lòng khi trẻ chủ động, tự lập hơn trong tất
    cả các hoạt động không chỉ riêng hoạt động học.
    Phương pháp dạy học này rất chú ý đến đối tượng học sinh, coi trọng việc nâng cao
    khả năng của người học. Giáo viên có thể là người nêu lên tình huống, kích thích sự tò
    mò của trẻ, để trẻ có thể đưa ra hướng giải quyết, từ đó giáo viên sẽ là người hệ thống,
    tổng kết lại vấn đề, khắc sâu những tri thức cần nắm vững. Đây còn là phương pháp
    liên quan đến cách quản lý lớp học, thiết kế đồ dùng dạy học phục vụ nội dung mà
    giáo viên muốn dạy cho trẻ. Với việc ứng dụng phương pháp này vào trương trình học
    tại nhóm lớp của mình, tôi đã nghiên cứu và mạnh dạn thử nghiệm ứng dụng trong
    hoạt động cho trẻ làm quen với chữ cái. Sau khi trẻ đã được học kiến thức mới trong
    giờ hoạt động chung, tôi có thể cho trẻ hoạt động góc, hoạt động ngoài trời, dạy trẻ
    làm quen với toán mọi lúc mọi nơi theo hình thức Montessori. Những trẻ không nắm
    vững kiến thức trong hoạt động chung sẽ được hướng dẫn lại từng cá nhân trong hoạt
    động góc hay những trẻ đã nắm vững kiến thức cơ bản trong hoạt động chung sẽ có
    những bài tập nâng cao hơn để trẻ có thể trải nghiệm thêm về hoạt động học.
    6
    }
    Độ tuổi từ 3-6 tuổi là giai đoạn vàng trong phát triển tư duy và ngôn ngữ đặc biệt
    là ngôn ngữ, để chuẩn bị tốt nhất nền tảng ngôn ngữ cho trẻ giai đoạn này nên đưa vào
    các hoạt động làm quen với chữ cái thường xuyên, mọi lúc mọi nơi. Việc kết hợp học
    hoạt động phát triển ngôn ngữ chung trên lớp với thực hành phương pháp Montessori
    sẽ giúp cho các con có thể thẩm thấu được bài học, hiểu rõ bản chất của ngôn ngữ, có
    kỹ năng cơ bản về chữ cái, âm, từ và tiếng để từ đó sẽ hững thú trong các hoạt động
    và kiến thức đó sẽ là hành trang cho các con sau này bước vào các cấp học sau này. Vì
    vậy tôi đã chọn đề tài “ Một số giải pháp ứngdụng phương pháp Montessori trong
    hoạt động làm quen với chữ cái cho trẻ 5-6 tuổi”
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT
    II.1. Mô tả giải pháp kỹ thuật trước khi tạo ra sáng kiến:
    Năm học 2018-2020 tôi được phân công dạy lớp mẫu giáo lớn, sĩ số 35 cháu.
    Qua những năm trực tiếp giảng dạy tôi nhận thấy rằng trẻ làm quen với chữ cái
    không phải là việc dễ làm, nó đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, chịu khó biết
    vận dụng những biện pháp linh hoạt, sáng tạo trong quá trình lên lớp để trẻ lĩnh hội
    đầy đủ kiến thức của bộ môn, để từ đó trẻ có sự tập trung chú ý và thực sự có hứng
    thú, có tính kỷ luật trong học tập. Đặc biệt, hoạt động học “ Làm quen chữ cái” ở
    trẻ 5 – 6 tuổi là môn học giúp trẻ hình thành, phát triển năng lực và thái độ cần thiết
    cho việc học tiếng việt lớp 1. Song việc dạy trẻ làm quen với chữ cái cần phải thể
    hiện phương pháp đặc trưng của giáo dục mầm non. Theo quan niệm của riêng tôi,
    dạy trẻ làm quen với chữ cái chứ không phải đưa chương trình tiếng việt lớp 1
    xuống dạy trước ở mẫu giáo lớn, mà phương pháp dạy trẻ làm quen với chữ cái
    phải dựa trên cơ sở sử dụng các yếu tố vui chơi, các nhiệm vụ sáng tạo cũng như
    hoạt động học tập của trẻ. Dựa trên những kế hoạch, sự chỉ đạo của nhà trường là
    giáo viên mầm non trực tiếp giáo dục chăm sóc trẻ qua những năm thực hiện
    chuyên đề mầm non mới người giáo viên phải làm gì để đạt được các yêu cầu cao
    7
    }
    hơn nữa, nắm vững nội dung nâng cao kiến thức trong hoạt động cho trẻ làm quen
    với chữ cái một cách nhẹ nhàng thoải mái và có hiệu quả chuẩn bị cho trẻ tâm thế
    vững vàng để bước vào lớp một.
    Ở trường mầm non, trẻ được làm quen với 29 chữ cái của tiếng việt. Từ đó
    trẻ nhận biết mặt chữ, phát âm đúng chữ cái, nghe phát âm tìm được chữ cái, nhìn
    vào chữ cái đọc được âm tương ứng. Ngoài ra, trẻ còn được đọc một số câu thơ, ca
    dao, đồng dao có chứa âm của chữ cái nhằm hoàn thiện bộ máy phát âm và khả
    năng ngôn ngữ mạch lạc, nói đúng ngữ âm tiếng việt. Ngoài ra hoạt động làm quen
    với chữ cái còn giúp trẻ biết cầm bút, ngồi đúng tư thế khi tô, viết. Do đó việc cho
    trẻ làm quen với chữ cái là một hoạt động rất quan trọng trong chương trình giáo
    dục trẻ 5 – 6 tuổi. Hoạt động này không chỉ giúp hình thành những cơ sở ban đầu
    của kĩ năng nói tiếng mẹ đẻ còn giúp trẻ có những hiểu biết và kĩ năng cơ bản, hỗ
    trợ trực tiếp và tích cực cho bộ môn tiếng Việt ở trường Tiểu học. Vì vậy, có thể
    nói, việc hướng dẫn trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi làm quen với chữ cái là cơ hội tốt để
    chuẩn bị hành trang vững chắc giúp trẻ bước vào lớp một thuận lợi.
    – Phương pháp Montessori là một phương pháp du nhập từ nước ngoài, vì vậy tôi đã
    phải tìm tòi, nghiên cứu và chuyển thể trương trình học sao cho phù với môi trường
    xã hội, đặc điểm vùng miền và khả năng nhận thức của trẻ. ( VD: Hoạt động làm
    quen với cữ cái, các nước phương Tây có 24 chữ cái, còn Việt Nam có 29 chữ,
    chưa kể các chữ ghép, thanh và dấu,…) Cho nên việc nắm chắc kiến thức cơ bản
    để có thể ứng dụng và kết hợp được phương pháp Montessori là điều cực kỳ
    quan trọng. Và tôi là giáo viên đã được đào taọ chuyên ngành giáo dục mầm non
    và cấp chứng chỉ hoàn thành khoá đào tạo về phương pháp Montessori.
    – Tôi còn được nhà trường tạo điều kiện về thời gian để tìm tòi, nghiên cứu, tìm
    hiểu sâu hơn về ứng dụng phương pháp Montessori trong hoạt động làm quen với
    ngôn ngữ cho trẻ, tham khảo tài liệu, tìm hiểu thêm về các trang thiệt bị, đồ dùng
    8
    }
    đồ chơi, cũng như trao đổi thảo luận nhóm đóng góp ý kiến để hiểu sâu vấn đề, qua
    đó mang tới cho trẻ những trải nghiệm bổ ích, để trẻ có thể “học mà chơi, chơi mà
    học” đạt hiệu quả cao nhất. Ban giám hiệu còn luôn luôn tạo điều kiện, quan tâm,
    chỉ đạo sát sao trong việc nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, cho tôi
    được tham dự vào những lớp học bồi dưỡng, tập huấn nâng cao về phương pháp
    Montessori.
    – Được sự tin tưởng, tín nhiệm của Ban giám hiệu, lớp học do tôi phụ trách đã được
    thí điểm làm lớp học ứng dụng một số phương pháp Montessori trong hoạt động
    làm quen với chữ cái cho trẻ ( Tôi đã có kinh nghiệm ứng dụng phương pháp
    Montessori trong hoạt động làm quen với chữ cái được 2 năm)
    – Trẻ đồng đều về lứa tuổi, ngoan ngoãn, trẻ có nề nếp thói quen học tập tốt. Trẻ rất
    hứng thú khi được tiếp xúc với phương pháp học tập mới và giáo cụ trực quan mới.
    – Đa số phụ huynh học sinh trên địa bàn khu dân cư đều là những phụ huynh thuộc
    tầng lớp tri thức, hiểu biết sâu rộng nên các bậc phụ huynh luôn quan tâm ủng hộ về
    vật chất, tinh thần. Đặc biệt, các bậc phụ huynh luôn quan tâm và mong muốn cho con
    cái được tiếp cận với phương pháp giáo dục mới.
    – Cơ sở vật chất: Ứng dụng phương pháp Montessori yêu cầu môi trường học tập
    phong phú, tạo sự thoải mái cho học sinh, nội thất của nhóm lớp được thiết kế riêng
    theo kích thước trẻ em và theo chuẩn của Montessori, chi phí sẽ không hề rẻ. Các bộ
    giáo cụ dành cho phương pháp này nói chung hay bộ giáo cụ phát triển ngôn ngữ nói
    riêng, hiện nay được bán không đại trà tại Việt Nam, trong khi một bộ giáo cụ như
    vậy ở Mỹ bán với giá trên 2.500 đô la( khoảng trên 50 triệu đồng Việt Nam) và chỉ
    dùng cho 1 lớp học duy nhất, không thể chia ra cho nhiều lớp hoặc dùng chung.
    – Về phía giáo viên: Giáo viên hiện tại chưa được tiếp xúc nhiều với phương pháp
    Montessori, hay muốn tìm hiểu, học hỏi để làm việc trong môi trường Montessori
    cũng rất khó, bởi nếu muốn trở thành một giáo viên Montessori phải tham dự một
    9
    }
    khóa đào tạo bao gồm 10 tuần học lý thuyết, 1 năm thực hành dưới sự hướng dẫn của
    các giáo viên đã có chứng chỉ, chi phí của các khóa học có thể lên tới 4.000- 10.000
    đô la mỹ phụ thuộc vào trung tâm đào tạo. Cho nên, với mức đầu tư về cơ sở vật chất
    hay chất lượng giáo viên như trên, học phí của các trường Montessori rơi vào mức cao
    ngay cả đối với người Mỹ.
    – Về phía phụ huynh:
    + Phụ huynh tuy có quan tâm tới con , luôn có tinh thần hỗ trợ, ủng hộ giáo viên cũng
    như nhà trường về cả vật chất, đồ dùng cho các con học tập nhưng do phương pháp
    Montessori còn khá mới mẻ, lạ lẫm, nhiều phụ huynh chưa biết đến nên không tránh
    khỏi có một số phụ huynh chưa thực sự ủng hộ giáo viên, nhà trường, thậm chí còn
    hoài nghi về phương pháp giáo dục này.
    + Ngoài ra, một số phụ huynh lại nôn nóng trong việc học chữ của trẻ nên đã dạy
    trước, tập viết trước, hoặc cho con đi học thêm trước nên dẫn đến việc tiếp thu bài
    giữa các trẻ không đồng đều, trẻ tỏ ra kiêu căng vì mình đã biết rồi nên không chú ý
    đến tiết học.
    + Thêm đó khi viết do phụ huynh dạy trước ở nhà không đúng cách dẫn đến trẻ viết
    sai nét chữ cho trẻ, gây khó khăn trong việc truyền thụ kiến thức của cô và khả năng
    tiếp thu của trẻ tạo nên sự bất cập giữa gia đình và nhà trường.
    – Về phía trẻ:
    + Trẻ nhận biết, ghi nhớ đúng 29 mặt chữ cái
    + Trẻ phát âm chính xác 29 chữ cái
    + Trẻ tô viết trùng khít lên chấm mờ hoàn thành vở tập tô sạch sẽ
    + Trẻ biết cầm bút, biết tô viết, tư thế ngồi đúng tư thế.
    Để đạt được kết quả cao thì việc điều tra thực trạng và việc nhìn lại để đánh giá
    kết quả của năm trước vô cùng quan trọng. Vì đó là thước đo, từ đó giúp ta điều chỉnh
    và định hướng làm cần thiết cho năm tới sao cho đạt kết quả tốt hơn. Qua thực tế khảo
    10
    }
    sát của tôi tại trường mầm non Thống Nhất, trên 35 trẻ ở khối mẫu giáo lớn, tôi đã có
    được bảng kết quả như sau:
    Kết quả khảo sát tại trường Mầm non Thống Nhất
    Tháng 9- Năm 2018

    Số trẻNội dungMức độ
    ĐạtTỉ lệ %Chưa
    đạt
    Tỉ lệ
    %
    35Trẻ nhận biết, ghi nhớ
    đúng 29 mặt chữ cái
    2057,14%1440%
    35Trẻ phát âm chính xác 29
    chữ cái
    1954,2%1542,8%
    35Trẻ tô viết trùng khít lên
    chấm mờ hoàn thành vở
    tập tô sạch sẽ
    2160%1440%
    35Tô viết, tư thế ngồi, cách
    cầm bút đúng tư thế.
    2057,14%1440%

