Category: SKKN Luận Văn Luận Án

  • SKKN Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh trong dạy học môn Khoa học lớp 5

    SKKN Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh trong dạy học môn Khoa học lớp 5

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Chương trình giáo dục phổ thông 2018 ở cấp tiểu học được xây dựng với
    mục tiêu nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển những yếu tố căn bản đặt
    nền móng cho sự phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, phẩm chất và năng
    lực, định hướng chính vào giáo dục về giá trị bản thân, gia đình, cộng đồng và
    những thói quen, nề nếp cần thiết trong học tập và sinh hoạt. Năm học 2020-
    2021 là năm học đầu tiên triển khai chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối
    với lớp 1, tiếp đến triển khai ở lớp 2 và lớp 6 từ năm học 2021-2022. Vì vậy, với
    học sinh lớp 5 – lớp học cuối cấp tiểu học, chuẩn bị tiếp cận với chương trình
    giáo dục phổ thông 2018 đặt ra yêu cầu cần phải đổi mới về nội dung và phương
    pháp giáo dục nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh khi chuyển lên lớp học
    đầu cấp ở năm học tiếp theo. Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 đặc
    biệt chú trọng đến quan điểm tích cực hóa hoạt động của học sinh trong các môn
    học. Đặc biệt với môn Khoa học, chương trình xác định: “Chương trình môn
    Khoa học năm 2018 thiết kế nhằm tăng cường sự tham gia tích cực của học sinh
    vào quá trình học tập. Học sinh học khoa học tìm tòi, khám phá, qua quan sát,
    thí nghiệm, thực hành, làm việc theo nhóm. Qua đó hình thành và phát triển ở
    các em các phẩm chất và năng lực”.
    Bên cạnh đó, ở tiểu học, đặc biệt là lớp 5 – giai đoạn mà nhu cầu nhận thức
    và khám phá của các em rất phong phú trong tất cả các lĩnh vực thông qua học
    tập các môn nói chung và môn Khoa học nói riêng. Mục tiêu chương trình môn
    Khoa học năm 2018 nêu rõ “ Môn Khoa học góp phần hình thành và phát triển
    ở học sinh tình yêu con người, thiên nhiên; trì tò mò khoa học, hứng thú tìm hiểu
    về thế giới tự nhiên; ý thức bảo vệ sức khỏe thể chất và tinh thần của bản thân,
    gia đình, cộng đồng; ý thức tiết kiệm và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên; tinh thần
    trách nhiệm với môi trường sống. Cùng với các môn học khác, môn Khoa học
    cấp tiểu học bên cạnh việc góp phần giúp học sinh hình thành, phát triển các
    năng lực chung, môn học đồng thời cũng góp phần hình thành và phát triển ở
    học sinh năng lực Khoa học tự nhiên – là năng lực đặc thù của môn học. Năng
    2
    lực đăc thù của môn Khoa học gồm 3 thành phần năng lực: Nhận thức khoa học
    tự nhiên; Tìm hiểu môi trường tự nhiên xung quanh; Vận dụng kiến thức kĩ năng
    đã học.”
    Như vậy, có thể nói Khoa học là môn học quan trọng trong nhà trường, có
    ý nghĩa quan trọng đối với việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
    Vì vậy, để thực hiện mục tiêu đó đòi hỏi giáo viên phải không ngừng tìm ra
    những biện pháp nhằm đổi mới cách vận dụng các phương pháp dạy học sao cho
    phù hợp với thực tế, khả năng nhận thức, kích thích hứng thú học tập của học
    sinh.
    Tuy nhiên, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, hiện nay vẫn còn nhiều học sinh
    chưa thực sự hứng thú với môn Khoa học. Đa số các em học môn Khoa học
    thường tiếp thu một cách thụ động, chưa biết vận dụng kiến thức vào thực tế
    cũng như chưa liên hệ được kiến thức thực tế vào bài học. Do đó, các em còn
    ghi nhớ nội dung bài học một các máy móc.
    Xuất phát từ thực tế và những lí do được trình bày ở trên tôi đưa sáng kiến:
    “Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh
    trong dạy học môn Khoa học lớp 5.” Hi vọng sẽ chia sẻ với các bạn đồng
    nghiệp những cách thức, những kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học ở
    tiểu học theo hướng phát triển năng lực cho học sinh. Trên cơ sở đó góp phần
    nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ năm học,
    đồng thời đáp ứng yêu cầu đổi mới của chương trình giáo dục phổ thông 2018.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến.
    1.1. Về phía giáo viên
    Có thể thấy giáo viên Tiểu học đã ý thức được vai trò quan trọng của môn
    Khoa học. Việc quan tâm, bồi dưỡng thay đổi phương pháp dạy học, tích cực
    ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy – học cũng đã góp phần làm cho cách
    dạy của giáo viên và cách học của học sinh có phần khởi sắc hơn.
    Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, việc đổi mới phương pháp của giáo
    viên chưa mang lại hiệu quả cao, các hình thức dạy học còn đơn điệu, sự đầu tư
    3
    vào bài giảng của giáo viên đôi lúc còn chưa thực sự tâm huyết, chưa tạo được
    hứng thú cho học sinh hay nói cách khác là chưa làm sao để các em học sinh
    thích thú khi học các tiết Khoa học. Hình thức tổ chức dạy học của giáo viên
    chưa phong phú, hấp dẫn. Chính những điều trên đã gây ảnh hưởng không nhỏ
    đối với chất lượng dạy và học, đồng thời hạn chế việc phát triển trí tuệ của học
    sinh khi học môn Khoa học.
    1.2. Về phía học sinh
    Lớp 5 là giai đoạn mà nhu cầu nhận thức và khám phá các kiến thức mới
    thông qua việc học tập các môn học nói chung và môn Khoa học nói riêng của
    học sinh phát triển vô cùng mạnh mẽ. Bên cạnh đó, trong quá trình giảng dạy
    khối 5, tôi nhận thấy các em học sinh đều được bố mẹ quan tâm và luôn tạo điều
    kiện trong quá trình học tập. Đa số các em có trí thông minh nhanh nhạy, có óc
    tưởng tượng phong phú đó là tiền đề cho việc đổi mới phương pháp dạy học ở
    tiểu học nói chung và bộ môn Khoa học nói riêng. Tuy nhiên, tư duy của một số
    học sinh còn hạn chế, thiếu linh hoạt. Trình độ nhận thức của học sinh không
    đồng đều, có em tiếp thu chậm, tiếp thu bài một cách máy móc, học bài một
    cách thụ động, chưa tích cực tìm tòi giải quyết các vấn đề mà giáo viên đưa ra,
    khi ngồi học trên lớp còn chưa tập trung, không hứng thú trong giờ Khoa học
    nên dẫn đến tình trạng các em học sinh đó không nắm được kiến thức.
    2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến
    2.1. Giải pháp 1: Chuẩn bị chu đáo đồ dùng dạy – học và tƣ liệu phục vụ
    bài học.
    Môn Khoa học là môn gắn liền với thực tiễn cuộc sống thì việc sử dụng vật
    thật, tranh ảnh, mô hình,… vừa có tác dụng trực quan hóa các nội dung kiến
    thức, vừa mang tính chất minh họa, vừa là nguồn cung cấp trí thức quan trọng
    cho học sinh và giúp học sinh tham gia tích cực hơn trong giờ học. Bên cạnh đó,
    với đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi Tiểu học là tư duy trực quan hành động,
    khả năng tư duy trừu tượng còn hạn chế nên đa số các em phải tư duy trên hình
    ảnh, đồ dùng trực quan cụ thể thì mới có thể phát triển được năng lực tư duy và
    trí tưởng tượng. Do đó, việc sử dụng đồ dùng dạy học là rất cần thiết.
    4
    2.1.1 Giáo viên chủ động tìm hiểu, chuẩn bị đồ dùng, tƣ liệu dạy học.
    Ngoài các đồ dùng được cấp phát, tôi luôn tích cực sưu tầm tư liệu và làm
    đồ dùng dạy học để phục vụ cho tiết dạy. Các đồ dùng, tư liệu giúp học sinh
    hứng thú, từ đó giúp các em có động cơ học tập tốt hơn.
    Trong quá trình giảng dạy, đặc biệt là Khoa học chúng ta cần luôn cập nhật
    thông tin có liên quan đến nội dung bài dạy mà những thông tin đó đôi khi
    không có trong sách giáo viên. Vì vậy, tôi đã tham khảo thông tin để tìm kiếm tư
    liệu giảng dạy liên quan đến bài học ở một số trang web sau:

    Địa chỉ/ Tên trang webNội dung
    Youtube.comTrang video trình diễn nhiều phim khoa học
    hay.
    www.thegioidongvat.netGồm tin tức, các thước phim về các loài động vật.
    MinuteEarthTrang video trình diễn hoạt cảnh nói về các vấn
    đề liên quan đến Trái Đất.
    BachKhoaTriThuc.vnTrang web tổng hợp kiến thức bách khoa.
    Khoahoc.tvTrang web tổng hợp những kiến thức về khoa
    học.
    HowStuffWorksTrang web giúp tìm hiểu các câu trả lời cho
    những hiện tượng xảy ra trong cuộc sống và thế
    giới tự nhiên.
    gos.gov.vnTrang web của Tổng cục thống kê, cung cấp
    các số liệu thống kê ở các lĩnh vực khác nhau.

    Một số ví dụ về các tư liệu, đồ dùng dạy học tôi đã chuẩn bị:
    Ví dụ 1: Bài Thực hành : Nói “Không!” đối với các chất gây nghiện,
    ngoài những thông tin trong sách giáo khoa, giáo viên có thể cung cấp thêm cho
    học sinh một số tư liệu, hình ảnh về tác hại của các chất gây nghiện:
    5

    – Theo nghiên cứu của tổ chức y tế thế
    giới (WHO), khói thuốc lá chứa hàng nghìn
    hóa chất, trong đó ít nhất là 60 chất gây ung
    thư hay độc hại. Những người hút thuốc lá
    có nguy cơ mắc ung thư cao gấp 10 lần
    người không hút. Mỗi năm, trên thế giới có
    khoảng 7 triệu người chết do hút thuốc lá và
    hơn 900.000 người chết do hít phải khói
    thuốc lá. Đáng chú ý, tại Việt Nam mỗi năm
    có khoảng 40.000 người tử vong vì các bệnh
    có liên quan đến thuốc lá.
    – Rượu, bia là nguyên nhân trực tiếp của
    ít nhất 30 bệnh, chấn thương và là nguyên
    nhân gián tiếp của ít nhất 200 loại bệnh tật. Sử
    dụng rượu bia gây tổn thương đến nhiều cơ
    quan của cơ thể như: Gây ung thư (gan,
    khoang miệng, họng, thận,….); gây rối loạn
    thần kinh (trầm cảm, rối loạn âu lo, giảm khả
    năng tư duy); bệnh tim mạch (nhồi máu cơ
    tim, đột quỵ); bệnh tiêu hóa (tổn thương gan,
    xơ gan,…); suy giảm hệ miễn dịch,…. Trên
    thế giới, mỗi năm rượu bia là nguyên nhân gây
    tử vong cho hơn 3 triệu người.
    – Ma túy là chất độc, chỉ cần dùng quá
    liều sẽ dẫn đến tử vong. Tại Việt Nam, hằng
    năm có hơn 1.600 người tử vong do sử dụng
    ma túy.

    6
    Ví dụ 2: Bài: Sự sinh sản và nuôi con của chim
    Trong sách giáo khoa chỉ với nội dung ngắn gọn và phần minh họa kiến
    thức là một số bức tranh về sự sinh sản và nuôi con của chim. Do đó, tôi đã chủ
    động tìm hiểu trên mạng internet ở các chương trình Thế giới động vật; học hỏi
    cách cắt, ghép video, từ đó tạo ra các video giúp học sinh tìm hiểu về nội dung
    bài học gồm các phần: Đời sống của chim; Đặc điểm sinh sản của chim; Quá
    trình phát triển từ trứng đến trưởng thành của loài chim; Sự nuôi dưỡng và chăm
    sóc con của chim; Thế giới của các loài chim.
    Qua từng đoạn phim ngắn, tôi thấy học sinh vô cùng thích thú tìm hiểu nội
    dung bài. Từ đó, học sinh có thể tự giải đáp các vấn đề mà các em thắc mắc:
    Con chim non trong trứng làm sao ra được khỏi vỏ trứng? Mục đích làm tổ của
    chim là gì? Những loài chim sử dụng nguyên liệu gì để làm tổ? Chim con mới
    nở có đặc điểm gì?,…
    Ví dụ 3: Bài Sự nuôi và dạy con của một số loài thú
    Trong bài học giới thiệu đến học sinh cách nuôi và dạy con của loài hổ và
    hươu, vì vậy, tôi chuẩn bị các video về tập tính sống của loài hổ và hươu từ đó
    giúp học sinh nắm được cách nuôi và dạy con của 2 loài vật này. Ngoài ra tôi
    7
    cũng tìm hiểu thêm các tư liệu, hình ảnh về cách nuôi và dạy con của một số loài
    thú khác để giới thiệu cho học sinh, chẳng hạn:

    – Sư tử là loài ăn thịt và sống theo
    bầy đàn. Sư tử đẻ mỗi lứa từ 2 đến 4
    con. Sư tử con mới sinh chưa mở mắt
    mắt chúng mở ra khoảng 7 ngày sau khi
    sinh. Khi sư tử con được khoảng 6 tháng
    tuổi, chúng sẽ được sư tử mẹ dạy cách
    săn mồi.
    – Voi thường sinh vào mùa xuân
    và đẻ mỗi lứa một con. Voi con mới
    sinh ra cân nặng khoảng 120kg. Sau khi
    voi con ra đời, chúng được những con
    voi khác ở bên để bảo vệ cho tới khi nó
    đủ cứng cáp để có thể đi được. Voi con
    bú sữa mẹ trong vòng 5 năm và voi đực
    rời đàn khi đủ 13 tuổi.

    Bên cạnh những nội dung trong chương trình hiện hành, bản thân tôi đã đọc
    và nghiên cứu nội dung chương trình môn Khoa học lớp 5 của chương trình giáo
    dục phổ thông 2018.
    Ví dụ : Bài Vi khuẩn
    Đây là nội dung mới được xây dựng của chương trình 2018, vì vậy, dựa
    vào yêu cầu cần đạt của bài học là: Kể/ Nói được tên bệnh ở người do vi khuẩn
    gây ra; nêu được nguyên nhân gây bệnh và cách phòng tránh, tôi chủ động tìm
    kiếm các tư liệu, hình ảnh liên quan đến bài học như:
    – Thông tin cơ bản về vi khuẩn: Vi khuẩn là sinh vật đông đảo nhất trong
    thể giới sinh vật. Vi khuẩn có kích thước vô cùng nhỏ bé, đa số chỉ có thể nhìn
    thấy dưới kính hiển vi quang học. Đơn vị đo kích thước của vi khuẩn là
    micromet (1µm=1/1000 mm). Vi khuẩn có mặt ở khắp mọi nơi: trong đất, nước,
    suối nước nóng, chất thải,….Vi khuẩn có cấu trúc đơn giản và hình thái khác
    8
    nhau: hình cầu, hình que, hình xoắn,… Vi khuẩn có 2 loại : vi khuẩn có lợi và vi
    khuẩn có hại.
    – Vi khuẩn có lợi và vi khuẩn có hại đối với con người:
    Trong cơ thể người, một số vi khuẩn có lợi cùng chung sống và giữ vai trò
    quan trọng. Ví dụ: vi khuẩn trong hệ tiêu hóa của người giúp hấp thu các chất
    dinh dưỡng. Chúng chuyển hóa thức ăn thành những dạng để cơ thể có thể sử
    dụng được. Trong ngành thực phẩm người ta sử dụng vi khuẩn để chế biến nhiều
    loại thực phẩm như: sữa chua, dưa muối; một số loại phô mai,…; vi khuẩn còn
    được nghiên cứu trong bào chế thuốc kháng sinh chữa bệnh cho con người.
    Có vi khuẩn gây hại cho con người do khả năng gây bệnh của chúng. Một
    số loại vi khuẩn gây bệnh nghiêm trong ở người như: bệnh tả, bạch hầu, kiết lỵ,
    dịch hạch, viêm phổi, lao, thương hàn,…
    9
    2.1.2 Khuyến khích học sinh cùng chuẩn bị đồ dùng học tập.
    Có thể khẳng định rằng, việc chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập giúp giờ học
    đạt hiệu quả cao. Không chỉ thế, việc chuẩn bị đồ dùng chu đáo còn giúp phát
    huy tác dụng và hỗ trợ các phương pháp dạy học và kĩ thuật dạy học. Ngoài sự
    chuẩn bị đồ dùng dạy học từ phía giáo viên, tôi thường khuyến khích, động viên
    các em học sinh lớp mình sưu tầm các đồ dùng liên quan đến bài học và các em
    đã hưởng ứng rất tích cực. Để học sinh có thể chuẩn bị được các đồ dùng, tài
    liệu liên quan đến bài học sau, tôi cho học sinh ghi vở dặn dò các yêu cầu liên
    quan đến bài học từ tiết học trước. Dưới sự giúp đỡ của các bậc phụ huynh, đồ
    dùng học tập mà các em sưu tầm cũng rất đa dạng và phong phú. Đó có thể là
    những bức tranh, ảnh mà các em tìm được trên internet, là những vật mẫu, vật
    thật hoặc cũng có thể là những thông tin, tài liệu liên quan đến bài học,…
    Dựa trên nội dung kiến thức và yêu cầu cần đạt của từng bài học, tôi đã
    thống kê lại các đồ dùng học tập mà học sinh cần chuẩn bị ở các bài học và cho
    học sinh ghi dặn dò trước mỗi bài học như sau:

    BàiTên bàiNội dung dặn dò trƣớc bài học
    1Sự sinh sảnChuẩn bị các bức ảnh về gia đình của
    mình.
    9-10Thực hành: Nói
    “Không!” đối với các
    chất gây nghiện
    Tìm hiểu, sưu tầm các tư liệu, hình ảnh
    liên quan đến các chất gây nghiện (thuốc
    lá, rượu bia, ma túy).
    12Phòng bệnh sốt rétTìm hiểu, sưu tầm các tư liệu, hình ảnh về
    bệnh sốt rét.
    13Phòng bệnh sốt xuất
    huyết
    Tìm hiểu, sưu tầm các tư liệu, hình ảnh về
    bệnh sốt xuất huyết.
    14Phòng bệnh viêm nãoTìm hiểu, sưu tầm các tư liệu, hình ảnh về
    bệnh viêm não
    15Phòng bệnh viêm gan ATìm hiểu, sưu tầm các tư liệu, hình ảnh về
    bệnh viêm gan A

    10

    16Phòng tránh HIV/AIDSTìm hiểu, sưu tầm những tư liệu, hình ảnh
    liên quan đến HIV/AIDS.
    20-21Ôn tập: Con người và sức
    khỏe
    Hãy vẽ hoặc sưu tầm tranh ảnh vận động
    phòng tránh sử dụng các chất gây nghiện
    hoặc xâm hại trẻ em, hoặc HIV/AIDS,
    hoặc tai nạn giao thông
    22Tre, mây, songSưu tầm tranh ảnh, đồ vật làm từ tre, mây,
    song.
    23Sắt, gang, thépSưu tầm tranh ảnh, đồ vật làm từ sắt,
    gang, thép.
    24Đồng và hợp kim của
    đồng
    Chuẩn bị một đoạn dây đồng, sưu tầm
    tranh ảnh hoặc đồ vật làm từ đồng và hợp
    kim của đồng trong chính gia đình mình.
    25NhômSưu tầm tranh ảnh hoặc đồ vật làm từ
    nhôm trong chính gia đình mình.
    26Đá vôiChuẩn bị một hòn đá vôi và một hòn đá
    cuội
    29Thủy tinhSưu tầm tranh ảnh hoặc các đồ vật được
    làm từ thủy tinh
    30Cao suSưu tầm tranh ảnh hoặc các đồ vật được
    làm từ cao su
    31Chất dẻoSưu tầm một số đồ dùng bằng nhựa.
    36Hỗn hợpChuẩn bị theo nhóm các vật liệu gồm:
    muối tinh, mì chính(bột ngọt), hạt tiêu (đã
    xay nhỏ) để riêng và dụng cụ gồm: thìa
    nhỏ, chén chỏ
    37Dung dịchChuẩn bị theo nhóm các vật liệu gồm:
    muối tinh hoặc đường để riêng, một chai
    nước sôi để nguội và dụng cụ gồm: thìa

    11

    nhỏ, một cốc lớn và một vài cốc nhỏ.
    41Năng lượng mặt trờiTìm hiểu, sưu tầm các tài liệu hoặc hình
    ảnh về việc khai thác, sử dụng năng lượng
    mặt trời.
    42-43Sử dụng năng lượng chất
    đốt
    Tìm hiểu, sưu tầm các tài liệu, hình ảnh
    về một số loại chất đốt và việc khai thác,
    sử dụng năng lượng chất đốt trong đời
    sống hằng ngày.
    44Sử dụng năng lượng gió
    và năng lượng nước chảy
    Tìm hiểu, sưu tầm các tài liệu, hình ảnh
    về việc khai thác, sử dụng các dạng năng
    lượng gió và năng lượng nước chảy trong
    đời sống sản xuất.
    46-47Lắm mạch điện đơn giảnChuẩn bị theo nhóm các đồ dùng gồm: 1
    hoặc 2 cục pin, 2-4 đoạn dây đồng có vỏ
    bọc bằng nhựa bên ngoài, bóng đèn pin,
    một số vật bằng kim loại(đồng, nhôm,
    sắt,…) và một số vật bằng nhựa, cao su,
    sứ,…
    51Cơ quan sinh sản của
    thực vật có hoa
    Sưu tầm tranh ảnh về các loài hoa hoặc
    các chuẩn bị các bông hoa thật.
    52Sự sinh sản của thực vật
    có hoa
    Chuẩn bị các bông hoa thật.
    53Cây con mọc lên từ hạtƯơm hạt đậu xanh, lạc,… vào bông ẩm
    hoặc đất ẩm khoảng 3 – 4 ngày trước khi
    có bài học và đem đến lớp.
    54Cây con có thể mọc lên
    từ một số bộ phận của
    cây mẹ
    Sưu tầm tranh ảnh, vật thật về một số cây
    có thể mọc lên từ một số bộ phận của cây
    mẹ.
    55Sự sinh sản của động vậtTìm hiểu, sưu tầm các tài liệu, hình ảnh

    12

    về sự sinh sản của động vật.
    56Sự sinh sản của côn trùngTìm hiểu, sưu tầm các tài liệu, hình ảnh
    về sự sinh sản của côn trùng.
    57Sự sinh sản của ếchTìm hiểu, sưu tầm các tài liệu, hình ảnh
    về sự sinh sản của ếch.
    58Sự sinh sản và nuôi con
    của chim
    Tìm hiểu, sưu tầm các tài liệu, hình ảnh
    về sự sinh sản và nuôi con của chim.
    59Sự sinh sản của thúTìm hiểu, sưu tầm các tài liệu, hình ảnh
    về sự sinh sản của môt số loài thú.
    60Sự nuôi và dạy con của
    một số loài thú
    Tìm hiểu, sưu tầm các tài liệu, hình ảnh
    về sự nuôi và dạy con của một số loài thú.
    63Tài nguyên thiên nhiênTìm hiểu, sưu tầm các tài liệu về một số
    tài nguyên thiên nhiên có ở địa phương.
    65Tác động của con người
    đến môi trường rừng
    Tìm hiểu, sưu tầm các tài liệu, hình ảnh
    về tác động của con người đến môi
    trường rừng.
    66Tác động của con người
    đến môi trường đất
    Tìm hiểu, sưu tầm các tài liệu, hình ảnh
    về tác động của con người đến môi
    trường đất
    67Tác động của con người
    đến môi trường không
    khí và nước
    Tìm hiểu, sưu tầm các tài liệu, hình ảnh
    về tác động của con người đến môi
    trường không khí và nước.