    Nhận xét:
    Tháng 9 năm 2018 tôi khảo sát tại khối mẫu giáo lớn trường mầm non Thống
    Nhất,Tp Nam Định tôi có được kết quả như sau:
    – Tiêu chí trẻ nhận biết, ghi nhớ đúng 29 mặt chữ cái ở mức độ đạt là57,14 %, mức
    độ% chưa đạt là 40%
    – Tiêu chí trẻ phát âm được 29 chữ cái ở mức độ đạt là 54,2%, mức độ chưa đạt là
    42,8%
    – Tiêu chí trẻ tô viết trùng khít lên chấm mờ hoàn thành vở tập tô sạch sẽ ở mức độ đạt
    là 60%, mức độ chưa đạt là 40%
    11
    }
    – Tiêu chí trẻ cầm bút, tô viết, tư thế ngồi đúng tư thế ở mức độ đạt là 57,14%, mức độ
    chưa đạt là 40%
    => Như vậy khả năng ghi nhớ mặt chữ, cách phát âm của trẻ ở mức độ đạt còn chưa
    cao, cho nên để đạt được các kết quả cao hơn trong làm quen với chữ cái thì phải có
    nhiều giải pháp hay, lôi cuốn và thu hút trẻ.
    II.2. Mô tả giải pháp kỹ thuật sau khi tạo ra sáng kiến:
    Từ những khó khăn trên đồng thời căn cứ vào kết quả khảo sát kiến thức trên
    trẻ tôi đã đưa ra các giải pháp sau:
    2.1. Giải pháp 1: Thiết kế một số đồ dùng ứng dụng phương pháp Montessori
    trong hoạt động làm quen với Ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi:
    – Do giáo cụ Montessori cho lĩnh vực làm quen với ngôn ngữ cực kì đa dạng và
    phong phú, nhiều chủng loại lại còn có giá thành rất cao cho nên tôi đã tìm hiểu và lựa
    chọn những giáo cụ phù hợp, cần thiết, có khả năng ứng dụng cao trong làm quen với
    chữ cái trong chương trình và lứa tuổi mẫu giáo. Ngoài ra, yêu cầu về độ chính xác,
    chất lượng, hạn sử dụng,… của đồ dùng Montessori phải rất chuẩn mực và độ sai số
    hầu như là không có, nên tôi đã suy nghĩ và tạo ra các bộ giáo cụ, đồ dùng từ nguyên
    vật liệu có chi phí và giá thành thấp để có thể nhân rộng ra toàn khối cũng như trong
    toàn trường nhằm giúp cho trẻ có thể khắc sâu, lĩnh hội các kiến thức, có kỹ năng cần
    thiết để phát triển trí tuệ.
    – Tôi đã sử dụng những nguyên vật liệu dễ tìm, nguyên liệu có thể tái sử dụng, hoặc
    nguyên liệu có giá thành thấp hơn… để làm nên những bộ đồ dùng như trên với kích
    thước phù hợp với trẻ mà cách sử dụng cũng như giá trị sử dụng vẫn đạt hiệu quả so
    với bộ giáo cụ gốc.
    12
    }
    Nguyên liệu thay thế rất đơn giản, giá thành rẻ, dễ kiếm
    – Ngoài ra để có được nguồn nguyên liệu phong phú, đa dạng cho việc thiết kế đồ
    dùng, tôi còn kêu gọi, huy động sự ủng hộ, đóng góp về nguyên vật liệu từ phía phụ
    huynh học sinh như gỗ, đề can màu, giấy nhám, thùng bìa các tông, keo nến,…
    – Để có thể thiết kế đồ dùng, giáo cụ phục vụ cho việc ứng dụng phương pháp
    Montessori trong hoạt động làm quen với chữ cái, tôi phải tuân thủ theo những
    nguyên tắc lựa chọn thiết kế như
    + Dễ tìm: Các nguyên vật liệu phải là những nguyên liệu dễ tìm, dễ kiếm, dễ thay thế
    mà không làm thay đổi tính chất cũng như thiết kế của bộ giáo cụ gốc.
    + Đảm bảo tính chính xác: Giáo cụ gốc của phương pháp Montessori tuân thủ rất
    nghiêm ngặt về độ chính xác, các bộ giáo cụ đều được làm rất chính xác về kích
    thước, màu sắc, sai số hầu như là không có ( để phục vụ cho các bài học về so sánh,
    cảm quan, kiểm tra lại kết quả,…) nên khi làm đồ dùng thay thế, tôi cũng phải thiết kế
    sao cho sai số của các bộ giáo cụ là thấp nhất.
    13
    }
    + Đảm bảo tính thẩm mỹ, màu sắc, công dụng: Các bộ giáo cụ không những phải đảm
    bảo tính thầm mỹ để thu hút sự tập trung, chú ý, hứng thú của trẻ mà còn phải đảm
    bảo được công dụng, cách sử dụng như với bộ giáo cụ gốc.
    + Đảm bảo độ bền, an toàn cho trẻ trong khi sử dụng: Đây là một nguyên tắc rất quan
    trọng, một bộ giáo cụ được thiết kế trước tiên phải đảm bảo được sự an toàn,
    tránh và hạn chế thấp nhất việc gây thương tích đến cho trẻ. Vì vậy tôi lựa chọn những
    nguyên vật liệu an toàn, thẩm mỹ cao, không độc hại.
    – Từ những nguyên tắc trên tôi đã thiết kế ra được một số bộ đồ dùng như sau:
    1. Bộ chữ cái di động tiếng việt 29 chữ rời:
    a. Mô tả giáo cụ:
    – Bộ giáo cụ có kích thước tổng thể là 4xmx40cmx60cm được chia thành các ô nhỏ,
    làm bằng tấm fooc-make. Bên trong hộp gồm có 29 chữ cái tiếng việt, nguyên âm có
    12 chữ cái ( Mỗi chữ được làm thêm 10 chữ rời) được sơn màu đỏ, phụ âm gồm 17
    chữ ( Mỗi chữ được làm thêm 5 chữ cái rời) được sơn màu xanh da trời cùng với 5
    thanh dấu cơ bản được sơn màu đỏ.
    – Bộ giáo cụ có các chữ cái được sơn màu sắc xanh, đỏ để giúp trẻ dễ dàng nhận biết
    và phân biệt được chữ cái nào là nguyên âm và chữ cái nào là phụ âm.
    14
    }
    b. Mục đích sử dụng:
    – Giúp trẻ nhận diện mặt chữ, phân biệt được các nguyên âm, phụ âm
    Ví dụ: Chữ cái: “ a, ă, â,…” ( màu đỏ) là nguyên âm
    Chữ cái: “ b, c, d,…” ( màu xanh) là phụ
    – Qua việc hoạt động cùng bộ giáo cụ có khả năng ghi nhớ, phát âm chính xác được 29
    chữ cái.
    – Trẻ có thể dùng các chữ cái rời để sắp xếp thành 1 câu văn, câu thơ, đoạn văn cô
    giáo cho trước.
    2. Bộ chữ nhám:
    a. Mô tả giáo cụ:
    – Bộ chữ nhám có 3 bộ chữ cái:
    + Bộ chữ nhám in thường
    15
    }
    29 thẻ chữ nhám in thường
    + Bộ chữ nhám in hoa:
    16

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số biện pháp xây dựng góc thư viện thân thiện góp phần hình thành thói quen đọc sách cho trẻ ngay từ nhỏ

    SKKN Một số biện pháp xây dựng góc thư viện thân thiện góp phần hình thành thói quen đọc sách cho trẻ ngay từ nhỏ

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
    Đã từ lâu, rất nhiều nhà khoa học và các nghiên cứu đã chỉ ra rằng “Đọc
    sách cùng trẻ sẽ cung cấp một trong những cơ hội tốt để tiến hành hội thoại,
    qua đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ đặc biệt là khi trẻ tham gia vào việc trả lời
    câu hỏi, cùng thảo luận nội dung cuốn sách. Và cũng thông qua đọc sách nhất
    là thói quen được hình thành trước 6 tuổi sẽ tác động trực tiếp lên não bộ từ
    đó hình thành kĩ năng xã hội, cảm xúc thẩm mỹ, tình cảm và phát triển nhận
    thức”. Bởi lẽ, sách- với nhiều hình ảnh minh hoạ thú vị là văn bản đơn giản
    nhưng lại bắt mắt, tạo hứng thú, tạo cơ hội tốt khuyến khích trẻ nói về những
    gì đang xảy ra. Khi trẻ lớn dần lên, cuốn sách rất quan trọng trong việc giúp
    trẻ bộc lộ những ý tưởng mới, từ mới, thế giới mới… và sách chính là nền
    tảng cho kĩ năng xã hội và tư duy của trẻ.
    Ở thời đại công nghệ thông tin, hầu hết tất cả các gia đình đều có điện
    thoại thông minh, máy tính bảng hay ti vi, máy tính bàn nên càng ngày việc
    giao tiếp giữa các thành viên trong gia đình cũng đang ít dần, thay vào đó thì
    trẻ hàng giờ với điện thoại tỷ lệ trẻ cận thị, nguy cơ hội chứng tự kỷ càng
    nặng và tăng cao… Thói quen đọc sách cùng con mất dần, mất dần.
    Bản thân tôi là một giáo viên, cũng là một người mẹ, tôi tự nhận thấy
    những tác dụng to lớn của sách đối với con trẻ và những tác động, ảnh hưởng
    của điện thoại thông minh, tôi thấy rất cần thiết xây dựng góc thư viện thân
    thiện gắn kết giữa nhà trường- gia đình- giáo viên- trẻ thơ. Tôi đã trăn trở và
    suy nghĩ làm thế nào để phát huy tác dụng của góc thư viện nhưng lại gắn kết
    được gia đình các bé tham gia và có tác dụng tốt trực tiếp tới các bé.
    Là một giáo viên Mầm non hàng ngày đang trực tiếp giáo dục những thế
    hệ tương lai của đất nước tôi nhận ra một điều thật quan trọng trong công việc
    của mình là phải tuyên truyên hướng dẫn phụ huynh, hướng trẻ nhận thức
    việc sư dụng sách ngay từ nhỏ là điều hết sức cần thiết và cấp bách.
    Đây là một kỹ năng vô cùng quan trọng cần được hình thành từ khi còn
    rất nhỏ bởi Theo UNESCO, 8 tuổi đã là quá trễ để giáo dục và hình thành thói
    4
    quen đọc sách cho trẻ vì đến độ tuổi này trẻ đã hình thành cho mình phần lớn
    các giá trị, trừ khi có sự thay đổi sâu sắc về trải nghiệm trong đời nếu không
    khó mà kĩnh hội các giá trị sau độ tuổi này. Hơn nữa, trẻ tuổi càng nhỏ khả
    năng tiếp thu càng nhanh và dễ hình thành ý thức từ những thói quen và trẻ
    chính là những nhà tuyên truyền , tư vấn giỏi đến bất ngờ về các thói quen
    hơn bất cứ người lớn nào. Vì vậy việc hình thành cho trẻ ý thức đọc sách từ
    nhỏ sẽ góp phần tạo ra một lớp người có sự hiểu biết. Xuất phát từ những
    nhận thức trên tôi đã lựa chọn đề tài: “ Một số biện pháp xây dựng góc thư
    viện thân thiện góp phần hình thành thói quen đọc sách cho trẻ ngay từ
    nhỏ” để thực hiện trong năm học 2018 – 2019, 2019- 2020 và các năm học
    tiếp theo với mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào việc giáo dục,
    hình thành thói quen đọc sách cho trẻ giúp trẻ có hành vi đúng đắn ngay từ
    nhỏ.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP:
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
    1.1. Khảo sát thực tế:
    1.1.1. Địa điểm:
    Tên trường: Trường Mầm non Giao Phong
    Địa chỉ: Xã Giao Phong – Huyện Giao Thủy – Tỉnh Nam Định
    1.1.2. Công tác chăm sóc – Giáo dục trẻ:
    – Trường thực hiện chương trình chăm sóc – giáo dục trẻ theo quy định
    của Bộ Giáo dục và đào tạo.
    – Thực hiện “Quy chế nuôi dạy trẻ” và “Điều lệ trường mầm non” do
    Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành.
    – Thực hiện mọi hoạt động chăm sóc – giáo dục dưới sự quản lý, chỉ
    đạo, thanh tra, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của Phòng Giáo dục – Đào
    tạo huyện Giao Thủy – Tỉnh Nam Định.
    1.1.3. Tổ chức hoạt động:
    5
    Tại nhóm lớp mọi công việc sẽ được chủ nhóm lớp lên kế hoạch theo
    tháng, sau đó sẽ họp các giáo viên và phổ biến vào đầu tháng. Dựa vào
    chương trình của bộ với 10 chủ đề trong 1 năm học mà phân chia vào các
    tháng. Tuy nhiên theo từng tháng sẽ có các hoạt động cụ thể khác nhau. Hiện
    tại trường có 15 lớp trong đó có 4 lớp Mẫu giáo lớn, 4 lớp Mẫu giáo nhỡ, 4
    lớp Mẫu giáo bé và 3 lớp Nhà trẻ. Nhà trường luôn quan tâm đến chất lượng
    chăm sóc giáo dục trẻ. Bản thân tôi được phân công dạy lớp Mẫu giáo lớn 5
    tuổi với 30 trẻ. Trong quá trình thực hiện đề tài này tôi đã gặp những thuận
    lợi, khó khăn sau:
    1.1.4.Thuận lợi:
    *) Về cơ sở vật chất:
    – Với phòng học đủ diện tích cùng với sự quan tâm của chính quyền
    địa phương trường đã trang bị đầy đủ các đồ dùng đồ chơi đảm bảo tốt cho
    hoạt động học tập, vui chơi của các cháu.
    – Trường có khuôn viên đẹp gây được hứng thú cho trẻ khi tham gia vào
    hoạt động vui chơi ngoài trời tăng hiệu quả khi cho trẻ đọc sách ở mọi chỗ.
    *) Về đội ngũ giáo viên : Lớp có 2 giáo viên: 1 giáo viên trình độ ThS.
    Khoa học giáo dục học giáo dục mầm non và 1 giáo viên trình độ Cao đẳng
    Sư phạm mầm non nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, bản thân nắm vững phương
    pháp dạy học, luôn trau dồi kinh nghiệm và tự rèn luyện bản thân để giáo dục
    cho trẻ. Đồng thời lên kế hoạch và sắp xếp các hoạt động theo từng chủ đề
    phù hợp với khả năng và sự hứng thú của trẻ.
    * Về phía học sinh: Lớp tôi đang dạy là lớp Mẫu giáo lớn với 30 trẻ ,
    100% các cháu đúng độ tuổi, tất cả các trẻ đều có nhận thức tốt, chỉ có một trẻ
    suy dinh dưỡng hồi đầu năm học và đến quý III tháng 5 trẻ đã thoát suy dinh
    dưỡng.
    * Về phía phụ huynh: Phụ huynh học sinh luôn quan tâm đến các hoạt
    động của cô và trò tại lớp, ở gia đình thường xuyên giáo dục trẻ yêu sách, đọc
    sách thông qua các hoạt động hàng ngày. Đặc biệt luôn ủng hộ các loiaj sách,
    truyện để phục vụ cho hoạt động học tập, vui chơi của trẻ.
    6
    1.1.5. Khó khăn:
    *) Về cơ sở vật chất: Lớphọc nhiều đồ dùng, đồ chơi tuy nhiên còn
    sắp xếp chưa hợp lí.
    *) Về phía giáo viên: Bản thân giáo viên đôi khi còn chưa thực sự nghiêm
    túc trong việc đọc sách tại trường và về nhà.
    *) Về phía học sinh : Đa số trẻ chưa ý thức được hành động đọc sách. Trẻ
    chưa quan tâm, chưa có ý thức trong việc đọc sách.
    *)Về phía phụ huynh: Một số phụ huynh chưa phối hợp với giáo viên
    trong việc cùng con đọc sách ở nhà, tìm mua các loại sách phù hợp với con
    trẻ.
    *) Dịch COVID-19: Do ảnh hưởng của dịch bệnh covid kéo dài, trẻ
    nghỉ học ở nhà gần 3 tháng, việc sư dụng góc thư viện ở trường chưa thực sự
    phát huy được tác dụng. Tuy nhiên trẻ lại được ở nhà vui học cùng bố mẹ
    nhưng có một số gia đình vì bận công việc nên cũng thường để con cho ông
    bà trông giúp.
    1.2. Số liệu điều tra trước khi thực hiện:
    Qua khảo sát đầu năm dựa vào phiếu điều tra, bảng hỏi, và một số bài
    tập trắc nghiệm cho trẻ trong lớp tôi thu được kết quả sau:

    Số trẻKhi chưa áp dụ ng bie ̣n pháp
    Số trẻ%
    Trẻ biết về các loại sách1343,3%
    Biết được tác dụng của sách826,7%
    Biết cách sư dụng sách đúng
    cách
    723,3%
    Biết giữ gìn sách1240%
    Có ý thức đọc sách ngay khi ở
    nhà
    723,3%
    Biết nhắc nhở người khác yêu
    sách, giữ gìn sách
    826,7%

    7
    Căn cứ vào kết quả trên tôi thấy nhận thức của trẻ về sách, yêu thích sách
    còn thấp, cần có biện pháp thực hiện để năng cao hiệu quả cho trẻ với sách và
    yêu thích sách, yêu góc thư viện hơn nữa.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
    * Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm:
    Nghiên cứu và ứng dụng “ Một số biện pháp xây dựng góc thư viện thân
    thiện góp phần hình thành thói quen đọc sách cho trẻ ngay từ nhỏ” để giúp
    giáo viên hiểu rõ hơn về cách xây dựng, sư dụng phát huy tính tích cực của
    góc thư viện thân thiện.
    – Giúp giáo viên và cả phụ huynh ý thức được tầm quan trọng của việc
    đọc sách đối với trẻ ngay từ bậc học mầm non, hạn chế việc trẻ hay đòi bố mẹ
    cho dùng điện thoại.
    – Giúp cha mẹ và các bé giao lưu cả về tình cảm, hành vi, biểu đạt, ngôn
    ngữ và cả nhận thức về các sự vật hiện tượng nhiều hơn góp phần cho trẻ có
    cơ hội phát triển toàn diện.
    – Trẻ tham gia các hoạt động với tâm thế thoải mái, vui vẻ, hào hứng và
    luôn chờ đón được hoạt động góc thư viện trong khoảng thời gian trẻ ở
    trường, lớp. Rồi mỗi khi trẻ về nhà được cha mẹ đọc sách cho nghe.. Trẻ cảm
    thấy mỗi ngày đến trường của trẻ thực sự là một ngày vui. Mỗi khi về nhà bên
    cha mẹ là một ngày đầy ý nghĩa…
    * Tính mới của sáng kiến kinh nghiệm:
    Thực hiện xây dựng góc thư viện thân thiện hiện nay không chỉ là phong
    trào mà còn là một yêu cầu bắt buộc với mọi lớp học, mọi bậc học. Thông
    thường, xưa nay góc thư viện được chú trọng nhất là ở các bậc học cao như
    Cao đẳng, Đại học; rồi đến THPT, THCS ,Tiểu học.. Gần đây góc thư viện
    thân thiện được quan tâm, chú trọng ở bậc học gốc rễ là bậc học mầm non.
    Tuy nhiên không phải giáo viên nào, trường nào cũng thực hiện thành công
    như mong muốn. Trên thực tế, thực hiện góc thư viện thân thiện ở một số lớp,
    số trường còn mang tính hình thức. Thực hiện và ứng dụng bản sáng kiến: “
    Một số biện pháp xây dựng góc thư viện thân thiện góp phần hình thành thói
    8
    quen đọc sách cho trẻ ngay từ nhỏ” sẽ mở ra một hướng đi mới cho giáo viên
    trong việc đổi mới phương pháp, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và
    tạo cho trẻ có nhiều cơ hội để làm quen với sách, yêu thích sách nhiều hơn…
    Góp phần tạo cơ hội gắn kết cô- trẻ- nhà trường và cả xã hội… Trẻ được giao
    lưu, được học hỏi, được thể hiện tình cảm với cha mẹ, với cô gíao và các
    bạn…
    Trong quá trình thực hiện tôi đã áp dụng các biện pháp sau để nâng cao
    kết quả giáo dục trẻ sư dụng năng lượng tiết kiệm:
    * Biện pháp 1: Tìm hiểu về góc thư viện thân thiện ở trường như thế nào
    để đảm bảo cho trẻ đọc sách mà vẫn vui vẻ, thích thú
    * Biện pháp 2: Cho trẻ làm quen với việc đọc sách
    * Biện pháp 3: Làm phong phú góc thư viện thân thiện với nhiều đầu
    sách bằng các cách khác nhau
    * Biện pháp 4: Tự làm các loại sách vải để tăng sự hứng thú, kích thích
    trẻ thọc hỏi, yêu thích sách hơn
    * Biện pháp 5: Tổ chức tuyên truyền với phụ huynh và các bạn đồng
    nghiệp về cách khơi gợi hứng thú đọc sách cho con
    Cụ thể các biện pháp thực hiện:
    2.1. Biện pháp 1: Tìm hiểu về góc thư viện thân thiện ở trường như
    thế nào để đảm bảo cho trẻ đọc sách mà vẫn vui vẻ, thích thú
    a, Thư viện thân thiện ở trường mầm non
    Ở trường mầm non “Thư viện thân thiện” có thể là phòng riêng hoặc góc
    chơi ở từng lớp, ngoài sân trường hay dưới tán cây (có thể di chuyển được)…
    được sắp xếp theo hướng “mở” nhằm khuyến khích trẻ em đến với thư viện,
    tạo điều kiện cho trẻ em tiếp cận những quyển sách phù hợp với sở thích và
    khả năng đọc của mình, phù hợp với sự phát triển tâm lý trẻ mầm non.
    Kệ sách được thiết kế phù hợp với chiều cao của trẻ em ở độ tuổi mẫu
    giáo, màu sắc phù hợp; nơi đó sách được phân loại, sắp xếp, thay đổi linh hoạt
    tạo hứng thú cho trẻ. Các đồ vật khác như: thảm xốp, bàn, ghế… cũng được
    trang bị và sắp xếp một cách khoa học nhằm tạo ra môi trường đọc thân thiện,
    9
    cuốn hút trẻ;
    Có đủ không gian để mọi trẻ được tham gia vào các hoạt động: cá nhân,
    cặp đôi hay nhóm. Ở đó bố trí các hoạt động khác nhau như: Chơi trò chơi
    phát triển ngôn ngữ, tra cứu, sáng tạo để khuyến khích các cháu đọc nhiều
    loại sách khác nhau, dễ dàng tìm sách phù hợp với câu chuyện yêu thích đã
    được nghe, tự lấy được sách để “đọc” truyện tranh và phát huy tính sáng tạo
    của mình.
    Điểm khác biệt lớn nhất ở thư viện thân thiện thể hiện ở đặc điểm về thái
    độ ứng xư. Cán bộ thư viện/giáo viên giúp các cháu tìm sách phù hợp với
    trình độ đọc, làm mẫu thế nào là đọc tốt/đọc hay và thể hiện sự thích thú khi
    đọc sách, còn các cháu được khuyến khích phô diễn tài năng, khả năng cảm
    thụ của mình.
    Thư viện thực sự khích lệ tất cả các cháu ở mọi trình độ đọc, giúp các cháu
    cảm thấy thư viện là một nơi thoải mái, hấp dẫn, có nhiều điều thú vị.
    10
    Ảnh 1: Giá để sách vừa tầm với cho trẻ dễ lấy, dễ cất
    Ảnh 2: Giá góc thư viện của bé
    b, Bố trí, sắp xếp góc thư viện thân thiện ở trường mầm non
    Việc bố trí, sắp xếp góc thư viện thân thiện ở trường mầm non được thực
    hiện hết sức linh hoạt, sáng tạo.Tùy theo điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị,
    nhân lực của nhà trường có thể bố trí phòng thư viện riêng. Tuy nhiên, các lớp
    có góc thư viện thân thiện riêng của lớp là điều kiện thuận lợi cho trẻ tiếp cận
    sách truyện, tạo nên sự phong phú, thể hiện sự sáng tạo riêng của trẻ và giáo
    viên các lớp.
    Trong lớp học, giáo viên xây dựng thư viện lớp học hoặc góc sách của bé.
    Mỗi lớp có cách bài trí và sắp xếp riêng, phù hợp và tiện lợi cho trẻ sư dụng.
    Thư viện trong lớp học nên có nội quy ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện.
    11
    Ảnh 3: Góc thư viện được sắp xếp trong lớp
    Ảnh 4: Góc thư viện được sắp xếp trong lớp
    12
    Ảnh 5: Góc thư viện được sắp xếp trong lớp
    Tại khu vực chơi ở sân trường, vườn cây hay khu vui chơi, hay khu vực
    cầu thang… đảm bảo điều kiện an toàn, vệ sinh, ánh sáng, không gian thoáng
    mát và giáo viên có thể dễ dàng bao quát hoạt động của trẻ là có thể thiết kế
    các góc thư viện thân thiện để trẻ sư dụng và phụ huynh có thể đọc sách cùng
    con trong giờ đón trẻ, trả trẻ.
    Ảnh 6: Cô đọc sách cho trẻ ở khu vực vườn cổ tích
    13
    Ảnh 7: Góc thư viện ở một góc chơi của khối
    Ảnh 8: Góc thư viện ở một góc chơi của khối
    14
    Để xây dựng các góc “Thư viện thân thiện”, nhà trường và giáo viên còn
    phải huy động sự đồng tình, hỗ trợ, phối hợp của phụ huynh và nhân dân trên
    địa bàn, đưa các nét văn hóa đặc sắc của địa phương, góp phần giữ gìn bản
    sắc văn hóa địa phương và tạo nên môi trường giáo dục gần gũi với đời sống
    thực tế hàng ngày của trẻ;
    Ảnh 9: Phụ huynh trao tặng sách, truyện cho góc thư viện của lớp
    c, Tổ chức hoạt động giáo dục trẻ tại “Thư viện thân thiện”
    Giáo viên cần có kế hoạch cụ thể cho các giờ trẻ tham gia hoạt động tại
    thư viện thân thiện theo ngày, tuần và theo chủ đề giáo dục tại lớp sao cho
    phong phú, đa dạng, linh hoạt và phù hợp với nhu cầu, sở thích của trẻ.
    Giáo viên hướng dẫn trẻ cách sư dụng sách có hiệu quả và bảo quản sách,
    truyện; khuyến khích trẻ tự chủ động lấy sách, tranh, truyện… để xem; vận
    động cha, mẹ trẻ em đọc sách cho trẻ nghe trong các giờ trả trẻ và đón trẻ.
    Để thu hút trẻ, phụ huynh đến với “Thư viện thân thiện” nhà trường, giáo
    viên các lớp thường xuyên thay đổi sách truyện mới, phù hợp với chủ đề giáo
    dục của từng lớp đặc biệt là giáo viên thường xuyên quan tâm đến việc tuyên
    15
    truyền, giới thiệu, tạo hứng thú cho trẻ, phụ huynh đến với thư viện.
    Để tránh sự nhàm chán, việc trưng bày sách, truyện và trang trí góc thư
    viện nên tránh trùng lặp giữa các lớp, với góc chung của trường.
    Nếu là phòng thư viện riêng, nhà trường có thời khóa biểu giờ đọc tại thư
    viện của tất cả các nhóm lớp. Giờ đọc đó được triển khai đúng thời khóa biểu.
    Có lịch mượn, trả sách cho tất cả các lớp. Việc này do giáo viên chủ nhiệm ở
    các lớp thục hiện. các đầu sách thường xuyên được thay đổi sẽ tạo hứng thú
    cho trẻ nhiều hơn. Ngoài ra, có cán bộ thư viện kiêm nhiệm (nếu có) được tập
    huấn kỹ thuật để quản lý thư viện và đội ngũ giáo viên cũng được tập huấn về
    kỹ thuật tổ chức giờ đọc tại thư viện trước khi triển khai hoạt động này.
    Việc xây dựng và tổ chức tốt hoạt động của các “Thư viện thân thiện”
    đảm bảo cho việc duy trì thói quen đọc sách, yêu thích sách, giáo dục trẻ giữ
    gìn sách thong qua việc đọc.. và vì thế môi trường tiếng Việt được phát triển,
    các văn hóa địa phương được chú ý tại các trường, góp phần tích cực hướng
    tới đạt mục tiêu cơ bản nhất của Đề án đối với cấp học Mầm non.
    Ảnh 10: Tên sách truyện và Lịch hoạt động của các lớp
    16
    2.2. Biệp pháp 2: Cho trẻ làm quen với việc đọc sách
    Văn hoá đọc, với tư cách văn hoá hành vi của mỗi cá nhân con người,
    biểu hiện ở khả năng lựa chọn sách, kỹ năng đọc và lĩnh hội sách cũng như
    cách thức ứng xư với sách báo, là sự thể hiện rõ ràng nhất đặc điểm tâm lý và
    nhân cách của mỗi cá nhân, được hình thành từ lứa tuổi ấu thơ và phát triển
    trong suốt cuộc đời con người.
    Ảnh 11: Cô đọc sách, truyện cho trẻ nghe
    Ảnh 12: Cô đọc sách, truyện cho trẻ nghe
    17
    Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân
    có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và
    phát triển nhân cách con người. Các hoạt động học tập và vui chơi ở trường
    mầm non có tác động rất lớn đến quá trình phát triển của trẻ nhỏ. Việc tạo
    dựng thói quen tốt cho trẻ mầm non là một việc làm quan trọng để từ đó hình
    thành nhân cách cho trẻ em. Một trong những thói quen có ảnh hưởng sâu sắc
    đối với sự phát triển tư duy, đạo đức, lối sống của trẻ em đó là thói quen đọc
    sách. Đọc sách giúp trẻ hoàn thiện ngôn ngữ, tăng cường vốn giao tiếp, trau
    dồi tình yêu thương,… Đây không chỉ là việc làm quan trọng của gia đình mà
    còn là việc đặc biệt là quan trọng trong các trường mầm non.
    Đọc sách giúp ngôn ngữ linh hoạt, vốn từ phong phú. Bé sẽ tự tin giao
    tiếp. Được nghe nhiều về các câu chuyện trong các câu chuyện sẽ khiến bé
    học được các bài học kỹ năng giao tiếp và xư lý tình huống thực tế. Bé chủ
    động bộc lộ bản thân và nói lên những điều mình nghĩ. Đọc sách giúp bé thư
    giãn, giảm căng thẳng, mệt mỏi. Bé hào hứng đón nhận kiến thức mới, mong
    mỏi được khám phá điều hay. Nếu bé được nghe những câu chuyện phù hợp
    trong các tình huống cụ thể thì việc lĩnh hội kiến thức và nhận rõ vấn đề sẽ trở
    nên đơn giản hơn. Ở giai đoạn mầm non, các bé thường khá hiếu động. Việc
    đọc sách, nghe đọc sách sẽ khiến bé tập trung, học hỏi điều hay lẽ phải thông
    qua các câu chuyện, tình huống cần bé tự mình trải nghiệm. Bé được rèn
    luyện tính kỷ luật, tăng cường khả năng ghi nhớ.
    2.3. Biện pháp 3: Làm phong phú góc thư viện thân thiện với nhiều
    đầu sách bằng các cách khác nhau
    Tôi đã tìm hiểu về các loại sách, truyện có tác dụng tốt tới sự phát triển
    ngôn ngữ , kĩ năng xã hội và tư duy cho trẻ, có hình ảnh đẹp, rõ ràng, bắt mắt.
    Tôi tìm cách mua những cuốn sách này bằng các cách khác nhau:
    – Thứ nhất: Tôi xin nguồn quỹ của nhà trường, tuy nhiên như vậy chưa đủ
    để làm phong phú nguồn sách.
    – Thứ hai: Tôi đầu tư một số kinh phí của mình cho góc thư viện này,
    nhưng như vậy chưa đủ sự liên kết nếu chỉ có nhà trường và giáo viên.
    18
    – Thứ ba: tôi chủ động trao đổi và chia sẻ với các phụ huynh cùng tìm đầu
    sách về để dành thời gian từ 30- 40 phút mỗi ngày đọc sách, truyện và trao
    đổi cùng các con nội dung trong cuốn sách.
    Sau đó khi các cuốn sách các bé được bố mẹ nhiều lần đọc ở nhà sẽ được
    trẻ mang tới lớp cô đọc cho các bạn trong lớp cùng nghe hoặc trẻ có sách
    truyện tự kể lại cho các bạn để các bạn cùng thảo luận.
    Hàng ngày ngoài các hoạt động chính của trẻ tại trường, lớp theo chương
    trình, tôi cũng đều tranh thủ dành ra 15- 20 phút để đọc những cuốn sách đó
    cho trẻ cùng trẻ và cùng trao đổi nội dung của cuốn sách.
    Tương tự như vậy với các cuốn sách của các bé khác trong lớp. Các gia
    đình cũng sẵn sàng cho bé tặng tại lớp tôi những cuốn sách trẻ đã nghe đọc
    nhiều lần tại gia đình, chính điều này làm cho góc thư viện của lớp tôi ngày
    càng đa dạng, phong phú.
    2.4. Biện pháp 4: Làm sách vải để tăng sự hứng thú, kích thích trẻ
    thọc hỏi, yêu thích sách hơn
    Để trẻ yêu thích sách, thích tìm hiểu các nội dung của sách và từ đó hình
    thành thói quen đọc sách, trau dồi kiến thức cho trẻ tôi đã nghĩ rằng ngoài
    những cuốn sách truyện mua sẵn, mình cần tự làm thêm sách bằng vải dạ để
    trẻ hứng thú hơn nữa, kích thích trí tò mò, ham học hỏi của trẻ… Và việc sư
    dụng sách vải cũng tăng cường cho trẻ nhiều kĩ năng vì sách tôi làm có thể để
    trẻ tháo ra, ghép vào một cách dễ dàng…
    Ngay từ các trang sách tôi đã dùng các móc tháo ra lắp vào được, còn
    trong các trang sách các chi tiết tôi cũng dùng nhám hai mặt để trẻ có thể tự
    ghép chứ không hề dính chết… điều này càng làm tăng hứng thú cho trẻ, tạo
    cho trẻ thích sách truyện nhiều hơn và trẻ có kĩ năng, trẻ được tự trải nghiệm
    các kiến thức. Như vậy trẻ sẽ nhớ rất lâu, trẻ dần hình thành thói quen đọc
    sách, yêu thích sách, và có kĩ năng với các quyển sách trẻ được trải nghiệm…

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số biện pháp hướng dẫn trẻ làm đồ dùng, đồ chơi nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo cho trẻ 4 – 5 tuổi

    SKKN Một số biện pháp hướng dẫn trẻ làm đồ dùng, đồ chơi nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo cho trẻ 4 – 5 tuổi