    Khi dạy học môn Khoa học, qua việc hướng dẫn học sinh sưu tầm, chuẩn bị
    các đồ dùng học tập, tôi thấy học sinh có ý thức, trách nhiệm hơn với việc học
    tập của mình. Sau bài học, tất cả các tài liệu mà các em sưu tầm này được chính
    tay các em treo cẩn thận vào góc học tập của lớp. Học sinh nào cũng thích thú vì
    tư liệu mình sưu tầm được trưng bày tại lớp, được chia sẻ với các bạn trong lớp
    những thông tin mới lạ, bổ ích. Chính những góc học tập này tạo điều kiện để
    13
    các em chủ động tìm tòi tư liệu, thông tin, các em được trình bày, biểu diễn
    những kết quả học tập. Như vậy việc học tập không đơn giản là việc đọc chép
    hay thuyết trình, phỏng vấn đơn thuần mà có học, có nghiên cứu giải quyết vấn
    đề, có trình bày những kiến thức mà mình nghiên cứu được.
    2.2. Giải pháp 2: Tăng cƣờng tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho học
    sinh trong quá trình dạy học.
    Trong chương trình 2018 chú trọng tới tổ chức các hoạt động dạy học giúp
    học sinh phát hiện kiến thức mới và tiếp thu các tri thức thông qua tìm tòi, khám
    phá thế giới tự nhiên, qua quan sát, thí nghiệm, thực hành, qua tìm kiếm, thu
    thập và xử lí các nguồn thông tin, qua hợp tác và trao đổi với bạn,… Điểm mới
    về yêu cầu cần đạt của chương trình 2018 mà chương trình 2006 còn thiếu chính
    là yêu cầu về năng lực chưa có tính hệ thống, chủ đích; yêu cầu về các kĩ năng
    tiến trình nghiên cứu khoa học. Vì vậy, dạy học trải nghiệm là một trong những
    giải pháp có thể thực hiện được yêu cầu đổi mới đó.
    2.2.1. Tổ chức các hoạt động trải nghiệm với nhiều hình thức phong
    phú trong các tiết học.
    2.2.1.1. Tổ chức trò chơi.
    Để tiết học trở nên nhẹ nhàng, học sinh tiếp thu bài một cách tích cực, hứng
    thú và chủ động hơn, tôi thường tổ chức các hoạt động học dưới dạng trò chơi
    cho các em. Để tiến hành tổ chức trò chơi ta có thể thực hiện theo các bước sau:
    Chuẩn bị
    1. Lựa chọn trò chơi phù hợp với nội dung bài học và phù hợp với học sinh
    trong lớp.
    2. Đặt tên trò chơi phù hợp, tạo được hứng thú với học sinh. Đồng thời giáo
    viên cần tìm hiểu kĩ luật chơi và ước lượng khoảng thời gian tiến hành trò chơi.
    3. Chuẩn bị đồ dùng dụng cụ cần thiết cho trò chơi.
    Tiến hành
    Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên, mục đích của trò chơi.
    Bước 2: Hướng dẫn chơi. Bước này gồm những việc làm sau:
    – Tổ chức người tham gia chơi: số người tham gia, số đội tham gia (mấy
    14
    đội), quản trò, trọng tài.
    – Nêu cách chơi: từng việc làm cụ thể của người chơi hoặc đội chơi, thời
    gian chơi, những điều người chơi không được làm.
    – Cách xác nhận kết quả và cách tính điểm chơi, các giải của cuộc chơi (nếu
    có).
    Bước 3: Thực hiện trò chơi
    – Học sinh tham gia trò trên tinh thần thoải mái, sẵn sàng tham gia.
    – Giáo viên là người quan sát, giúp đỡ những khó khăn cho học sinh trong
    quá trình học sinh tham gia vào trò chơi. Đồng thời giáo viên phải là người quản
    lý học sinh của mình trong quá trình chơi để trò chơi được diễn ra thuận lợi và
    đạt kết quả như mong muốn.
    Bước 4: Kết thúc
    Nhận xét sau trò chơi. Bước này gồm những việc làm sau:
    – Giáo viên hoặc học sinh đóng vai trò là trọng tài nhận xét về thái độ tham
    gia của từng đội.
    – Trọng tài công bố kết quả chơi của từng đội, cá nhân và trao phần thưởng
    cho đội đoạt giải (nếu có).
    – Khi kết thúc trò chơi, một số học sinh nêu kiến thức, kĩ năng trong bài học
    mà trò chơi đã thể hiện.
    Trong môn khoa học lớp 5 trò chơi thường đựơc sử dụng để khám phá,
    hình thành kiến thức mới và củng cố, hệ thống hóa lại kiến thức.
    Sau đây là một số trò chơi tôi đã thiết kế và tổ chức cho học sinh tham gia
    chơi trong quá trình dạy học:
    * Trò chơi 1: “Mảnh ghép Puzzle”
    Trò chơi này có thể sử dụng dùng để giúp HS khám phá, hình thành kiến
    thức mới hoặc cũng có thể để củng cố lại kiến thức đã học.
    * Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị những tấm bìa có ghi câu hỏi và những tấm
    bìa có ghi câu trả lời tương ứng.
    * Cách chơi: GV chia lớp thành các đội chơi, mỗi đội khoảng từ 4-6 người
    (tùy thuộc vào số lượng mảnh ghép). Các đội chơi nhận tấm bìa của nhóm mình,
    15
    sau đó nhanh chóng đọc các thông tin trên mỗi tấm bìa thảo luận và ghép chúng
    lại với nhau sao cho phù hợp. Đội nào ghép đúng nhất và nhanh nhất là đội
    chiến thắng.
    Ví dụ: Bài Phòng bệnh viêm não
    Tôi giới thiệu: Viêm não là một bệnh hết sức nguy hiểm. Nguyên nhân gây
    ra bệnh là gì? Lứa tuổi nào hay mắc bệnh? Bệnh nguy hiểm như thế nào? Các
    em hãy cùng nhau trả lời các câu hỏi này qua trò chơi “Mảnh ghép Puzzle”.
    Tôi chia lớp thành các đội chơi, mỗi đội gồm 4 thành viên, các đội sẽ cử
    đội trưởng cho đội mình. Tôi nêu luật chơi: “ Các em hãy cùng đọc các thông tin
    trong mỗi tấm thẻ đã được phát, cùng nhau bàn bạc trong đội để chọn câu trả lời
    tương ứng với từng câu hỏi. Sau khi cả đội thống nhất, đội trưởng sẽ gắn đáp án
    với câu hỏi vào bảng phụ. Sau 5 phút, đội nào có đáp án gắn lên bảng lớp nhanh
    nhất và đúng nhất là đội thắng cuộc, đội thắng cuộc sẽ nhận được một phần
    thưởng xứng đáng”.
    Sau khi học sinh hiểu được cách chơi, tôi tiến hành cho học sinh chơi.
    Khi đã tìm ra đội chiến thắng, tôi yêu cầu học sinh trả lời thêm một số
    câu hỏi:
    + Vì sao từ trẻ em 3-5 tuổi hay mắc bệnh viêm não?
    + Bệnh viêm não nguy hiểm như thế nào?
    + Em rút ra được những kiến thức gì qua trò chơi này?
    16
    Với cách tiến hành như trên, qua trò chơi này, các em sẽ chủ động tìm tòi
    và phát hiện kiến thức mới cho bài học, hình thành kiến thức cho bản thân.
    Không chỉ áp dụng ở bài học này, trò chơi “Mảnh ghép Puzzle” còn được dùng
    trong rất nhiều bài học khác như: bài Nam và nữ; Từ lúc mới sinh đến tuổi dậy
    thì; Dùng thuốc an toàn,……
    * Trò chơi 2: “Bức tranh bí ẩn”
    Trò chơi này có thể áp dụng để giúp học sinh khám phá kiến thức mới hoặc
    củng cố lại kiến thức trong bài học.
    *Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị một bức tranh liên quan đến nội dung bài
    học để làm chìa khóa được giấu kín dưới các miếng ghép tương ứng với số câu
    hỏi (tùy chọn số lượng miếng ghép).
    *Cách chơi: Với trò chơi này, tôi chia đội để chơi, các đội sẽ lần lượt lựa
    chọn miếng ghép và trả lời câu hỏi dưới mỗi miếng ghép. Trả lời đúng 1 miếng
    ghép sẽ được 10 điểm, tìm được bức tranh sẽ được 50 điểm. Nếu trả lời sai, các
    đội khác có quyền trả lời và nhận được số điểm tương ứng. Trả lời đúng mỗi
    miếng ghép, bức tranh sẽ được mở ra một phần tương ứng với vị trí của miếng
    ghép đó. Kết thúc phần chơi, đội nào có tổng điểm lớn hơn sẽ thắng.
    Ví dụ: Bài Năng lượng mặt trời
    Tôi chuẩn bị một bức tranh minh họa năng lượng mặt trời. Chia tranh thành
    6 miếng ghép. Các từ khóa để mở từng miếng ghép là: chiếu sáng; sưởi ấm;
    phơi khô; phát điện; quang hợp;thời tiết.
    Sau khi mở được các miếng ghép, tôi hỏi: “Bức tranh minh họa gì? Hãy
    nêu hiểu biết của em về bức tranh đó, liên hệ với các từ khóa đã mở tranh”. Như
    vậy, HS sẽ nêu được tác dụng của năng lượng mặt trời là để chiếu sáng, sưởi ấm,
    phơi khô, phát điện, giúp cây quang hợp và tạo ra các hiện tượng thời tiết như:
    nắng, mưa, gió, bão,…
    17
    Trò chơi này giáo viên có thể thiết kế thủ công trên giấy bìa mà không cần
    hỗ trợ của máy tính. Tuy nhiên, khi ứng dụng công nghệ thông tin để thiết kế trò
    chơi, tôi nhận thấy rõ sự tiện lợi bởi hình ảnh rõ ràng, màu sắc nổi bật, hiệu ứng
    đẹp, thu hút được học sinh, câu hỏi, đáp án được trình chiếu rõ ràng nên học
    sinh dễ quan sát hơn hẳn so với việc thiết kế trên bìa cứng.
    Tôi còn sử dụng trò chơi này ở một số bài học như: Sử dụng năng lượng
    gió và năng lượng nước chảy; Sử dụng năng lượng điện;…
    * Trò chơi 3: “ Ô chữ diệu kì ”
    Trò chơi Ô chữ diệu kì là một trong những trò chơi thú vị, vừa tạo hứng thú
    cho học sinh vừa giúp học sinh củng cố lại các kiến thức của bài học. Nhờ có sự
    giúp đỡ của các ứng dụng công nghệ thông tin cũng như việc đã thành thạo các
    công cụ thiết kế bài giảng, tôi đã tạo ra nhiều ô chữ được thiết kế sinh động trên
    máy tính.
    * Chuẩn bị: Giáo viên thiết kế ô chữ trên phần mềm PowerPoint cùng hệ
    thống câu hỏi tương ứng với ô chữ.
    * Cách chơi: Chia lớp thành các nhóm nhỏ (có thể mỗi nhóm từ 4-5 học
    sinh). Đội trưởng của các nhóm sẽ lần lượt lựa chọn ô chữ hàng ngang. Sau khi
    nghe lời gợi ý về các ô chữ hàng ngang, đội nào nghĩ ra câu trả lời thì rung
    18
    chuông xin trả lời trước. Mỗi ô chữ hàng ngang trả lời đúng đội ghi được 5
    điểm. Ô chữ hàng dọc trả lời đúng đội ghi được 20 điểm. Nếu giải sai đội đó
    không ghi được điểm. Các đội đều có quyền đặt bông hoa hi vọng ở mỗi lần
    trước khi giải ô chữ hàng ngang để nếu trả lời đúng thì được tăng gấp đôi số
    điểm của mình. Kết thúc trò chơi, đội nào giành được nhiều điểm hơn đội đó sẽ
    chiến thắng.
    Ví dụ: Bài Ôn tập Con người và sức khỏe
    Tôi chuẩn bị một ô chữ với các ô hàng dọc và hàng ngang
    Các câu hỏi tìm ra ô chữ như sau:
    1. Bệnh nào do một loại kí sinh trùng gây ra và bị lây truyền do muỗi
    a-nô-phen?
    2. Điền cụm từ thích hợp vào chỗ trống: “ Để phòng bệnh còi xương,
    chúng ta cần ăn phối hợp nhiều loại …… chứa nhiều can-xi và vi- ta-min D.
    3. Đây là biện pháp để tránh muỗi đốt.
    4. Con gái khi bước vào tuổi dậy thì, cơ quan sinh dục bắt đầu phát triển
    và xuất hiện điều gì?
    5. Khi mắc bệnh chúng ta thường đi khám ở đâu.
    6. Bệnh gì do một loại vi-rút có trong máu của gia súc, động vật hoang dã
    gây ra và bị lây truyền do muỗi đốt.
    7. Điền cụm từ thích hợp vào chỗ trống: “ Ai cũng có thể mắc bệnh viêm
    não nhưng nhiều nhất là ……….từ 3 đến 15 tuổi vì sức đề kháng yếu.”
    Hay ở bài Ôn tập: Môi trường và tài nguyên thiên nhiên, tôi thiết kế ô
    chữ và câu hỏi như sau:
    19
    1. Tính chất của đất đã bị xói mòn.
    2. Đây là tên của một loại tài nguyên thiên nhiên bao bọc xung quanh Trái Đất.
    3. Đồi cây đã bị đốn hoặc đốt trụi gọi là gì?
    4. Của cải có sẵn trong môi trường tự nhiên mà con người sử dụng là gì?
    5. Tên của một loài bọ chuyên ăn các loại rệp cây.
    6. Điền cụm từ thích hợp vào chỗ trống: “Nếu con người có ý thức bảo vệ
    và khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lí thì môi trường
    sẽ…………….tốt đến đời sống của con người.”
    7. Điền cụm từ thích hợp vào chỗ trống: “……………không thể tồn tại tách
    rời môi trường.”
    8. Điền cụm từ thích hợp vào chỗ trống: “Nếu không có ý thức sử dụng tiết
    kiệm thì nhiều tài nguyên thiên nhiên sẽ bị…………..”
    9. Đây là môi trường sống của nhiều loài động vật hoang dã, quý hiếm;
    nếu bị tàn phá sẽ làm khí hậu bị thay đổi, lũ lụt, hạn hán xảy ra thường xuyên.
    Qua trò chơi, học sinh vừa được thể hiện trí tuệ, kiến thức cũng như khả
    năng tư duy liên kết các ô chữ của các em.
    * Trò chơi 4: “ Rung chuông vàng”
    20
    Trò chơi này được mô phỏng theo chương trình Rung chuông vàng. Với trò
    chơi này, giáo viên có thể áp dụng vào các giờ học giúp học sinh ôn tập các kiến
    thức đã học hoặc củng cố lại kiến thức cuối bài.
    * Chuẩn bị: Giáo viên cần chuẩn bị 6 đến 10 câu hỏi (số lượng tùy ý) có thể
    theo các cấp độ khó dần. Mỗi học sinh chuẩn bị một bảng con, phấn, khăn lau.
    * Cách chơi: Tổ chức cho cả lớp chơi theo hình thức cá nhân. Giáo viên lần
    lượt chiếu các câu hỏi lên màn hình máy chiếu. Học sinh đọc câu hỏi, suy nghĩ
    và ghi đáp án của mình vào bảng. Sau khi có tín hiệu, học sinh sẽ giơ câu trả lời
    của mình lên. Nếu trả lời đúng, học sinh được quyền tham gia trả lời tiếp các câu
    hỏi sau, trả lời sai học sinh tạm dừng cuộc chơi. Trong trường hợp chưa đến câu
    trả lời cuối cùng mà tất cả học sinh đã bị loại, giáo viên có thể tổ chức cứu trợ
    cho học sinh bằng một số câu hỏi phụ hoặc chơi một trò chơi phụ để có thể giúp
    học sinh quay trở lại chơi tiếp. Người chiến thắng là người trả lời được đến câu
    hỏi cuối cùng và sẽ là người được rung chiếc chuông vàng.
    Ví dụ : Bài Sự sinh sản của động vật
    Để củng cố lại kiến thức của bài học, tôi tổ chức cho các em tham gia trò
    chơi Rung chuông vàng. Các câu hỏi tôi đã chuẩn bị và thiết kế trên phần mềm
    PowerPoint như sau:
    Câu 1: Đa số các loài vật chia thành mấy giống? (Hai giống)
    Câu 2: Tinh trùng hoặc trứng của động vật được tạo ra từ cơ quan nào? (Cơ
    quan sinh dục)
    Câu 3: Điền từ còn thiếu thích hợp vào chỗ trống:
    Hiện tượng tinh trùng kết hợp với trứng tạo thành………gọi là ………….
    (hợp tử – sự thụ tinh)
    Câu 4: Hợp tử phân chia nhiều lần và phát triển thành gì? (Cơ thể mới)
    Câu 5: Động vật có những hình thức sinh sản nào? (Đẻ trứng hoặc đẻ con)
    Câu 6: Con cá heo đẻ trứng hay đẻ con? (Đẻ con)
    21
    Trò chơi này được học sinh lớp tôi rất thích thú bởi các em như được trải
    nghiệm cảm giác thật như đang dự thi Rung chuông vàng. Tôi còn áp dụng trò
    chơi này ở rất nhiều bài học như: Cơ thể chúng ta được hình thành như thế
    nào?; Vệ sinh ở tuổi dậy thì; Sự sinh sản của thực vật có hoa; Sự sinh sản của
    côn trùng; Sự sinh sản của ếch;…
    * Trò chơi 5: “Tấm thẻ Plicker”.
    Với trò chơi này, GV viên có thể áp dụng để giúp học sinh củng cố lại kiến
    thức cuối mỗi bài học hoặc của cả một chương học.
    * Chuẩn bị: Giáo viên cần chuẩn bị 3 đến 5 câu hỏi (số lượng tùy ý) theo
    hình thức trắc nghiệm lựa chọn đáp án trên phần mềm Plicker. Mỗi học sinh
    được phát một tấm thẻ Plicker tương tứng với số thứ tự của học sinh đó trong
    danh sách đã được tạo sẵn trên phần mềm.
    22
    Tấm thẻ Pliker
    * Cách chơi: Tổ chức cho cả lớp chơi theo hình thức cá nhân. Giáo viên lần
    lượt chiếu các câu hỏi lên màn hình máy chiếu thông qua phần mềm Plicker.
    Học sinh lựa chọn đáp án bằng cách giơ tấm thẻ lên theo đúng chiều của đáp án
    đã lựa chọn. Sau đó giáo viên dùng điện thoại thông minh đã được kết nối sẵn
    với phần mềm Plicker để quét toàn bộ đáp án của học sinh. Mọi đáp án học sinh
    đã chọn sẽ được hiện thị ngay trên màn hình máy chiếu. Người thắng cuộc là
    người trả lời được đúng nhiều nhất các câu hỏi.
    Ưu điểm của trò chơi này là được thiết kế thông qua phần mềm Plicker nên
    chúng ta có thể nắm bắt được chính xác toàn bộ đáp án mà học sinh đã lựa chọn.
    Phần mền này có bảng thống kê theo từng học sinh xem câu nào trả lời đúng,
    câu nào sai và tính toán số % điểm đạt được của mỗi học sinh. Ngoài bảng tổng
    hợp theo thứ tự danh sách lớp còn có bảng kết quả xếp thứ tự từ cao đến thấp.
    Dựa vào bảng thứ tự này, giáo viên có thể xác định được ai là người thắng cuộc
    trong trò chơi.
    Ví dụ: Bài Ôn tập: Vật chất và năng lượng
    Để củng cố lại kiến thức của chương học: Vật chất và năng lượng, tôi tổ
    chức cho các em tham gia trò chơi Tấm thẻ Plicker. Các câu hỏi tôi đã chuẩn bị
    và thiết kế trên phần mềm Plicker như sau:
    Câu 1: Đồng có tính chất gì?
    A. Cứng, có tính đàn hồi
    A
    D 1
    1
    1
    1
    23
    B. Trong suốt, không gỉ, cứng nhưng dễ vỡ
    C. Màu trắng bạc, có ánh kim; có thể kéo thành sợi và dát mỏng; nhẹ, dẫn
    điện và dẫn nhiệt tốt; không bị gỉ, tuy nhiên có thể bị một số a-xít ăn mòn.
    D. Có màu đỏ nâu, có ánh kim; dễ dát mỏng và kéo thành sợi; dẫn điện và
    dẫn nhiệt tốt.
    Câu 2: Thủy tinh có tính chất gì?
    A. Cứng, có tính đàn hồi.
    B. Trong suốt, không gỉ, cứng nhưng dễ vỡ.
    C. Màu trắng bạc, có ánh kim; có thể kéo thành sợi và dát mỏng; nhẹ; dẫn
    điện và dẫn nhiệt tốt; không bị gỉ, tuy nhiên có thể bị một số a-xít ăn mòn.
    D. Có màu đỏ nâu, có ánh kim; dễ dát mỏng và kéo thành sợi; dẫn điện và
    dẫn nhiệt tốt.
    Câu 3: Nhôm có tính chất gì?
    A. Cứng, có tính đàn hồi.
    B. Trong suốt, không gỉ, cứng nhưng dễ vỡ.
    C. Màu trắng bạc, có ánh kim; có thể kéo thành sợ

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Sử dụng ứng dụng Quzizz để tạo hứng thú học tập, hỗ trợ ôn tập môn Toán cho học sinh lớp 4

    SKKN Sử dụng ứng dụng Quzizz để tạo hứng thú học tập, hỗ trợ ôn tập môn Toán cho học sinh lớp 4

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, xu thế phát triển của
    thời đại đã ảnh hưởng sâu sắc, toàn diện đến nền giáo dục Việt Nam. Nghị quyết hội
    nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và đào tạo đã
    xác định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
    dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu trang bị kiến thức sang
    phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học…”
    Thực hiện sự chỉ đạo của Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04/01/2013 của Hội
    nghị BCH Trung ương lần thứ 8 khóa XI về “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục
    và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
    thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trong đó chú trọng
    tới việc phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức kĩ năng của
    người học; tăng cường việc sử dụng công nghệ thông tin và sử dụng các phần mềm
    vào dạy học. Vì vậy, việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm phát
    huy tính tích cực, chủ động sáng tạo cho học sinh là điều vô cùng cần thiết. Đây là
    một định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên, cũng là yếu tố quyết định
    hiệu quả của một giờ dạy.
    Năm học 2019 – 2020 do ảnh hưởng của dịch Covid – 19, lần đầu tiên trong
    lịch sử Giáo dục Việt Nam học sinh phải tạm nghỉ đến trường dài ngày. Trong thời
    gian nghỉ do ảnh hưởng của dịch bệnh, ngành giáo dục đã có nhiều giải pháp để
    giúp học sinh “tạm dừng đến trường nhưng không dừng học”, trong đó điển hình
    nhất là giải pháp dạy học trực tuyến. Đây cũng chính là hình thức dạy học mà nhiều
    giáo viên sử dụng “lần đầu tiên” trong sự nghiệp giáo dục của mình. Chính vì thế
    việc bỡ ngỡ, gặp khó khăn, lúng túng là không thể tránh khỏi.
    Là một giáo viên tôi thấy việc dạy học của người thầy giờ đây cũng khác
    trước rất nhiều. Mọi kiến thức, hiểu biết của học sinh không chỉ được hình thành
    qua sách vở, qua thực tế mà qua cả mạng Internet. Công nghệ thông tin sẽ giúp học
    sinh tra cứu tài liệu, tìm kiếm thông tin, tranh ảnh, trao đổi bài qua diễn đàn trên các
    website, học trực tuyến, giúp học sinh biết tự học, tự rèn luyện một cách sáng tạo.
    2
    Cũng nằm trong các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục chính là ứng dụng
    công nghệ thông tin trong giảng dạy, kiểm tra đánh giá. Với học sinh lớp 4 việc áp
    dụng hình thức kiểm tra trắc nghiệm đã trở nên quen thuộc (số câu trắc nghiệm
    chiếm từ 60% – 70% trong các bài kiểm tra). Ngày nay, kinh tế phát triển việc phụ
    huynh có điện thoại thông minh, máy tính là rất nhiều. Vậy làm thế nào để hướng
    học sinh sử dụng các thiết bị này trong việc học tập ở nhà đạt hiệu quả, qua đó tạo
    hứng thú học tập cho học sinh đồng thời nâng cao chất lượng dạy và học là điều mà
    tôi nghĩ đến trong thời đại công nghệ 4.0.
    Chính bởi lý do trên, tôi đã tìm hiểu và viết sáng kiến: “Sử dụng ứng dụng
    Quizizz để tạo hứng thú học tập, hỗ trợ ôn tập môn Toán cho học sinh lớp 4.”
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến:
    Với phương châm “tạm dừng đến trường nhưng không dừng học”, ngay từ khi
    bắt đầu học sinh nghỉ phòng chống dịch bệnh, nhằm mục đích giúp cho học sinh duy
    trì nề nếp học tập, ôn tập, củng cố kiến thức đã học và tiếp thu kiến thức mới đảm
    bảo nội dung chương trình năm học theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo và
    các văn bản chỉ đạo của Sở GD&ĐT tỉnh Nam Định, ngành GD-ĐT huyện Hải
    Hậu. Trước tình hình đó trường Tiểu học Hải Anh đã lên kế hoạch dạy Online cho
    học sinh qua phần mềm Zoom cloud meetings, SHub Classroom. Các lớp học của
    nhà trường được “mang về nhà”, học sinh “nghỉ dịch chứ không nghỉ học”. Tuy
    nhiên trong quá trình thực hiện công việc, tôi nhận thấy:
    Về phía học sinh: Đa số học sinh của lớp 4 trường Tiểu học Hải Anh có nhận
    thức và ý thức tốt trong học tập. Các em đã được tiếp xúc với các sản phẩm của
    công nghệ thông tin trong cuộc sống như: điện thoại thông minh, ti vi, máy tính,
    trong gia đình và nhà trường.
    – Về phía phụ huynh: Cha mẹ học sinh có điện thoại thông minh và máy tính
    được nối mạng (kể cả sử dụng 3G) khoảng 90%.
    – Về phía giáo viên: Có kinh nghiệm trong công tác giảng dạy, có khả năng tự
    học, tự tìm tòi các thông tin, kiến thức, các tài liệu trên mạng Internet, biết và sử
    dụng được một số phần mềm dạy học.
    3
    – Khi ôn tập kiến thức các môn học ở lớp 4 nói chung và môn Toán lớp 4 nói
    riêng ở hình thức trắc nghiệm, luôn có các câu hỏi thuộc các mức độ khác nhau. Đối
    với các câu hỏi ở mức 1, mức 2 không đòi hỏi bắt buộc học sinh phải suy luận mà
    chỉ đơn giản là ghi nhớ thông tin, nhận biết, nhắc lại kiến thức, kĩ năng đã học để
    tìm ra đáp án. Đối với các câu hỏi ở mức 3, mức 4 đòi hỏi học sinh phải biết vận
    dụng kiến thức, kĩ năng để giải quyết những vấn đề quen thuộc, những vấn đề mới
    hoặc đưa ra những phản hồi hợp lí trong học tập, cuộc sống một cách linh hoạt.
    Ví dụ như các câu sau đây thuộc nhóm ở mức 1, mức 2 nằm trong mã đề 04
    Bài khảo sát số 2 – Lớp 4 của Sở GD & ĐT Nam Định (năm học 2018 -2019):
    Câu 1: Kết quả phép tính 6324 : 186 là:
    A. 35 dư 14 B. 214 C. 34 D. 314
    Câu 2: Kết quả phép tính 67458 – 8376 là:
    A. 59082 B. 69082 C. 69182 D. 59182
    Câu 3: Kết quả phép tính 804 x 23 là:
    A. 4010 B. 4020 C. 18492 D. 18482
    Câu 4: Kết quả phép tính 6789 + 15 402 là:
    A. 22181 B. 12191 C. 21191 D. 22191
    Câu 5: Trong các số sau: 6506; 46 405; 22490; 94590 số nào chia hết cho 5,
    không chia hết cho 2 ?
    A. 6506 B. 46405 C. 22490 D. 94590
    – Đối với bản thân, trước khi áp dụng phần mềm Quizizz, để ôn tập cho học
    sinh nhóm câu hỏi như trên, giáo viên thường photo trước tài liệu, yêu cầu học sinh
    tự chuẩn bị câu trả lời ở nhà, sau đó lên lớp các em trao đổi thảo luận với bạn, với
    nhóm, giáo viên chữa bài và kiểm tra đáp án. Nhìn chung biện pháp trên phát huy
    hiệu quả tốt với những đối tượng học sinh chăm chỉ, có khả năng tự học tốt. Tuy
    nhiên, việc đó cũng chưa tạo hứng thú cho học sinh ôn bài, tự học và làm bài kiểm
    tra ở nhà. Cá biệt có một số em lợi dụng điểm yếu của hình thức câu hỏi trắc
    4
    nghiệm đó là không phải trình bày bài làm nên học sinh không chịu chuẩn bị bài mà
    chỉ “chọn đáp án theo cảm tính”. Điều này làm cho kết quả học tập của học sinh
    chưa tốt. Do đó tôi đã tìm hiểu và thấy phần mềm Quizizz gây hứng thú học tập cho
    học sinh, tạo được động cơ học tập cho các em, giúp cho việc dạy và học trở nên
    thuận lợi và đạt hiệu quả cao hơn. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học
    môn Toán ở trường Tiểu học Hải Anh.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
    2.1. Vấn đề cần giải quyết:
    Thiết lập kênh liên lạc với học sinh, phụ huynh, thiết lập tài khoản Quizizz và
    cách thức sử dụng Quizizz để ôn tập một cách hiệu quả. Để làm được điều đó giáo
    viên cần:
    – Tìm hiểu cách sử dụng phần mềm Quizizz. Tạo kênh liên lạc với học sinh
    và phụ huynh. Điều kiện để thực hiện biện pháp trên là giáo viên cần có máy tính,
    các học sinh trong lớp phải có máy tính hoặc điện thoại kết nối mạng.
    – Xác định được mục đích chính của Ứng dụng Quizizz để hỗ trợ ôn tập
    kiến thức là tổ chức các bài kiểm tra trắc nghiệm trực tuyến trên máy tính hoặc các
    thiết bị di động thông minh. Thông qua hình thức hướng dẫn học sinh tự học, giáo
    viên có thể kiểm tra và đánh giá học sinh, củng cố kiến thức đã học bằng nhiều
    cách. Đây chính là phương tiện dạy học hiện đại đã góp phần tích cực vào việc đổi
    mới phương pháp dạy học.
    2.2. Tính mới của giải pháp:
    – Quizizz thiết kế như một Game tạo hứng thú học tập cho học sinh. Đặc biệt,
    Quizizz có giao diện trò chơi đẹp, âm thanh phù hợp, mới lạ, khác với các trò chơi
    khác. Khi học sinh trả lời câu hỏi (tham gia chơi trò chơi) thứ tự xếp hạng của học
    sinh luôn thay đổi có thể nhìn thấy thứ tự của mình ở từng câu. Sau khi kết thúc trò
    chơi có bảng xếp thứ hạng người chơi, có các thống kê chi tiết (học sinh biết được
    câu nào mình trả lời sai, có thể xem được đáp án đúng nếu giáo viên bật tính năng),
    cho cơ hội trả lời lại, làm lại nếu học sinh làm sai.
    – Khi học sinh đang tham gia làm bài bị thoát ra do mất điện, lỗi mạng hoặc
    không muốn làm nữa thì hệ thống vẫn lưu giữ. Lần sau vào làm lại học sinh chỉ phải
    5
    làm tiếp những câu chưa làm.
    – Với ứng dụng Quizizz có thể cho nhiều học sinh chơi cùng một thời điểm
    giống như một cuộc đua trực tiếp hoặc có thể cài đặt thành bài ôn tập, bài kiểm tra
    nhằm củng cố kiến thức cho học sinh về nhà để học sinh chủ động thời gian hoàn
    thành. Đặc biệt ứng dụng Quizizz có hệ thống đảo câu hỏi và đáp án nên học sinh
    không thể nhìn bài nhau. Giáo viên có thể áp dụng hình thức kiểm tra trực tiếp sau
    mỗi tiết dạy khi mà các em về nhà. Chính vì vừa củng cố được kiến thức vừa rèn
    luyện kĩ năng làm bài cho học sinh từ đó nâng cao được kết quả học tập của học
    sinh.
    – Học sinh tham gia không cần thiết phải dùng máy tính có thể mở trên điện
    thoại và cũng không cần phải cài đặt phần mềm. Khi tham gia chơi học sinh được
    chấm điểm, có quy định thời gian diễn ra không khác gì so với kiểm tra trắc nghiệm
    trên giấy.
    – Sử dụng ứng dụng Quizizz học sinh sẽ được làm quen với tác phong công
    nghiệp, không chỉ rèn luyện được kỹ năng làm bài nhanh cho hình thức trắc nghiệm,
    làm bài trực tuyến sẽ giúp các em làm quen và sử dụng thành thạo máy tính, làm
    quen và biết cách khai thác được thông tin trên các website, đây là kỹ năng thiết yếu
    cho sự phát triển ở thời kỳ 4.0.
    2.3. Một số giải pháp.
    2.3.1. Sử dụng phần mềm Quizizz trong các hoạt động dạy học như thế
    nào?
    Quizizz là phần mềm, ứng dụng trên nền tảng website, có ứng dụng trên
    Appstore và CH play. Hiện nay, Quizizz đã hỗ trợ việc học tập của hàng triệu sinh
    viên, học sinh của hơn 100 quốc gia trên thế giới.
    Quizizz là một trong những công cụ hỗ trợ kiểm tra, đánh giá trong dạy học
    khá nổi tiếng và được nhiều giáo viên sử dụng rất hiệu quả.
    Quizizz cho phép giáo viên:
    – Tạo ra các câu hỏi trắc nghiệm nhằm kiểm tra kiến thức ở các môn học cũng
    như kiến thức hiểu biết xã hội của học sinh.
    6
    – Tiếp cận ngân hàng câu hỏi đa dạng hoặc tự tạo lập bộ câu hỏi phù hợp với
    mục tiêu kiểm tra đánh giá.
    – Tổ chức cho học sinh trong cùng một lớp có thể tham gia trả lời câu hỏi trên
    Quizizz vào cùng một thời điểm do thầy cô quy định; hoặc hoàn tất bài kiểm tra vào
    một thời gian thuận lợi, trước thời hạn thầy cô quy định.
    – Dễ dàng thông báo ngay kết quả và thứ hạng của những người tham gia trả
    lời câu hỏi nhằm gia tăng hứng thú học tập cho học sinh.
    Với cấu trúc đa dạng và dễ sử dụng của phần mềm, giáo viên có thể sử dụng
    Quizizz trong hoạt động khởi động của bài học, phần ứng dụng của tiết học và có
    thể sử dụng Quizizz trong các tiết ôn tập, cụ thể như sau:
    – Tổ chức một trò chơi trực tiếp với các câu hỏi trắc nghiệm online trên các
    thiết bị máy tính cá nhân, máy tính bảng, điện thoại cho học sinh. Sau khi kết thúc
    trò chơi, giáo viên chúng ta sẽ có một bảng thống kê khá chi tiết về người chơi (học
    sinh) như bảng xếp hạng, số câu trả lời đúng, sai,… sử dụng để khởi động bài học.
    *Trong tiết Em ôn lại những gì đã học (chủ đề số tự nhiên)
    Sau khi học xong tiết học này ở trên lớp, giáo viên có thể cho học sinh chơi
    trò chơi Quizizz ở nhà thông qua các câu hỏi để giúp học sinh có kĩ năng ghi nhớ
    kiến thức, kĩ năng tự ôn tập và củng cố. Hình thành thái độ học tập đúng đắn: tạo sự
    hứng thú, say mê học toán. Bên cạnh đó, rèn luyện tinh thần tự giác trong lao động,
    học tập.
    *Ví dụ minh họa:
    Câu 1. Số “Một triệu không trăm linh hai nghìn chín trăm ba mươi sáu” viết là:

    A. 1002936B. 102936C. 12936D . 1200936

    Câu 2. Số gồm 4 triệu, 2 chục nghìn, 3 chục viết là:
    A. 4020030 B. 420030 C. 4200030 D. 42000030
    Câu 3. Chữ số 8 trong số 5876943 thuộc:
    A. Hàng triệu B. Hàng trăm nghìn
    C. Hàng chục nghìn D. Hàng nghìn
    Câu 4. Which of following numbers is smaller than 55606149 and larger than 55604896 ?
    7

    A. 55695346B. 55614186C. 55601982D. 55605286

    Câu 5. Chữ số 2 trong số 42 375 347 có giá trị là:

    A. 20 000B. 200 000C. 2 000 000D. 20 000 000

    Câu 6. Kết quả của phép tính: 7869 + 15463 là :
    A. 94153 B. 27681 C. 76215 D. 23332
    Câu 7. Kết quả của phép tính: 408 x 302 là:
    A. 123216 B. 13056 C. 1536 D. 153600
    Câu 8. Kết quả của phép tính: 13428 – 9876 là:
    A. 85332 B. 3552 C. 4528 D. 3798
    Câu 9. Với a= 45 biểu thức 4788: ( 83 – a ) có giá trị là :

    A. 38B. 216C. 162D. 106

    Câu 10. Trung bình mỗi tháng nhà em ăn hết 25 kg gạo. Hỏi một năm (dương lịch)
    nhà em dùng hết bao nhiêu kg gạo?
    A. 250kg B. 275kg C. 300kg D. 325kg
    Có thể tổ chức cho học sinh tham gia trò chơi Quizizz trong hoạt động Luyện
    tập củng cố ở trên lớp (chủ đề về số dấu hiệu chia hết cho 2, 5, 3, 9), giáo viên cần
    chuẩn bị phương án để học sinh được học tiết Toán ở phòng Tin học hoặc Tiếng
    Anh.
    *Ví dụ minh họa:
    Câu 1. Số nào sau đây chia hết cho cả 2 và 5.