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Maksim Gorky – một nhà văn nổi tiếng người Nga đã từng nói: “Sách mở
    ra trước mắt tôi những chân trời mới”, có thể nói sách mang lại cho chúng ta
    những kho tàng kiến thức phong phú và mới mẻ về thế giới xung quanh. Với trẻ
    mẫu giáo, vui chơi là hoạt động chủ đạo, khi mà trẻ chưa thể nhận thức được ý
    nghĩa của những cuốn sách thì chính những đồ dùng đồ chơi mà trẻ tiếp xúc
    hằng ngày lại được coi là bộ “sách giáo khoa” giúp trẻ mở ra những nhận thức
    mới mẻ về thế giới tự nhiên và xã hội. Đặc biệt là trong sự phát triển trí tuệ,
    nhân cách, thể chất cho trẻ.
    Hoạt động cho trẻ Mầm non làm đồ dùng đồ chơi cũng đóng một vai trò
    hết sức quan trọng trong việc giáo dục trẻ. Đối với trẻ em, đồ chơi cũng giống
    như cuốc cày đối với người nông dân, máy móc đối với người công nhân, là
    phòng thí nghiệm đối với nhà khoa học. Đồ chơi giúp trẻ em tìm hiểu, khám
    phá thế giới xung quanh, nó giúp các em làm quen với những đặc điểm, tính
    chất của nhiều đồ vật, biết được công dụng của chúng trong sinh hoạt và trong
    lao động của con người. Đồ chơi khiến trẻ nhập vào hành động chơi giống như
    thực, đáp ứng nhu cầu bắt chước hành động của người lớn từ đó giúp trẻ phát
    hiện ra những mối quan hệ của người với người trong xã hội dần dần biết gia
    nhập vào các mối quan hệ đó. Hoạt động với đồ chơi vừa làm thỏa mãn nhu cầu
    vui chơi, vừa làm cho đôi bàn tay khéo léo, đôi chân dẻo dai cơ thể mềm mại,
    hình dáng phát triển cân đối hài hòa, vừa chuẩn bị cho trẻ vào học tiểu học vừa
    có thể tham gia tốt vào cuộc sống xã hội sau này.
    Đồ chơi do tự tay mình làm ra, trẻ sẽ cảm thấy yêu quý, hứng thú hơn.
    Đây cũng chính là một hình thức dạy trẻ cách chia sẻ trong quá trình lao động,
    biết yêu quý sức lao động ngay khi còn bé từ đó hình thành những cảm xúc tích
    cực cho trẻ “ Làm đồ chơi rất thích đấy bạn biết không? Và tớ có thể làm được
    những đồ chơi mà tớ thích.” Đây là một trong những câu nói của trẻ trong quá
    trình tôi quan sát và ghi lại được một cách ngẫu nhiên sau khi trẻ mang sản
    2
    phẩm do tự tay mình làm lên trưng bày. Quả thực, khi đồ chơi do tự tay mình
    làm ra trẻ sẽ thấy thú vị, tự hào và rất trân trọng.
    Trên thực tế, tôi thấy rằng hiện nay đồ chơi dành cho trẻ được bày bán rất
    nhiều trên thị trường tuy vậy những đồ chơi đó không thể đáp ứng được đầy đủ
    các mục đích của chương trình giáo dục mầm non. Việc mua quá nhiều đồ chơi
    cho trẻ sẽ làm ảnh hưởng đến tiền bạc của phụ huynh trong khi các phụ phế
    phẩm từ gia đình luôn sẵn có như: vỏ hộp, lon bia, vỏ sò, lõi giấy vệ sinh,… hay
    đơn giản là các loại lá cây khô,…v..v… Đây là nguồn vật liệu phong phú và dễ
    tìm mà mỗi giáo viên hay phụ huynh có thể tận dụng cho trẻ sáng tạo các món
    đồ chơi trẻ thích. Mặt khác, trong các trường mầm non việc hướng dẫn trẻ làm
    đồ dùng đồ chơi nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của trẻ còn rất nhiều hạn
    chế, trẻ tiếp thu kiến thức ở hoạt động này còn chưa sâu, giáo viên chưa có nhiều
    sáng tạo trong việc dạy trẻ làm đồ dùng đồ chơi nên trẻ chưa phát huy hết được
    tính sáng tạo và tự lập, đây là điều mà tôi băn khoăn. Chính vì vậy tôi đã mạnh
    dạn lựa chọn đề tài:
    “Một số biện pháp hướng dẫn trẻ làm đồ dùng, đồ chơi nhằm phát huy tính
    tích cực, sáng tạo cho trẻ 4 – 5 tuổi”
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT
    1. Mô tả giải pháp kỹ thuật trước khi tạo ra sáng kiến
    Được sự quan tâm của Phòng Giáo dục đào tạo thành phố Nam Định cùng
    với sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường đã thường xuyên quan tâm bồi
    dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho giáo viên và tổ chức các buổi thi đua làm đồ
    dùng, đồ chơi tự tạo trong trường. Kết hợp với đội ngũ giáo viên đứng lớp có
    trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên chuẩn; Yêu nghề, mến trẻ, năng động,
    sáng tạo trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ.
    Mặt khác, đa số trẻ đều thích thú tham gia hoạt động làm đồ dùng, đồ chơi
    với những nguyên vật liệu phong phú, dễ tìm. Trẻ được tự do phát huy ý tưởng
    của mình, kỹ năng tạo hình được rèn luyện nhiều hơn, nuôi dưỡng ý tưởng nghệ
    thuật của trẻ. Bên cạnh đó, phụ huynh luôn nhiệt tình ủng hộ, phối kết hợp với
    nhà trường trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ.
    3
    Tuy nhiên, do kinh phí của nhà trường còn hạn hẹp nên việc đầu tư, mua
    sắm đồ dùng, đồ chơi còn hạn chế; Diện tích lớp học chật hẹp trong khi đó học
    sinh đông nên còn gặp khó khăn trong việc cho trẻ tham gia hoạt động.
    Những hoạt động hướng dẫn trẻ làm đồ dùng, đồ chơi cũng được giáo viên
    trên lớp đưa vào chương trình giảng dạy, tuy vậy không phải bất cứ giáo viên
    nào cũng tìm ra được phương pháp và hình thức tổ chức cho trẻ làm đồ dùng, đồ
    chơi đạt hiệu quả cao. Bản thân tôi qua thực tế giảng dạy và được tiếp cận với
    phụ huynh tôi nhận thấy một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến hoạt động
    làm đồ dùng, đồ chơi cùng trẻ, hơn nữa trẻ cũng chưa có nhiều cơ hội được tiếp
    cận với hoạt động này. Nhận thức và kĩ năng của các trẻ trong lớp chưa đồng
    đều: một số trẻ còn nhút nhát, rụt rè, một số thì lại quá hiếu động, chưa tự tin,
    chưa thực sự hứng thú và thể hiện sự sáng tạo trước cô và các bạn. Vốn kinh
    nghiệm của trẻ quá nghèo nàn, điều này trực tiếp gây cản trở đến quá trình phát
    huy tính sáng tạo của trẻ, hơn thế nữa trẻ cũng không có nhiều kĩ năng tự làm đồ
    dùng, đồ chơi do trẻ chưa được trải nghiệm nhiều hơn nữa trong các hoạt động
    học, chưa đủ để trẻ được thỏa sức sáng tạo.
    Nhà tâm lý học người Mỹ E.P.Torrance đã đưa ra 4 tiêu chí của sáng tạo
    đó là: tính nhanh nhạy, tính linh hoạt, tính chi tiết và tính độc đáo. Dựa vào các
    tiêu chí ấy, có thể thấy sự sáng tạo của trẻ MG 4 – 5 tuổi khi tham gia hoạt động
    làm đồ dùng, đồ chơi được thể hiện như sau:
    Thang đánh giá về tính sáng tạo của trẻ MG 4 – 5 tuổi khi tham gia hoạt
    động làm đồ dùng, đồ chơi:
    – Mức độ 3: CAO (3 điểm)
    + Trẻ có thể nêu lên ý tưởng và thể hiện sản phẩm theo ý tưởng của mình.
    + Đưa ra ý tưởng độc đáo và biết cách sử dụng nhiều nguyên vật liệu (NVL)
    khác nhau để tạo nên sự mới lạ cho sản phẩm.
    + Có khả năng tạo ra nhiều sản phẩm khác nhau cho một ý tưởng.
    + Có tinh thần hứng thú tham gia hoạt động.
    + Có kỹ năng tạo hình thành thạo.
    4
    + Trẻ tỉ mỉ, cẩn thận trong việc lựa chọn kiểu dáng, màu sắc và chất liệu của
    NVL, tập trung chú ý cao trong công việc.
    + Sản phẩm tạo hình đẹp, hài hòa, thể hiện sự cẩn thận, công phu của trẻ.
    + Có sáng kiến đưa sản phẩm tạo hình vào phục vụ các trò chơi khác.
    – Mức độ 2: TRUNG BÌNH (2 điểm)
    + Trẻ có thể nêu lên ý tưởng nhưng chưa tạo hình theo ý tưởng được.
    + Nội dung ý tưởng đưa ra thiếu tính độc đáo, các NVL lựa chọn đơn thuần nên
    chưa tạo sự mới lạ trong sản phẩm.
    + Có ý tưởng nhưng tạo ra ít sản phẩm.
    + Còn chậm chạp trong khi chơi.
    + Kỹ năng tạo làm đồ dùng, đồ chơi còn lúng túng.
    + Trẻ chưa tỉ mỉ, cẩn thận trong việc lựa chọn kiểu dáng, màu sắc và chất liệu
    của NVL, chưa tập trung chú ý vào công việc.
    + Các sản phẩm chưa đẹp, chưa hài hòa, chưa thể hiện sự cẩn thận, công phu của trẻ.
    + Còn lúng túng khi đưa đồ dùng, đồ chơi mình làm vào phục vụ các trò chơi
    khác.
    – Mức độ 1: THẤP (1 điểm)
    + Trẻ không nêu lên ý tưởng.
    + Không biết lựa chọn các NVL nên chưa tạo sự mới lạ cho sản phẩm.
    + Ý tưởng đã được gợi ý nhưng chỉ tạo ra được một sản phẩm.
    + Trẻ thờ ơ trong khi hoạt động.
    + Kỹ năng còn yếu.
    + Cẩu thả trong việc lựa chọn kiểu dáng, màu sắc và chất liệu của NVL, không
    tập trung chú ý vào công việc.
    + Sản phẩm chưa hoàn thiện còn sơ sài.
    + Không biết đưa đồ dùng, đồ chơi vào các trò chơi khác.
    5
    Bảng 1: Kết quả thực trạng tính tích cực sáng tạo của trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi
    thông qua hoạt động làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo ở trường mầm non
    qua từng tiêu chí

    CaoTrung bìnhThấpMức độ
    Tiêu chí
    Số
    lượng
    Tỉ lệ
    (%)
    Số
    lượng
    Tỉ lệ
    (%)
    Số
    lượng
    Tỉ lệ
    (%)
    Trẻ thể hiện tính
    nhanh nhạy
    15/4037,515/4037,510/4025
    Trẻ thể hiện tính
    linh hoạt
    12/403016/404012/4030
    Trẻ tạo ra được
    ĐD- ĐC có tính chi
    tiết
    16/404017/4042,57/4017,5
    Trẻ tạo ra được
    ĐD- ĐC có tính độc
    đáo
    8/402015/4037,517/4042,5

    Kết quả điều tra cho thấy, thực trạng tính tích cực, sáng tạo của trẻ mẫu giáo
    4-5 tuổi thông qua hoạt động làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo ở trường mầm non
    thông qua các tiêu chí phần lớn đạt ở mức độ trung bình: trẻ thể hiện tính nhanh
    nhạy chiếm 37,5%, trẻ thể hiện tính linh hoạt chiếm 40%, trẻ tạo ra được ĐD-
    ĐC có tính chi tiết chiếm 42,5%. Đối với tiêu chí trẻ tạo ra được ĐD- ĐC có
    tính độc đáo chủ yếu đạt ở mức độ thấp (42,5%), đạt ở mức độ cao chỉ chiếm
    20%. Như vậy, thực trạng tính tích cực, sáng tạo của trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi thông
    qua hoạt động làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo ở trường mầm non như trên đã cho
    thấy sự cần thiết phải đề ra các biện pháp hướng dẫn trẻ làm đồ dùng đồ chơi để

    6
    có thể khắc phục một số hạn chế trong quá trình giáo dục phát huy tính tích cực,
    sáng tạo cho trẻ ở những độ tuổi sau.
    Từ những thực trạng trên và sau quá trình tìm hiểu và nghiên cứu kĩ lưỡng,
    tôi xin đưa ra “Một số biện pháp hướng dẫn trẻ làm đồ dùng, đồ chơi nhằm
    phát huy tính tích cực, sáng tạo cho trẻ 4 – 5 tuổi” như sau:
    2. Mô tả giải pháp kỹ thuật sau khi có sáng kiến:
    Để có thể tổ chức tốt hoạt động dạy trẻ làm đồ dùng, đồ chơi đòi hỏi giáo
    viên phải có một kế hoạch chi tiết và cô thể theo một hệ thống bài tập, giáo viên
    cũng cần phải chú ý đến phương pháp truyền đạt, thời điểm truyền đạt… Chính
    vì vậy, để dạy trẻ làm đồ dùng, đồ chơi nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo
    cho trẻ 4-5 tuổi tôi đã đưa ra một số biện pháp như sau:
    * Biện pháp 1: Không ngừng bồi dưỡng, trau dồi kiến thức, kĩ năng cho bản thân
    Đối với trẻ mầm non giáo viên đóng vai trò là thang đỡ, điểm tựa cho trẻ
    được phát triển một cách chủ động và linh hoạt. Để làm được điều đó mỗi giáo
    viên phải luôn cố gắng không ngừng tự trau dồi những kiến thức và kĩ năng cần
    thiết cho bản thân để có thể giúp trẻ trong các hoạt động trên lớp một cách tốt
    nhất, đặc biệt là hoạt động cho trẻ làm đồ dùng, đồ chơi.
    Bản thân là một giáo viên mầm non, tôi và các đồng nghiệp trong lớp luôn
    ý thức được vai trò của việc nâng cao tay nghề chuyên môn. Chúng tôi không
    chỉ nghiên cứu nắm vững mục đích yêu cầu của hoạt động mà còn phải nắm
    chắc được các phương pháp và biện pháp thực hiện giúp trẻ lĩnh hội kiến thức
    một cách nhẹ nhàng, không bị gò bó, áp đặt giúp trẻ hiểu bài sâu và vận dụng
    những điều đã học vào thực tế hàng ngày của trẻ. Sự sáng tạo và khả năng ứng
    dụng các đồ dùng đồ chơi do trẻ tự tạo đó cũng được chúng tôi cân nhắc và lựa
    chọn kĩ càng trước khi đưa ra yêu cầu cho trẻ. Vì vậy, để giúp trẻ 4 – 5 tuổi lớp
    tôi làm được một số đồ dùng, đồ chơi nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của
    trẻ thì tôi đã: Đọc và nghiên cứu kỹ chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm
    non 4 – 5 tuổi. Giáo viên tìm hiểu để nắm vững đặc điểm tâm lí của trẻ từ đó có
    thể lưu ý đến kinh nghiệm của trẻ, đặc điểm cá nhân của từng trẻ, nhu cầu hoạt
    động của trẻ, sự năng động, linh hoạt trong hoạt động làm đồ dùng đồ chơi tự
    7
    tạo. Qua đó, giáo viên đưa ra được kế hoạch tổ chức góc tạo hình một cách hợp
    lý, linh hoạt, xuất phát từ nhu cầu của trẻ; Tham gia các đợt kiến tập và các
    chương trình chuyên đề do phòng và do trường tổ chức; Tìm đọc tham khảo
    những cách làm đồ dùng đồ chơi đơn giản trên sách báo, tạp chí mầm non; Xem
    các chương trình truyền hình về chăm sóc giáo dục trẻ mầm non trên các kênh
    truyền hình như VTC11 với chương trình “ Những tờ giấy diệu kỳ” dạy trẻ cách
    làm một số đồ dùng đồ chơi cho trẻ mầm non, vào mạng xem các chương trình
    “Hướng dẫn làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ mầm non”, đặc biệt là các trang web
    giáo dục cho trẻ mầm non bên nước ngoài.
    Như vậy, qua tự bồi dưỡng bản thân, học hỏi đồng nghiệp cũng như xem
    các phương tiện thông tin hiện đại tôi đã nắm vững được các phương pháp để
    dạy trẻ làm dược một số đồ dùng đồ chơi nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo
    của trẻ.
    Giáo viên trong lớp trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm
    * Biện pháp 2: Thường xuyên thay đổi không gian, cách sắp xếp các nguyên
    vật liệu tại các góc cho trẻ được thỏa sức sáng tạo.
    8
    Tiến sĩ Edward RoyKrishnan (Mission College – Thailand) trong một bài
    báo về giáo dục đại học cũng đã nói: “… Đứa trẻ học rất nhanh trong những
    năm thơ ấu của cuộc đời, bởi vì thực tế không có ai thực sự dạy các em mà
    chính bản thân các em đóng vai trò tích cực trong việc học tập của bản thân…
    Hãy suy nghĩ về các môi trường quanh đứa trẻ… trong hầu hết các trường hợp,
    trẻ em học cách tư duy trong những môi trường không theo khuôn phép, không
    nghiêm ngặt và rất linh hoạt ở nhà, ở sân chơi, ở cửa hiệu, trong gia đình…; để
    phát triển tư duy cảm giác và hình thành kỹ năng tư duy phân tích cho trẻ, cần
    tạo ra những môi trường học tập tự do hơn cho các em”
    Một trong những điều kiện quan trọng để nảy sinh và phát huy tính sáng
    tạo đó là không gian, môi trường để sáng tạo. Do đó, tạo nên một không gian
    chơi rộng rãi, thoáng mát, vệ sinh với các nguyên vật liệu đa dạng, mới lạ và hấp
    dẫn là một việc làm rất quan trọng và cần thiết tại góc chơi đặc biệt là góc tạo
    hình. Vì thế, giáo viên mầm non cần phải thường xuyên thay đổi để làm mới
    không gian chơi, bổ sung nguyên vật liệu mới ở góc tạo hình cho trẻ để tạo điều
    kiện giúp trẻ bộc lộ và thể hiện khả năng sáng tạo của mình.
    Ở trên lớp tôi và các giáo viên khác luôn bổ sung, thay đổi nguyên vật liệu
    cho trẻ theo chủ đề, thường xuyên cải tạo không gian chơi luôn sạch sẽ, đủ rộng
    và thoáng để trẻ chơi hàng ngày. Với những nguyên vật liệu mới lạ, phù hợp với
    yêu cầu của hoạt động làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo sẽ giúp cho trẻ có điều kiện
    tiếp xúc, làm quen với thế giới nguyên vật liệu kì diệu, tạo cơ hội cho trẻ được
    tạo hình, được tìm tòi và biến đổi các nguyên vật liệu đó thành sản phẩm, đồ
    chơi cho riêng mình và cho nhóm. Như vậy, không gian chơi sẽ trở nên ngăn
    nắp, gọn gàng, hấp dẫn, mới lạ hơn. Bên cạnh đó, theo tôi góc tạo hình cũng cần
    bố trí gần nguồn nước sẽ tạo cho trẻ có hứng thú chơi, giúp trẻ tích cực chủ động
    tham gia lấy và cất nguyên vật liệu hay lấy nước, vệ sinh đồ dùng khi cần thiết
    cũng trở nên thuận tiện hơn, trẻ cố gắng nổ lực thực hiện ý đồ tạo hình của
    mình. Đây cũng là môi trường, là điều kiện thuận lợi để tính sáng tạo của trẻ
    được bộc lộ và phát huy. Do đó, giáo viên không chỉ quan tâm đến việc cung
    cấp nguyên vật liệu cho trẻ mà còn phải đặc biệt chú ý đến không gian cho trẻ
    9
    chơi. Không gian ấy luôn luôn vận động, biến đổi cho phù hợp với chủ đề, nội
    dung của góc chơi một cách an toàn, sinh động, hấp dẫn đảm bảo khuyến khích
    tính sáng tạo của trẻ được nảy sinh và phát triển trong hoạt động này.
    Ví dụ: Ở trên lớp tôi và các giáo viên trong lớp tạo môi trường cho trẻ
    được hoạt động một cách tích cực nhất. Các góc chơi được chúng tôi bày biện và
    bổ sung các nguyên vật liệu khác nhau để trẻ có thể thỏa sức sáng tạo theo chủ
    đề. Như góc sách truyện, với chủ đề sách là “ Côn trùng và chim” chúng tôi để
    những chiếc lá cây để trẻ có thể sáng tạo những trang sách sinh động về thế giới
    loài vật mà trẻ biết.
    Hình ảnh trẻ sáng tạo các con vật từ những chiếc lá để làm ra cuốn sách
    “Côn trùng và chim”
    Hay góc tạo hình được bổ sung thêm những vỏ chai nhựa, những lõi giấy
    vệ sinh,… để trẻ có thể thỏa sức sáng tạo.
    10
    Hình ảnh góc tạo hình được bổ sung thêm những nguyên vật liệu
    * Biện pháp 3: Hướng dẫn, gợi ý trẻ sưu tầm các nguyên vật liệu thiên
    nhiên và phế thải để làm đồ dùng, đồ chơi; đồng thời khuyến khích trẻ đưa
    ra ý tưởng và cách thức thực hiện sản phẩm.
    Trên thực tế cho thấy trẻ mầm non chưa được giáo viên tạo điều kiện được
    sử dụng đa dạng các nguyên vật liệu, hay sưu tầm và sắp xếp các nguyên vật
    liệu cùng cô nên trẻ thường chọn hoạt động tạo hình vẽ là chủ yếu. Đây là một
    trong những hoạt động tạo hình khá quen thuộc đối với trẻ nên đa số trẻ có kỹ
    năng tạo hình thành thạo. Ví dụ: trẻ vẽ rất nhanh, tranh vẽ được tô màu đều và
    đẹp, bố cục hài hòa, ý tưởng độc đáo… Chính vì thế, trẻ ít có khả năng tạo ra
    nhiều sản phẩm khác nhau cho một ý tưởng. Ví dụ như: thay vì vẽ một bức tranh
    “Bó hoa tặng mẹ” thì giáo viên có thể gợi ý cho trẻ có thể sử dụng các cách khác
    như cắt hay xé dán bó hoa, in bó hoa từ các loại của quả, xếp hoa, tạo hình bó
    hoa từ ống hút hay từ khay giấy bánh bông lan…. Tức là cùng tạo ra bó hoa để
    tặng mẹ nhưng có nhiều cách làm khác nhau, điều này tùy thuộc vào việc chuẩn
    bị nguyên vật liệu của cô và trẻ. Qua đó, trẻ sẽ có thêm nhiều kinh nghiệm trong
    việc sử dụng các nguyên vật liệu.
    11
    Sự sáng tạo của trẻ được thể hiện trên rất nhiều mặt. Với hoạt động cho trẻ
    làm đồ dùng đồ chơi để có thể giúp trẻ phát huy được khả năng sáng tạo tôi vẫn
    luôn khuyến khích trẻ sưu tầm những nguyên vật liệu mà trẻ nghĩ có thể sử dụng
    và sáng tạo được từ chúng. Hơn thế nữa trẻ mầm non rất thích được tự mình tìm
    tòi khám phá, thích tự tay mình làm ra một cái gì đó, và việc tự tay mình làm ra
    một đồ chơi là điều mà theo tôi nghĩ trẻ sẽ rất hứng thú và tích cực, và sẽ thích
    thú hơn nếu những đồ chơi đó lại được trẻ làm ra từ chính những nguyên vật liệu
    đơn giản dễ tìm ngay trong gia đình trẻ. Hàng ngày khi trẻ ăn quà bánh, uống
    sữa, ăn kem… trẻ có thể để ý và lựa chọn chính những vỏ hộp, que kem đó để
    tạo ra nhiều sản phẩm khác nhau. Hoặc những loại vỏ cây, hoa, lá, hạt quả, vỏ
    sò… sau khi ăn xong trẻ cũng có thể sưu tầm để tạo hình được.
    Bên cạnh đó để thúc đẩy tinh thần tìm tòi khám phá ở trẻ tôi biến sự tìm
    kiếm này thành một cuộc đua. Tôi thường hướng dẫn trẻ, sau khi đã lựa chọn
    cần phải giữ sạch, cất kỹ các nguyên vật liệu đó cứ sau một tuần thì mang đến
    lớp thi đua xem nhóm nào, bạn nào sưu tầm được nhiều nguyên vật liệu và đưa
    ra ý tưởng mới lạ hơn về cách tạo hình với các nguyên vật liệu đó. Yêu cầu trẻ
    khi tìm được các nguyên vật liệu, trẻ cần sử dụng các nguyên vật liệu đó để thử
    tạo hình một sản phẩm nào đó. Khuyến khích trẻ nghĩ ra cách tạo hình mới lạ và
    độc đáo. GVMN đưa ra những “phần thưởng” để kích thích tính sáng tạo của trẻ.
    Với cách làm như vậy, trẻ được trực tiếp tìm kiếm, lựa chọn, cất giữ và chuẩn bị
    những dự định với các nguyên vật liệu đó. Đây tuy là một cách làm đơn giản
    nhưng lại có hiệu quả giáo dục cao. Làm như vậy chúng ta sẽ tiết kiệm được tiền
    mua sắm vật liệu, tạo ra nhiều đồ chơi mang tính sáng tạo phong phú cho lớp
    học của mình. Những đồ chơi này vừa dễ làm vừa dễ sử dụng trong các giờ học
    và trong các hoạt động. Vì qua việc tìm kiếm và chọn lọc các nguyên vật liệu
    khác nhau, trẻ có thể thỏa sức để tưởng tượng và chuẩn bị cho mình những ý
    tưởng độc đáo với các sản phẩm đó. Do đó, đây cũng là một trong những biện
    pháp góp phần tích cực trong việc giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 4 – 5
    tuổi trước khi bước vào hoạt động làm đồ dùng đồ chơi.
    12

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • SKKN Một số giải pháp chỉ đạo đổi mới hình thức tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ mẫu giáo trong trường mầm non

    SKKN Một số giải pháp chỉ đạo đổi mới hình thức tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ mẫu giáo trong trường mầm non

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Bậc học mầm non là bậc học đầu tiên của nền giáo dục quốc dân. Việc chăm
    sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ ngày từ tuổi ấu thơ là vô cùng quan trọng cho sự
    hình thành và phát triển toàn diện của trẻ.
    Để đạt được mục tiêu giúp trẻ phát triển toàn diện thì ta cần
    phải kết hợp hài hoà giữa nuôi dưỡng chăm sóc sức khoẻ và giáo
    dục đó là điều tất yếu. Chính vì vậy việc chăm sóc nuôi dưỡng như
    thế nào là đúng để cơ thể trẻ khoẻ mạnh, học tốt phát triển cân
    đối thì trước tiên ta phải có một chế độ ăn uống hợp lý và có những
    bữa ăn hấp dẫn, đẹp mắt lôi cuốn trẻ.
    Đổi mới hình thức tổ chức bữa ăn cho trẻ không chỉ đơn thuần là việc tổ
    chức các bữa ăn đầy đủ chất dinh dưỡng cho trẻ mà còn nhằm nâng cao chất lượng
    chăm sóc trẻ, hình thành ở trẻ những kỹ năng cơ bản trong văn hóa ẩm thực nơi
    công cộng, biết sử dụng nhiều loại đồ dùng ăn uống, biết sắp xếp đồ dùng và cất
    dọn đồ dùng cùng cô. Đặc biệt là ý thức về văn hóa ẩm thực, lịch sự trong ăn uống
    như: không vừa nói vừa ăn, biết lấy thức ăn vừa đủ, không bỏ thừa đồ ăn. Đi lại nhẹ
    nhàng, không tranh giành, không đùa nghịch…
    Ở trường mầm non Thống Nhất, chế độ ăn của trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ ăn 2 bữa
    chính, 1 bữa phụ; trẻ mẫu giáo 1 bữa chính, 1 bữa phụ. Thông qua bữa ăn trưa, trẻ
    được bù đắp những năng lượng đã tiêu hao và cung cấp năng lượng để tham gia
    vào các hoạt động mới. Vì vậy, việc tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ ở trường mầm non
    là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ.
    3
    Trên thực tế trong các nhà trường mới dừng ở việc tổ chức cho trẻ ăn cơm xuất chia
    vào bát và giáo viên động viên khuyến khích trẻ hay xúc cho trẻ ăn hết xuất nhưng
    chưa chú ý đến việc tổ chức các hình thức ăn đa dạng, tổ chức cho trẻ ăn ngon
    miệng, trẻ vui vẻ, yêu thích và hứng thú với các bữa ăn của mình… Đa phần, trẻ ăn
    như đang thực hiện nhiệm vụ chứ không phải ăn do nhu cầu. Đây là điều khiến
    người hiệu trưởng như tôi luôn trăn trở và suy nghĩ làm thế nào để giúp trẻ bước
    vào bữa ăn với một tâm lý thoải mái và ăn ngon miệng nhất và hình thành ở trẻ
    những kỹ năng cơ bản trong văn hóa ẩm thực nơi công cộng và các kỹ năng sử
    dụng các dụng cụ khi ăn… Vì vậy, tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp
    chỉ đạo đổi mới hình thức tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ mẫu giáo trong trường
    mầm non” nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ trong nhà trường.