    A. 25B. 802C. 80D. 37

    Câu 2. Chữ số thích hợp viết vào ô trống để được số có 3 chữ số 35 chia hết
    cho 2 và 5 là:
    A. 5 B. 0 C. 2 D. 7
    Câu 3. Số thích hợp điền vào dấu * để số 4*209 chia hết cho 9 là:
    8
    A. 3 B. 2 C. 1 D. 0
    Câu 4. Chữ số thích hợp điền vào chỗ chấm để 74… chia hết cho cả 2 và 3 là:
    A. 2 B. 6 C. 4 D. 8
    Câu 5. Trong các số: 306 ; 810 ; 7259 ; 425 số chia hết cho cả 5 và 9 là:
    A. 425 B. 306 C. 7259 D. 810
    Câu 6. §Ó sè 196* chia hÕt cho c¶ 2 vµ 3 th× ch÷ sè cÇn ®iÒn vµo vÞ trÝ dÊu * lµ:
    A. 2 B. 4 C. 3 D. 6
    Câu 7. Số vừa chia hết cho 3 vừa chia hết cho 5 là:
    A. 69 B. 571 C. 940 D. 675
    Câu 8. Trong các số 429658; 963990; 100455; 368722 số nào chia hết cho cả 2 và
    5?
    Câu 9. Số chia hết cho cả 2; 3; 5 và 9 là:
    A. 1700 B. 4002 C. 1365 D. 8100
    Câu 10. Chữ số thích hợp viết vào chỗ chấm để 27….chia hết cho cả 2; 3; 5 và 9 là:
    A. 3 B. 5 C. 0 D. 9
    * Trong hoạt động vận dụng, phát triển
    Một trong những mục tiêu quan trọng của chương trình giáo dục phổ thông
    2018 là “giúp học sinh làm chủ kiến thức, biết vận dụng hiệu quả kiến thức, kĩ năng
    đã học vào đời sống” và đều phải hướng tới “Phát triển năng lực người học”. Do
    đó, cần tạo điều kiện để học sinh vận dụng kiến thức đã học giải quyết vấn đề thực
    tiễn. Trong hoạt động này, giáo viên có thể đưa ra các bài toán thực tế liên quan đến
    kiến thức toán học vừa xây dựng để học sinh nhớ lâu, hiểu sâu kiến thức và nhận
    thấy được toán học thật gần gũi với cuộc sống hằng ngày. Giúp các em hứng thú
    hơn trong học tập, ghi nhớ kiến thức một cách có chủ đích.
    Giúp các em nắm vững kiến thức, hiểu kiến thức một cách sâu rộng. Bên
    cạnh đó, giúp các em ứng dụng được những kiến thức đã được học vào thực tiễn.
    Giá trị của việc học thể hiện ở việc học sinh sử dụng kiến thức đó như thế nào? Có
    ứng dụng được kiến thức đó hay không? Chẳng hạn, học sinh vận dụng kiến thức về
    các phép tính để tính những con số gặp hằng ngày trong cuộc sống, vận dụng kiến
    9
    thức về tiền tệ để giúp gia đình mua sắm, tính toán được thời gian diễn ra sự việc và
    hoạt động có hiệu quả… Từ đó, tạo sự hứng thú, say mê học toán. Bên cạnh đó, rèn
    luyện tinh thần tự giác trong lao động, học tập.
    Ví dụ minh họa:
    Câu 1. Bạn Lan mua 2 quyển vở và 1 cái bút hết hai mươi lăm nghìn. Hỏi bạn Lan
    mua 4 quyển vở và 2 cái bút thì phải trả người bán hàng bào nhiêu tiền ?
    Trả lời : Số tiền Lan phải trả người bán hàng là :
    A. Ba mươi lăm nghìn đồng B. Bốn mươi nghìn đồng
    C. Năm mươi nghìn đồng D. Một trăm nghìn đồng
    Câu 2. Lê Lợi lên ngôi vua năm 1428. Năm đó thuộc thế kỉ:
    A. XIV B. XV C. XVI D. XIII
    Câu 3. Bảng sau ghi tên vận động viên và thời gian chạy trên cùng một quãng
    đường của mỗi người:

    MinhAnHùngViệt
    13 phútgiờ700 giây12 phút 45 giây

    1 5
    Người chạy nhanh nhất là:
    A. Minh B. An C. Hùng D. Việt
    Câu 4. Mẹ đi chợ mua một số táo rồi xếp vào các đĩa. Nếu xếp mỗi đĩa 4 quả thì
    vừa hết số táo, nếu xếp mỗi đĩa 5 quả thì cũng vừa hết số táo đó. Hỏi mẹ mua bao
    nhiêu quả táo, biết số táo mẹ mua ít hơn 25 quả.
    Số quả táo mẹ mua là:
    A. 24 quả B. 25 quả C. 16 quả D. 20 quả
    Câu 5. Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh dẹp “loạn 12 sứ quân”, thống nhất đất nước. Năm
    đó thuộc thế kỉ thứ mấy?
    A. IX B. X C. XI D. VIII
    Câu 6. Lớp học 4A có 18 học sinh nữ và 12 học sinh nam. Hỏi số học sinh nam
    chiếm bao nhiêu phần số học sinh cả lớp?
    A.
    2 5
    B.
    3 5
    C.
    3 2
    D.
    2 3
    10
    Câu 7. Hằng ngày Lan thường tập chạy. Ngày thứ nhất Lan chạy được 500m, ngày
    thứ hai chạy được 620m, ngày thứ ba chạy được 500m. Như vậy trong ba ngày,
    trung bình mỗi ngày Lan chạy được là:
    A. 500m B. 560m C. 520m D. 540m
    Câu 8. Để ủng hộ các bạn học sinh nghèo, các bạn học sinh lớp 5A đã quyên góp
    được 687 000 đồng. Các bạn cần quyên góp thêm bao nhiêu nữa để số tiền có được
    là 900 000 đồng. Số tiền các bạn cần quyên góp thêm là :
    A. 113 000 đồng C. 213 000 đồng
    B. 223 000 đồng D. 2 130 000 đồng
    Câu 9. Để lát nền 1 căn phòng có diện tích là 64m2 thì phải dùng hết bao nhiêu
    viên gạch hoa biết mỗi viên gạch hoa có cạnh là 40cm ? (Biết diện tích các mạch
    vữa là không đáng kể)
    Trả lời : Số viên gạch hoa dùng để lát đủ nền căn phòng là:
    A. 14 viên B. 140 viên C. 400 viên D. 16 viên.
    Câu 10. Trung bình mỗi tháng nhà em ăn hết 30 kg gạo. Hỏi một năm (dương
    lịch) nhà em dùng hết bao nhiêu kg gạo?

    A. 320 kg
    Câu 11.
    B. 90 kgC. 360kgD. 350kg

    ……..
    15m
    Ở một con đường, người ta trồng 25 cây, hai cây liền nhau cách nhau 11m.
    Hỏi khoảng cách từ cây đầu tiên đến cây cuối cùng là bao nhiêu mét?
    A. 350m B. 360m C. 370m D. 375m
    Câu 12. Nếu một quả táo cân nặng 50g thì cần có bao nhiêu quả táo như thế để cân
    được 4kg?
    11
    A. 80 B. 50 C. 40 D. 20
    Câu13. Người ta xếp 187 250 cái áo vào các hộp, mỗi hộp chứa được nhiều nhất là
    9 cái áo. Hỏi cần ít nhất bao nhiêu hộp để xếp hết số áo trên?

    A. 20805 hộpB. 20806 hộp
    C. 2085 hộpD. 2086 hộp

    Câu 14. Hùng có 8 viên bi gồm 4 viên bi màu xanh, 3 viên bi màu đỏ, 1 viên bi màu
    vàng. Phân số chỉ phần các viên bi màu đỏ trong số viên bi của Hùng là:
    A.
    4 8
    B.
    3 4
    C.
    1 8
    D.
    3 8
    Câu 15. Nhà trường lắp đèn cho 8 phòng học. Mỗi phòng 9 bóng, mỗi bóng giá 50
    000 đồng. Hỏi nhà trường phải trả bao nhiêu tiền?
    A. 4 000 000 đồng B. 450 000 đồng
    C. 3 600 000 đồng D. 400 000 đồng
    – Giáo viên có thể kết nối Quizizz với Google classroom để chia sẻ câu đố
    của mình và nhận ngay kết quả trong Google lớp học.
    – Giao bài tập về nhà cho học sinh với hệ thống câu hỏi trắc nghiệm để học
    sinh luyện tập.
    *Ví dụ minh họa: Bài ôn tập giữa học kỳ II (phần trắc nghiệm)
    Giúp học sinh có kĩ năng ghi nhớ kiến thức, kĩ năng phân tích, kĩ năng tư duy,
    đánh giá, tổng hợp, kĩ năng tự ôn tập và củng cố.
    Câu 1. Chia đều 4 quả cam cho 3 người. Số phần cam của mỗi người khi đó là?
    A.5 quả cam B.
    5 4
    quả cam C. 4 quả cam D.
    4 5
    quả cam
    Câu 2. Phân số nào dưới đây bé hơn phân số
    3 7
    ?
    A.
    4 7
    B.
    3 7
    C.
    5 7
    D.
    1 7
    Câu 3. Kết quả của phép tính 2876 + 6519 là:
    A. 9375 B. 8375 C. 8385 D. 9395
    12
    Câu 4. Kết quả phép tính 58475 : 25 là:
    A. 2337 B. 2339 C. 1337 D. 2237
    Câu 5. Kết quả phép tính 647358 – 284376 là:
    A. 362282 B. 462182 C. 362982 D. 362182
    Câu 6. Kết quả phép tính 284 x 314 là:
    A. 65326 B. 89176 C. 89336 D. 9656
    Câu 7. Số thích hợp điền vào chỗ chấm trong các phân số:
    32
    56
    =
    16
    … là:
    A. 24 B.22 C. 28 D. 26
    Câu 8. Mảnh đất hình bình hành có độ dài cạnh đáy là 25m, chiều cao bằng 3
    5
    cạnh
    đáy. Tính diện tích mảnh đất?
    A. 54cm B. 80cm2 C. 40cm2 D. 375cm2
    Câu 9. Trong phong trào làm kế hoạch nhỏ vừa qua, hai khối lớp bốn và lớp năm
    thu được 216 kg phế liệu. Tính số kg phế liệu thu được của khối lớp năm ? Biết rằng
    khối lớp bốn thu được nhiều hơn khối lớp năm 28 kg phế liệu.

    A. 122 kgB. 94 kgC. 108 kgD. 188kg

    Câu 10. Năm 2021 thuộc thế kỉ nào?
    A. Thế kỉ XVIII B. Thế kỉ XX C. Thế kỉ XXI D.Thế kỉ XIX
    Câu 11. Số học sinh lớp em là một số bé hơn 40. Trong tiết học Toán, hoạt động
    thứ nhất cô chia lớp thành các nhóm đôi, hoạt động thứ hai cô giáo chia thành
    nhóm 3, hoạt động thứ ba cô chia lớp thành nhóm 5. Hỏi lớp em có bao nhiêu học
    sinh? Biết khi chia thành các nhóm đôi, nhóm 3 hay nhóm 5 thì không thừa, không
    thiếu bạn nào.
    A. 40 học sinh B. 38 học sinh C. 35 học sinh D. 30 học sinh
    Câu 12. Phòng học lớp 4A là hình chữ nhật có chiều dài 9 m, chiều rộng là 70 dm.
    Diện tích phòng học hình chữ nhật đó là:

    A. 63 m2B. 630 m2C. 90 m2D. 70 m2

    13
    Giáo viên cũng có thể quản lí việc học tập, luyện tập của học sinh với bảng
    thống kê rất sinh động và đầy đủ trong trang quản trị Quizizz của mình.
    2.3.2. Những lưu ý khi sử dụng phần mềm Quizizz:
    – Giáo viên cần nghiên cứu trò chơi học tập (chính là hệ thống các câu hỏi để
    củng cố kiến thức, kĩ năng), các yêu cầu cũng như nội dung kiến thức cần chuyển
    tải. Để qua đó học sinh sử dụng ứng dụng Quizizz học sinh sẽ được làm quen với
    tác phong công nghiệp, không chỉ rèn luyện được kỹ năng làm bài nhanh cho hình
    thức trắc nghiệm, làm bài trực tuyến sẽ giúp các em làm quen và sử dụng thành thạo
    máy tính, làm quen và biết cách khai thác được thông tin trên các website, đây là kỹ
    năng thiết yếu cho sự phát triển ở thời kỳ 4.0.
    – Các bài tập gây được hứng thú cho học sinh: những bài tập được đưa ra phải
    phù hợp với vùng phát triển gần nhất của từng học sinh để tạo sự hứng thú, kích
    thích sự tò mò trong các em vừa giúp các em nắm chắc được kiến thức của môn
    học, bài học vừa biết vận dụng linh hoạt các kiến đó vào thực tế một cách hiệu quả
    nhất.
    – Giáo viên chuẩn bị các phiếu theo dõi quá trình học tập của học sinh làm cơ
    sở cho việc kiểm tra đánh giá được khách quan, tạo động cơ học tập tốt.
    – Căn cứ vào nội dung chương trình giảng dạy, giáo viên có thể sưu tầm và
    thiết kế các câu hỏi phù hợp cho từng dạng bài thuộc từng phần học, các bài tập gắn
    nội dung bài học với thực tiễn, bài tập phát triển năng lực, ôn tập theo tuần, theo chủ
    đề, ôn tập theo tích hợp liên môn và nghiên cứu sử dụng phối hợp giữa kỹ thuật sử
    dụng trò chơi dạy học và các kỹ thuật dạy học khác.
    2.3.3. Các bước sử dụng phần mềm Quizizz để tổ chức ôn tập kiến thức cho
    học sinh:
    Để sử dựng ứng dụng Quizizz tôi làm 5 bƣớc sau:
    a) Bƣớc 1: Tạo kênh liên lạc
    Thiết lập kênh liên lạc với phụ huynh: Mục đích của kênh này là để thông báo
    cho phụ huynh biết rõ thời gian làm bài của con, để phụ huynh có thể hỗ trợ và kiểm
    soát tốt việc sử dụng điện thoại/ máy tính của con qua nhóm zalo lớp. Việc này tôi
    làm ngay từ khi được phân công nhận lớp.
    14
    b) Bƣớc 2: Thiết lập tài khoản Quizizz cho giáo viên.
    – Vào trang web Quizizz.com và chọn “Sign Up”.
    15
    – Các thầy cô giáo đều có một gmail để sử dụng nên chúng ta sẽ chọn
    “Sign up with Google.”
    – Chọn gmail muốn dùng để đăng ký tài khoản Quizizz.
    16
    – Chọn ngành/lĩnh vực mà chúng ta sử dụng ứng dụng.
    Chọn “at a school”.
    – Chọn vai trò của chúng ta trong Quizizz.
    Giáo viên sẽ chọn “Teacher”, học sinh chọn “Student”, phụ huynh chọn
    “a parent”.
    17
    – Hoàn thiện thiết lập và chúng ta có giao diện của trang chủ.
    c) Bƣớc 3: Tạo bài kiểm tra trên Quizizz.
    – Trên giao diện của trang chủ, chọn nút Create  Quiz.
    18
    – Tại cửa số kế tiếp xuất hiện điền thông tin tên đề kiểm tra, môn.
    Giáo viên gõ tên đề, chọn môn sau đó chọn Next.
    Tạo tên bài tập
    19
    – Tại giao diện tiếp theo: Lựa chọn các hình thức câu hỏi.
    Chọn câu hỏi trắc nghiệm.
    + Multiple choice: Câu hỏi trắc nghiệm
    + Checkbox: Dạng trắc nghiệm có nhiều phương án trả lời.
    + Fill – in – the – Blank: Điền vào chỗ trống
    + Poll: Dạng survey thu thập thông tin, ý kiến học sinh.
    + Open- Ended: Dạng câu hỏi mở.
    Tùy thuộc vào kiểu câu hỏi cần kiểm tra mà các thầy cô có thể lựa chọn các
    hình thức khác nhau. Riêng với dạng bài ôn tập kiến thức, củng cố kĩ năng các môn
    học ở lớp 4, tôi thường chọn hình thức Multiple Choice (câu hỏi trắc nghiệm).
    20
    Ngoài ra, các thầy cô có thể thay đổi ảnh đại diện cho Quizizz, giới hạn thời
    gian cho từng câu hỏi, phân định mức độ cho câu hỏi với từng đối tượng học sinh
    của lớp mình.
    * Lựa chọn xong kiểu câu hỏi xuất hiện giao diện.
    21
    – Giáo viên gõ hoặc coppy nội dung câu hỏi từ nguồn có sẵn, chọn đáp án
    đúng -> nhấn nút Save.
    Tạo câu hỏi trong Quizizz.
    22
    – Muốn thêm câu hỏi các thầy cô vào “New question”.
    Có giao diện nhƣ sau:
    * Cứ nhƣ thế, gõ tiếp câu hỏi, đáp án và tích đáp án đúng cho các câu
    hỏi tiếp theo.
    23
    – Chọn “Publish” để lƣu lại Quiz vừa tạo.
    Ra đƣợc giao diện nhƣ sau:
    Thiết kế bài tập trong Quizizz: Bài ôn tập 1 toán 4C.
    24
    Thiết kế một số bài trong Quizizz.
    25
    *Lưu ý: Các thầy cô có thể tìm các Quiz có sẵn trên thư viện của ứng dụng
    bằng cách sau:
    Vào mục Search, gõ từ khóa cần tìm -> một danh sách các Quiz đã được tạo
    trước đó, thầy cô lựa chon Quiz phù hợp, chọn Edit -> để chỉnh sửa các câu hỏi
    sẵn có cho phù hợp với trình độ học sinh.
    d) Bƣớc 4: Giao bài cho học sinh
    – Nếu muốn cho học sinh chơi trực tiếp, thầy cô chọn “Start a live quizizz”.
    – Nếu muốn giao bài cho học sinh làm về nhà, chọn “Assign homework”->
    cài đặt ngày giờ nộp bài cho Quiz -> Continue -> Share link /Copy code gửi vào
    kênh liên lạc cho học sinh để học sinh làm bài.
    * Lưu ý: Có các thông số sau cần phải cài đặt:
    – Custom deadline: Hạn cuối để hoàn thành bài tập.
    – Participant attempts: Số lần học sinh có thể làm bài.
    – Show answers during activity: Cho xem đáp án ngay sau mỗi câu hỏi.
    – Show answers after activity: Cho xem đáp án sau khi làm xong tất cả đề
    kiểm tra.
    26
    Sau khi cài đặt để giao bài cho học sinh
    (Bài ôn tập 1 toán 4C)
    27
    e) Bƣớc 5: Mời học sinh tham gia:
    Có 2 cách để mời học sinh tham gia:
    – Cách 1: Yêu cầu học sinh truy cập trang web joinmyquiz.com và sau đó
    nhập mã code để vào game.
    – Cách 2: Thầy cô bấm chọn “Share link” để chia sẻ đường link với học
    sinh.
    Giáo viên chia sẻ đường Link trong nhóm lớp.
    28
    * Muốn thay đổi không khí học tập giáo viên cho học sinh làm bài trực tiếp
    để tạo không khí thi đua ai làm bài đúng và nhanh nhất. Khi làm trực tiếp giáo viên
    nhắn tin trên nhóm lớp ghi cụ thể giờ bắt đầu làm bài. Đúng đến giờ thì giáo viên
    Share Link để học sinh làm. Hết giờ làm giáo gửi kết quả cùng thứ tự xếp hạng của
    học sinh. Với hình thức này tôi thấy học sinh thích thú vô cùng. Tôi thường áp dụng
    hình thức làm bài trực tiếp đối với những bài học mà học sinh đã nắm vững được
    kiến thức nhưng hoạt động luyện tập củng cố trên lớp c

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Một số giải pháp góp phần phát triển năng lực tự học môn Toán cho học sinh lớp 5

    SKKN Một số giải pháp góp phần phát triển năng lực tự học môn Toán cho học sinh lớp 5

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Mục tiêu cơ bản của đổi mới giáo dục nước ta trong giai đoạn hiện nay
    là chuẩn bị cho người học khả năng áp dụng kiến thức một cách linh hoạt vào các
    bối cảnh và các vấn đề mới, hình thành thói quen tự học và học tập suốt đời. Để
    thực hiện được điều đó, trong dạy học nói chung và trong dạy học Tiểu học nói
    riêng, cần phát huy tối đa khả năng của người học. Trong đó, thay đổi phương
    pháp dạy học là một trong những yếu tố quan trọng trong thực hiện mục tiêu nói
    trên. Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI cũng nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
    phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động,
    sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ
    áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến
    khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát
    triển năng lực”;“Phải đổi mới phương pháp giáo dục, đào tạo, khắc phục lối
    truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho người học, đảm
    bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu”. Định hướng trên được nêu trong
    Luật Giáo dục (2009). Tại điều 5, Luật Giáo dục quy định: “Phương pháp giáo dục
    phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, khả
    năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Tại điều 28, Luật Giáo
    dục quy định:“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
    giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học;
    bồi dưỡng phương pháp tự học….”.
    Như vậy, tự học không chỉ là ý tưởng định hướng giáo dục mà còn là vấn
    đề được quy định trong Luật Giáo dục. Việc hình thành, phát triển năng lực tự học
    cho học sinh là nhiệm vụ hết sức quan trọng đáng quan tâm. Bởi, năng lực tự học
    giúp học sinh có khả năng học tập, tự học suốt đời để có thể tồn tại, phát triển
    trong xã hội tri thức và hội nhập quốc tế. Do đó, việc tìm ra các giải pháp hữu
    hiệu để trang bị cho người học năng lực tự học là nhu cầu bức thiết và mang ý
    nghĩa chiến lược đối với lợi ích trước mắt và lâu dài của ngành Giáo dục nói riêng
    và quốc gia nói chung.
    Tự học là cách học hiệu quả nhất trong cuộc đời của mỗi người. Chính
    vì thế, tự học cần được hình thành ngay từ khi khi đứa trẻ mới đến trường, đặc
    biệt là cấp Tiểu học – cấp học mà việc học tập trở thành hoạt động chủ yếu của
    2
    trẻ. Nhất là khi đại dịch Covid – 19 đang hoành hành khắp nơi trên thế giới, học
    sinh phải tạm dừng việc học ở trường thì việc tự học có ý nghĩa hơn bao giờ hết.
    Cùng với các môn học khác, môn Toán ở trường Tiểu học đóng vai trò
    quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục đề ra. Việc dạy học Toán ở Tiểu
    học cần đổi mới phương pháp dạy học để phát triển ở học sinh các năng lực học
    tập, trong đó đặc biệt là năng lực tự học, đây là vấn đề cốt lõi góp phần nâng cao
    chất lượng dạy học nói chung và dạy học môn Toán nói riêng.
    Tuy nhiên, từ thực tiễn ở trường Tiểu học, có thể nhận thấy: Việc phát
    triển năng lực tự học ở học sinh, nhất là các lớp Tiểu học còn nhiều hạn chế. Xuất
    phát từ việc giáo viên chưa có quy trình tổ chức cho học sinh tự học một cách có
    hệ thống. Bên cạnh đó, một số giáo viên còn hạn chế sử dụng các phương pháp
    dạy học mới, dẫn đến tình trạng dạy học áp đạt một chiều gây thói quen ỷ lại của
    học sinh. Về phía học sinh: Còn nhiều học sinh chưa nhận thức đúng đắn về ý
    nghĩa, giá trị của kiến thức Toán học mà tự giác, hứng thú học Toán, chưa biết
    cách tự học. Thực trạng này không những hạn chế kết quả học tập của học sinh
    hiện tại mà càng khó đạt chuẩn đầu ra về các dạng năng lực chung cũng như các
    năng lực Toán học ở trường Tiểu học nói riêng theo mục tiêu mới của chương
    trình GDPT trong giai đoạn tới.
    Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã quyết định nghiên cứu: “Một số
    giải pháp góp phần phát triển năng lực tự học môn Toán cho học sinh lớp
    5”.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    a. Về phía học sinh
    Đánh giá về tầm quan trọng của tự học, 76% học sinh cho rằng tự học rất
    quan trọng, 24% học sinh cho rằng tự học quan trọng. Điều này cho thấy học sinh
    đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của tự học. Tuy nhiên, khi khảo sát về
    thời gian của học sinh dành cho tự học, tôi thấy 100% học sinh ngoài thời gian học
    sinh trên lớp dành thời gian tự học nhưng thời gian tự học ở nhà khá ít. Cụ thể, thời
    gian như sau: 34% học sinh dành 30 phút, 32% học sinh dành 15 phút, 16% học
    sinh dành 1 tiếng và 18% học sinh dành trên 1 tiếng.
    Vậy động cơ học sinh học Toán là gì? Kết quả điều tra cho thấy, đa số
    học sinh (33%) tự học Toán vì sợ thầy cô phê bình, sợ cha mẹ phiền lòng, 30%
    học sinh học Toán vì biết được những giá trị, tác dụng do có kiến thức học Toán,
    3
    23% học sinh học Toán vì yêu thích Toán, 14% học sinh cho rằng tự học toán vì
    muốn được khen. Nhìn kết quả này, tôi thấy băn khoăn vì có đến 47% học sinh
    học Toán xuất phát từ động cơ bên ngoài, học Toán không vì đam mê, vì yêu
    thích, vì mong bản thân học được nhiều kiến thức bổ ích mà các em học Toán vì
    sợ cha mẹ, thầy cô phiền lòng, học Toán để đạt điểm cao. Điều này có thể ảnh
    hưởng đến hiệu quả của tự học.
    Trong phần khảo sát, tôi có tìm hiểu về mức độ biểu hiện tự học môn
    Toán của học sinh. Kết quả thu được xếp theo thứ tự từ cao đến thấp như sau:

    Vị
    trí
    Biểu hiệnMức độ
    Thường
    xuyên
    Đôi khibao giờ Không
    1Học môn Toán tập trung, kiên trì
    tìm cách giải quyết khi gặp bài
    Toán khó
    52 %40%8%
    2Tự sửa chữa bài làm sai của mình52%39%9%
    3Tóm tắt kiến thức toán đã học32%64%4%
    4Tự ôn tập, làm thêm bài Toán để
    củng cố kiến thức Tóm tắt kiến
    thức toán đã học
    28%64%8%
    5Chủ động hỏi ý kiến thầy cô, bạn
    bè khi có chỗ không hiểu hay
    muốn hiểu sâu về bài học
    34%51%15%
    6Trình bày kiến thức Toán dưới
    dạng sơ đồ tư duy để thấy rõ mối
    liên hệ
    33%46%21%
    7Thích đọc thêm tài liệu tham
    khảo về Toán để khám phá, mở
    rộng kiến thức
    34%39%27%
    8Tự đánh giá việc học môn Toán
    của bản thân và tự điều chỉnh
    28%43%29%
    9Tự lập kế hoạch học Toán và
    thực hiện kế hoạch đó
    19%41%40%

    Từ bảng trên, ta nhận thấy tự học môn Toán của học sinh được biểu hiện
    rất đa dạng. Dễ dàng nhận thấy rằng: tỉ lệ học sinh trình bày kiến thức Toán dưới
    dạng sơ đồ tư duy để thấy rõ mối liên hệ; thích đọc thêm tài liệu tham khảo về
    Toán để khám phá, mở rộng kiến thức; tự đánh giá việc học môn Toán của bản
    thân và tự điều chỉnh là tương đối thấp; đặc biệt tự lập kế hoạch học Toán và thực
    hiện kế hoạch của học sinh là rất thấp. Điều này, cho thấy việc xây dựng các giải
    4
    pháp nhằm phát triển năng lực tự học cho các em thông qua các việc làm cụ thể
    là rất cần thiết.
    b. Về phía giáo viên
    100% giáo viên nhận thức được các năng lực và phẩm chất cần hình
    thành ngay từ cấp Tiểu học trong đó có năng lực tự học. Khi được trao đổi, các
    thầy cô đều cho rằng việc phát triển năng lực tự học cho học sinh là một nhiệm
    vụ quan trọng. Tuy nhiên, một số giáo viên đang quan tâm nhiều về mục tiêu, nội
    dung, phương tiện dạy học và cách đánh giá hơn là phương pháp dạy học nhằm
    hình thành và phát triển năng lực tự học cho học sinh.
    c. Đánh giá chung
    – Ưu điểm:
    Về phía học sinh: Học sinh nhận thức đúng đắn về ý nghĩa, tác dụng và
    vai trò của tự học, có ý thức tự học, luôn dành thời gian cho tự học. Bước đầu hình
    thành được một số kĩ năng tự học: tự sửa chữa bài, tự thống kê kiến thức học, chủ
    động hỏi thầy cô khi cần giải đáp, tự ôn tập, tự lập kế hoạch học, thích đọc sách
    mở rộng kiến thức tuy mức độ thực hiện chưa thường xuyên.
    Về phía giáo viên: Hầu hết giáo viên đã nhận thức đúng đắn về vai trò
    của tự học, có ý thức rèn luyện giúp học sinh phát triển năng lực tự học, đã quan
    tâm đến các biều hiện tự học của học sinh và bước đầu triển khai một số giải pháp
    giúp học sinh phát triển năng lực tự học như: tạo hứng thú – niềm tin – ý chí cho
    các em khi học Toán, hướng dẫn các em triển khai các hoạt động tự học (lập kế
    hoạch tự học, trải nghiệm thực tiễn tự học, sử dụng các phương tiện tự học), tổ
    chức cho học sinh tự kiểm tra, đánh giá lẫn nhau, giúp đỡ học sinh khi gặp khó
    khăn trong tự học Toán.
    – Hạn chế và nguyên nhân:
    Về phía học sinh: Một số học sinh chưa tích cực tự giác, chưa thường
    xuyên, thời gian cho tự học ít dù được hỗ trợ tự lập kế hoạch tự học, nhưng thực
    hiện chưa nghiêm túc, chưa hiệu quả. Học sinh muốn học chóng xong, cảm thấy
    mất thời gian khi tự học, nản chí, không hứng thú vì chưa xác định được kết quả.
    Có lẽ, do học sinh chưa hiểu được vai trò/ ý nghĩa của môn học. Các kĩ năng tự học
    của học sinh còn hạn chế. Học sinh chưa có kĩ năng lập kế hoạch tự học dẫn đến
    phân bố thời gian học chưa hợp lí.
    Về phía giáo viên: Giáo viên chưa có giải pháp tích cực để phát triển
    năng lực tự học cho học sinh một cách thường xuyên. Giáo viên chưa tận dụng
    5
    hết thời gian học buổi hai trong ngày giúp học sinh tự học. Năng lực dạy học phân
    hóa của giáo viên chưa đáp ứng đa dạng trình độ học sinh trong lớp.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1. Sự cần thiết đề xuất các giải pháp
    Việc phát triển năng lực tự học là yêu cầu quan trọng trong dạy học các
    môn học nói chung và môn Toán ở Tiểu học nói riêng bởi những lí do sau:
    Thứ nhất, kiến thức của nhân loại nói chung, kiến thức của môn Toán
    nói riêng vô cùng nhiều. Trong thời gian ở lớp, giáo viên không thể cung cấp được
    hết các kiến thức. Thay vào đó, giáo viên hình thành các cách tiếp cận tri thức/
    năng lực tự học để có em có phương pháp học, có kĩ năng và thái độ học tập đúng
    đắn, đây là giải pháp phát triển bản thân bền vững theo xu thế của xã hội hiện đại.
    Thứ hai, phát triển năng lực tự học cho học sinh trong dạy học Toán học
    góp phần tích cực vào đổi mới phương pháp dạy học, hướng tới tích cực hóa hoạt
    động của người học. Học sinh trở thành người chủ động, giáo viên định hướng và
    kiểm soát quá trình học tập.
    Thứ ba, phát triển năng lực tự học cho học sinh trong môn Toán là thực
    hiện mục tiêu đào tạo con người trong thời đại mới. Năng lực tự học rất cần thiết
    cho mỗi con người đặc biệt trong thời kì phát triển mới của đất nước. Đây được
    coi là nội lực thúc đẩy con người tự trau dồi, tự hoàn thiện để thích ứng với cuộc
    sống.
    2.2. Tính mới của giải pháp
    Từ thực tiễn giảng dạy và nhận thấy được sự cần thiết của vấn đề nêu
    trên, tôi đã mạnh dạn áp dụng những giải pháp góp phần phát triển năng lực tự
    học môn Toán cho học sinh lớp 5. Tính mới của giải pháp:
    – Lên kế hoạch và tổ chức thành công Diễn đàn “Em học Toán để làm
    gì”. Qua diễn đàn, tôi đã giúp học sinh hiểu về giá trị của môn Toán. Bản thân tôi
    tìm hiểu được những khó khăn của học sinh khi học Toán để tìm ra hướng giúp
    đỡ các em. Tôi nhận thấy rằng, việc giúp học sinh nhận ra ý nghĩa của Toán học,
    tạo hứng thú, sự tự tin cho học sinh khi học Toán là cách thôi thúc học sinh học
    Toán.
    – Thiết kế được mẫu phiếu Kế hoạch học Toán của em giúp học sinh lên
    được kế hoạch tự học môn Toán mỗi ngày.
    – Thiết kế được tài liệu Cùng em học Toán nhằm giúp học sinh vận dụng
    kiến thức đã được học để giải quyết một số tình huống nêu trong bài, tạo nên được
    6
    hệ thống các bài tập liên kết giữa phụ huynh và học sinh, thiết kế được các hoạt
    động giúp học sinh chuẩn bị bài mới.
    – Thiết kế được các mẫu phiếu phản hồi, tự đánh giá theo ngày, theo
    tuần giúp học sinh tự nhận xét, đánh giá bản thân. Bên cạnh đó, qua phiếu, giáo
    viên cũng biết được các em đã học được gì, còn gặp khó khăn ở nội dung nào để
    có phương hướng giúp đỡ các em.
    – Hướng dẫn học sinh sử dụng các loại tài liệu tham khảo (bao gồm cả
    tài liệu Song ngữ), cung cấp các đường link học tập đáp ứng nhu cầu học Toán
    của học sinh.
    Bên cạnh đó, sáng kiến cũng tạo ra được các hoạt động vận dụng giúp
    học sinh ứng dụng kiến thức Toán học vào thực tiễn, tạo ra các hoạt động tạo lập
    kiến thức mới giúp học sinh tự khám phá kiến thức mới.
    2.3. Một số giải pháp góp phần phát triển năng lực tự học môn Toán cho học
    sinh lớp 5.
    2.3.1. Giúp học sinh nhận thức được ý nghĩa, vai trò của Toán học trong cuộc
    sống thông qua các hoạt động học tập
    Hình thành động cơ học tập cho học sinh qua việc giúp học sinh nhận ra
    ý nghĩa của Toán học là cách thôi thúc học sinh học Toán.
    a. Tổ chức diễn đàn: “Bạn học Toán để làm gì?”
    Theo cá nhân tôi, ngày từ đầu năm học, cần tổ chức diễn đàn, tạo cho học
    sinh cơ hội tranh luận, lấy các ý kiến cá nhân rộng rãi, trao đổi về vấn đề tại sao
    cần học Toán. Thông qua đó, học sinh nhận thấy được ý nghĩa, vai trò của môn
    Toán đối với sinh hoạt hàng ngày, đối với các môn học trong nhà trường và đối
    với sự phát triển của khoa học trong đời sống hiện đại… Bên cạnh đó, qua việc
    tìm hiểu những khó khăn của học sinh khi học Toán trong buổi diễn đàn giúp giáo
    viên có những phương thế hữu hiệu để giúp các em học Toán.
    7
    Một số hoạt động và cách tiến hành:

    Hoạt động 1: Chia sẻ nhận thức về ứng dụng của Toán học
    Mục tiêu: Giúp học sinh nhận ra được các ứng dụng của Toán học và thấy được
    sự cần thiết phải học môn Toán.
    Cách tiến hành:
    – Giáo viên phát cho học sinh tấm thẻ với yêu cầu: “Ghi lại một lí do mà em cho
    là quan trọng nhất để thuyết phục một bạn nên chăm chỉ học môn Toán hơn”.
    – Giáo viên cho học sinh trao đổi trước lớp.
    – Sau khi học sinh chia sẻ xong, giáo viên cùng cả lớp cùng phân tích làm rõ
    một lí do mà đa số cho là quan trọng nhất. Chẳng hạn, đối với học sinh lớp 5,
    chia sẻ về các ứng dụng gần gũi dễ thấy của Toán học như sau: Yêu cầu học
    sinh giải quyết các nhiệm vụ:
    Tình huống: “Từ nhà cô đến trường có thể đi qua 2 con đường. Nhìn vào hình
    vẽ, các con có thể cho cô biết, nên đi đoạn đường nào gần hơn? Vì sao?”
    + Học sinh nêu cách để tìm câu trả lời và thống nhất kết quả.
    + Giáo viên rút ra kết luận: Để giải quyết nhiệm vụ nêu trên nếu tách rời kiến
    thức Toán học thì câu trả lời thiếu căn cứ và mò mẫm.
    – Giáo viên cho học sinh lấy ví dụ thêm về ứng dụng của Toán học trong thực
    tiễn.
    Hoạt động 2: Bàn tay tin cậy
    Mục tiêu: Học sinh chủ động chia sẻ những khó khăn khi học Toán và vẽ bàn
    tay tin cậy liệt kê những người có thể giúp đỡ khi gặp khó khăn trong học Toán.
    Cách tiến hành:
    – Giáo viên chia lớp thành các nhóm. Các nhóm thảo luận và ghi lại những khó
    khăn khi học Toán vào tờ A0. Đây là cơ hội để các em cùng nhau tháo gỡ những
    khó khăn mà các em chưa hoặc ít khi bày tỏ. Qua đó, giáo viên phân tích và tìm
    những giải pháp hữu hiệu giúp các em vượt qua để tự tin – chủ động học Toán.

    8

    – Sau đó, học sinh vẽ bàn tay tin cậy. Trên mỗi đầu ngón tay ghi tên một người
    mà đối với các em có thể giúp đỡ khi các em gặp khó khăn học Toán. Sau 5
    phút, các em chia sẻ trước lớp.

    9
    b. Tổ chức tốt các hoạt động vận dụng trong mỗi tiết học nhằm giúp học sinh
    “mang Toán học vào cuộc sống”
    Theo UNESCO nói với công dân toàn cầu: “Học để biết, học để làm, học
    để chung sống”, theo yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì dạy học các cấp
    đều hướng tới “Phát triển năng lực người học”. Tuy nhiên, đối với học sinh nhỏ
    tuổi, thì những câu nói đó chỉ như một khẩu hiệu trống rỗng. Vậy làm cách nào
    giúp học sinh nhận ra ý nghĩa và thấy cần thiết tự học các môn học nói chung và
    môn Toán nói riêng? Tôi cho rằng mỗi giáo viên trên cơ sở hiểu rõ đối tượng học
    sinh và thông qua các bối cảnh cụ thể giúp học sinh sử dụng kiến thức môn Toán
    đã học để giải quyết một số nhiệm vụ trong đời sống thực tiễn khi có thể qua mỗi
    tiết học.
    Các hoạt động vận dụng được tổ chức cần được xây dựng thu hút sự tò
    mò, hứng thú của học sinh đồng thời thể hiện được ý nghĩa thực tiễn của nội dung
    Toán được học. Đây vừa là cơ hội để học sinh thực hiện thành công, đạt kết quả
    mong muốn của bài học nhưng đồng thời cũng là thời điểm để học sinh phát triển
    10
    đa dạng các năng lực trí tuệ. Dưới đây, tôi có thiết kế một số hoạt động, giáo viên
    có thể tham khảo linh hoạt để tổ chức cho học sinh:

    Hỗn số
    Mục tiêu: Vận dụng kiến thức đã học về hỗn số để chia đồ vật theo số lượng
    yêu cầu.
    Nội dung: Chia kẹo.
    Cách tiến hành
    – Giáo viên chia lớp thành các nhóm. Với số lượng kẹo được phát, giáo viên yêu
    cầu học sinh lấy số kẹo biểu diễn hỗn số 2 1
    2
    .
    – Sau thời gian 5 phút, đại diện nhóm sẽ trình bày ý tưởng lấy và kết quả.
    – Nhóm nào đúng sẽ giành chiến thắng.
    Bảng đơn vị đo độ dài
    Mục tiêu: Vận dụng kiến thức về đo lường để biểu diễn con đường từ nhà đến
    trường.
    Nội dung: Đường em đến trường.
    Cách tiến hành:
    – Giáo viên phát cho mỗi tờ giấy A4. Nhiệm vụ của của từng học sinh vẽ tấm
    bản đồ biểu thị khoảng cách từ nhà các thành viên trong nhóm đến trường.
    – Hết thời gian, đại diện nhóm báo cáo kết quả. Giáo viên và các thành viên
    trong lớp nhận xét góp ý kiến.

    11

    Bảng đơn vị đo khối lượng
    Mục tiêu: Giúp học sinh biết cân đồ vật và nói được khối lượng của vật.
    Nội dung: Thực hành cân khối lượng đồ vật bằng các cân khác nhau.
    Cách tiến hành:
    – Giáo viên chia lớp thành nhóm 4.
    – Giáo viên chuẩn bị trước một số đồ vật để học sinh thực hành cân tương ứng
    với các loại cân: cân đĩa, cân đồng hồ, cân điện tử.
    – Học sinh thực hành cân theo cách giáo viên đã hướng dẫn nêu kết quả, nói
    kinh nghiệm làm thế nào cân nhanh và chính xác.
    Ôn tập và bổ sung về giải toán
    Mục tiêu: Vận dụng kiến thức về thống kê ghi được giá sản phẩm, qua đó giải
    quyết được mội số tình huống liên quan.
    Nội dung: Làm bảng giá các loại sách giáo khoa.
    Tên sách Giá tiềnCách tiến hành:
    – Giáo viên chia lớp thành nhóm 4.
    – Giáo viên phát cho mỗi nhóm phiếu hoạt động nhóm.
    – Nhiệm vụ của các nhóm thiết kế bảng giá giúp cửa hàng bán đồ sách vở, đồ
    dùng học tập.
    – Hết thời gian, nhóm nào liệt kê nhiều và đúng giá mặt hàng nhất, nhóm đó
    giành chiến thắng.
    – Giáo viên có thể hỏi thêm các câu hỏi liên quan để học sinh thực hành tính
    tiền.
    Chẳng hạn: Muốn mua 1 quyển sách giáo khoa Toán và 1 quyển sách Tiếng
    Việt hết bao nhiêu tiền?……

    12

    Số thập phân
    Mục tiêu: Vận dụng kiến thức đã học về đo lường, đọc – viết số để ghi lại số
    đo của đồ vật.
    Hoạt động: Học sinh sử dụng các dụng cụ đo để đo một số vật: chiều dài của
    bút, chiều rộng của bàn, chiều cao chân bàn, chiều dài, rộng của sách giáo
    khoa,..
    Cách tiến hành:
    – Giáo viên chia lớp thành các nhóm và yêu cầu các nhóm sử dụng các dụng
    cụ đo để đo một số đồ vật và điền vào bảng:
    Tên đồ vật Độ dài (m)BútChân bànChiều dài của bàn……………………- Học sinh trong các nhóm tiến hành đo. Hết thời gian, học sinh báo cáo kết
    quả.
    So sánh số thập phân
    Mục tiêu: Vận dụng so sánh số thập phân để phân tích chiều cao của mỗi thành
    viên trong lớp.
    Nội dung: Học sinh sử dụng các dụng cụ đo để đo chiều cao của các bạn và ghi
    lại theo đơn vị mét. Phân tích bảng và chỉ ra những bạn thấp hơn 1,5 m; những
    bạn cao hơn 1,5 m.
    Cách tiến hành:
    – Giáo viên chia lớp thành các nhóm.
    – Yêu cầu các nhóm sử dụng các dụng cụ đo để đo một số đồ vật và điền vào
    bảng:
    Thành viên Chiều cao(m)Nguyễn Hoàng Tân…………………..……………………- Học sinh trong các nhóm tiến hành đo và phân tích kết quả đo.
    – Hết thời gian, học sinh báo cáo kết quả.

    13

    Các phép tính với số thập phân
    Mục tiêu: Tính được chỉ số BMI và đưa ra được nhận xét về tình trạng cơ thể
    của một người.
    Nội dung: Nhớ và ghi lại chiều cao, cân nặng của các bạn trong nhóm. Sau đó
    thực hành tính chỉ số BMI = Cân nặng: (chiều cao x chiều cao). Thực hành
    phân tích chỉ số:
    Cách tiến hành:
    – Giáo viên chia lớp thành các nhóm.
    – Học sinh ghi lại chiều cao, cân nặng, sau đó tính và phân tích kết quả.
    – Hết thời gian, học sinh báo cáo kết quả.
    Nhóm 5
    BẢNG CHỈ SỐ BMI
    Thành viên Cân nặng ( kg ) Chiều cao ( m) Chỉ số BMINguyễn Duy Hiếu 31 1,35 17,0Đinh Lan Anh 26 1,26 16,4Nguyễn Đức Mạnh 42,5 1,41 21,7Phan Thị Thi 28 1,45 13,3Vũ Yến Nhi 29 1,34 16,2Nhận xét: Nhìn vào bảng ta thấy, bạn Duy Hiếu, Lan Anh, Yến
    Nhi cơ thể phát triển bình thường. Bạn Mạnh thừa cân, bạn Thi thiếu
    cân.

    14

    Tỉ số phần trăm
    Mục tiêu: Vận dụng cách tính tỉ số % để tính được lợi nhuận (lãi – lỗ).
    Nội dung: Nhà kinh doanh tài năng.
    Cách tiến hành:
    – Các nhóm tìm hiểu các mặt hàng dễ tiêu thụ.
    – Lên kế hoạch bán sản phẩm gì/ với số lượng, giá cả như thế nào? (bán sách vở
    đồ dùng cũ,….).
    Mẫu phiếu gợi ý:
    Tổ……
    Các sản phẩm của tổ………….
    Sản phẩm Giá bán Số lượng bán- Tiến hành bán hàng với các bạn trong lớp (tiền quy đổi bẳng thẻ tiền được
    chuẩn bị từ trước đó): thẻ 1000 đồng, thẻ 2000 đồng, thẻ 5000 đồng, thẻ 10000
    đồng.
    – Tính tiền lỗ, lãi sau khi bán.
    Gian hàng tổ 1

    15

    Hình tròn (tương tự như hình tam giác, hình thang)
    Mục tiêu: Tạo ra được sản phẩm có dạng hình tròn.
    Nội dung: Vẽ trang trí hình tròn.
    Cách tiến hành:
    – Giáo viên phát cho mỗi học sinh 1 tờ giấy A4.
    – Nhiệm vụ của học sinh vẽ một sự vật bất kì có hình tròn.
    – Sau khi vẽ xong, học sinh trưng bày, giới thiệu sản phẩm của mình tại góc
    sáng tạo.
    Một số sản phẩm:

    16

    Luyện tập về tính diện tích
    Mục tiêu: Khắc sâu công thức tính diện tích của một số hình phẳng.
    Nội dung: Sáng tác thơ.
    Cách tiến hành:
    – Giáo viên chia lớp thành các nhóm.
    – Các nhóm cùng sáng tác các bài thơ nói về cách tính diện tích các hình phẳng
    đã được học (các nhóm đã được giao nhiệm vụ chuẩn bị trước đó).
    – Hết thời gian, các nhóm cùng chia sẻ. Các tổ nhận xét về tính chính xác của
    các công thức + chấm tổ nào sáng tác hay.
    – Trong quá trình thảo luận nhóm, giáo viên có thể hỗ trợ nếu học sinh cần.
    Dưới đây là bài sáng tác của tổ 3:
    Diện tích các hình
    Muốn tính diện tích hình vuông
    Lấy cạnh nhân cạnh dễ dàng ra ngay.
    Hình chữ nhật dễ lắm thay
    Dài nhân vớ’i rộng ra ngay ấy mà.
    Diện tích tam giác dễ ra
    Chiều cao nhân cạnh chia hai ra liền.
    Hình thang hai đáy cộng liền
    Chiều cao nhân tổng chia hai ra rồi
    Hình tròn thế này bạn ơi
    Bán kính- bán kính bạn đem nhân nào
    Ba phẩy mười bốn nhân vào
    Tính toán cẩn thận thế nào cũng ra.

    17

    Luyện tập (Ôn tập: Hình học không gian)
    Mục tiêu: Vận dụng kiến thức đã được học để tính diện tích xung quanh, diện
    tích toàn phần của một vật dạng hình hộp chữ nhật, hình lập phương.
    Nội dung: Thực hành đo một số đồ vật và tính diện tích xung quanh, diện tích
    toàn phần của hình.
    Cách tiến hành:
    – Giáo viên yêu cầu học sinh đo các đồ vật và tính diện tích xung quanh, diện
    tích toàn phần hình có dạng hình lập phương, hình hộp chữ nhật.
    Biểu đồ hình quạt
    Mục tiêu: Vẽ và phân tích được biểu đồ hình quạt dựa trên số liệu trong đời sống.
    Nội dung: Vẽ biểu đồ hình quạt biểu diễn số học sinh thích chơi đá bóng, số học
    sinh thích chơi đá cầu, số học sinh thích chơi cầu lông.
    Cách tiến hành:
    – Chủ tịch hội đồng tự quản điều hành giúp cả lớp thống kê: Sở thích chơi các
    môn thể thao của học sinh trong lớp.
    – Các nhóm chủ động ghi số lượng vào giấy. Sau đó thực hành vẽ.
    – Hết thời gian, đại diện một số nhóm trình bày, cả lớp nhận xét.

    Môn Số
    lượng%Đá bóng 20 50Đá cầu 10 25Cầu lông 10 25

    18
    2.3.2. Giúp học sinh tự học ở nhà hiệu quả
    a. Hướng dẫn học sinh lập kế hoạch tự học
    Mọi việc sẽ dễ dàng hơn nếu người học xác định được mục tiêu, nội dung
    và phương pháp học. Muốn vậy, người học phải xây dựng kế hoạch học tập.
    Trong quá trình lập kế hoạch học phải chú ý:
    Thứ nhất: Tính vừa sức
    Thứ hai: Tính rõ ràng
    Thứ ba: Tính định hướng về mục tiêu và kết quả cần đạt
    Để học sinh có thể lên được kế hoạch học tập, bản thân giáo viên phải
    nắm vững được chương trình học: nội dung học, thời gian học để trao đổi với học
    sinh.
    Để giúp học sinh tự lập kế hoạch học, tôi gợi ý xây dựng Kế hoạch học
    Toán của em. Kế hoạch học toán của em (dành cho hằng ngày) gồm các mục
    sau:
    Mục 1: Kế hoạch ôn tập (Những nội dung đã học nhưng còn chưa chắc
    chắn, hình thức ôn tập):
    => Thông qua mục này, giúp học sinh hệ thống kiến thức đã học, định
    hướng về những vấn đề cần xem lại, tự ôn tập? Học vào lúc nào? Học như thế
    nào? Xác định nếu gặp khó khăn thì sẽ nhờ trợ giúp từ đâu?
    Mẫu kế hoạch:

    Em sẽ dành thời gian ôn tập nội dung kiến thức Toán nào? Em sẽ ôn nội dung đó
    bằng hình thức nào (đọc lại nội dung lý thuyết, làm bài tập, giải quyết một công
    việc liên quan…)? Em dành thời gian bao lâu để ôn tập?

    \
    Mục 2: Em chuẩn bị (chuẩn bị bài mới như thế nào?): Mục đích định
    hướng học sinh xác định mục tiêu đạt được trong tiết toán tiếp theo, tự lên kế
    hoạch chuẩn bị nội dung học để đạt được mục tiêu đề ra.
    => Thông qua mục này, giúp học sinh chủ động đọc trước bài mới, chuẩn
    bịbài cho bài học hôm sau.
    Mẫu kế hoạch:

    Trong tiết toán tiếp theo, em sẽ học bài nào? Em cần học được gì?
    Em sẽ ôn lại nội dung toán gì để tiếp thu tốt bài học tiếp theo?
    Em sẽ nhờ ai giúp nếu khó khăn hay tự mình chuẩn bị cho tiết Toán tiếp theo?

    19

    Tên: …………….
    Lớp: ……………
    Kế hoạch học Toán của em
    Thứ……ngày…..tháng…..năm….

    Kế hoạch ôn tập
    Em chuẩn bị
    Em sẽ dành thời gian ôn tập nội dung kiến
    thức Toán nào? Em sẽ ôn nội dung đó bằng
    hình thức nào (làm bài tập, đọc, …)?
    ……………………………………………
    ……………………………………………
    ……………………………………………
    ………….…………………………………
    Em dành thời gian bao lâu để ôn tập ?
    ……………………………………………
    …………………………………………….
    Trong tiết Toán tiếp theo, em sẽ học bài:
    ………………………………………
    Em muốn mình sẽ học được gì?
    ……………………………………………
    ……………………………………………
    …………………………………………..
    Em sẽ ôn lại nội dung gì để chuẩn bị cho
    tiết Toán tiếp theo?
    ……………………………………………
    ……………………………………………
    …………………………………………..
    Em gặp khó khăn thì sẽ nhờ trợ giúp từ ai
    hay tự mình chuẩn bị giải quyết?
    …………………………………………
    ……………………………………………
    ……………………………………………
    20
    b. Thiết kế các hoạt động hỗ trợ học sinh tự học ở nhà
    Việc tạo đam mê, hứng thú, yêu thích môn học là một trong những yếu
    tố giúp học sinh khắc phục được những khó khăn, sự mệt mỏi trong quá trình học
    tập. Vì vậy, trên cơ sở gợi ý theo mẫu phiếu Kế hoạch học Toán của em, tôi đã
    thiết kế tài liệu Cùng em học Toán. Các hoạt động trong tài liệu được thiết kế
    không chỉ giúp học sinh ôn tập được kiến thức đã học trên lớp dưới nhiều hình
    thức mà còn hướng dẫn các em chuẩn bị nội dung cho bài học mới phù hợp với
    đặc điểm của học sinh Tiểu học là tự học có hướng dẫn. Nội dung tài liệu tôi thiết
    kế gồm 3 phần:
    A. Thực hành
    Học sinh sẽ vận dụng kiến thức Toán được học trên lớp để thực hành.
    B. Học Toán cùng người thân
    Học sinh sẽ thực hiện nhiệm vụ học tập cùng với người thân trong gia
    đình. Phụ huynh có cơ hội được đồng hành cùng con học, tạo sự gắn kết gia đình,
    niềm vui cho mọi người.
    21
    C. Thử sức
    Phần này lồng ghép kiến thức của bài học hôm sau. Học sinh sẽ nghiên
    cứu, tìm tòi và đưa ra kết quả của bài tập.
    Dưới đây là một số ví dụ minh họa:

    Ôn tập phân số
    A. Thực hành
    Bài 1. Em hãy biểu diễn phân số: 2
    5,
    1 4
    ,
    2 3
    .
    Bài 2. Em hãy cắt một đoạn dây 20 cm, chia đoạn dây thành 5 phần, cắt lấy 2
    phần của đoạn dây đó.
    B. Học Toán cùng người thân
    Em hãy viết một phân số, rồi hỏi những người trong gia đình một phân số bằng
    phân số em vừa viết.
    C. Thử sức
    Đố em chuyển được phân số 2
    5
    thành phân số có mẫu số là 10, 100, 1000,…
    Những phân số mới vừa tìm được theo em còn có tên gọi là gì?
    Phân số thập phân
    A. Thực hành
    Bài 1. Ghi lại hiểu biết của em về phân số thập phân.
    Lấy 2 ví dụ minh họa.

    22

    Bài 2. Chuyển các phân số sau về phân số thập phân có mẫu số bằng 100: 2
    5,
    7
    25,
    8
    10
    ,
    9 2
    ,
    17
    4
    .
    B. Học Toán cùng người thân
    Cùng những người trong gia đình viết 10 phân số bất kì.
    Khoanh vào phân số có thể chuyển thành phân số thập phân. Tổ chức cuộc thi,
    ai khoanh đúng nhiều hơn sẽ giành chiến thắng.
    C. Thử sức
    Số thành viên trong gia đình em là…….
    Lấy số đó cộng với 2
    5
    được kết quả……..
    Lấy số đó trừ đi 2
    5
    được kết quả…………
    Lấy số đó nhân với 2
    5
    được kết quả………
    Lấy số đó chia cho 2
    5
    được kết quả………..
    Các phép tính với phân số
    A. Thực hành
    Bài 1. Tỉ số giữa thành viên nam và nữ trong gia đình em là………
    Lấy số đó cộng, trừ, nhân, chia với số thành viên trong gia đình lần lượt được
    kết quả là………………., ………………, …………………….
    Bài 2. Có 1 số quả bóng (như hình vẽ) gồm 3 loại bóng màu xanh, đỏ, vàng.
    Tô màu đỏ vào 1
    3
    số bóng, tô màu xanh vào 1
    2
    số bóng.
    Phân số chỉ số quả bóng màu vàng là………Tô màu vàng vào số bóng đó.
    B. Học Toán cùng người thân
    Em nhờ bố mẹ lấy 2 phân số bất kì. Lập các phép tính có thể có và cho đáp số.
    C. Thử sức
    a. Mẹ cho Minh 2 chiếc bánh. Vẽ hình biểu diễn số bánh mẹ cho Minh.
    b. Mẹ cho Minh thêm 1
    4
    chiếc bánh. Vẽ hình biểu diễn số bánh mẹ cho Minh
    thêm.
    c. Vẽ hình biểu diễn số bánh mẹ cho Minh tất cả.

    23

    Hỗn số
    A. Thực hành
    Bài 1. Vẽ hình biểu diễn hỗn số 2 2
    3
    , 1 1
    4
    Bài 2. Ba bạn Phương, Hà, Thương cùng đi hái dâu tây. Phương hái được 1 hộp
    và 1
    2
    hộp, Hòa hái được 1 hộp và 3
    4
    hôp, Dương hái được số dâu tây bằng tổng
    số dâu tây của hai bạn.
    Viết hỗn số biểu diễn số hộp dâu tây mà mỗi bạn hái được.
    B. Học Toán cùng người thân
    Nhờ bố mẹ viết giúp 2 hỗn số. Hãy lập các phép tính và tính kết quả của phép
    tính. Hãy nhờ bố mẹ kiểm tra khi làm xong nhé!
    C. Thử sức
    Tìm hiểu một số giá tiền của các loại sách giáo khoa và tự lập bảng (gợi ý: tên
    sách, giá tiền/1 quyển). Tự đặt 1 bài toán dạng rút về đơn vị em đã được học từ
    lớp dưới.
    Giải toán có lời văn
    A. Thực hành
    Bài 1. Tìm hiểu trên thị trường giá của 1 thùng sữa Milo. Sau đó, hoàn thành
    bảng sau:
    Số thùng sữa 1 thùng 2 thùng 3 thùngSố tiền( đồng)Khi số thùng sữa tăng lên bao nhiêu lần thì số tiền……………………………………..
    Bài 2. Hoàn thành bảng sau:
    Số bánh ở mỗi hộp 2 4 6Số hộp đựng bánh 60Khi số bánh ở mỗi hộp tăng lên thì số hộp đựng bánh…………………………
    B. Học Toán cùng người thân
    Cùng mọi người trong gia đình lên thực đơn cho bữa trưa ngày mai.
    C. Thử sức
    Đơn vị tính của tiền mà em biết là: ………………………………………….
    Theo em, đơn vị đo độ dài là: ……………………………………………….

    24

    Bảng đơn vị đo độ dài
    A. Thực hành
    Bài 1. Vẽ sơ đồ biểu thị mối quan hệ giữa các đơn vị đo độ dài.
    Bài 2. Điền đơn vị đo thích hợp
    a. Chiều dài của lớp học là 8 …
    b. Chiều dài của quyển vở là 20………….
    c. Quãng đường từ thành phố Nam Định đến thủ đô Hà Nội khoảng 86…….
    d. Quãng đường từ nhà em đến trường khoảng 1700…
    B. Học Toán cùng người thân
    Thực hành đo chiều cao của từng thành viê

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Phát triển năng lực học sinh lớp 5 thông qua các bài toán tìm vận tốc trong các tình huống thực tế

    SKKN Phát triển năng lực học sinh lớp 5 thông qua các bài toán tìm vận tốc trong các tình huống thực tế

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Năm học 2020 – 2021 là năm học đầu tiên thực hiện chương trình GDPT 2018.
    Một trong những điểm mới nhất là đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá
    theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Trong đó môn Toán có vai trò quan trọng,
    hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất, năng lực chung và các năng lực
    toán học với các thành tố cốt lõi là: năng lực tư duy và lập luận toán học, năng lực mô
    hình học toán học, năng lực giải quyết vấn đề toán học, năng lực sử dụng các công cụ và
    phương tiện học toán; phát triển các kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội để học
    sinh trải nghiệm, áp dụng toán học vào đời sống thực tiễn. Đồng thời môn Toán giúp
    học sinh bước đầu xác định được năng lực, sở trường của bản thân nhằm định hướng và
    lựa chọn nghề nghiệp, rèn luyện nhân cách để trở thành người lao động và người công
    dân có trách nhiệm.
    Trong chương trình toán lớp 5, một trong những nội dung mà các em được học là
    toán chuyển động đều. Đây là một mảng kiến thức quan trọng nhưng lại chiếm một thời
    lượng nhỏ và tương đối trừu tượng đối với học sinh nên việc nắm bắt kiến thức về dạng
    toán này của các em còn chưa sâu. Học sinh còn vận dụng máy móc công thức để tính,
    chưa hiểu bản chất của vấn đề. Việc vận dụng các kiến thức chuyển động vào thực tiễn
    cuộc sống của các em còn nhiều hạn chế.
    Các bài toán chuyển động có nhiều ứng dụng trong thực tế cuộc sống, chúng cung
    cấp lượng vốn sống hết sức cần thiết cho học sinh. Trong đó thì các bài tập về tính vận
    tốc là một nội dung rất hay và thú vị, gắn nhiều với thực tiễn cuộc sống. Chúng cung cấp
    cho học sinh những kiến thức cơ bản về toán chuyển động và có nhiều ứng dụng trong
    thực tế cuộc sống. Mặt khác các bài toán vận tốc còn có tính tích hợp rất cao, nó tích
    hợp các kiến thức nội môn, liên môn, tăng vốn hiểu biết về an toàn giao thông. Các kiến
    thức trong toán chuyển động là những điều mà các em thường gặp và vận dụng thông
    qua việc tham gia giao thông hàng ngày. Đặc biệt là kiến thức về vận tốc của một vật
    hoặc một phương tiện giao thông. Nhờ hiểu được thế nào là vận tốc sẽ giúp các em có kĩ
    năng tính vận tốc của vật, của người, của phương tiện, từ đó giáo dục học sinh ý thức
    tham gia giao thông, ý thức về giờ giấc. Các em có thể lên kế hoạch cho những buổi đi
    2
    học, đi chơi, tham quan, du lịch,…qua đây học sinh có thể đưa ra thời gian biểu cho
    những công việc cụ thể trong ngày. Các em bước đầu biết lập kế hoạch, phân chia thời
    gian để thực hiện kế hoạch,… Xuất phát từ việc tìm hiểu nguyên nhận của những vướng
    mắc, tồn tại, hạn chế của giáo viên và học sinh khi dạy và học về toán chuyển động đều
    nói chung và vận tốc nói riêng. Tôi đưa ra sáng kiến: “Phát triển năng lực học sinh lớp
    5 thông qua các bài toán tìm vận tốc trong các tình huống thực tế”. Trong quá trình
    giảng dạy tôi và đồng nghiệp của mình đã thực hiện biện pháp này và đã đạt được những
    hiệu quả tốt .
    PHẦN II: MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Thực trạng việc dạy và học nội dung toán chuyển động đều trong chương
    trình toán 5.
    a) Ưu điểm:
    – Xác định đúng dạng toán: tìm vận tốc, tìm quãng đường, tìm thời gian.
    – Biết áp dụng công thức để tìm vận tốc trong các bài toán có các yếu tố tường
    minh và đa số học sinh biết áp dụng công thức để tính vận tốc trong các bài toán có các
    yếu tố chưa tường minh (mức độ 2)
    – Biết thực hiện giải và trình bày bài lời giải bài toán, hiểu và viết đúng đơn vị của
    đại lượng đo vận tốc.
    – Giáo viên thực hiện tốt phân phối chương trình, nội dung môn học, nhiều giáo
    viên đã tích cực trong việc đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học
    – Bước đầu đã gắn kết các bài học với thực tế để phát triển năng lực, phẩm chất
    học sinh.
    b) Hạn chế và nguyên nhân hạn chế:
    * Hạn chế:
    – Tính sai, viết sai đơn vị đo vận tốc; chuyển đổi, tính toán đơn vị đo thời gian sai
    – Nhầm lẫn giữa: khoảng thời gian đi, thời gian nghỉ, thời điểm đến và thời điểm
    xuất phát
    – Khó khăn trong việc tìm vận tốc trung bình của một chuyển động có vận tốc
    thay đổi trên một đoạn đường
    3
    – Chưa phát hiện được vấn đề khi gặp các bài toán chuyển động gắn với các tình
    huống thực tế
    *Nguyên nhân hạn chế:
    – Học sinh chưa hiểu bản chất của các đại lượng trong một chuyển động. Đặc biệt
    là chưa hiểu về vận tốc nên việc sai tên đơn vị, máy móc áp dụng công thức tính.
    – Kỹ năng chuyển đổi đơn vị đo thời gian, kỹ năng tính toán với các số đo thời gian
    còn chưa thành thạo.
    – Một số giáo viên chưa thật sự coi trọng việc đổi mới phương pháp, chưa khai thác
    triệt để vốn hiểu biết, vốn sống của học sinh, các phương tiện, đồ dùng dạy học; chưa
    chú trọng dạy học phát triển năng lực, chưa gắn kết các bài tập với thực tiễn cuộc sống
    nên học sinh không có cơ hội trải nghiệm thực tế nhiều về các chuyển động.
    2. Nội dung các biện pháp:
    2.1. Củng cố cho học sinh các kiến thức liên quan trước khi các em tìm hiểu về vận
    tốc
    a) Rèn kĩ năng đổi đơn vị đo thời gian:Trong quá trình giải các bài toán về tính
    vận tốc, quãng đường, thời gian học sinh thường phải đổi đơn vị đo thời gian, phổ biến
    là 2 trường hợp sau:
    – Chuyển các số đo thời gian có tên 2 đơn vị đo sang tên 1 đơn vị: Tôi lưu ý học
    sinh với những trường hợp có tên 2 đơn vị đo mà đơn vị đo bé chia hết cho 3 thì có thể
    đổi được về cả dạng phân số và số thập phân; trường hợp đơn vị đo bé không chia hết
    cho 3 thì chỉ có thể đổi được về dạng phân số để học sinh không lúng túng khi đổi.