    II.MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT
    II.1. Mô tả giải pháp kỹ thuật trước khi tạo ra sáng kiến

    1. Thuận lợi
    Trường Mầm Non Thống Nhất – Thành phố Nam Định tọa lạc trên khuôn
    viên sân vườn thoáng mát, xanh, sạch, đẹp và an toàn, là nơi hội tụ đủ điều kiện để
    mang đến cho trẻ một môi trường học tập đảm bảo tất cả các yếu tố thích hợp nhất.
    Trường mầm non Thống Nhất được đầu tư xây dựng khang trang và hiện đại
    với 15 nhóm lớp và 13 phòng chức năng và 2 khu dinh dưỡng rộng. Sân chơi rộng
    rãi, thoáng mát có đầy đủ các thiết bị đồ dùng đồ chơi cho trẻ hoạt động.
    Nhà trường luôn được sự quan tâm và chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo,
    UBND thành phố Nam Định, phòng GD & ĐT, tổ mầm non.
    Là trường mầm non đạt Kiểm định chất lượng Giáo dục cấp độ 3, chuẩn
    Quốc gia mức độ 2, trường xanh – sạch – đẹp – an toàn, và là trường được đánh giá
    cao về chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Nhà trường nhiều năm liền đạt “Tập thể
    lao động xuất sắc” được tặng là đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua của Tỉnh…
    Có đội ngũ giáo viên, nhân viên nhiệt tình tâm huyết với nghề và có trình độ
    năng lực cao và đồng đều.
    4
    2. Khó khăn
    – Sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong hoạt động đổi mới các hình
    thức tổ chức bữa ăn cho trẻ còn hạn chế.
    – Xây dựng thực đơn chưa phong phú, đa dạng.
    – Đồ dùng để tổ chức đổi mới chưa có, mới chỉ đầy đủ ở hình thức ăn cơm
    phần.
    – Giáo viên và nhân viên chưa chú trọng đến các hình thức tổ chức bữa ăn
    cho trẻ, chỉ mới tập trung ở hình thức ăn cơm phần.
    – Ý thức về văn hóa ẩm thực, lịch sự trong ăn uống, hứng thú với bữa ăn, ăn
    ngon miệng và có kỹ năng sử dụng nhiều dụng cụ đồ dùng trong ăn uống… của trẻ
    còn hạn chế.
    3. Thực trạng của vấn đề đổi mới hình thức bữa ăn trưa cho trẻ tại
    trường mầm non
    Bảng 1: Kết quả khảo sát trên giáo viên và nhân viên – Khảo sát 40 người.

    STTNội dung khảo sátMức độÝ kiến
    khác
    Rất
    quan
    trọng
    Quan
    trọng
    Bình
    thường
    1Phối hợp giữa nhà trường và gia đình
    trong hoạt động đổi mới các hình
    thức tổ chức bữa ăn cho trẻ mầm non
    52510
    2Xây dựng thực đơn151510
    3Chuẩn bị đồ dùng cho bữa ăn theo
    các hình thức khác nhau
    101515
    4Lập kế hoạch tổ chức bữa ăn15187

    * Qua bảng khảo sát trên tôi rút ra một số vấn đề sau:
    + Tiêu chí phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong hoạt động đổi mới các
    hình thức tổ chức bữa ăn cho trẻ mầm non mức độ rất quan trọng đạt là 12,5%, ở
    mức độ quan trọng đạt là 62,5% và ở mức độ bình thường đạt 25%.
    5
    + Tiêu chí xây dựng thực đơn mức độ rất quan trọng đạt là 37,5%, ở mức độ
    quan trọng đạt là 37,5% và ở mức độ bình thường đạt 8%, ý kiến khác đạt 25%.
    + Tiêu chí chuẩn bị đồ dùng cho bữa ăn theo các hình thức khác nhau mức độ
    rất quan trọng đạt là 25%, ở mức độ quan trọng đạt là 37,5% và ở mức độ bình
    thường đạt 37,5%.
    + Tiêu chí lập kế hoạch tổ chức bữa ăn mức độ rất quan trọng đạt là 37,5%, ở
    mức độ quan trọng đạt là 45% và ở mức độ bình thường đạt 17,5%.
    Bảng 2: Kết quả khảo sát trên trẻ – 100 trẻ

    STTNội dung khảo sátMức độ
    TốtKháTrung
    bình
    Yếu
    1Trẻ hứng thú với bữa ăn, ăn ngon
    miệng
    20304010
    2Trẻ có kỹ ăn ăn uống văn minh, lịch
    sự nơi công cộng
    21283021
    2Trẻ tích cực tham gia chuẩn bị đồ
    dùng cho bữa ăn cùng cô giáo
    15352030
    3Trẻ có kỹ năng sử dụng nhiều đồ
    dùng trong ăn uống
    18223525

    * Nhận xét: Tiêu chí “Trẻ hứng thú với bữa ăn, ăn ngon miệng” mức độ tốt
    đạt 20%, khá 30%, trung bình 30%, yếu 10%. Tiêu chí “Trẻ có kỹ ăn ăn uống văn
    minh, lịch sự nơi công cộng” mức độ tốt đạt 21%, khá 28%, trung bình 30%, yếu
    21%. Tiêu chí “Trẻ tích cực tham gia chuẩn bị đồ dùng cho bữa ăn cùng cô giáo”
    mức độ tốt đạt 15%, khá 35%, trung bình 20%, yếu 30%. Tiêu chí “Trẻ có kỹ năng
    sử dụng nhiều đồ dùng trong ăn uống” mức độ tốt đạt 18%, khá 22%, trung bình
    35%, yếu 25%.
    => Như vậy: Để trẻ có ý thức về văn hóa ẩm thực, lịch sự trong ăn uống,
    hứng thú với bữa ăn, ăn ngon miệng và có kỹ năng sử dụng nhiều dụng cụ đồ dùng
    trong ăn uống… Bản thân tôi cũng không ngừng học hỏi và mạnh dạn đưa ra một số
    biện pháp chỉ đạo nhằm đổi mới hình thức bữa ăn chính cho trẻ mẫu giáo ở trường.
    6
    II.2. Mô tả giải pháp kỹ thuật sau khi có sáng kiến
    1. Giải pháp 1: Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa nhà trường và gia
    đình trong hoạt động đổi mới các hình thức tổ chức bữa ăn cho trẻ mầm non.
    – Hoạt động tổ chức các bữa ăn cho trẻ mầm non đạt hiệu quả tốt nhất khi có
    sự phối hợp của cha mẹ học sinh. Nhận thức được điều đó tôi luôn nhắc nhở giáo
    viên giao lưu và xây dựng mối liên hệ gần gũi với phụ huynh tại nhóm lớp.
    – Thông tin đến phụ huynh tình hình sức khoẻ, sự phát triển ( chiều cao, cân
    nặng, sở thích của trẻ về các món ăn và hình thức ăn…) của các con thông qua sổ
    liên lạc điện tử, nhóm zalo, góc tuyên truyền…. Chính bằng cách này phụ huynh
    luôn nắm bắt được các hoạt động mà con cái mình tham gia, cảm nhận sâu sắc thấy
    con đã được giáo viên và nhà trường quan tâm – chăm sóc rất tốt, nhà trường đã
    luôn nhận được sự ủng hộ của phụ huynh trong mọi hoạt động trải nghiệm như: Tổ
    chức tiệc Buffel, bữa ăn tự chọn và các hình thức khác nhau để tổ chức bữa ăn
    ngon, đẹp và hấp dẫn đối với trẻ.
    – Thường xuyên cung cấp các bài viết có chất lượng cao và nội dung tuyên truyền
    sát với tình hình thực tế của trẻ tại nhà trường trên các nhóm lớp. Từ đó giúp phụ
    huynh hiểu hơn về vai trò, tầm quan trọng của việc tổ chức các bữa ăn cho trẻ như:
    Bài viết: “Những chiếc áo kỳ diệu giúp các con yêu khỏe mạnh phòng chống
    dịch bệnh Covid -19” Sức khỏe là tài sản quý giá quan trọng nhất của con người.
    Đặc biệt đối với trẻ nhỏ sức khỏe đóng vai trò vô cùng quan trọng cho sự hình
    thành và phát triển toàn diện của trẻ. Vậy trong thời gian trẻ nghỉ học để phòng
    chống dịch Covid – 19 phụ huynh cần làm gì để giúp các con có cơ thể trẻ khoẻ
    mạnh, phát triển cân đối? Để trả lời câu hỏi đó tôi xin gửi tới các bậc phụ huynh
    những “chiếc áo kỳ diệu” giúp cho các con yêu khỏe mạnh để phòng chống dịch
    bệnh Covid – 19.
    – Chiếc áo kỳ diệu thứ nhất: Cùng con yêu xây dựng và duy trì lịch sinh hoạt
    trong ngày như thời gian trẻ đi học ở trường.Giờ thức giấc, giờ ăn sáng, giờ vận
    động, giờ học, giờ vui chơi, giờ vệ sinh, giờ ăn trưa, giờ ngủ trưa, giờ ăn phụ bữa
    chiều, giờ vui chơi chiều…
    7
    Giấc ngủ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của não và năng lực học