    Ví dụ 1: 2 giờ 30 phút = …..giờ?
    a) Tôi hướng dẫn học sinh 2 cách đổi như sau:
    b) 2 giờ 20 phút = …giờ?

    Cách 1: 2 giờ 30 phút = 2 giờ + 0,5 giờ = 2,5 giờ
    Cách 2: 2 giờ 30 phút = 2 giờ = giờ = 2,5 giờ
    b) 2 giờ 20 phút = …giờ?
    Tôi hướng dẫn học sinh đổi như sau: 2 giờ 20 phút = 2 giờ = giờ
    + Chuyển các số đo thời gian từ tên 1 đơn vị sang tên 2 đơn vị:
    4
    Trường hợp này được sử dụng để tìm thời điểm xuất phát hoặc thời điểm đến trong
    các chuyển động (ví dụ ta nói ô tô đến nơi lúc 2giờ 20 phút chứ không nói ô tô đến nơi
    lúc giờ). Tôi hướng dẫn học sinh như sau:
    Ví dụ: a) 2,5giờ =……giờ……phút? b) giờ =……giờ……phút?
    Tôi hướng dẫn học sinh tách rồi đổi như sau:
    +Tách 2,5giờ = 2giờ + 0,5giờ = 2 giờ + 0,5 x 60 (phút) = 2 giờ 30 phút (vì 1giờ
    =60phút)
    + Chuyển giờ = 2 giờ = 2 giờ + giờ = 2 giờ 20 phút
    b) Thực hiện thành thạo các phép tính với số đo thời gian: Tôi đặc biệt lưu ý 2
    phép tính cộng và trừ số đo thời gian, vì 2 phép tính này liên quan rất nhiều tới các bài
    toán chuyển động về tính vận tốc.
    + Với phép cộng số đo thời gian: Tôi lưu ý học sinh bước đổi sau khi tính với những
    phép tính có kết quả đơn vị bé lớn hơn 1 đơn vị lớn. Ví dụ như:
    1 giờ 30 phút + 2 giờ 45 phút = 3 giờ 75 phút
    Vì 1 giờ = 60 phút mà 75 phút > 60 phút nên bằng cách lấy 75 : 60 = 1 (dư 15) sẽ đổi
    được 75 phút = 1 giờ 15 phút
    Vậy 1 giờ 30 phút + 2 giờ 45 phút = 4 giờ 15 phút
    + Với phép trừ số đo thời gian: Tôi lưu ý học sinh bước đổi trước khi tính với trường
    hợp số đơn vị bé của số bị trừ bé hơn số đơn vị bé của số trừ. Ví dụ như:
    7 giờ 5 phút – 6 giờ 55 phút = ?
    Vì 5 phút < 55 phút nên chưa thể trừ ngay được, nên sẽ đổi số bị trừ bằng cách tách 1
    giờ từ 7giờ và đổi 1 giờ = 60 phút, sau đó cộng 60 phút với 5 phút bằng 65 phút nên: 7
    giờ 5phút = 6 giờ 65 phút. Lấy 6 giờ 65 phút – 6 giờ 55 phút = 10 phút
    Vậy 7 giờ 5 phút – 6 giờ 55 phút = 10 phút
    – Ngoài ra, trong phép trừ số đo thời gian tôi lưu ý học sinh trường hợp bài toán cho thời
    điểm đến hoặc xuất phát là giờ kém, nhiều học sinh chưa biết chuyển đổi sang giờ hơn
    mà đi tính luôn nên bị sai.
    5
    Ví dụ: Một người đi xe máy từ nhà lúc 7 giờ 45 phút và đến thành phố lúc 10 giờ
    kém 10 phút. Thời gian người đó đi từ nhà đến thành phố là bao lâu?
    Với bài toán trên học sinh không thể thực hiện ngay phép tính trừ số đo thời gian
    mà phải đổi từ 10 giờ kém 10 phút sang giờ hơn. Tôi hướng dẫn học sinh, vì 1 giờ = 60
    phút, nên 10 giờ kém 10 phút chính bằng 9 giờ 50 phút. Sau đó mới lấy 9 giờ 50 phút –
    7 giờ 45 phút = 2 giờ 5phút.
    c) Giúp học sinh hiểu và xác định rõ : “thời gian đi” “thời gian nghỉ” với “thời
    điểm xuất phát” và “thời điểm đến”: Để tính được vận tốc học sinh lấy quãng đường
    chia cho thời gian đi mà thực tế bài toán lại cho thời gian là thời điểm xuất phát hoặc
    thời điểm đến nên học sinh rất dễ nhầm lẫn. Tôi lưu ý học sinh các trường hợp sau đây:
    – TH1: Thời điểm xuất phát và thời điểm đến trong cùng một ngày:
    Từ việc học sinh đã được làm quen với xem đồng hồ ở các lớp dưới, tôi đưa ra
    một chuyển động đơn giản như sau :
    Từ mô hình đơn giản trên, học sinh hiểu được mốc thời gian xe xuất phát từ A lúc 8 giờ
    (kim đồng hồ chỉ 8 giờ) thì đó chính là thời điểm xuất phát, mốc thời gian xe đến B lúc
    10 giờ đó chính là thời điểm đến, còn khoảng thời gian chỉ quá trình xe đi từ A đến B từ
    8 giờ đến 10 giờ (lấy 10 giờ – 8 giờ = 2 giờ) là thời gian đi.
    Tôi lưu ý học sinh 2 trường hợp sau:

    Nếu xe đi từ A đến B không nghỉ dọc đường thì:
    Thời gian đi = Thời điểm đến – Thời điểm xuất phát

    – Nếu xe đi từ A đến B mà xe có nghỉ dọc đường thì:
    Thời điểm xuất phát
    8 giờ
    88
    Thời điểm đến
    10 giờ
    Thời gian đi
    2 giờ
    A 8 8
    B 8 8
    6
    Thời gian đi = Thời điểm đến – Thời điểm xuất phát – Thời gian
    nghỉ.
    Ví dụ 1 : Bạn Lan đi học từ nhà lúc 6 giờ 55 phút và đến trường lúc 7 giờ 5 phút.
    Tính
    thời gian Lan đi từ nhà đến trường?
    Ta minh họa bằng sơ đồ sau:
    Việc vẽ sơ đồ đoạn thẳng giúp HS xác định đúng thời điểm xuất phát, thời điểm đến từ đó sẽ
    tính thời gian Lan đi từ nhà đến trường
    Từ sơ đồ, HS dễ dàng tính được thời gian bạn Lan đi học từ nhà đến trường là:
    7 giờ 5 phút – 6 giờ 55 phút = 10 phút
    Ví dụ 2 : Một ô tô đi từ Hà Nội lúc 6 giờ 20 phút và đến Hải Phòng lúc 9 giờ 5 phút.
    Dọc đường xe có dừng lại nghỉ 15 phút để đổ xăng. Tính thời gian xe đi liên tục từ
    Hà Nội đến Hải phòng?
    Học sinh sẽ dễ dàng tính được:
    Thời gian ô tô đi từ Hà Nội đến Hải Phòng không kể thời gian nghỉ là:
    9 giờ 5 phút – 6 giờ 20 phút – 15 phút = 2 giờ 30phút
    Từ các ví dụ trên học sinh cũng sẽ đễ dàng tự rút ra được cách tính thời điểm xuất phát
    hoặc thời điểm đến khi biết các yếu tố thời gian còn lại:
    Thời điểm đến = Thời điểm xuất phát + Thời gian đi + Thời gian nghỉ ( nếu có)
    Hoặc Thời điểm xuất phát = Thời điểm đến – Thời gian đi – Thời gian nghỉ ( nếu có)
    – TH2: Thời điểm xuất phát và thời điểm đến không trong cùng một ngày:
    Thời điểm xuất phát
    6 giờ 55 phút
    Thời điểm đến
    7 giờ 5 phút
    Nhà Trường
    Thời gian đi?
    Thời điểm xuất phát
    6 giờ 20 phút
    Thời điểm đến
    9 giờ 5 phút
    Hà Nội Hải Phòng
    Nghỉ 15 phút
    7
    Ví dụ: Tàu xuất phát từ Hà Nội lúc 22 giờ và đến Lào Cai lúc 6 giờ sáng hôm sau.
    Tính thời gian tàu đi từ Hà Nội đến Lào Cai?
    Ở bài toán trên thời điểm xuất phát và thời điểm đến không cùng một ngày, tôi hướng
    dẫn học sinh xác định thời gian đi của tàu theo 2 cách sau đây:
    – Cách 1: Liệt kê sau đó đếm số giờ:
    22giờ 23giờ 24giờ 1giờ 2giờ 3giờ 4giờ 5giờ 6giờ
    Như vậy thời gian tàu đi từ Hà Nội đến Lào Cai là 8 giờ.
    – Cách 2: Tính riêng thời gian đi trong từng ngày sau đó tính tổng thời gian đã đi trong 2
    ngày:
    + Thời gian tàu đi ngày hôm trước: 24giờ – 22giờ = 2 giờ
    + Thời gian tàu đi ngày hôm sau: 6giờ – 0giờ = 6 giờ
    Như vậy thời gian tàu đi từ Hà Nội đến Lào Cai là: 2 + 6 = 8 (giờ).
    2.2. Tổ chức cho học sinh trải nghiệm tìm hiểu về vận tốc.
    a) Vận dụng vốn hiểu biết của học sinh để hình thành biểu tượng vận tốc:
    Tôi tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động quan sát các chuyển động (ảnh hoặc
    video) và sắp xếp theo thứ tứ nhanh dần hoặc chậm dần của các chuyển động để khai
    thác vốn hiểu biết của các em.
    Ví dụ 1: Tôi đưa ra 6 bức ảnh: người đi bộ, người chạy, xe đạp, xe máy, ô tô, máy bay
    8
    Bằng kiến thức thực tế học sinh sẽ xếp thứ tự từ nhanh dần là: đi bộ – chạy – đi xe đạp –
    xe máy – ô tô – máy bay
    Ví dụ 2 : Tôi đưa ra các bức tranh 3 con vật như :
    Học sinh cũng sẽ dễ dàng biết được thứ tự chạy từ chậm đến nhanh là: Rùa – Thỏ –
    Chuột túi
    Qua hoạt động này học sinh bước đầu hiểu về tốc độ của một con vật hoặc một
    phương tiện gần gũi xung quanh mà thường ngày các em gặp và quan sát được.
    b) Tổ chức học sinh tìm tòi khám phá cách tính vận tốc của một chuyển động:
    + Tôi tổ chức cho học sinh chơi theo nhóm tìm hiểu vận tốc thông qua trò chơi “
    Tìm quãng đường đi được trong 1 giờ, 1 phút, 1 giây”. Mỗi nhóm sẽ được phát 1 phiếu
    bài tập, các nhóm thảo luận điền kết quả, nhóm nào nhanh nhất sẽ là nhóm thắng cuộc.
    PHIẾU HỌC TẬP
    Nhóm:……………………………….
    Viết tiếp vào chỗ chấm cho thích hợp:

    1-Một người đi xe máy đi được quãng đường 120km hết 3 giờ. Trung bình mỗi giờ
    người đó đi được …………km.
    2-Một người đi bộ đi được quãng đường 150m hết 3 phút. Trung bình mỗi phút người
    đó đi được …………m.
    3-Một người chạy quãng đường 12m hết 2 giây . Trung bình mỗi giây người đó đi được

    9

    …………m.

    + Học sinh báo cáo kết quả, GV giới thiệu đại lượng vân tốc.

    1- Trung bình mỗi giờ xe máy đi được 40km. Ta nói rằng: Vận tốc của xe máy là
    40km/giờ
    2- Trung bình mỗi phút người đi bộ được 50m. Ta nói rằng: Vận tốc của người đi bộ là
    50m/phút
    3- Trung bình mỗi giây người đi chạy được 6m. Ta nói rằng: Vận tốc của người chạy là
    6m/giây

    Cho học sinh tự phát hiện cách tính vận tốc:
    Muốn tính vận tốc ta lấy quãng đường chia cho thời gian (v = s : t)
    – Cách xác định đơn vị vận tốc:

    Stv
    kmgiờkm/giờ
    mphútm/phút
    mgiâym/giây

    * Cách đổi đơn vị vận tốc thông qua ví dụ:
    Vân tốc của máy bay là 810km/giờ.Tính:
    a) Vận tốc của máy bay ra đơn vị m/phút
    b) Vận tốc của máy bay ra đơn vị m/giây
    Tôi hướng dẫn học sinh đổi 810 km/giờ ra đơn vị m/phút như sau:
    810 km/giờ = 810000m/giờ mà 1 giờ = 60 phút nên 1 phút đi được 810 000 : 60 =
    13500m.
    Vậy 810km/giờ = 13500m/phút
    mà 1phút = 60 giây nên 1 giây đi được 13500 : 60 = 225 m/giây
    Vậy 810km/giờ = 225m/giây
    c) Giúp học sinh nhận biết được vận tốc thực tế của một số chuyển động
    thường gặp trong đời sống thông qua các bài tập đơn giản ( Bài tập áp dụng công
    thức tính vận tốc – M1)
    10
    Trong quá trình học sinh luyện tập, thực hành tôi giới thiệu cho học sinh một số bài
    tập trong các tình huống thực tế gần gũi để học sinh nhận biết một số chuyển động
    thường gặp trong cuộc sống. Một mặt giúp các em củng cố cách tính vận tốc mặt khác
    giúp học sinh nắm được các kiến thức thực tế về chuyển động của vật trong đời sống, từ
    đó sẽ biết tự đánh giá và tham gia đánh giá kết quả bài làm của bạn khi giải các bài toán
    về vận tốc bằng nhiều cách khác nhau thông qua tính toán hay phán đoán,…Từ đó tích
    lũy cho mình vốn hiểu biết về thực tế, các em biết vận tốc của các phương tiện giao
    thông trong thực tế như:
    – Vận tốc các phương tiện như xe đạp, xe máy, ô tô, máy bay khoảng:

    + vận tốc xe đạp khoảng 15km/giờ
    + vận tốc ô tô khoảng 60 km/giờ
    km/giờ
    – Vận tốc của người đi bộ, chạy,… khoảng:
    + vận tốc đi bộ: 3m/giây (10km/giờ)
    + vận tốc xe máy khoảng 40 km/giờ
    + vận tốc máy bay khoảng 900
    + vận tốc chạy khoảng 60m/giây

    – Tôi giới thiệu học sinh:
    + Trong hàng hải người ta thường dùng “nút” làm đơn vị đo vận tốc, 1 nút = 1 hải
    lí = 1,852km
    + Vận tốc ánh sáng là 300000km/giây.
    Các bài tập vận dụng:
    Ví dụ1: Một người đi xe máy đi được quãng đường 160km hết 4 giờ. Tính vận tốc của
    người đi xe máy?
    Ví dụ 2: Máy bay Bô-ing bay được quãng đường 2850km trong 3 giờ. Hãy tính vận tốc
    của máy bay?
    Ví dụ 3: Một người chạy 350m trong 1 phút 10 giây.Tính vận tốc chạy của người đó với
    đơn vị m/giây?
    Ví dụ 4: Một xe taxi đi được quãng đường 120km trong 2 giờ. Hãy tính vận tốc của
    taxi?
    Ví dụ 5: Một người đi xe đạp đi được 7 km trong 30 phút. Tính vận tốc của người đi xe
    đạp với đơn vị km/giờ?
    11
    2.3. Phát triển tư duy, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh qua một
    số dạng toán về vận tốc:
    Các bài toán về tính vận tốc rất phong phú về nội dung, khi học sinh đã nắm vững
    các kiến thức cơ bản về tính vận tốc, tùy theo trình độ học sinh trong lớp, tôi phát triển
    mở rộng một số dạng toán về tìm vận tốc nhằm phát triển ở các em năng lực giải quyết
    vấn đề và sáng tạo trước các tình huống mới, phát huy tối ưu năng lực mỗi bản thân học
    sinh. Tôi đã đưa ra một số dạng toán về vận tốc với các tình huống mới sau đây:
    a) Tính vận tốc trung bình của một chuyển động có vận tốc thay đổi trên đường:
    Trong thực tế thì ít có một phương tiện nào có thể duy trì vận tốc giống nhau trên
    suốt quá trình chuyển động dài, vậy muốn tính vận tốc trung bình của phương tiện đó,
    chúng ta hướng dẫn HS thế nào. Tôi đưa ra một số tình huống như sau:
    Bài toán 1: Một ô tô đi từ Nam Định lên Hà Nội, nửa thời gian đầu ô tô đi với vận tốc
    40km/giờ, nửa thời gian sau ô tô đi với vận tốc 50km/giờ. Tính vận tốc trung bình của
    ô tô trên cả quãng đường từ Nam Định đến Hà Nội?
    – Với bài toán này vì 2 nửa thời gian bằng nhau nên cứ 1 giờ ô tô đi với vận tốc
    40km/giờ thì lại có 1 giờ ô tô đi với vận tốc 50km/giờ, vì vậy học sinh chỉ dựa vào kiến
    thức tìm số trung bình cộng ở lớp dưới đã được học và làm như sau:
    Giải: Vận tốc trung bình của ô tô trên cả quãng đường là:
    ( 40 + 50 ) : 2 = 45 (km/giờ)
    Qua bài toán này, tôi cho HS rút ra nhận xét: Thời gian đi như nhau thì vận tốc
    trung bình bằng trung bình cộng của các vận tốc.
    Bài toán 2: Một người đi xe máy từ nhà lên thành phố, trong 2 giờ đầu, mỗi giờ
    người đó đi được 36km. Trong 3 giờ sau, mỗi giờ người đó đi được 40km. Tính vận
    tốc trung bình của người đó trên cả đoạn đường từ nhà lên thành phố?
    – Với bài toán này học sinh rất dễ nhầm sang dạng toán trung bình cộng để tìm
    vận tốc trung bình như lấy: (36+40) : 2 = 38 (km/giờ). Chính vì vậy, việc giúp các em
    hiểu ở đây cả quãng đường và thời gian đi với 2 vận tốc là không bằng nhau nên tìm vận
    tốc trung bình như vậy là chưa đúng.
    Bài giải đúng: Quãng đường người đó đi trong 2 giờ đầu là:
    12
    36 x 2 = 72 (km)
    Quãng đường người đó đi trong 3 giờ sau là:
    40 x 3 = 120 (km)
    Vận tốc trung bình của người đó trên cả đoạn đường từ nhà lên thành phố
    là:
    ( 72+120) : (2 +3) = 38,4 (km/giờ)
    Bài toán 3: Quãng đường từ nhà về quê dài 56 km. Một người đi xe máy từ nhà hết 1
    giờ 30 phút thì về đến quê. Đến chiều người đó lại từ quê trở về nhà của mình, do tắc
    đường nên người đó đi mất 2 giờ mới về đến nhà. Tính vận tốc trung bình của người
    đó trên cả quãng đường cả đi lẫn về?
    – Với bài toán trên ta thấy độ dài quãng đường cả đi lẫn về đều bằng nhau nên
    tổng
    quãng đường cả đi lẫn về sẽ bằng: 56 x 2 = 112 (km) và tổng thời gian cả đi lẫn về là:
    1giờ 30phút + 2 giờ = 3 giờ 30 phút = 3,5 giờ. Như vậy vận tốc trung bình của ô tô trên
    cả quãng đường cả đi lẫn về là: 112 : 3,5 = 32 (km/giờ).
    Bài toán 4: Quãng đường từ nhà về quê dài 18km. Một người đi xe đạp từ nhà về quê
    với vận tốc 15km/giờ, sau đó lại ngược từ quê về nhà với vận tốc bằng vận tốc lúc
    đi. Hỏi vận tốc trung bình của người đó trên quãng đường cả đi lẫn về là bao nhiêu?
    – Với bài toán trên ta thấy độ dài quãng đường cả đi lẫn về cũng đều bằng nhau nên:
    Tổng quãng đường cả đi lẫn về sẽ bằng: 18 x 2 = 36 (km)
    Thời gian lúc đi là: 18 : 15 = 1,2 (giờ)
    Vận tốc lúc về là: 15 x = 12 (km/giờ)
    Thời gian lúc về là: 18 : 12 = 1,5 (giờ)
    Tổng thời gian cả đi lẫn về là: 1,5 + 1,2 = 2,7 (giờ)
    Như vậy vận tốc trung bình của người đó trên cả quãng đường cả đi lẫn về là:
    36 : 2,7 = (km/giờ).
    13
    Qua 3 bài toán này, tôi cho HS rút ra nhận xét: Thời gian đi khác nhau thì vận
    tốc trung bình bằng tổng quãng đường chia cho tổng thời gian đi.
    Bài toán 5: Một người đi từ A đến B với vận tốc 6km/giờ, sau đó lại từ B trở về A với
    vận tốc 4 km/giờ. Tính vận tốc trung bình của người đó trên quãng đường cả đi lẫn
    về?
    – Với bài toán trên, độ dài quãng đường cả đi lẫn về đều bằng nhau. Như vậy vận
    tốc trung bình của người đó trên cả đoạn đường cả đi và về cũng chính bằng vận tốc
    trung bình khi đi trên 1km lúc đi và 1km lúc về. Ta có cách giải như sau:
    Khi đi từ A đến B thì thời gian đi 1km là: 1 : 6 = (giờ)
    Khi đi từ B về A thì thời gian đi 1km là: 1 : 4 = (giờ)
    Vận tốc trung bình của người đó trên quãng đường cả đi và về là:
    (1+1) : ( + ) = 4,8 (km/giờ)
    Bài toán 6: Hai bạn An và Dũng xuất phát cùng một lúc từ nhà về quê. An đi nửa
    quãng đường đầu với vận tốc 15 km/giờ và nửa quãng đường còn lại với vận tốc
    12km/giờ. Dũng đi nửa thời gian đầu với vận tốc 15 km/giờ và nửa thời gian còn lại
    với vận tốc 12km/giờ. Hỏi trong hai bạn, ai là người về đến quê trước?
    – Bài toán trên giúp học sinh phân biệt được cách tính vận tốc trung bình khi đi
    quãng đường bằng nhau hay thời gian bằng nhau. Học sinh sẽ hiểu rõ hơn bản chất của
    từng dạng toán. Ta giải bài toán này như sau:
    Giải : Thời gian bạn An đi 1km khi đi nửa quãng đường đầu là:
    1 : 15 = (giờ)
    Thời gian bạn An đi 1km khi đi nửa quãng đường sau là:
    1 : 12 = (giờ)
    Vận tốc trung bình của An trên cả quãng đường từ nhà về quê là:
    ( 1+1) : ( ) = (km/giờ) = 13 (km/giờ)
    14
    Vận tốc trung bình của Dũng trên cả quãng đường từ nhà về quê là:
    (15+12) : (1+1) = 13 (km/giờ)
    Vì 13 (km/giờ) < 13 (km/giờ), vậy bạn Dũng về đến quê trước.
    Từ bài toán trên ta rút ra cách tính vận tốc trung bình như sau:
    Với bài toán quãng đường đi như nhau (quãng đường chưa biết) thì vận tốc trung
    bình trên cả quãng đường bằng vận tốc trung bình khi đi trên 1km với vận tốc này và
    1 km với vận tốc kia.
    b) Tính vận tốc 2 chuyển động ngược chiều xuất phát cùng lúc:
    – Xuất phát từ các bài toán cụ thể: Lúc 7 giờ 15 phút sáng, một ô tô khởi hành từ Nam Định
    đến Hà Nội, cùng lúc đó xe máy đi từ Hà Nội về Nam Định, đến 8 giờ 30 phút 2 xe gặp nhau.
    Tính vận tốc của mỗi xe biết quãng đường từ Nam Định đến Hà Nội dài 125km, biết vận tốc
    ô tô gấp rưỡi vận tốc xe máy.
    – Tôi tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm, minh họa bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng, sau đó tìm
    tổng vận tốc của 2 xe rồi vận dụng cách giải bài toán tổng – tỉ để tìm vận tốc mỗi xe:

    Ô tô (? km/giờ)
    km/giờ)
    Gặp nhauXe máy(?Nam Định

    Giải: Thời gian 2 xe cùng đi để gặp nhau là:
    8 giờ 30 phút – 7 giờ 15phút = 1 giờ 15 phút = 1,25 giờ
    Quãng đường mỗi giờ 2 xe đi được hay tổng vận tốc của 2 xe là:
    125 : 1,25 = 100 (km/giờ)
    Ta có sơ đồ:
    Vô tô :
    Vxe máy :
    Giá trị 1 phần là: 100 : (2+3) = 20(km/giờ)
    125 km
    Hà Nội
    7 giờ 15 phút 8 giờ 30 phút 7 giờ 15 phút
    100 km/giờ
    15
    Vận tốc xe máy là: 20 x 2 = 40 (km/giờ)
    Vận tốc ô tô là: 20 x 3 = 60 (km/giờ)
    – Tổ chức cho học sinh khái quát cách giải : Qua bài toán trên, với bài toán chuyển
    động ngược chiều, sau khi học sinh tìm hiểu cách tính thời gian để 2 phương tiện gặp
    nhau học sinh có thể tìm ra cách tính tổng vận tốc của hai phương tiện như sau:
    v1 + v2 = s : tgặp
    c) Tính vận tốc 2 chuyển động cùng chiều xuất phát cùng lúc: ( cách đặt vấn đề như
    dạng 2)
    Ví dụ 1: Lúc 6 giờ 30 phút sáng, Lan đi học đến trường bằng xe đạp với vận tốc
    16km/giờ. Trên con đường đó, lúc 6 giờ 45 phút mẹ Lan đi làm bằng xe máy và đi về
    phía trường và 2 mẹ con gặp nhau trên đường đi lúc 6 giờ 57 phút. Hỏi mẹ đã đi xe
    máy với vận tốc bao nhiêu km/giờ?
    Tôi tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm,minh họa bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng, sau đó
    tìm hiệu vận tốc của 2 xe dựa vào kiến thức mà các em vừa tìm
    ra.
    Giải:
    Thời gian để mẹ đuổi kịp để gặp Lan là:
    6 giờ 57 phút – 6 giờ 45 phút = 12 phút = 0,2giờ
    Thời gian Lan đi trước mẹ là: 6 giờ 45 phút – 6 giờ 30 phút = 15 phút = 0,25 giờ
    Quãng đường Lan đi trong 0,25 giờ là: 16 x 0,25 = 4 (km)
    Mỗi giờ mẹ đi nhanh hơn Lan số ki-lô-mét hay hiệu vận tốc mẹ và Lan là:
    4 : 0,2 = 20 (km/giờ)
    Vận tốc đi của mẹ là: 20 + 16 = 36 (km/giờ)
    Tương tự chuyển động ngược chiều, khi học sinh nắm được cách tính thời gian để
    2 xe đi cùng chiều cùng xuất phát gặp nhau, qua cách giải bài tập trên các em tự tìm hiểu
    cách tính hiệu vận tốc của hai xe như sau:
    v1 – v2= s : tđuổi kịp
    Nhà
    Mẹ Lan Trường
    Điểm gặp nhau
    6 giờ 45 phút 6 giờ 45 phút
    (? km/giờ) (16 km/giờ)
    6 giờ 57 phút
    16
    Ví dụ 2: Một người đi xe máy từ tỉnh A và một người đi xe đạp từ tỉnh B, hai tỉnh
    cách nhau 80km. Nếu họ đi ngược chiều nhau thì gặp nhau sau 2 giờ. Nếu họ đi cùng
    chiều thì người đi xe máy đuổi kịp người đi xe đạp sau 4 giờ. Tính vận tốc của mỗi người
    biết rằng họ khởi hành cùng một lúc.
    Với bài toán này tôi hướng dẫn học sinh sử dụng công tính tổng vận tốc và hiệu vận tốc
    của dạng bài toán có hai động tử chuyển động ngược chiều và cùng chiều là:
    ( v1 – v2) = s : tkịp
    ( v1 + v2) = s : tgặp
    Sau đó đưa về dạng toán điển hình “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”để
    giải bài toán này. Häc sinh sÏ ®-îc h-íng dÉn lêi gi¶i nh- sau:
    Bài giải
    Tổng vận tốc hai xe là:
    80 : 2 = 40 (km/giờ)
    Hiệu vận tốc hai xe là:
    80 : 4 = 20 (km/giờ)
    Ta có sơ đồ:
    Vận tốc xe máy:
    Vận tốc xe đạp: 20km/giờ
    Vận tốc xe máy là:
    (40 + 20) : 2 = 30( km/giờ)
    Vận tốc xe đạp là:
    (40 – 20) : 2 = 10 km/giờ
    Đ/s:Vận tốc xe máy là: 30( km/giờ)
    Vận tốc xe đạp là: 10( km/giờ)
    d) Tìm hiểu vận tốc trong chuyển động xuôi dòng, ngược dòng trên dòng nước:
    Những bài toán này được sách HDH đưa vào phần ôn tập. Sách không đưa ra hệ
    thống
    công thức tính. Tôi tổ chức cho học sinh thảo luận dựa vào kiến thức thực tế để tìm cách
    tính vận tốc thuyền khi xuôi dòng và ngược dòng như sau:
    } 40 km/giờ
    17
    Khi thuyền đi xuôi dòng, thuyền được dòng nước đẩy đi nên chạy nhanh hơn, còn
    khi đi ngược dòng thuyền bị dòng nước cản nên chạy chậm hơn, có cách tính như sau:
    * Vận tốc xuôi dòng = Vận tốc thực + Vận tốc dòng nước.
    * Vận tốc ngược dòng = Vận tốc thực – Vận tốc dòng nước.
    ( Vận tốc thực : Vận tốc khi nước lặng; Vận tốc dòng nước (Vận tốc chảy của dòng
    nước))
    – Từ trên ta dễ dàng vẽ sơ đồ tổng – hiệu để tìm vận tốc thực và vận tốc dòng nước khi
    biết vận tốc xuôi dòng và vận tốc ngược dòng.
    -Tổ chức cho HS củng cố và vận dụng cách giải thông qua các bài toán:
    Bài toán 1: Một tàu thủy khi xuôi dòng có vận tốc 28,4 km/giờ, khi ngược dòng có
    vận tốc là 18,6 km/giờ. Tính vận tốc của tàu thủy khi nước lặng và vận tốc của dòng
    nước.
    Với bài toán trên, tôi hướng dẫn học sinh như sau:
    * Đọc kĩ đề bài (cá nhân)
    * Phân tích bài toán (chia sẻ nhóm)
    + Bài toán cho biết gì ? Hỏi gì ? (Vận tốc của tàu thủy khi nước lặng chính là vận tốc
    thực
    của tàu thuỷ)
    Thiết lập mối quan hệ giữa các yếu tố bằng sơ đồ đoạn thẳng bài toán tổng – hiệu như
    sau:
    Vận tốc thực của tàu :
    Vận tốc dòng nước :
    – Dựa vào sơ đồ đoạn thẳng đã phân tích ở trên học sinh dễ dàng giải được bài toán như
    sau:
    Giải: Vận tốc của tàu thủy khi nước lặng là:
    (28,4 + 18,6) : 2 = 23,5 (km/giờ)
    Vận tốc của dòng nước là:
    28,4 – 23,5 = 4,9 (km/giờ).
    Đáp số: vtàu thủy = 23,5 km/giờ; vdòng nước = 4,9 km/giờ
    24,8 km/giờ
    18,6 km/giờ
    18
    Sau khi giải các em rút ra được cách tính:
    + Vận tốc dòng nước = (Vận tốc xuôi dòng – Vận tốc ngược dò

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Tăng cường hoạt động trải nghiệm, ứng dụng trong các bài học có yếu tố hình học lớp 5

    SKKN Tăng cường hoạt động trải nghiệm, ứng dụng trong các bài học có yếu tố hình học lớp 5

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Như chúng ta đã biết, trong thời đại ngày nay, Toán học ngày càng có nhiều
    ứng dụng trong cuộc sống, những kiến thức và kĩ năng toán học cơ bản đã giúp
    con người giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống một cách có hệ thống và
    chính xác, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
    Môn toán Tiểu học có vai trò quan trọng trong việc hình thành cho học sinh
    những khái niệm khoa học đồng thời phát triển trí tuệ cùng các kĩ năng ứng dụng,
    trải nghiệm thực tế và là công cụ cần thiết cho các môn học khác.
    Trong chương trình toán lớp 5, nội dung hình học gồm 16 bài chiếm khoảng
    14 % thời lượng chương trình gồm các dạng bài hình thành khái niệm, quy tắc,
    công thức tính chu vi, diện tích, thể tích một số hình. Mảng kiến thức hình học
    được sắp xếp đan xen với các mạch kiến thức khác, là bộ phận gắn bó mật thiết
    với các kiến thức số học, đại lượng, giải toán thành môn học thống nhất phù hợp
    với sự phát triển từng giai đoạn nhận thức của học sinh. Có thể nói đây là mảng
    kiến thức tương đối trừu tượng và có tính khái quát cao, góp phần quan trọng
    trong việc phát triển tư duy cho học sinh. Yếu tố hình học góp phần phát triển
    toàn diện các năng lực tư duy, trí tưởng tượng không gian cho học sinh, giúp các
    em nhận thức và phân tích tốt hơn thế giới xung quanh.
    Hiện nay toàn ngành giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng đang
    thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tính
    cực của học sinh làm cho hoạt động dạy trên lớp nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả.
    Mục tiêu của đổi mới chương trình Giáo dục phổ thông 2018 là góp phần chuyển
    nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức đơn thuần trả lời cho câu hỏi: “Học
    xong chương trình, học sinh BIẾT được những gì?” sang nền giáo dục phát triển
    toàn diện phẩm chất và năng lực của người học trả lời cho câu hỏi: “Học xong
    chương trình, học sinh LÀM được những gì?”.
    Những ứng dụng của hình học lớp 5 vào trong thực tiễn có ở chương trình
    và sách giáo khoa chưa thường xuyên. Mặc dù một số bài học cũng đã đưa một
    số dạng bài toán thực tiễn tuy nhiên số lượng còn ít. Giáo viên chưa thực sự đầu
    tư nghiên cứu, chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học. Học sinh còn mơ
    hồ và chưa có hứng thú trong học tập dẫn đến các em chưa thấy được vai trò quan
    trọng của Toán học trong thực tế, năng lực giải các bài toán của học sinh còn nhiều
    hạn chế. Nhiều học sinh nghĩ học Toán chỉ là để giải các bài tập. Các em chưa
    biết mục đích thực sự của Toán học là để làm gì, chúng có ứng dụng gì trong thực
    tiễn hay không. Chính vì lý do đó tôi nghiên cứu và rút ra sáng kiến: “Tăng cường
    hoạt động trải nghiệm, ứng dụng trong các bài học có yếu tố hình học lớp 5”.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Thuận lợi
    Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao, chú trọng nâng
    cao chất lượng dạy và học, đầu tư trang thiết bị, cơ cở vật chất, đảm bảo các điều
    kiện để tổ chức các hoạt động ứng dụng, trải nghiệm của học sinh.
    Bản thân tôi là một giáo viên trẻ có trình độ chuyên môn, không ngừng học
    tập sáng tạo, bồi dưỡng chuyên môn; luôn mẫu mực, tâm huyết với nghề, gần gũi
    quan tâm học sinh; kịp thời nắm bắt được mục tiêu đổi mới Chương trình Giáo
    dục phổ thông 2018, đồng thời nhận thức được tầm quan trọng của các hoạt động
    ứng dụng, trải nghiệm đối với việc dạy – học hiện nay.
    Hầu hết học sinh trong lớp đều chăm ngoan, có ý thức học tập, ham học
    hỏi, rất hứng thú với các hoạt động trải nghiệm, thích được thực hành vận dụng
    kiến thức đã học vào thực tế và tự tìm tòi kiến tạo nên kiến thức mới.
    Đa số phụ huynh đều quan tâm, tạo điều kiện đến việc học tập của các con
    và sẵn sàng tham gia các hoạt động ứng dụng, trải nghiệm cùng con.
    1.2. Khó khăn
    Nhà trường chưa đầu tư được nhiều trang thiết bị hiện đại, cơ sở phù hợp
    với các hoạt động ứng dụng, trải nghiệm do kinh phí hạn hẹp.
    Thực tế cho thấy, giáo viên ít đưa ra các bài toán thực tiễn và học sinh
    không được trải nghiệm nhiều trong quá trình học tập. Giáo viên thường xây dựng
    công thức cho học sinh rồi yêu cầu học sinh học thuộc lòng công thức ấy. Vì thế,
    khi gặp các bài toán đơn giản cho sẵn các yếu tố có trong công thức thì học sinh
    làm được nhưng khi gặp các bài toán thực tế liên quan đến yếu tố hình học, học
    sinh lại lúng túng không biết làm thế nào. Nguyên nhân do giáo viên chưa có
    nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng một số phương pháp dạy học tích cực, còn
    phụ thuộc nhiều vào tài liệu hướng dẫn học. Việc tự làm đồ dùng dạy – học chưa
    phong phú, đa dạng, chưa mạnh dạn đổi mới, còn ngại tổ chức các hoạt động trải
    nghiệm, ứng dụng cho học sinh trong thực tế.
    Học sinh chưa có thói quen, kĩ năng hợp tác, chia sẻ, giải quyết các tình
    huống thực tiễn. Việc tiếp thu kiến thức hình học của học sinh rất máy móc, rập
    khuôn. Các em chưa thấy được giá trị cũng như những ứng dụng quan trọng của
    hình học vào thực tiễn đời sống do ít được trải nghiệm, ứng dụng thực tế.
    Một số phụ huynh học sinh chưa dành thời gian cùng con chia sẻ những trải
    nghiệm, ứng dụng kiến thức toán học trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày.
    1.3. Khảo sát chất lượng của 35 học sinh lớp 5A đầu năm học
    2020 – 2021 theo 3 tiêu chí.
    Trước khi áp dụng sáng kiến, tôi đã khảo sát chất lượng của 35 học sinh lớp
    5A do tôi phụ trách vào đầu tháng 9 năm học 2019-2020 theo 3 tiêu chí, kết quả
    như sau:

    Kết quả
    Tiêu chí
    ĐạtChưa đạt
    Số lượngTỉ lệSố lượngTỉ lệ
    Nắm kiến thức cơ bản
    về hình học
    3085,7 %514,3 %
    Vận dụng kiến thức
    làm bài tập
    2571,2 %1028,8 %
    Khả năng ứng dụng,
    trải nghiệm
    2057,1 %1542,9 %

    Nhìn vào bảng số liệu ta thấy còn nhiều học sinh chưa biết ứng dụng trải
    nghiệm những kiến thức đã học vận dụng kiến thức vào cuộc sống .
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    Từ những thực trạng nêu trên, ngay từ đầu năm học 2020-2021 tôi đã suy
    nghĩ và tìm ra một số biện pháp nhằm tăng cường khả năng ứng dụng, trải nghiệm
    kiến thức hình học lớp 5 vào thực tiễn, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả giáo
    dục.
    Giúp học sinh vận dụng kiến thức hình học vào giải quyết tình huống của
    cuộc sống, thúc đẩy việc gắn kết kiến thức lý thuyết và thực hành đồng thời trải
    nghiệm vốn sống của bản thân để hình thành kiến thức mới hay hoàn thành các
    bài tập vận dụng hoặc biết vận dụng làm một số dự án đơn giản theo đúng phương
    châm giáo dục hiện nay: “Mang cuộc sống vào bài học, đưa bài học vào cuộc
    sống”.
    Giúp học sinh hình thành kiến thức, kĩ năng, thói quen, khả năng vận dụng
    kiến thức hình học vào trong cuộc sống hàng ngày và học tốt các môn học khác
    đồng thời tạo cơ hội để học sinh phát triển các năng lực chung và năng lực đặc
    thù.
    Tạo môi trường giáo dục mở, thu hút các lực lượng cùng tham gia hoạt
    động giáo dục.
    Bước đầu hình thành cho học sinh có những ước mơ, định hướng nghề
    nghiệp sau này từ các ý dự án nhỏ, tăng cường tính hợp tác và làm việc theo nhóm,
    cùng nhau học tập, cùng nhau tiến bộ.
    Sáng kiến: “Tăng cường hoạt động trải nghiệm, ứng dụng trong các bài
    học có yếu tố hình học lớp 5.” được tổ chức bằng các việc làm cụ thể của học sinh,
    được thực hiện trong thực tế dưới sự định hướng, hướng dẫn của giáo viên, thông
    qua hoạt động khai thác vốn kiến thức thực tế của học sinh để hình thành khám
    phá và chiếm lĩnh tri thức mới một cách tích cực, chủ động, sáng tạo. Qua trải
    nghiệm các yếu tố hình học, học sinh biết vận dụng kiến thức đã học để giải quyết
    một số tình huống trong thực tiễn cuộc sống, qua đó hình thành phẩm chất và năng
    lực cho các em. Các hoạt động ngoại khóa hay các “dự án” toán học tạo được
    hứng thú, tinh thần làm việc tập thể, phát triển các kĩ năng thu thập xử lý thông
    tin, … tạo ra các sản phẩm phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày. Các hoạt động này
    được thực hiện trong lớp, ở trường, ở nhà hay ở bất kì nơi nào phù hợp.
    Với những nội dung của sáng kiến trên tôi tiến hành thực nghiệm các biện
    pháp như sau:
    2.1. Giúp học sinh thấy được các ứng dụng của hình học lớp 5 trong
    cuộc sống hàng ngày.
    Toán học không phải là một cái gì đó quá xa lạ, thực tế đều xuất phát từ
    cuộc sống. Khi xác định hình dạng, giáo viên có thể lấy hình ảnh cánh buồm để
    chỉ hình tam giác, cái tủ là hình hộp chữ nhật, khối rubic chính là hình lập
    phương… Bằng cách này, học sinh sẽ dễ dàng nắm bắt về hình học cùng các khái
    niệm phức tạp. Đặc biệt, còn làm cho học sinh thấy ứng thú hơn với môn học vì
    những điều các em học được đều gắn liền với cuộc sống hằng ngày của mình.
    Những yêu cầu hình học không chỉ là những công thức, những quy tắc đo
    đạc, tính toán mà gắn liền với sự phát triển của loài người. Những bài toán đặt ra
    luôn xuất phát từ nhu cầu thực tiễn từ các bài toán cho sản xuất, xây dựng, nghệ
    thuật đến các nghiên cứu khoa học tự nhiên, vũ trụ… Ngoài ra các yếu tố hình
    học môn toán còn được ứng dụng rất nhiều trong cuộc sống:
    Ví dụ: Trong xây dựng, trong nghệ thuật, trong các hoạt động đời sống
    hàng ngày ….
    (Ứng dụng của toán học trong cuộc sống hàng ngày)
    Chính vì vậy, trong quá trình dạy học nội dung hình học lớp 5, giáo viên
    luôn phải nhấn mạnh cho học sinh thấy được ứng dụng của hình học đối với cuộc
    sống cũng như trong các ngành khoa học khác.
    2.2. Khai thác kinh nghiệm sống của học sinh để hình thành kiến thức
    mới.
    Để nhận thức được về một đối tượng, một sự kiện hay một vấn đề nào đó,
    người học phải dựa trên vốn kiến thức, vốn kinh nghiệm đã có từ trước. Nếu học
    sinh không có vốn kiến thức cần thiết (có liên quan đến kiến thức mới), hoặc
    không có những trải nghiệm nhất định thì gặp khó khăn để hình thành kiến thức
    mới. Hơn nữa, trong dạy học môn Toán, kiến thức hình thành trước thường là cơ
    sở để hình thành, phát triển những kiến thức tiếp theo.
    Do đó, trong dạy học, giáo viên cần phải tìm hiểu vốn kinh nghiệm và
    những hiểu biết sẵn có của học sinh trước khi học một kiến thức mới và tổ chức
    cho học sinh trải nghiệm. Sự định hướng và tổ chức các hoạt động của giáo viên
    là quan trọng nhưng vốn kiến thức của học sinh, những trải nghiệm của học sinh
    vẫn là yếu tố quyết định trong việc hình thành kiến thức mới.
    Trong dạy học dựa trên trải nghiệm, giáo viên cần tạo ra các tình huống gợi
    vấn đề để học sinh trải nghiệm bằng cách huy động các kiến thức và kinh nghiệm
    thực tiễn để suy nghĩ, biến đổi đối tượng hoạt động, tìm ra hướng giải quyết vấn
    đề. Hoạt động trải nghiệm sẽ giúp học sinh có hứng thú học tập, thôi thúc học sinh
    khám phá, tìm hiểu kiến thức mới.
    Giáo viên cần hệ thống các bài mới có yếu tố hình học trong chương trình
    sách giáo khoa Toán 5 gồm hai nội dung:
    + Hình thành khái niệm: Hình tam giác, hình thang, hình tròn, giới thiệu
    biể đồ hình quạt, hình hộp chữ nhật, hình lập phương, thể tích của một hình, giới
    thiệu hình trụ, hình cầu.
    + Hình thành quy tắc, công thức: Diện tích hình tam giác, diện tích hình
    thang, chu vi, diện tích hình tròn, diện tích xung quanh và diện tích toàn phần của
    hình hộp chữ nhật và hình lập phương, thể tích hình hộp chữ nhật, thể tích hình
    lập phương.
    Cần hướng đích và gợi động cơ là một trong những khâu quan trọng của
    quá trình dạy học nhằm kích thích hứng thú học tập cho học sinh, làm cho việc
    học tập trở nên tự giác, tích cực, chủ động. Khi gợi động cơ giáo viên có thể đưa
    ra những thực tế gần gũi xung quanh học sinh; thực tế xã hội rộng lớn (kinh tế, kĩ
    thuật, quốc phòng,…); thực tế ở những môn học và khoa học khác.
    Ví dụ 1: Khi dạy bài: Diện tích hình tam giác, giáo viên sẽ khai thác kiến
    thức học sinh đã có trên cơ sở cách tính diện tích hình chữ nhật. Tổ chức cho học
    sinh trải nghiệm và hình thành quy tắc, công thức theo các bước:
    + Bước 1: Học sinh cắt 2 hình tam giác bằng nhau
    + Bước 2: Đặt vấn đề làm thế nào để tạo thành một hình đã học có thể tính
    được diện tích.
    + Bước 3: Học sinh thực hành ghép để tạo thành một hình chữ nhật.
    + Bước 4: Học sinh quan sát đối chiếu để nhận biết chiều cao hình tam giác
    chính là chiều rộng của hình chữ nhật, cạnh đáy là chiều dài, diện tích hình chữ
    nhật bằng tổng diện tích của hai hình tam giác ban đầu.
    + Bước 5: Giáo viên yêu cầu học sinh dựa vào công thức tính diện tích hình
    chữ nhật để hình thành công thức, quy tắc tính diện tích hình tam giác.
    (Học sinh thực hành ghép hình để rút ra quy tắc tính diện tích hình tam giác)
    Ví dụ 2: Dạy bài: Thể tích hình hộp chữ nhật
    Sau khi dạy học sinh hình thành quy tắc, công thức tính thể tích hình hộp
    chữ nhật thì giáo viên có thể tổ chức cho học sinh kiểm chứng lại quy tắc bằng
    một vài trải nghiệm như tính thể tích của chai nước 0,65l, 1,2l, …
    + Bước 1: Chuẩn bị một vài chai nước có ghi dung tích rõ ràng và những
    chiếc hộp trong suốt có dạng hình hộp chữ nhật.
    + Bước 2: Đổ riêng mỗi chai nước vào một hộp.
    + Bước 3: Học sinh đo chiều dài, chiều rộng và chiều cao mực nước rồi áp
    dụng quy tắc tính thể tích nước.
    + Bước 4: So sánh kết quả tìm được với dung tích thật của mỗi chai nước
    (chú ý đơn vị đo 1dm3 = 1l)
    + Bước 5: Học sinh khẳng định được công thức tính thể tích hình hộp chữ nhật
    (Học sinh thực hành kiểm chứng thể tích của hình hộp chữ nhật
    2.3. Khai thác triệt để các bài toán có nội dung thực tế trong từng tiết dạy.
    Trong chương trình sách giáo khoa Toán 5, cũng có rất nhiều bài toán, ví
    dụ thực tiễn. Đây là nguồn tài liệu để giáo viên sử dụng trong quá trình giảng dạy
    gắn nội dung bài học với thực tiễn.
    Hướng đạt được mục đích và gợi động cơ học tập là một trong những khâu
    quan trọng của quá trình dạy học nhằm kích thích hứng thú học tập cho học sinh,
    làm cho việc học tập trở nên tự giác, tích cực, chủ động. Gợi động cơ không phải
    là việc đặt vấn đề một cách hình thức mà phải giúp biến những mục tiêu sư phạm
    thành mục tiêu của cá nhân học sinh nhằm tạo ra động lực bên trong thúc đẩy học
    sinh hoạt động. Kinh nghiệm cho thấy không có động lực nào thúc đẩy mạnh mẽ
    động cơ học tập của học sinh bằng các tình huống thực tế. Rõ ràng cách gợi động
    cơ này dễ hấp dẫn, lôi cuốn học sinh, tạo điều kiện để các em thực hiện tốt các
    hoạt động kiến tạo tri thức trong quá trình học tập về sau. Giáo viên thường thực
    hiện nhiệm vụ đó ở khâu đặt vấn đề vào bài bài mới hoặc khâu chuyển ý từ mục
    trước sang mục sau trong bài học. Khi gợi động cơ giáo viên có thể đưa ra những
    yếu tố hình học thực tế gần gũi xung quanh học sinh, thực tế xã hội, thực tế ở
    những môn học khác.
    Ví dụ 1: Bài toán: Nhân dịp sinh nhật lần thứ 11 của Lan, Mai đã tự tay
    làm tặng Lan một món quà và tự bọc món quà đó vào một chiếc hộp. Hãy tính
    xem Mai đã mất bao nhiêu tiền mua giấy hoa để bọc ngoài chiếc hộp đó, biết rằng
    mỗi mét vuông giấy hoa giá là 2500 đồng.
    Đầu tiên chúng ta phải xác định chiếc hộp đó là hình hộp chữ nhật hay hình
    lập phương?
    Câu hỏi đặt ra ở đây là muốn tính xem Lan mất bao nhiêu tiền để mua giấy
    hoa bọc chiếc hộp đó thì ta phải tính được diện tích của cả chiếc hộp đó là bao
    nhiêu mét vuông. Sau đó lấy tổng diện tích các mặt của chiếc hộp nhân với giá
    tiền của một mét vuông giấy hoa. Mà tổng diện tích các mặt của chiếc hộp chính
    là diện tích 4 mặt xung quanh và diện tích của 2 mặt đáy. Giáo viên sẽ nêu tên bài
    học: “Diện tích xung quanh và diện tích toàn phần của hình hộp chữ nhật”. Sau
    khi học xong quy tắc, giáo viên có thể quay lại bài toán ban đầu. Học sinh sẽ thấy
    thú vị khi áp dụng được kiến thức đang học vào vấn đề thực tế mà các em có thể
    quan sát hàng ngày và đây cũng là dịp giáo viên có thể củng cố kiến thức cho học
    sinh.
    Khâu củng cố giúp học sinh nắm vững được hệ thống kiến thức theo mục
    tiêu dạy học. Không những thế đây còn là bước quan trọng để giáo viên cũng như
    học sinh kiểm tra và đánh giá kết quả dạy-học của mình. Trong khâu này, giáo
    viên có thể đưa ra các bài toán thực tế liên quan đến kiến thức toán học vừa xây
    dựng để học sinh nhớ lâu và hiểu sâu kiến thức. Cũng qua đó mà học sinh thấy
    được toán học thật gần gũi với cuộc sống, giúp các em hứng thú hơn trong học
    tập, ghi nhớ kiến thức một cách có chủ đích.
    Ví dụ 2: Khi dạy bài “Diện tích xung quanh và diện tích toàn phần của hình
    hộp chữ nhật”
    Giáo viên chía lớp thành các nhóm, mỗi nhóm đo một đồ vật có dạng hình
    hộp chữ nhật khác nhau để thực hành “Tính diện tích xung quanh và diện tích toàn
    phần của một số vật có dạng hình hộp chữ nhật?”.
    – Các em quan sát hình và xác định đồ vật có dạng hình gì?
    – Sau đó dựa vào số đo của từng hình và tính diện tích xung quanh, diện
    tích toàn phần?
    (Học sinh thực hành tính diện tích xung quanh và diện tích toàn phần)
    Ví dụ 3: Củng cố sau khi học xong bài “Chu vi hình tròn” và “Diện tích
    hình tròn”. Giáo viên cho học sinh các nhóm ra ngoài sân trường hay thư viện để
    thực hành đo và tính chu vi, diện tích của một số bồn cây, đồ vật có dạng hình
    tròn.
    (Học sinh thực hiện theo nhóm đo và tính chu vi, diện tích hình tròn trong thư viện)
    ( Học sinh thực hành đo và tính chu vi, diện tích vồng cây tại sân trường)
    Từ các ví dụ học sinh có thể tự xác định, đo và tính được chu vi, diện tích
    một số hình trong thực tế có hình dạng khác nhau. Trong quá trình học sinh làm
    việc nhóm thực hành giáo viên cần lưu ý học sinh: Cần giao nhiệm vụ cụ thể cho
    các thành viên, hướng dẫn cách quan sát, ghi chép, đo đạc và tính toán. Tổng hợp
    kết quả và báo cáo.
    2.4. Tăng cường tổ chức hoạt động thực hành, ngoại khóa.
    Đối tượng học sinh lớp 5 còn nhỏ tuổi, giáo viên cần và có thể tổ chức cho
    các em thực hiện các hoạt động thâm nhập vào cuộc sống, ưu tiên hơn tới việc lựa
    chọn một số nội dung liên quan đến nội dung hiện hành. Tuy nhiên, theo phân bố
    chương trình trong sách giáo khoa, phần hình học lớp 5 không có các tiết thực
    hành riêng. Vì vậy, giáo viên có thể đưa ra các bài toán thực hành khác được lồng
    ghép vào trong tiết học (đối với bài toán thực hành đơn giản) hay phân nhóm, giao
    nhiệm vụ về nhà.
    Ví dụ 1: Sau khi học xong bài “Hình hộp chữ nhật. Hình lập phương.”, giáo
    viên có thể giao cho học sinh về nhà làm một chiếc hộp để làm quà tặng bạn bè,
    đựng đồ dùng cá nhân ở nhà hay làm hộp đựng đồ dùng ở góc học tập của lớp,…
    Học sinh vận dụng các kiến thức đã học vào thực hành, biết được ứng dụng
    của toán học trong thực tế đồng thời qua đó rèn luyện các năng lực như năng lực
    tính toán, năng lực sử dụng các công cụ đo, vẽ, tính, năng lực hợp tác…, rèn luyện
    kỹ năng đo đạc trong thực tế cho học sinh. Do vậy, giáo viên cần quan tâm đến
    các tiết thực hành, có sự chuẩn bị chu đáo và có phương pháp tổ chức lớp học để
    tất cả các học sinh tham gia tích cực. Từ đó học sinh thấy được ý nghĩa thật sự
    của toán học với thực tế.
    Cùng với hoạt động thực hành, để nâng cao chất lượng học tập giáo viên
    cần quan tâm tổ chức các hoạt động ngoại khóa. Hoạt động ngoại khóa nhằm hỗ
    trợ nhiều mặt cho dạy học nội khóa, theo các mục đích khác nhau được đặt ra như:
    – Gây hứng thú cho quá trình học tập môn Toán.
    – Bổ sung, đào sâu và mở rộng kiến thức nội khóa.
    – Tạo điều kiện gắn liền nhà trường với đời sống, lí luận liên hệ với thực
    tiễn, học đi đôi với hành.
    – Rèn cách thức làm việc tập thể.
    – Tạo điều kiện phát triển và bồi dưỡng năng khiếu.
    Nội dung các buổi ngoại khóa thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
    như nói chuyện (về lịch sử toán, các phát minh toán học, ứng dụng toán học);
    tham quan… (tính diện tích các hình phức tạp, tìm hiểu một số bài toán đang đặt
    ra trong kinh tế, trong các nhà máy, công trường, xí nghiệp); tổ chức các cuộc thi
    “Toán học vui”, thi sáng tác thơ về toán học, …
    Một trong những đặc điểm nổi bật của hoạt động ngoại khóa dễ tạo hứng
    thú cho học sinh là không quá gò bó về thời gian, cũng như chuẩn nội dung, kiến
    thức nên ta có thể đưa vào các câu hỏi với hình thức đa dạng (câu hỏi tự luận, câu
    hỏi trắc nghiệm, câu hỏi mở …) giúp tạo hứng thú, phát triển tư duy, nâng cao hiểu
    biết cho học sinh. Qua các buổi ngoại khóa, học sinh thấy môn Toán thú vị hơn,
    gần gũi hơn và toán học luôn gắn liền với cuộc sống hằng ngày.
    (Hình ảnh giao lưu CLB Toán tuổi thơ)
    Ví dụ 2: CUỘC THI ĐẦU BẾP GIỎI
    Trong cuộc thi bầu bếp giỏi, giáo viên cho học sinh làm sữa chua.
    – Mục đích: Giúp học sinh áp dụng kiến thức đã học về số tự nhiên và thể
    tích vào cuộc sống, rèn luyện tinh thần đồng đội,…
    – Chuẩn bị: Nước, sữa tươi không đường, đường, sữa đặc, bình nhựa, khay
    hình, hộp nhựa trong suốt dạng hình hộp chữ nhật làm đơn vị để đo, chai nhựa,
    cốc đựng sữa chua (thành phẩm),…
    – Cách thực hiện:
    + Giáo viên yêu cầu học sinh đo kích thước và tính thể tích của cái hộp
    nhựa đơn vị.
    + Giáo viên giới thiệu cách làm và hướng dẫn học sinh cách làm sữa chua
    bằng các dụng cụ và nguyên liệu đã chuẩn bị.
    + Sau đó, giáo viên yêu cầu học sinh tính xem có tất cả bao nhiêu lít sữa
    chua thành phẩm bằng cách dùng lọ sữa chua đựng để đo đơn vị.
    + Yêu cầu học sinh đổ sữa chua vào các lọ.
    + Có thể tính toán xem nên bán giá bao nhiêu tiền để có lãi.
    (Học sinh thực hành làm đầu bếp giỏi)
    Ví dụ 3: TẬP LÀM HỌA SĨ TÍ HON
    Tập trang trí biển báo giao thông bằng giấy màu. Trong hoạt động này, giáo
    viên liên hệ thực tiễn vào các môn học khác trong nhà trường.
    – Mục đích: Giúp học sinh áp dụng kiến thức đã học về hình học vào cuộc
    sống, rèn luyện tinh thần đồng đội,…
    – Chuẩn bị: Bìa cứng, thước, giấy màu, bút màu, kéo, keo dán ….
    – Cách thực hiện:
    + Giáo viên yêu cầu Học sinh đo kích thước bìa cứng và cắt 1 số hình đã
    học như hình tam giác, hình tròn, hình chữ nhật,…
    + Giáo viên giới thiệu cách làm và hướng dẫn học sinh cách làm bằng các
    dụng cụ và nguyên liệu đã chuẩn bị.
    + Sau đó, giáo viên yêu cầu học sinh nêu tên và ý nghĩa của biển báo đó và
    tổ chức cho học sinh tuyên truyền đến mọi người.
    ( Học sinh tuyên truyền về cổng trường an toàn giao thông )
    Ví dụ 4: TRANG TRÍ NGÔI NHÀ
    Học sinh làm sản phẩm STEM về ngôi nhà ước mơ
    – Mục đích: Giúp học sinh áp dụng kiến thức đã học về hình học vào cuộc
    sống, kích thích trí tưởng tượng và niềm đam mê sáng tạo ở học sinh.
    – Chuẩn bị: Các tấm bảng bìa cứng, thước, các tấm bìa, các khối hình chữ
    nhật, hình vuông, keo nến, giấy màu, một số ống nhựa….
    – Cách thực hiện: Học sinh thảo luận và phân công nhiệm vụ cho từng thành
    viên để thực hành (Học sinh kết hợp kiến thức Mĩ Thuật) để hoàn thành sản phẩm.
    – Các nhóm viết báo cáo thuyết trình cho ngôi nhà của nhóm.
    ( Thành phẩm về STEM ngôi nhà mơ ước của học sinh )
    3.1.5. Thường xuyên giao một số dự án cho nhóm học sinh thực hiện.
    Các “dự án” học tập góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực
    tiễn đời sống, xã hội. Trong quá trình thực hiện “dự án” đòi hỏi sự kết hợp giữa
    kiến thức lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành.
    Thông qua đó kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lý thuyết cũng như rèn luyện
    kỹ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của học sinh.
    Các “dự án” học tập thường được thực hiện theo nhóm, trong đó có sự cộng
    tác làm việc và sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm nên không
    chỉ phát triển các kỹ năng tư duy khoa học, mà còn hướng tới phát triển kỹ năng
    sống cho học sinh, giúp người học phát triển toàn diện như kỹ năng hợp tác, kỹ
    năng thu thập xử lý thông tin, kỹ năng trình bày, bảo vệ ý kiến của cá nhân trước
    tập thể…
    Thông qua các “dự án” nhỏ của giáo viên và học sinh nhằm thu hút các lực
    lượng xã hội tham gia vào giáo dục như cha mẹ học sinh, các đoàn thể…
    Cách thức thực hiện cụ thể như sau:
    – Bước 1: Chọn đề tài, chia nhóm
    – Bước 2: Chuẩn bị: Giaó viên lên kế hoạch (tên dự án, mục đích, chuẩn bị
    bộ câu hỏi định hướng, tổ chức thực hiện, đánh giá kết quả,…)
    – Bước 3: Xây dựng đề cương dự án: Giaó viên hướng dẫn học sinh xác
    định mục đích, nhiệm vụ, cách tiến hành, thời gian, kinh phí,…
    – Bước 4: Thực hiện dự án
    + Các nhóm phân công nhiệm vụ cho các thành viên làm việc
    + Hs thu thập, xử lí thông tin thu được
    + Thực hiện xây dựng sản phẩm
    + Thường xuyên phản hồi, thông báo với giáo viên tiến độ
    – Bước 4: Thu thập kết quả: Học sinh giới thiệu sản phẩm
    – Bước 5: Đánh giá dự án, rút kinh nghiệm
    + Các nhóm tự đánh giá sản phẩm của mình và nhóm bạn, giáo viên đánh
    giá
    Ví dụ: Giáo viên có thể đưa ra một số dự án như sau:
    DỰ ÁN: “CHÚNG EM LÀ KĨ SƯ XÂY DỰNG”
    Để xây dựng trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2, cô muốn lớp mình thực
    hiện một dự án: Hãy tính và dán xốp trang trí thư viện nhà trường. (Có sự kết hợp
    của cha mẹ học sinh)
    Nhiệm vụ của mỗi tổ:
    – Bước 1: Đo độ dài của lớp học (chiều dài, chiều rộng, chiều cao….)
    – Bước 2: Tính diện tích của lớp học (trừ diện tích của cách cửa sổ), diện
    tích của miếng xốp.
    – Bước 3: Tính xem cần bao nhiêu miếng xốp để dán các bức tườn