    tập cũng như các hoạt động của các cơ quan bên trong cơ thể trẻ. Vì vậy, cha mẹ
    đặc biệt cần quan tâm đến giờ ăn, giờ ngủ của các con.Tránh cho các con ngồi
    thời gian dài trên máy vi tính, điện thoại và tivi…
    Đặc biệt rèn cho trẻ thường xuyên rửa tay bằng xà phòng diệt khuẩn sau khi
    chơi đồ chơi, trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và khi ra ngoài về… Cho các con đeo
    khẩu trang khi đi ra ngoài.
    – Chiếc áo kỳ diệu thứ 2: Dành cho con thời gian nhiều nhất có thể
    Khi ở bên cạnh các con cha mẹ nên bố trí sắp xếp công việc một cách khoa học và
    hợp lý. Dành thời gian chơi, học cùng với con và chăm sóc con nhiều nhất có thể.
    Nên dành thời gian toàn tâm toàn ý cho con. Sự quan tâm đó sẽ tạo cho trẻ bầu
    không khí yêu thương ấm áp và sẽ mang lại cho trẻ cảm giác bình an và xoa dịu
    cảm xúc tiêu cực của trẻ.
    – Chiếc áo kỳ diệu thứ 3: Những bữa ăn ngon, ăn đẹp của con yêu
    Cùng con yêu xây dựng thực đơn đa dạng, phong phú: Cha mẹ tổ chức bữa
    ăn cho con không chỉ đơn thuần là việc các bữa ăn đầy đủ chất dinh dưỡng mà còn
    nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc con, hình thành cho con những kỹ năng cơ
    bản trong văn hóa ẩm thực nơi công cộng. Trong các bữa ăn, các con biết ý thức về
    văn hóa ẩm thực, lịch sự trong ăn uống như: không vừa nói vừa ăn, biết lấy thức
    ăn vừa đủ, không bỏ thừa đồ ăn. Nói nhẹ nhàng, không cười đùa, không vừa xem
    tivi vừa ăn hay vừa chơi
    điện thoại vừa ăn…
    Các hình thức tổ chức bữa ăn cho các con:
    Ngoài ăn cơn bằng bát, thìa cha mẹ nên chuẩn bị các đồ dùng ăn uống phong phú
    để các con yêu có thêm các kỹ năng ăn uống với dĩa, đũa, khay… và tạo sự hào
    hứng mỗi khi đến giờ ăn, các con sẽ rất vui và tỏ ra thích thú với việc được sử
    dụng nhiều loại đồ dùng trong ăn uống. Đồng thời, các con dường như chững chạc
    8
    hơn, trưởng thành hơn, tự chủ tự giác hơn, lịch sự và văn minh hơn trong ăn
    uống…
    +Hình thức: Bé ăn khay
    + Hình thức: Bé ăn đĩa với dĩa và thìa
    + Hình thức; Bé ăn cơm phần
    Bên cạnh đó, yếu tố thẩm mỹ của đồ dùng ăn uống phục vụ cho các con cũng
    là tiêu chí để cha mẹ cần quan tâm. Vì trẻ nhỏ có tư duy trực quan hình ảnh, rất dễ
    lôi cuốn bởi vẻ đẹp bên ngoài nên tôi đã chọn tông màu trắng tinh khôi với họa tiết
    hoa văn hình dợn sóng hay chiếc lá, vỏ sò…. cho khay, chén, dĩa để làm nổi bật các
    món ăn vốn dĩ có màu sắc rất đẹp mắt của trẻ, kích thích vị giác cho trẻ ăn ngon
    miệng hơn
    Luôn động viên, khuyến khích trẻ tham gia tổ chức bữa ăn cùng cha mẹ
    + Khuyến khích các con sắp xếp bàn ăn, rèn cho các con có kỹ năng tự phục
    vụ trẻ biết phối hợp và phân công khi nhận nhiệm vụ cho trẻ ( Sắp xếp bàn ghế,
    trải khăn bàn, đồ dùng phục vụ ăn uống…)
    + Duy trì thực hiện xuyên suốt các bữa ăn của các con để tạo nề nếp, thói
    quen, từ đó hình thành kỹ năng, văn hóa trong bữa ăn của các con.
    Tạo không khí vui tươi thoải mái khi các con bước vào bữa ăn. Chú ý bao
    quát, trò chuyện với các con trong giờ ăn để nắm bắt nhu cầu, sở thích của trẻ qua
    từng món ăn,t ừ đó có hướng điều chỉnh kịp thời.
    Cha mẹ thường xuyên cập nhật kiến thức ẩm thực, văn hóa ăn uống công
    công để giáo dục và hình thành ở trẻ kỹ năng, hành vi văn minh trong ăn uống .
    Việc tổ chức các bữa ăn cho trẻ bằng nhiều hình thức, các con được tham
    gia trực tiếp trong quá trình tổ chức bữa ăn: trẻ tự sắp xếp bàn ăn, trưng bày các
    món ăn và tham gia vào các bữa tiệc ẩm thực một cách hào hứng. Điều này không
    chỉ giúp các con ăn ngon miệng hơn, hấp thu tốt hơn các dưỡng chất mà còn có ý
    nghĩa rất lớn trong việc giáo dục và hình thành các kỹ năng trong văn hóa ẩm thực
    cho trẻ. Tạo dựng cho trẻ có thói quen tự lập trong bữa ăn là điều cần thiết để trẻ
    9
    có thể làm những việc mà mình yêu thích. Hãy để các con tự ăn theo ý của mình,
    nhiều hay ít, nhanh hay chậm, ăn bằng đũa hay ăn bằng thìa…. Hãy tỏ ra thoải
    mái, vui vẻ trong lúc các con ăn, nói chuyện và làm bạn đồng hành với các con.
    Làm được như vậy tôi tin rằng, chúng ta đã mang đến cho các con một “ bữa ăn
    vui, một bữa ăn ngon miệng”.
    Chúng ta là những người làm cha làm mẹ bằng những suy nghĩ, lời lẽ, hành
    động và những ảnh hưởng có thể giúp trẻ phát triển toàn diện nhất, xây dựng cá
    tính mạnh mẽ và sự hứa hẹn một tương lai tuyệt vời cho các con yêu. Chăm sóc
    giáo dục các con nhỏ là một cái gì đó hơn cả một nghề. Nó là sự tin cậy, lòng kiên
    trì và tình yêu thương bao la…
    – Để phát triển một cách toàn diện cho trẻ cần có một chế độ ăn uống và sinh
    hoạt điều độ. Tôi đã chỉ đạo giáo viên xây dựng và lên kế hoạch thực hiện chế độ
    sinh hoạt và dinh dưỡng khoa học cho trẻ. Tuy nhiên nếu trẻ chỉ thực hiện chế độ
    sinh hoạt và hoạt động này tại trường mà không có kế hoạch sinh hoạt hợp lý khi
    về nhà thì kết quả của trẻ sẽ không cao. Vì vậy tôi luôn nhắc nhở giáo viên trao đổi,
    cung cấp cho phụ huynh những thông tin cụ thể về: chế độ sinh hoạt ( thời gian ăn,
    ngủ, vui chơi…), chế độ dinh dưỡng( các thực đơn món ăn hàng ngày, cách tổ chức
    các bữa ăn ).
    – Thường xuyên tổ chức các hoạt động trải nghiệm có sự giao lưu của phụ
    huynh. Ban đầu các bậc phụ huynh còn rất e dè và ngại ngùng khi tham gia các
    hoạt động ngoại khoá này, nhưng sau một thời gian được tiếp xúc và tham gia các
    hoạt động do nhà trường tổ chức, phụ huynh cảm nhận được mối quan hệ gần gũi
    và gắn kết với nhà trường, từ đó mỗi khi có các hoạt động phụ huynh đều tự
    nguyện tham gia và đóng góp công sức để cùng tổ chức cho các con những hoạt
    động có hiệu quả cao.
    Ngoài ra để phát triển con người khỏe mạnh bên cạnh các hoạt động giáo dục
    phát triển vận động nhà trường còn chú trọng bổ sung các chất dinh dưỡng phù hợp với từng
    trẻ qua các bữa ăn tự chọn hay tiệc Buffet, bữa ăn tự chọn, ăn cơm phần… do nhà trường phối
    hợp với các bậc phụ huynh tổ chức ở cuối mỗi chủ đề.
    10
    Tiệc Buffe, bữa ăn tự chọn, ăn cơm phần của các bé yêu
    * Tuyên truyền tầm quan trọng của việc xây dựng thực đơn và các hình thức tổ
    chức bữa ăn cho trẻ với phụ huynh
    11
    * Huy động sự tham gia phối hợp của các bậc cha mẹ, cộng đồng nhằm tạo sự
    thống nhất giữa nhà trường, gia đình và xã hội cùng chăm lo cho trẻ tuổi mầm non.
    2. Giải pháp 2: Xây dựng thực đơn đa dạng, phong phú.
    Để việc thực hiện đổi mới hình thức tổ chức bữa ăn cho trẻ có hiệu quả, tôi
    đã xây dựng một kế hoạch thực hiện thật chi tiết, cụ thể. Sau đó, tôi tiến hành tìm
    hiểu thêm về các món ăn và cách chế biến món ăn cho trẻ qua sách dạy nấu ăn, báo,
    mạng để thực đơn của trẻ luôn ngon, phong phú và hấp dẫn trẻ. Ví dụ như sau:
    a. Thực đơn mùa đông: ( Bữa ăn trưa)
    * Tuần 1 + 3