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Một số biện pháp tổ chức tiết sinh hoạt lớp nhằm tạo hứng thú cho học sinh lớp 5 theo mô hình trường tiểu học mới Việt Nam

    SKKN Một số biện pháp tổ chức tiết sinh hoạt lớp nhằm tạo hứng thú cho học sinh lớp 5 theo mô hình trường tiểu học mới Việt Nam

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Đặt vấn đề
    Trong cuộc sống hiện đại với ngành công nghiệp 4.0, việc đánh giá ưu
    nhược của quá trình, của kết quả thực hiện, từ đó xây dựng kế hoạch cần phải
    thực hiện trong thời gian tiếp theo là một việc làm vô cùng quan trọng. Việc
    nhìn nhận lại mình, nhìn nhận lại công việc mình đã làm, những việc tiếp tục
    phải làm giúp hình thành nhân cách, hình thành năng lực của tất cả mọi người
    trong mọi thời đại, đặc biệt là đối với những con người của thời đại mới, thời đại
    của những công dân toàn cầu. Để đạt được những điều trên, mỗi chúng ta đều
    phải được rèn luyện từ nhỏ, ngay từ khi biết nhận thức. Mà giáo dục Tiểu học là
    cấp học nhỏ nhất đầu tiên của quá trình nhận thức trong hệ thống giáo dục quốc
    dân, là cấp học nền móng, cấp học khởi đầu, cấp học vô cùng quan trọng trong
    việc hình thành và phát triển cách tư duy, cách lập kế hoạch, cách nhìn nhận và
    nhìn nhận lại vấn đề cho mỗi người. Do đó, việc trang bị kĩ năng đánh giá, nhận
    xét, rút kinh nghiệm, lập kế hoạch cho quá trình là một việc làm liên tục, thường
    xuyên, xuyên suốt từ tuần này sang tuần khác, từ học kì này sang học kì khác, từ
    lớp học này sang lớp học khác, từ cấp học này sang cấp học khác, giai đoạn này
    sang giai đoạn khác… Khi việc đánh giá, nhận xét, rút kinh nghiệm đã trở thành
    một kĩ năng như một thói quen, nó sẽ theo chúng ta, mang thành công đến cho
    chúng ta suốt cả cuộc đời. Mục tiêu của tiết sinh hoạt lớp là rèn luyện cho HS
    những kĩ năng nói trên do đó tiết sinh hoạt lớp là một tiết học vô cùng cần thiết.
    Nó giúp HS phát huy những ưu điểm, khắc phục nhược điểm của bản thân, giúp
    các em hoàn thiện nhân cách và phát huy hiệu quả hoạt động học tập và rèn
    luyện. Không những thế, thực hiện tốt, có hiệu quả tiết sinh hoạt lớp sẽ tác động
    tích cực đến các tiết học, các hoạt động giáo dục khác. Thế nhưng, làm thế nào
    để HS phấn khởi, hào hứng chia sẻ việc học tập và rèn luyện của mình sau một
    tuần học? Xuất phát từ những lí do trên, cộng với kinh nghiệm đứng lớp, tôi đã
    nghiên cứu và tìm tòi những phương pháp, hình thức, cách thức tổ chức các hoạt
    động của tiết sinh hoạt, sao cho tiết sinh hoạt diễn ra nhẹ nhàng, trôi chảy, HS
    vui vẻ hào hứng tiếp nhận, phát huy, sửa chữa và lập kế hoạch hoạt động nhằm
    3
    rèn luyện bản thân trong thời gian tiếp. Và tôi thấy những biện pháp tôi đã sử
    dụng thật sự có hiệu quả cao mà lại dễ tổ chức, dễ thực hiện. Vì vậy tôi đã chọn
    và nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp tổ chức tiết sinh hoạt
    lớp nhằm gây hứng thú cho học sinh lớp 5 theo mô hình Trường Tiểu học
    mới Việt Nam”.
    2. Đối tượng nghiên cứu
    Sáng kiến kinh nghiệm này được thực hiện cho học sinh lớp 5A – Trường
    Tiểu học Thị trấn Rạng Đông. Sau đó nhân rộng thực hiện trên học sinh toàn
    trường và các trường TH Nam Điền,TH Nghĩa Lợi, TH Phúc Thắng, TH Nghĩa
    Hải, TH Nghĩa Hùng (Nghĩa Hưng), TH Thịnh Long, TH Hải Xuân , TH Hải
    Cường, TH Hải Triều, TH Hải Châu (Hải Hậu).
    3. Phạm vi nghiên cứu
    Trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm này tôi tập trung nghiên cứu “Một
    số biện pháp tổ chức tiết sinh hoạt lớp nhằm gây hứng thú cho học sinh lớp 5
    theo mô hình Trường Tiểu học mới Việt Nam” tại Trường Tiểu học Thị trấn
    Rạng Đông cùng 5 trường khác thuộc huyện Nghĩa Hưng, 5 trường thuộc huyện
    Hải Hậu (như trên).
    4. Phương pháp nghiên cứu
    – Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
    – Phương pháp tìm hiểu thực tế.
    – Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê.
    – Phương pháp thực nghiệm.
    4
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1.Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Cơ sở lý luận
    Xuất phát từ thực tiễn, đất nước Việt Nam của chúng ta đang trên con
    đường đổi mới và hội nhập, cần có những con người năng động, sáng tạo, toàn
    diện, phát huy hết tiềm năng, năng lực cá nhân, biết triển khai kế hoạch, biết lập
    kế hoạch cho bản thân, cho một tập hợp hay một tập thể người, biết phê và đặc
    biệt là biết tự phê. Vì vậy cùng với việc đổi mới nội dung chương trình giáo dục
    phổ thông thì việc đổi mới phương pháp dạy học đặc biệt là tổ chức tiết sinh
    hoạt lớp vào cuối mỗi tuần là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Tiết
    sinh hoạt lớp thành công sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục,
    đồng thời góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu giáo dục mà Đảng và Nhà nước,
    ngành giáo dục và đào tạo đề ra.
    Trong tiết sinh hoạt lớp, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn HS hoạt
    động. Các học sinh đều được tham gia rút kinh nghiệm, lập kế hoạch thực hiện
    cho bản thân, cho mọi người và cho tập thể. Giáo viên tổ chức hướng dẫn HS tự
    giác đánh giá ưu nhược của mình, của bạn, của nhóm, của tập thể dưới các hình
    thức khác nhau thông qua những hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân. Từ đó,
    học sinh nắm được những việc nên làm, những việc không nên làm, những việc
    đã làm, những việc sẽ làm, tạo cho học sinh thói quen tự giác, chủ động, không
    dập khuôn máy móc kiểu bắt chước, biết tự đánh giá mình, đánh giá bạn, đánh
    giá sự tương tác giữa mọi người trong nhóm, trong lớp, biết phê và tự phê sao
    cho ai cũng vui vẻ, nhẹ nhàng đón nhận những nhận xét, góp ý và mong muốn
    được sửa chữa, được tốt lên. Đặc biệt, sau những việc làm này, HS nỗ lực vươn
    lên, các em có niềm tin, niềm vui trong hoạt động học tập và hoạt động giáo dục.
    Đồng thời tạo điều kiện để học sinh phát huy năng lực, sở trường của mình, biết
    nhìn nhận mình trong các hoạt đông học tập, rèn luyện và trong cuộc sống. Tiết
    sinh hoạt lớp còn có nhiệm vụ chuyển các công việc nhà trường giao tới lớp một
    cách kịp thời. Nó giúp HS phát huy được tính tự giác, tinh thần giúp đỡ, hợp tác
    cùng nhau, phát huy năng lực điều hành, năng lực tự quản của các em. Nó còn
    5
    giúp các em được bộc lộ khả năng nhận thức về hành vi, thái độ, tình cảm của
    mình khi tự đánh giá mình và đánh giá các bạn, khả năng nhìn nhận lại bản thân,
    so sánh sự tiến bộ để từ đó có ý thức phấn đấu vươn lên, bồi dưỡng cho HS sự sẻ
    chia, thông cảm với bạn bè, mọi người xung quanh, sẵn sàng chia sẻ và gánh vác
    công việc chung của nhóm, của lớp, của trường,… hình thành nhân cách đúng
    đắn bây giờ và sau này của các em. Ngoài ra, tiết sinh hoạt lớp là nơi để thầy trò
    hiểu nhau hơn, đặc biệt là thầy cô hiểu học trò, từ đó thầy lựa chọn ra phương
    pháp giảng dạy và giáo dục đúng hướng cho từng đối tượng HS trong lớp.
    Tóm lại: Tiết sinh hoạt lớp vô cùng quan trọng trong việc giáo dục học
    sinh. Tiết sinh hoạt lớp hiệu quả nó sẽ giúp các tiết học của các môn học khác và
    các hoạt động giáo dục cũng hiệu quả, hình thành phẩm chất, nhân cách tốt ở
    HS.
    1.2. Thực trạng
    Trong một số năm gần đây do nhu cầu của xã hội, do việc nhận thức về
    giáo dục của toàn dân và nhu cầu học hỏi của HS được nâng lên đòi hỏi GV
    càng ngày càng nhận thức được vai trò của phương pháp, của hình thức dạy học,
    vai trò của việc rèn luyện HS trở thành những con người toàn diện trong việc
    nâng cao chất lượng dạy học, chất lượng giáo dục nên ngành đã liên tục phát
    động phong trào đổi mới phương pháp dạy học.
    Hơn nữa, theo Chương trình Giáo dục phổ thông mới 2018, tiết Sinh hoạt
    lớp đổi mới theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Trong tiết sinh hoạt,
    học sinh tiến hành hoạt động giáo dục, tự giáo dục và xây dựng tập thể lớp dưới
    sự cố vấn, hướng dẫn và chỉ đạo của giáo viên chủ nhiệm. Thông qua đó nhằm
    khơi dậy ở học sinh tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tinh thần hợp tác, trách
    nhiệm đối với bản thân, đối với tập thể và cộng đồng; hình thành, củng cố và
    phát triển ở học sinh kỹ năng hoạt động độc lập, tự chủ, kỹ năng giao tiếp, ứng
    xử trong các mối quan hệ tập thể lớp và ngoài xã hội; xây dựng lớp thành một
    tập thể tự quản, có nền nếp, đoàn kết, gắn bó sống có trách nhiệm cùng nhau,
    phát huy được vai trò nòng cốt, tính tiên phong của tổ chức Đội trong các hoạt
    động tập thể. Nội dung và hình thức thực hiện linh hoạt, phù hợp với chủ đề, chủ
    6
    điểm do nhà trường và giáo viên lựa chọn nhưng đảm bảo được các yêu cầu:
    Tiết sinh hoạt lớp thực hiện bám sát theo nội dung chủ đề, chủ điểm trong kế
    hoạch giáo dục năm học của nhà trường, đồng thời tích hợp giải quyết các yêu
    cầu do chính đời sống học tập và rèn luyện của học sinh đặt ra; đảm bảo phong
    phú về nội dung, đa dạng về hình thức và phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học.
    Các nội dung bao gồm về giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục kĩ năng
    sống, giáo dục thẩm mĩ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động, giáo dục an toàn
    giao thông, giáo dục môi trường, giáo dục phòng chống ma túy, HIV/AIDS và tệ
    nạn xã hội,… Thông qua nhiều hình thức tổ chức như trò chơi dân gian, văn
    nghệ, đố vui để học, thể dục thể thao, hùng biện, trang trí lớp học, làm báo
    tường, tổ chức sinh nhật, tổ chức ngày hội (trung thu, hóa trang, trao đổi đồ
    dùng, đồ chơi, sách truyện,…), hoạt động khéo tay hay làm, hoạt động giao lưu.
    Học sinh thảo luận nhóm về tình huống mở của tiểu phẩm trong tiết sinh hoạt
    dưới cờ của tuần tiếp theo. Khi tổ chức tiết sinh hoạt lớp đảm bảo nguyên tắc
    học sinh tự quản toàn diện, tiết sinh hoạt lớp là của học sinh, do học sinh thực
    hiện vì những lợi ích của mỗi học sinh và của cả tập thể lớp. Giáo viên chủ
    nhiệm cần linh hoạt vai trò chủ đạo của mình trong suốt quá trình hướng dẫn học
    sinh chuẩn bị, triển khai, đánh giá kết quả,… bằng cách gợi mở, khơi dậy tiềm
    năng, tiềm lực, kết nối giữa các học sinh, động viên và khuyến khích học sinh
    thực hiện một cách tự tin và chủ động. Giáo viên chủ nhiệm thực hiện tốt một số
    nhiệm vụ chủ yếu: đó là xây dựng nội dung tiết sinh hoạt lớp bảo đảm tính thống
    nhất về chủ điểm của lớp với của khối, của trường theo nội dung kế hoạch giáo
    dục của nhà trường, đồng thời khơi dậy tính sáng tạo, chủ động của tập thể lớp
    chủ nhiệm. Giáo viên căn cứ vào các chủ đề, chủ điểm hoạt động trong tuần,
    tháng và năm học của nhà trường để xây dựng kế hoạch tiết sinh hoạt lớp. Khi
    tổ chức tiết sinh hạt lớp, giáo viên cần tổ chức các hoạt động hướng đến hình
    thành và phát triển phẩm chất, năng lực học sinh, tránh việc tập trung đánh giá
    hạn chế, yếu kém và phê bình. Ngoài ra, căn cứ vào quy mô và nội dung từng
    hoạt động, giáo viên chủ nhiệm phối hợp, liên kết với nhiều lực lượng giáo dục
    trong và ngoài nhà trường tham gia hoạt động sinh hoạt lớp. Từ đó, tiết sinh hoạt
    7
    lớp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh, học sinh học tập
    một cách chủ động, hiệu quả.
    Tuy nhiên cũng như việc dạy các môn học và tổ chức các hoạt động giáo
    dục nói chung thì khi tổ chức các tiết sinh hoạt lớp ở Trường Tiểu học Thị trấn
    Rạng Đông cùng 5 trường Tiểu học của huyện Nghĩa Hưng và 5 trường Tiểu
    học của huyện Hải Hậu vẫn còn một số thực trạng thực tế như sau:
    * Thuận lợi:
    + Các Phòng giáo dục và Ban giám hiệu các nhà trường quan tâm đến
    việc dạy và học, cha mẹ HS đồng thuận và vào cuộc.
    + Đội ngũ cán bộ quản lí của trường Tiểu học Rạng Đông, TH Nam Điền,
    TH Nghĩa Lợi, TH Phúc Thắng, TH Nghĩa Hải, TH Nghĩa Hùng (Nghĩa Hưng),
    TH Thịnh Long, TH Hải Xuân , TH Hải Cường, TH Hải Triều, TH Hải Châu
    (Hải Hậu) có năng lực chuyên môn tốt, luôn quan tâm chỉ đạo sát sao các hoạt
    động dạy học và giáo dục qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, dự giờ góp ý, xây
    dựng các nội dung, cách tổ chức tiết sinh hoạt lớp học theo sát chương trình giáo
    dục phổ thông mới. Chất lượng dạy và học của các trường đều cao. Các nhà
    trường luôn tổ chức tốt các phong trào thi đua và các hoạt động giáo dục.
    + Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, vận dụng linh hoạt các
    phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin
    tốt, tìm tòi các hình thức, các phương pháp tổ chức các hoạt động sinh hoạt sao
    cho hiệu quả. Dựa vào thời lượng, dựa vào chủ đề từng tuần, từng tháng, từng
    kỳ, GV có thể lựa chon nội dung, phương pháp, cách thức tổ chức phù hợp đối
    tượng học sinh.
    + Học sinh có cơ hội chia sẻ những trải nghiệm, những kinh nghiệm, cách
    thực hiện với bạn và vận dụng những kĩ năng đó vào cuộc sống hàng ngày.
    + Học sinh được làm việc cá nhân, làm việc theo nhóm, làm việc cả lớp,
    được thảo luận, trao đổi và tự đánh giá cũng như đánh giá lẫn nhau, tự lập kế
    hoạch hay hợp tác, bàn bạc để lập kế hoạch.
    8
    + Các ban ngành, đoàn thể trong nhà trường, ngoài địa phương cũng quan
    tâm, động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện, đồng hành cùng giáo viên trong việc giáo
    dục học sinh.
    *Khó khăn:
    – Đối với giáo viên:
    + Giáo viên đôi khi chưa mạnh dạn trong việc lựa chọn nội dung và cách
    thức tổ chức, chưa làm chủ thời gian trong việc hỗ trợ từng cá nhân, từng nhóm.
    – Đối với học sinh:
    + Một số học sinh còn ỷ lại, quen chờ giáo viên hướng dẫn từng thao tác,
    từng nhiệm vụ học tập. Các em chưa đủ mạnh dạn để phê và tự phê, chưa thảo
    luận hợp tác hay tìm kiếm sự giúp đỡ để lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch
    cũng như trải nghiệm.
    + Một số em nhóm trưởng còn lúng túng khi đề nghị các bạn thực hiện
    các nhiệm vụ của nhóm.
    – Đối với phụ huynh:
    + Một số phụ huynh chưa thực sự vào cuộc, chưa quan tâm và chưa có hiểu
    biết nhiều về chương trình giáo dục phổ thông mới. Chính vì vậy phụ huynh
    chưa kích thích được việc đánh giá, nhìn nhận, chia sẻ công việc của con em.
    Với những thực trạng này bản thân tôi nhận thấy cần phải nghiên cứu để
    tổ chức các hoạt động trong giờ sinh hoạt lớp cho học sinh sao cho phù hợp và
    hiệu quả.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1 Mục tiêu của giải pháp
    Với mục tiêu lấy HS làm trung tâm, HS có kĩ năng làm việc cá nhân, biết
    nêu ý kiến, suy nghĩ cá nhân, biết hợp tác với các bạn trong nhóm, trong lớp,
    tiếp thu, tổng hợp ý kiến của các bạn, biết phân biệt biểu hiện, hành vi, việc làm
    đúng, sai, phương hướng khắc phục, phấn đấu, biết lập kế hoạch ngắn hạn, trung
    hạn và dài hạn cho công việc học tập và rèn luyện của mình dưới sự hướng dẫn
    và trợ giúp của thầy cô giáo. Từ những kĩ năng được hình thành trong tiết sinh
    hoạt ở lớp, HS vận dụng vào cuộc sống hàng ngày, tạo thành những đức tính,
    9
    thói quen tốt khi làm việc. Đó là đức tính trung thực, kỷ luật, độc lập, tự chủ, ý
    thức. Đó là thói quen biết tuân thủ quy tắc, thói quen cân nhắc lựa chọn những
    việc làm có ích phù hợp, tránh những việc làm cho hậu quả không tốt, thói quen
    làm việc theo kế hoạch, thói quen góp ý, rút kinh nghiệm cho chính bản thân
    mình, cho người thân, cho bạn bè và những người xung quanh. Cũng từ đó, hình
    thành lối sống tự giác, tích cực, chủ động, khoa học, lành mạnh, văn minh, năng
    lực trí tuệ, nhân cách của học sinh phát triển.
    2.2 Nội dung tiết sinh hoạt lớp và các cách thức thực hiện giải pháp
    2.2.1 Hoạt động 1: Khởi động
    Như tất cả các tiết học khác, để bắt đầu tiết học, trưởng ban văn nghệ
    (hoặc chủ tịch, phó chủ tịch hay trưởng ban học tập,…) tổ chức cho các bạn chơi
    trò chơi, hát, múa tùy theo nội dung từng chủ đề của tháng, của tuần. Có 2 dạng
    trò chơi tôi thường tổ chức cho HS chơi. Đó là:
    + Dạng 1: Trò chơi vận động.
    Trò chơi vận động là hình thức vui chơi, nghỉ ngơi tích cực, là phương
    tiện để giáo dục học sinh một cách toàn diện, thu hút nhiều học sinh tham gia.
    Sau một tuần học căng thẳng, trò chơi vận động khởi động của tiết sinh hoạt lớp
    sẽ mang lại tiếng cười vui vẻ, tâm trạng phấn khởi, tâm thế thoải mái để các em
    có thể hào hứng chia sẻ những việc đã làm trong tuần qua, đặc biệt là việc tự
    đánh giá những biểu hiện, hành vi, việc làm chưa tốt của chính bản thân mình và
    tự nêu ra được các việc làm tiếp theo để khắc phục các nhược điểm đó. Những
    trò chơi tôi thường tổ chức cho các em chơi: ví dụ như trò Chuyền hoa, Bắn tên,
    Thò thụt, Mẹ đi chợ, Chim bay cò bay, Alibaba, Tôi là vua, Con thỏ, Tôi
    cần,…..
    Dạng 2: Trò chơi củng cố kiến thức
    Tuy tiết sinh hoạt lớp là một tiết học mang tính giáo dục và là hoạt động
    trải nghiệm của học sinh nhưng ở tiết học này, giáo viên vẫn có thể tổ chức một
    số trò chơi đơn giản, vui nhộn giúp học sinh tái hiện, ghi nhớ hay phát hiện
    nhanh các kiến thức đã học. Trò chơi dạng này diễn ra nhẹ nhàng, vui nhộn, học
    10
    sinh hào hứng tham gia. Đặc biệt trò chơi không những giúp không khí tiết sinh
    hoạt lớp vui vẻ mà nó còn bổ trợ cho các tiết học khác.
    Ví dụ 1: Trò chơi Du lịch vòng quanh thế giới.
    + Hình thức chơi: Rung chuông vàng
    + Luật chơi: Giáo viên sẽ lần lượt đưa ra một số câu hỏi. Học sinh trả lời
    vào bảng trong một thời gian nhất định. Học sinh trả lời đúng thì được ở lại sàn
    thi đấu để trả lời câu tiếp theo, ngược lại học sinh không trả lời được phải rời
    khỏi sàn thi đấu. Thí sinh cuối cùng sẽ được vinh danh là người xuất sắc nhất.
    + Câu hỏi:
    1. Thế giới có mấy châu lục?
    2. Thế giới có mấy đại dương?
    3. Biển Đông thuộc đại dương nào?
    4. Việt Nam thuộc châu lục nào?
    5. Việt Nam thuộc khu vực nào của châu Á?
    6. Đại dương nào có độ sâu lớn nhất?
    7. Châu lục nào có diện tích lớn nhất?
    8. Quốc gia nào có số dân đông nhất?
    9. Châu lục nào có đủ 4 đới khí hậu?
    10. Quốc gia nào nằm ở 2 châu lục?
    Ví dụ 2: Em yêu toán học
    + Hình thức chơi: HS trả lời câu hỏi cá nhân, thi xem ai nhanh nhất.
    + Luật chơi: Giáo viên sẽ lần lượt đưa ra một số câu hỏi, bài toán, phép
    tính dạng tính nhanh. Học sinh tính toán nhanh. Khi đã có đáp án, học sinh phát
    nhanh tín hiệu giành quyền trả lời. Nếu HS trả lời sai sẽ nhường quyền trả lời
    cho HS khác. Kết thúc trò chơi, HS nào trả lời được nhiều câu hỏi nhất sẽ được
    tuyên dương.
    + Câu hỏi:
    1. 10% của 1000 là bao nhiêu?
    11
    2. Mẹ đổi tờ tiền có mệnh giá 100 000 đồng thành các tờ tiền có mệnh giá
    50 000 đồng, 20 000 đồng, 10 000 đồng. Hỏi mẹ đổi nhiều nhất được bao nhiêu
    tờ tiền?
    3. 2,5 x 7,8 x 4 =?
    4. Số thập phân thích hợp điền vào chỗ chấm sao cho: 0,01 < …. < 0,02?
    5. Phân số biểu thị 0,8%?
    6. Tìm x: 8,75 x x + 1,25 x x = 20
    7. 25% số học sinh khối 5 của trường em là 25 em. Số học sinh khối 5 của
    trường em là bao nhiêu?
    8. Xe ô tô xuất phát lúc 23 giờ, đến 2 giờ 15 phút sáng tới nơi. Xe ô tô đi
    trong thời gian bao lâu?
    9. Mỗi chuyến đò chở được 6 người (kể cả người lái đò). Có 24 người
    muốn sang sông thì cần ít nhất bao nhiêu chuyến?
    10. Cứ mỗi ngày lượng bèo trong một cái ao lại nở tăng lên gấp đôi. Sau
    15 ngày, số bèo ban đầu đã nở kín một nửa cái ao đó. Hỏi sau bao nhiêu ngày số
    bèo ban đầu sẽ nở kín mặt ao?
    Ngoài ra, giáo viên có thể thiết kế các trò chơi ôn lại kiến thức và phát triển trí
    thông minh của học sinh như trò chơi Ô chữ bí mật, Chiếc nón kì diệu, Chiếc
    hộp kì diệu, ….. với các hình thức chơi theo nhóm, theo tổ, hay cá nhân. Các trò
    chơi này không nặng về kiến thức, đảm bảo học sinh chơi hào hứng, tạo khí thế
    cho sự hoạt động nhận xét, sẻ chia, rút kinh nghiệm hay cho hoạt động lập kế
    hoạch trong tiết sinh hoạt lớp.
    2.2.2 Hoạt động 2: Đánh giá hoạt động tuần qua (hoặc tháng hay học kì,…)
    a. Theo trình tự thông thường, để đánh giá hoạt động của lớp sau một tuần,
    hoạt động đánh giá sau một tuần học thường diễn ra theo trình tự sau:
    + Chủ tịch hội đồng tự quản giới thiệu, điều khiển diễn biến của tiết sinh
    hoạt lớp.
    + Các nhóm trưởng báo cáo tình hình tổ mình, nhóm mình tuần qua có
    những ưu điểm, khuyết điểm gì, điển hình cá nhân tốt, chưa tốt. Các nhóm
    trưởng hoặc các thành viên khác trong lớp bổ sung nếu thấy phần báo cáo còn
    12
    thiếu, chưa đầy đủ. Khi báo cáo, tổ trưởng thường nêu các biện pháp mà tổ,
    nhóm đã hỗ trợ, đã giúp các bạn còn vi phạm như thế nào và sự chuyển biến của
    các bạn đó.
    + Học sinh phát biểu cá nhân chủ yếu là những học sinh còn vi phạm (vì
    sao vi phạm, biện pháp của bản thân để khắc phục lỗi)
    + Tổ họp nhóm bình bầu đánh giá cá nhân xuất sắc, báo cáo trước lớp kết
    quả, lớp biểu quyết.
    + Lớp công nhận bầu tổ xuất sắc. Giáo viên khen thưởng hoặc tặng cờ,…
    cho tổ, ghi tên cá nhân xuất sắc lên bảng.
    b. Tuy nhiên, theo thông tư 30 và thông tư 22 về đánh giá học sinh tiểu
    học của bộ giáo dục và Đào tạo có một số ý như sau: Giáo viên điều chỉnh, đổi
    mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học, điều chỉnh cách đánh
    giá học sinh; Giúp học sinh có khả năng tự đánh giá, tham gia đánh giá; tự học,
    tự điều chỉnh cách học; giao tiếp, hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để
    tiến bộ; đánh giá sự tiến bộ của học sinh, không so sánh học sinh này với học
    sinh khác, không tạo áp lực cho học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh.
    c. Vì những lí do trên, tôi đã nghiên cứu, thiết kế để đổi mới các hình thức
    báo cáo hoạt động đánh giá các hoạt động sau một tuần như sau:
    * Hình thức thứ nhất: Viết thư
    + Công cụ: Sử dụng góc Điều em muốn nói ( chia sẻ cùng cô) và Nhịp
    cầu bè bạn.
    + Mục tiêu, giúp học sinh tự đánh giá bản thân mình, tự điều chỉnh hành
    vi để tiến bộ, không tạo sự ngại ngùng, xấu hổ hay áp lực cho học sinh.
    + Nội dung: GV yêu cầu các em viết thư cho cô giáo, cho bố mẹ, cho bạn
    bè tự nói về những việc bản thân mình đã làm được, làm tốt; những việc mình
    làm chưa tốt, cách khắc phục những nhược điểm đó trong thời gian tới, những
    khó khăn bản thân học sinh cần thầy cô hay bạn bè giúp đỡ. Hay học sinh viết về
    một việc làm tốt của một bạn nào đó trong lớp, những điều học được từ bạn,…..
    + Hiệu quả: Do được giáo viên và bạn bè tôn trọng, giữ bí mật nên các em
    không ngại chia sẻ những điều các em chưa tốt, chưa ngoan và lời hứa, cách
    13
    phấn đấu để thời gian tới tốt hơn. Nhờ vậy, giáo viên hiểu, nắm được tâm tư,
    nguyện vọng, cá tính, hoàn cảnh của từng em. Từ đó, giáo viên điều chỉnh cách
    dạy dỗ, giáo dục đối với từng em sao cho phù hợp.
    *Hình thức thứ hai: Hoàn thiện bức tranh
    + Công cụ: Giáo viên thiết kế mảng chính của một bức tranh. Bức tranh
    này có thể chia thành 2 mảng ( Mảng 1: Những việc tốt em đã làm; Mảng 2:
    Những việc em đã làm nhưng cảm thấy chưa tốt, lần sau em sẽ làm tốt hơn).
    Nhiệm vụ của học sinh xé dán, tô màu,… hoàn thành bức tranh ấy.
    + Mục tiêu: GV đổi mới hình thức đánh giá bản thân, từ đó có cái nhìn
    tổng quát về những việc các em đã làm tốt, làm chưa tốt của nhóm, của tổ hay
    của lớp. HS được tham gia đánh giá, không bị so sánh và có thể tự phát huy hay
    điều chỉnh những việc mình đã hoặc sẽ làm.
    + Nội dung: HS có ghi những việc đã là tốt, những việc làm chưa tốt của
    cá nhân vào bức tranh chung hoặc ghi những việc làm đó vào các tờ giấy màu
    thủ công , sau đó vẽ hoặc xé thành các họa tiết, hình mảng rồi tô, vẽ, dán hoàn
    chỉnh bức tranh.
    + Hiệu quả: Với hình thức làm này, HS không ngại chia sẻ với các bạn
    những ưu nhược điểm của những việc em đã làm, các em tự tin chia sẻ, chắc
    chắn các em sẽ tự tin khắc phục những nhược điểm đó trong thời gian ngắn nhất.
    Hơn thế, GV nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, tính nết của từng em để điều
    chỉnh phương pháp giáo dục cho phù hợp.
    14
    *Hình thức thứ 3: Kể tiếp kết thúc tốt đẹp cho một câu chuyện.
    + Công cụ: HS có thể dùng giấy in sẵn hoa văn hoặc các em tự tay trang
    trí tờ giấy của mình. Các em thể hiện nội dung câu chuyện giáo viên yêu cầu
    bằng cách cắt, dán, tô màu, vẽ tranh hay viết bằng lời.
    + Mục tiêu: Đổi mới hình thức nhận xét, đánh giá những việc đã làm. Kết
    thúc tốt đẹp của câu chuyện mà các em thể hiện, đó chính là mong muốn bản
    thân hoàn thiện hơn, tốt hơn và cũng là bài học các em rút ra cho bản thân mình.
    + Nội dung: Sau khi HS chia sẻ với GV về những việc em làm chưa tốt ở
    hình thức thứ nhất. GV chon một lỗi tiêu biểu của các em dưới dạng một câu
    chuyện với kết thúc mở. HS có thể viết, xé dán, vẽ hay chia sẻ bằng lời kết thúc
    tốt đẹp của câu chuyện ấy. Nội dung của các câu chuyện phụ thuộc vào cái đích
    của từng tuần, từng tháng hay từng giai đoạn mà GV cần HS đạt được cái đích
    đó trong thời gian tới.
    Ví dụ: Chuẩn bị kiểm tra định kì lần 2, nhiều HS chia sẻ rằng bản thân
    chưa chăm học, chưa ôn tập bài bài mà lại dành quá nhiều thời gian đi chơi, xem
    ti vi,….. GV kể câu chuyện có nội dung tóm tắt như sau
    15
    Sáng chủ nhật, tiết trời mát mẻ, ánh nắng vàng dịu nhẹ tỏa xuống mặt đất,
    sương long lanh đậu trên cành lá. Nam ngước nhìn bầu trời trong xanh. Chà,
    thời tiết này mà đi đá bóng thì thật là tuyệt! Cả tuần nay đi học, chưa hôm nào
    được đá bóng thỏa thích. Nhưng mà tuần sau Nam phải tham gia kì khảo sát
    cuối học kì. Kì này khảo sát nhiều môn học lắm: nào là môn toán, nào là môn
    Tiếng Việt lại còn cả môn Khoa học, môn Lịch sử, Địa lí nữa. Ôi, lại cả môn
    Tiếng Anh, Tin học. Nghĩ đến đây đầu óc nó ong ong. Đang lan man nghĩ ngợi,
    tiếng bạn Đức réo lên:
    – Nam ơi, ra sân vận động đá bóng đi!
    Nghe tiếng gọi, đôi mắt nó bừng sáng. Nó vội vã chạy vào nhà chuẩn bị
    quần áo để đi chơi. Nhưng rồi………..
    Em hãy viết tiếp (hay kể tiếp) nội dung của câu chuyện với một kết thúc
    tốt đẹp.
    HS đã viết được các ý như sau:
    – HS 1: Nam sững lại vì chợt nhớ đến nhiệm vụ ôn tập. Bạn ấy quyết định
    không đi đá bóng với Đức nữa mà hẹn Đức đến chiều mát khi đã hoàn thành
    xong các bài ôn tập. Nhờ vượt qua được chính mình nên kì khảo sát đó, Nam đạt
    điểm tốt tất cả các môn.
    – HS 2: Đang háo hức mặc quần áo, xỏ giày thể thao để đi, ý nghĩ chưa
    hoàn thành bài tập cứ cuộn lên trong đầu Nam. Nó gọi Đức vào, rủ bạn cụng ở
    lại ôn tập, khi nào học xong sẽ đi đá bóng. Và kì khảo sát ấy đôi bạn đều vui vì
    ai cũng đạt được điểm cao.
    – HS 3: Có thể vẽ bức tranh 2 bạn đang cùng nhau ôn bài.
    – HS 4: Xé dán bông hoa điểm tốt bên cạnh 1 bạn HS đang ngồi ngay
    ngắn học bài.
    …….
    + Hiệu quả: Với cách làm này, HS có rất nhiều cách giải quyết khác nhau.
    Từ đó HS nắm được những việc làm chưa tốt và cách khắc phục nhược điểm ấy
    một cách nhanh chóng. Cách làm này không chỉ hiệu quả với những HS mắc lỗi
    mà nó còn là cách làm sáng tạo cho những HS tốt phát huy ưu điểm của mình.
    16
    *Hình thức thứ tư: Thiết kế việc đánh giá ưu nhược điểm sau một tuần học
    tập và rén luyện dưới hình thức trò chơi.
    + Công cụ: Sử dụng các bài hát, bài thơ có nội dung giáo dục đạo đức gắn
    với trẻ thơ, một số vật liệu sẵn có dễ kiếm như bông hoa, cây thông,…; những
    câu hỏi, những câu còn thiếu nội dung cần phải điền thêm cho phù hợp,….
    + Mục tiêu: Thông qua trò chơi, HS hào hứng tự nêu ra những việc tốt đã
    làm khiến mình rất vui, những lỗi mà mình mắc phải cần phải sửa chữa trong
    thời gian tiếp theo. Từ trò chơi đó, HS nhận ra nhược điểm của mình một cách
    nhẹ nhàng, không bị áp lực và có động cơ nhanh chóng khắc phục nhược điểm.
    + Hiệu quả: Trò chơi diễn ra vui vẻ, không có sự chê bai, kì thị, không có
    sự so sánh, mặc cảm. Chính bản thân mỗi HS rút ra bài học cho mình, cho nhóm
    mình, tổ mình, lớp mình.
    Ví dụ 1: Trò chơi Lời nói thật
    + Đồ dùng: Lời bài hát Con chim vành khuyên hay bài Lớp chúng ta đoàn
    kết, một bông hoa nhựa.
    + Luật chơi: Cả lớp hát bài Chim vành khuyên. Khi nào chủ trò hô dừng,
    bông hoa ở tay bạn nào, bạn đấy nêu một việc làm tốt mà mình cảm thấy rất vui
    một việc làm chưa tốt mình chưa hài lòng và hướng khắc phục trong thời gian
    tới.
    + Hình thức chơi: Cả lớp.
    Ví dụ 2: Trò chơi Xì điện (nội dung, hình thức tương tự như trò chơi Chuyền
    hoa)
    + Luật chơi: HS được chỉ định (được xì điện) có thể hát một bài hát, hay
    biểu diễn một bài múa, hay kể một việc bạn đã làm tốt và một việc bạn làm chưa
    tốt trong tuần qua, phương hướng của bạn trong tuần tới.
    Ví dụ 3: Trò chơi Hái hoa dân chủ
    + Nội dung: Cây hoa treo những câu hỏi mà các bạn HS đã thảo luận
    trong việc xây dựng kế hoạch ở tuần trước. Các bạn xung phong lên hái hoa, trả
    lời câu hỏi. Nhóm nào có nhiều bạn xung phong trả lời thì nhóm đó được thưởng
    cờ, thưởng hoa, được ghi danh, …
    17
    Các bông hoa có thể ghi các nội dung hỏi như sau:
    – Việc làm nào bạn tâm đắc nhất trong tuần vừa qua? Vì sao bạn lại thực
    hiện tốt việc đó đến vậy?
    – Bạn hãy kể những việc làm mà các bạn khác đã làm khiến bạn ngưỡng
    mộ? Tại sao bạn lại ngưỡng mộ những việc làm ấy?
    – Bạn hãy kể một việc bạn đã làm mà kết quả không được như mong
    muốn? Trong thời gian tới bạn dự định sẽ thực hiện việc ấy như thế nào?
    – Có điều gì thắc mắc bạn cần chia sẻ với cô giáo và các bạn không?
    – ……………
    * Hình thức thứ năm: Đóng kịch
    + Công cụ: Bắt chước các nhân vật và hình thức báo cáo của các Táo
    trong Táo quân lên trời trong chương trình Gặp nhau cuối năm của các nghệ
    sỹ.
    + Mục tiêu: Gây hứng thú cho HS. HS nhận ra ưu nhược và cách khắc
    phục một cách vui vẻ.
    + Nội dung: Hội đồng tự quản và các thành viên trong lớp thiết kế nội
    dung báo cáo kết quả học tập vả rèn luyện trong tuần dưới hình thức một tiểu
    phẩm hài.
    + Hiệu quả: Thông qua tiểu phẩm kịch, HS hào hứng xem, không khí lớp
    vui vẻ. HS thoải mái thể hiện năng khiếu của mình. Đồng thời tất cả lớp đều rút
    được bài học cho bản thân.
    Ví dụ:
    + Các nhân vật: Ngọc Hoàng (chủ tịch HĐTQ), Nam Tào (Phó chủ tịch
    HĐTQ 1), Bắc Đẩu (Phó chủ tịch HĐTQ 2), Táo Học tập (Trưởng ban Học tập),
    Táo Nề nếp (Trưởng ban Nề nếp), Táo Môi trường (Trưởng ban Lao động vệ
    sinh), Táo Văn nghệ (Trưởng ban Văn nghệ), Táo Thư viện (Trưởng ban Thư
    viện).
    (Những lần đóng kịch, có thể 1 thành viên của ban báo cáo, không nhất
    thiết là các trưởng ban)
    18
    + Cảnh trí: Thiên Đình; Ngọc Hoàng ngồi trên ngai vàng, Nam Tào và
    Bắc Đẩu đứng hai bên, bên ngoài các Táo đang chuẩn bị vào chầu.
    + Nội dung tiểu phẩm:
    Nam Tào: Thế là đã hết một tuần học tập, vui chơi và rèn luyện. Hôm nay,
    tiết sinh hoạt lớp, Nhà trời mở cửa Thiên đình, mời các Táo vào chầu!
    Bắc Đẩu: Mời các Táo!
    Các Táo (đồng thanh): Ngọc Hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!
    Ngọc Hoàng: Miễn lễ!
    Nam Tào: Sau một tuần tích cực học tập, vui chơi và rèn luyện, hôm nay,
    các Táo hãy báo cáo để Ngọc Hoàng và nhân dân nắm được tình hình tuần qua.
    Bắc Đẩu: Mời Táo Học tập!
    Táo học tập: Bẩm Ngọc Hoàng, tuần vừa qua, các bạn HS lớp 5A học tập
    chăm chỉ lắm ạ. Trong tuần, bạn nào cũng tích cực học tập. Các bạn chuẩn bị
    đầy đủ đồ dùng, sách vở và ôn tập bài rất tốt trước khi đến lớp ạ. Các tổ, rất
    nhiều bạn được thầy cô khen: đó là bạn Kiều Trang, bạn Thu Hiền, bạn Thế
    Hiển, bạn Quỳnh Giao và rất rất nhiều các bạn khác nữa ạ. Tuy nhiên, thần dân
    lớp 5A cũng còn mắc chút xíu lỗi nữa ạ!
    Ngọc Hoàng: Lỗi thế nào? Khanh hãy báo cáo ta nghe!
    Táo Học Tập: Bẩm Ngọc Hoàng, lỗi nhỏ xíu nhỏ xiu thôi ạ! Đó là có một
    vài bạn viết bài còn cẩu thả, một số bạn chưa thuộc công thức nên làm bài sai ạ!
    Bẩm Ngọc Hoàng, sang tuần sau, chúng tôi nhất định học tập chăm chỉ, không ai
    mắc phải các lỗi ở trên nữa ạ. Không những thế, số lượng các bạn được tuyên
    dương sẽ tăng thêm, ai cũng tự hứa là sẽ học thất tốt ạ!
    Ngọc Hoàng: Tốt lắm, ta tin ở các khanh và các thần dân của ta!
    Bắc Đẩu: Mời Táo Học Tập lui!
    Nam Tào: Mời Táo Nề nếp vào báo cáo!
    ……………………………………………………
    Tương tự lời thoại của các Táo do HS sáng tạo, có thể thêm một số tình
    tiết, câu nói dí dỏm, hài hước để hoạt động nhận xét, rút kinh nghiệm của tiết
    sinh hoạt lớp diễn ra sôi nổi.
    19
    2.2.3 Phổ biến kế hoạch tuần tới:
    a. Theo trình tự thông thường:
    + Chủ tịch hội đồng tự quản nêu lên cách khắc phục những việc chưa tốt ở
    tuần trước và những nội dung mới cần làm trong tuần dựa trên sự định hướng
    của giáo viên chủ nhiệm, nhiệm vụ đặt ra của nhà trường và Đội thiếu niên.
    + Tập thể lớp trao đổi và đi đến phương án thực hiện.
    b. Tuy nhiên, phần đánh giá các hoạt động tuần qua, với các cách làm đổi
    mới như trên, tự bản thân HS, nhóm, tổ, lớp đã tự rút kinh nghiệm và tìm cách
    khắc phục những điểm chưa tốt. Ở phần 2, ngoài việc chuyển tải linh hoạt nội
    dung HS cần phải thực hiện trong tuần tới, GV chú trọng hướng dẫn HS hào
    hứng hợp tác lập kế hoạch cho mình và các bạn chứ không phải thực hiện mệnh
    lệnh của giáo viên chủ nhiệm giao cho lớp thông qua chủ tịch hội đồng tự quản.
    Phần lập kế hoạch hoạt động ở tuần trước chính là hoạt động Trải nghiệm (Kĩ
    năng sống) ở tuần sau.
    Dưới đây là một số ví dụ về việc hướng dẫn HS lập chương trình cho một
    số hoạt động của các em trong năm học theo các chủ đề của tháng và kết quả.
    Ví dụ 1: HS lập kế hoạch cho ngày Vui hội trằng rằm (Tết trung thu)
    Chương trình vui hội trăng rằm
    Lớp 5A- Trường Tiểu học Thị trấn Rạng Đông
    Năm học 2020- 2021
    I. Mục tiêu: Vui Tết trung thu.
    II. Phân công chuẩn bị:
    – Chuẩn bị hoa quả, bánh kẹo: Tất cả các bạn vận động bố mẹ ủng hộ hoa
    quả, bánh kẹo tùy theo khả năng của từng gia đình.
    – Bày và trang trí mâm cỗ trung thu: Bạn Kiều Trang, Thu Hiền, Quỳnh
    Chi, Tiến Đạt, Thế Hiển.
    – Cắm hoa: Bạn Hải Yến, Thu Huyền, Hoàng Anh, Minh Tân
    – Viết lời giới thiệu, thuyết trình mâm cỗ trung thu và chuẩn bị giới thiệu:
    bạn Kiều Trang- chủ tịch HĐTQ
    20
    – Viết lời cảm ơn và phát biểu lời cảm ơn tới thầy cô và các bác phụ
    huynh: bạn Quỳnh Giao- phó chủ tịch HĐTQ
    – Tham gia các hoạt động Vui hội trăng rằm với toàn trường:
    + Tập văn nghệ và chuẩn bị biểu diễn: Bạn Hải Yến, Quỳnh Chi, Thu
    Hiền, Kiều Trang, Thế Hiển.
    + Tham gia thi làm bánh trung thu: Bạn Quỳnh Giao, Ngọc Nam
    + Tham gia tập múa lân và biểu diễn: bạn Đức Minh, Xuân Trường, Tiến
    Hưng
    III. Chương trình cụ thể