    ThứThực đơnHình thức ăn
    2Thức ăn mặnThịt bò + thịt lợn sốt cà chuaĂn cơm phần
    CanhCanh cá quả rau cải xanh
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngTráng miệng Caramen
    3Thức ăn mặnTrứng đúc thịt lợnĂn cơm khay
    CanhCanh riêu cua
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngChuối tiêu
    4Thức ăn mặnTôm nõn + thịt lợn rimCơm gia đình
    CanhCanh cải ngọt nấu tôm
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngTráng miệng dưa hấu
    5Thức ăn mặnNui ống xào bòĂn đĩa, dĩa + thìa
    CanhCủ quả luộc, canh thịt gà nấu bí
    xanh
    CơmCơm chiên
    Tráng miệngTráng miệng Thanh long
    6Thức ăn mặnCá trắm sốt cà chuaCơm gia đình
    CanhCanh rau cải chíp nấu thịt
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngSữa chua Yakult
    7Thức ăn mặnThịt gà sốt nấmĂn cơm phần
    CanhCanh khoai tây + thịt bò
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngChuối ngự

    * Tuần 2 + 4:
    12

    ThứThực đơnHình thức ăn
    2Thức ăn mặnTrứng đúc tôm, thịt lợnĂn cơm khay
    CanhCanh cải chíp nấu cua
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngTráng miệng Chuối ngự
    3Thức ăn mặnThịt bò, thịt lợn kho dứaĂn cơm phần
    CanhCanh cá nấu chua
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngTráng miệng Caramen
    4BUFFELXúc xích chiên, thịt xiên, trứng
    chim cút…
    Ăn dĩa, thìa…
    Cơn rang thập cẩm, bánh bao
    chiên, súp gà ngô non, xôi gấc, mỳ
    xào bò…
    Tráng miệng sữa chua, nước cam,
    dưa hấu, chuối, thanh long,
    thạch…
    5Thức ăn mặnThịt gà xào nấm rơmCơm gia đình
    CanhCanh bí đỏ nấu tôm
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngDưa hấu
    6Thức ăn mặnCá chép sốt xì dầuĂn cơm phần
    CanhCanh thịt gà bắp cải
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngSữa chua Yakult
    7Thức ăn mặnTrứng chim cút thịt băm rimĂn cơm khay
    CanhCanh ngao cà chua
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngSữa chua

    b. Thực đơn mùa hè
    * Tuần 1 + 3 ( Bữa ăn trưa)

    ThứThực đơnHình thức ăn
    2Thức ăn mặnTôm xào thập cẩmĂn cơm phần
    CanhRiêu cua cà chua
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngTráng miệng sữa chua Nutifut

    13

    3Thức ăn mặnTrứng chiên + thịt lợn xào giá đỗĂn cơm khay
    CanhCanh ngao mồng tơi
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngChuối
    4Thức ăn mặnThịt lợn + thịt bò sốt chua ngọt,
    trứng rán
    Ăn cơm gia đình
    CanhCanh cua rau đay
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngTráng miệng sữa chua Nutifood
    5Thức ăn mặnCá trắm rim xì dầuĂn rĩa + thìa
    CanhCanh bầu nấu tôm
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngTráng miệng thanh long
    6Thức ăn mặnThịt lợn + Thịt bò xào củ quảĂn cơm khay
    CanhCanh cà chua trứng
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngSữa chua Yakult
    7Thức ăn mặnThịt gà hầm củ quảĂn cơm phần
    CanhCanh thịt sườn su su
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngChuối ngự

    * Tuần 2 + 4 ( Bữa ăn trưa)

    ThứThực đơnHình thức ăn
    2Thức ăn mặnThịt lợn, tôm rimĂn cơm phần
    CanhCanh ngao giá, dứa nấu chua.
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngTráng miệng Dưa hấu
    3Thức ăn mặnCá sốt cà chuaĂn cơm khay
    CanhCanh thịt, cà chua nấu chua
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngChuối
    4Thức ăn mặnTrứng chim cút chao dầu rim thịt
    lợn
    Cơm gia đình
    CanhCanh bầu nấu tép
    CơmCơm trắng
    Tráng miệngTráng miệng Caramen
    5Thức ăn mặnThịt lợn kho tàuĂn dĩa + thìa
    CanhCanh rau rền nấu thịt
    CơmCơm trắng

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN môn hóa học cấp THPT

    Hoặc xem thêm các tài liệu khác của môn hóa

  • Hướng dẫn sử dụng phần mềm DoIT

    Hướng dẫn sử dụng phần mềm DoIT

    Hướng dẫn sử dụng phần mềm doit

    Phần mềm doit là gì?

    DoIT (Document Improvement Tool)  sản phẩm dịch vụ được cung cấp bởi Trường Đại học Công nghệ, dành cho đối tượng cá nhân, các trường, tổ chức giáo dục và được sử dụng để kiểm tra độ trùng lặp của văn bản với các văn bản đã có trước đó.

    Hệ thống hoạt động như thế nào?

    Khi bạn tải một tài liệu có định dạng (pdf, docx, doc, html …), hệ thống sẽ phân tích từng câu trong văn bản và kiểm tra độ tương đồng. Dữ liệu để so sánh là các luận văn, bài báo, tạp chí từ các nơi tin cậy cung cấp, và hơn 1 triệu dữ liệu hệ thống tự thu thập. Với dữ liệu phong phú và thuật toán thông minh, hệ thống sẽ gửi kết quả phân tích độ tương đồng một cách nhanh chóng nhất!

    Làm thế nào để kiểm tra tài liệu?

    Bạn click vào nút “Chọn tài liệu” -> Chọn file -> Bấm nút tải lên. Hệ thống sẽ nhận file và xử lý. Tùy thuộc vào số trang mà tốc độ phân tích trùng lặp văn bản và kiểm lỗi chính tả có thể khác nhau.

    Làm sao để biết kết quả phân tích?

    Sau khi bạn đã đăng nhập vào hệ thống. Click “Tài liêu” trên thanh ngang -> Click vào Tên tài liệu cần xem kết quả -> Hệ thống sẽ mở kết quả phân tích về trùng lặp văn bản và kiểm lỗi chính tả.

    Hệ thống có chức năng nâng cao gì?

    Trong chế độ xem kết quả phân tích, bạn có thể sắp xếp theo thứ tự trang hoặc lọc theo mức độ trùng lặp. Bạn có thể xuất báo cáo kết quả kiểm tra, chia sẻ link,…

    Làm thế nào để báo cáo khi kết quả chưa chính xác?

    Hệ thống đang ở giai đoạn thử nghiệm, vì vậy trong một số trường hợp có thể kết quả kiểm tra còn chưa chính xác, bạn có thể báo cáo thông qua hệ thống report của chương trình.

    Từ ngày 06/05/2022 hệ thống doit đã ngừng hỗ trợ đăng kí tài khoản mới bằng email thông thường mà chỉ email @vnu.edu.vn mới có thể đăng kí.

    Hướng dẫn sử dụng phần mềm DoIT 1

    Hình ảnh kết quả kiểm tra trùng lặp

    Hướng dẫn sử dụng phần mềm DoIT 2

    Phần bôi màu càng đậm trùng lặp càng nhiều tài liệu, ngược lại phần màu nhạt hơn trùng lặp ít tài liệu hơn.

    Hướng dẫn sử dụng phần mềm DoIT 3

    Giao diện các tài liệu đã kiểm tra

    Hướng dẫn sử dụng phần mềm DoIT 4

    Nếu như bạn không có nhiều thời gian nghiên cứu và chỉnh sửa website o2.edu.vn nhận làm giảm tỷ lệ trung lặp đạo văn trên phần mềm doit với cam kết bảo mật, uy tín, chất lượng. Vui lòng liên hệ qua fanpage facebook O2 Education để được tư vấn và hỗ trợ!

    Xem thêm

    6 cách giảm độ trùng lặp đạo văn trên phần mềm doit