    STTThời gianNội dungNgười thực hiện
    1.7 giờ ngày 30/9
    ( tức ngày 13/8
    âm lịch)
    +Bày và trang trí mâm cỗ trung
    thu
    + Cắm hoa
    +Bạn Kiều Trang,
    Thu Hiền, Quỳnh
    Chi, Tiến Đạt, Thế
    Hiển.
    + Bạn Hải Yến,
    Thu Huyền,
    Hoàng Anh, Minh
    Tân
    27 giờ 30 phút+ Giới thiệu, thuyết trình mâm
    cỗ trung thu với đoàn đại biểu.
    + Bạn Kiều
    Trang- Chủ tịch
    HĐTQ
    37 giờ 40 phútTham gia các hoạt động Vui
    hội trăng rằm với toàn trường:
    + Biểu diễn văn nghệ
    + Xem văn nghệ
    + Thi làm bánh trung thu
    + Bạn Hải Yến,
    Quỳnh Chi, Thu
    Hiền, Kiều Trang,
    Thế Hiển.
    + Tất cả các bạn
    + Bạn Quỳnh

    21

    + Trải nghiệm làm bánh trung
    thu.
    + Tham gia Múa lân
    + Xem múa lân
    Giao, Ngọc Nam
    + Tất cả các bạn
    + Bạn Đức Minh,
    Xuân Trường,
    Tiến Hưng
    + Tất cả các bạn.
    49 giờ 30 phútPhát biểu cảm ơn các thầy cô
    giáo và các bác phụ huynh.
    Bạn Quỳnh Giao
    phó chủ tịch
    59 giờ 40 phútPhá cỗ trung thuTất cả các bạn
    610 giờ 20 phútRút kinh nghiệmHội đồng tự quản
    Tất cả các bạn

    Dưới đây là một số hoạt động Vui hội trăng rằm do các em lập kế hoạch,
    chuẩn bị và tổ chức.
    22
    Ví dụ 2: các em lập kế hoạch hoạt động tháng 11 với chủ đề của Đội: Tri
    ân thầy cô giáo.
    HS có thể thảo luận và lập kế hoạch cho lớp như sau:
    Chương trình Tri ân thầy cô giáo nhân ngày 20- 11
    Lớp 5A- Trường Tiểu học Thị trấn Rạng Đông
    Năm học 2020- 2021
    I.Mục tiêu:
    – Tri ân thầy cô; thể hiện tình cảm biết ơn, kính trọng đối với thầy cô.
    II. Phân công chuẩn bị:
    – Viết lời khai mạc, lời tri ân, lời dẫn chương trình: Bạn Kiều Trang
    – Làm báo tường
    + Vẽ đầu báo: bạn Đức Anh, bạn Thế Hiển, bạn Minh Hiếu, bạn Hoàng
    Anh
    + Viết, sưu tầm bài (Văn, thơ, truyện, truyện cười, câu đố, bài hát, tranh
    ảnh): Tất cả các bạn.
    23
    + Trang trí báo và dán các bài báo: Xuân Trường, Đức Minh, Tuấn Hưng,
    Kiều Trang, Thu Huyền.
    – Làm bưu thiếp: Tất cả các bạn.
    – Chuẩn bị lẵng hoa tặng các thầy cô giáo
    + Sưu tầm hoa: Tất cả các bạn (sưu tầm các loại hoa tươi)
    + Chuẩn bị lẵng hoa, xốp căm hoa: bạn Hải Yến, bạn Thu Hiền.
    + Cắm hoa: Tất cả các bạn nữ.
    – Chuẩn bị các tiết mục văn nghệ
    + Kể câu chuyện Chiếc áo mới: bạn Ngọc Phương
    + Múa bài Thầy cô là tất cả: Bạn Thế Hiển, Minh Điệp, Đức Hiệp, Đức
    Anh, Quỳnh Chi, Hải Yến, Thu huyền, Thu Hiền.
    + Đơn ca bài Bụi Phấn: Bạn Thu

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Dạy Toán lớp 1 theo chương trình GDPT 2018

    SKKN Dạy Toán lớp 1 theo chương trình GDPT 2018

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
    Như chúng ta đã biết, chương trình và sách giáo khoa hiện hành theo Nghị
    quyết số 40/2000/QH10 đã được triển khai trong toàn quốc từ 2002 đến nay.
    Trong đó có chương trình và sách giáo khoa Toán Lớp 1 đã dược triển khai từ
    năm học 2002 – 2003 đến năm học 2019 – 2020. Mặc dù chương trình và sách
    giáo khoa hiện hành có nhiều ưu điểm so với trước đó, nhưng trước sự phát triển
    nhanh chóng của khoa học – công nghệ và khoa học giáo dục; trước những đòi
    hỏi hội nhập quốc tế, Chương trình và Sách giáo khoa hiện hành khó đáp ứng
    yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới.
    Bên cạnh đó xu thế phát triển về nội dung chương trình và Sách giáo khoa
    của thế giới thay đổi rất nhanh; nhiều nước có nền giáo dục phát triển đã chuyển
    hướng từ chương trình coi trọng nội dung giáo dục sang chương trình coi trọng
    phát triển năng lực người học. Chương trình giáo dục Việt Nam cần đổi mới để
    đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
    Vì vậy việc phải thay đổi nội dung chương trình và sách giáo khoa, trong
    đó có nội dung chương trình và sách giáo khoa môn Toán là cấp thiết.
    Để thực hiện tốt Chương trình GDPT 2018, trong đó có chương trình
    MÔN TOÁN, chúng ta cần biết Chương trình GDPT mới khác chương trình
    GDPT hiện hành như thế nào?
    – Thứ nhất, chương trình giáo dục phổ thông mới được xây dựng theo mô
    hình phát triển năng lực, phẩm chất người học, giúp học sinh hình thành và phát
    triển những phẩm chất và năng lực. Còn chương trình giáo dục phổ thông hiện
    hành được xây dựng theo định hướng nội dung, nặng về truyền thụ kiến thức,
    chưa chú trọng giúp học sinh vận dụng kiến thức học được vào thực tiễn.Vì vậy,
    học sinh phải học và ghi nhớ rất nhiều nhưng khả năng vận dụng vào đời sống
    rất hạn chế.
    – Thứ hai, chương trình giáo dục phổ thông mới phân biệt rõ hai giai
    đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản (từ lớp 1 đến lớp 9) và giai đoạn giáo dục định
    hướng nghề nghiệp (từ lớp 10 đến lớp 12). Còn chương trình giáo dục phổ thông
    hiện hành có nội dung giáo dục gần như đồng nhất cho tất cả học sinh; việc định
    hướng nghề nghiệp cho học sinh, ngay cả ở cấp trung học phổ thông chưa được
    xác định rõ ràng.
    – Thứ ba, chương trình giáo dục phổ thông mới chú ý hơn đến tính kết nối
    giữa chương trình của các lớp học, cấp học trong từng môn học và giữa chương
    trình của các môn học trong từng lớp học, cấp học. Việc xây dựng Chương trình
    tổng thể, lần đầu tiên được thực hiện tại Việt Nam. Còn trong chương trình giáo
    dục phổ thông hiện hành, sự kết nối giữa chương trình các cấp học trong một môn
    học và giữa chương trình các môn học chưa chặt chẽ; một số nội dung giáo dục bị
    trùng lặp, chồng chéo hoặc chưa thật sự cần thiết đối với học sinh phổ thông.
    3
    Thứ tư, chương trình giáo dục phổ thông mới bảo đảm định hướng thống
    nhất và những nội dung giáo dục cốt lõi, bắt buộc đối với học sinh toàn quốc,
    đồng thời trao quyền chủ động và trách nhiệm cho địa phương và nhà trường
    trong việc lựa chọn, bổ sung một số nội dung giáo dục và triển khai kế hoạch
    giáo dục phù hợp với đối tượng giáo dục và điều kiện của địa phương, góp phần
    bảo đảm kết nối hoạt động của nhà trường với gia đình, chính quyền và xã
    hội. Còn chương trình giáo dục phổ thông hiện hành thiếu tính mở nên hạn chế
    khả năng chủ động và sáng tạo của địa phương và nhà trường cũng như của tác
    giả sách giáo khoa và giáo viên.
    Xuất phát từ những yêu cầu về nội dung chương trình GDPT 2018,
    Chương trình môn Toán giúp học sinh đạt các mục tiêu chủ yếu sau:
    a) Hình thành và phát triển năng lực toán học bao gồm các thành tố cốt lõi
    sau: năng lực tư duy và lập luận toán học; năng lực mô hình hoá toán học; năng
    lực giải quyết vấn đề toán học; năng lực giao tiếp toán học; năng lực sử dụng
    công cụ, phương tiện học toán.
    b) Góp phần hình thành và phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu và
    năng lực chung theo các mức độ phù hợp với môn học, cấp học được quy định
    tại Chương trình tổng thể.
    c) Có kiến thức, kĩ năng toán học phổ thông, cơ bản, thiết yếu; phát triển
    khả năng giải quyết vấn đề có tính tích hợp liên môn giữa môn Toán và các môn
    học khác như Vật lí, Hoá học, Sinh học, Địa lí, Tin học, Công nghệ, Lịch sử,
    Nghệ thuật,…; tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, áp dụng toán học vào
    thực tiễn.
    d) Có hiểu biết tương đối tổng quát về sự hữu ích của toán học đối với
    từng ngành nghề liên quan để làm cơ sở định hướng nghề nghiệp, cũng như
    có đủ năng lực tối thiểu để tự tìm hiểu những vấn đề liên quan đến toán học
    trong suốt cuộc đời.
    Đặc biệt trong đó Môn Toán cấp tiểu học nhằm giúp học sinh đạt các mục
    tiêu chủ yếu sau:
    a) Góp phần hình thành và phát triển năng lực toán học với yêu cầu cần
    đạt: thực hiện được các thao tác tư duy ở mức độ đơn giản; nêu và trả lời được
    câu hỏi khi lập luận, giải quyết vấn đề đơn giản; lựa chọn được các phép toán và
    công thức số học để trình bày, diễn đạt (nói hoặc viết) được các nội dung, ý
    tưởng, cách thức giải quyết vấn đề; sử dụng được ngôn ngữ toán học kết hợp với
    ngôn ngữ thông thường, động tác hình thể để biểu đạt các nội dung toán học ở
    những tình huống đơn giản; sử dụng được các công cụ, phương tiện học toán
    đơn giản để thực hiện các nhiệm vụ học tập toán đơn giản.
    b) Có những kiến thức và kĩ năng toán học cơ bản ban đầu, thiết yếu về:
    – Số và phép tính: Số tự nhiên, phân số, số thập phân và các phép tính
    trên những tập hợp số đó.
    – Hình học và Đo lường: Quan sát, nhận biết, mô tả hình dạng và đặc
    điểm (ở mức độ trực quan) của một số hình phẳng và hình khối trong thực tiễn;
    4
    tạo lập một số mô hình hình học đơn giản; tính toán một số đại lượng hình học;
    phát triển trí tưởng tượng không gian; giải quyết một số vấn đề thực tiễn đơn
    giản gắn với Hình học và Đo lường (với các đại lượng đo thông dụng).
    – Thống kê và Xác suất: Một số yếu tố thống kê và xác suất đơn giản; giải
    quyết một số vấn đề thực tiễn đơn giản gắn với một số yếu tố thống kê và xác suất.
    c) Cùng với các môn học và hoạt động giáo dục khác như: Đạo đức, Tự
    nhiên và xã hội, Hoạt động trải nghiệm,… góp phần giúp học sinh có những
    hiểu biết ban đầu về một số nghề nghiệp trong xã hội.
    Đứng trước những yêu cầu về việc thực hiện Chương trình GDPT 2018,
    đặc biệt là việc giảng dạy Môn Toán Lớp 1 – năm học đầu tiên thực hiện chương
    trình và Sách giáo khoa Lớp 1 mới, tôi đã tích cực nghiên cứu, tìm hiểu và trực
    tiếp thực hiện đúc rút kinh nghiệm: “Dạy Toán lớp 1 chƣơng trình giáo dục
    phổ thông 2018” xin được chia sẻ cùng bạn bè đồng nghiệp.
    II. Mô tả giải pháp
    1. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Đặc điểm tình hình nhà trƣờng
    Trường Tiểu học Xuân Hồng thuộc xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường,
    tỉnh Nam Định – nơi tôi đang công tác mới được sáp nhập từ ba trường tiểu học
    trong xã từ ngày 01 tháng 7 năm 2019. Phát huy thế mạnh của các Trường tiểu
    học A Xuân Hồng, Trường Tiểu học B Xuân hồng và Tiểu học C Xuân Hồng, nhà
    trường đã nhanh chóng ổn định, xây dựng nền nếp và quy chế hoạt động. Với số
    lượng cán bộ, giáo viên, học sinh đông tương đương bằng 1/10 số lượng CBGV,
    học sính Tiểu học trong toàn huyện, song môi trường giáo dục nhà trường luôn
    đảm bảo dân chủ, thân thiện, đổi mới được các hoạt động giáo dục, đủ các điều kiện
    cho việc triển khai chủ trương thực hiện việc làm đổi mới của nhà trường. Năm học
    2019 – 2020, là năm học đầu tiên mang tên ngôi trường mới: trường Tiểu học Xuân
    Hồng, nhà trường vẫn duy trì và phát huy thành tích dạy và học. Nhà trường được
    xếp thứ 1/ 20 trường Tiểu học của huyện nhà, đạt danh hiệu Tập thể lao động Xuất
    sắc, được UBND Tỉnh Nam Định tặng Bằng khen.
    Năm học 2020- 2021, trường có 45 lớp, trong đó có 8 lớp 1; mỗi lớp có 1
    phòng học cố định.
    Để thực hiện tốt công tác chuyên môn, là một giáo viên trực tiếp giảng
    dạy lâu năm với kinh nghiệm 28 năm đứng lớp và 15 năm liên tục chủ nhiệm,
    giảng dạy lớp Một, trong quá trình đúc rút kinh nghiệm, bản thân tôi đã gặp
    những thuận lợi và khó khăn sau:
    1.2. Thuận lợi
    – Sĩ số /lớp luôn đảm bảo theo đúng quy định của điều lệ trường Tiểu học.
    Luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của ban giám hiệu thông qua các việc: Chỉ
    đạo giáo viên lập kế hoạch chủ nhiệm, duyệt và góp ý cho giáo viên về kế hoạch
    chủ nhiệm đều đặn, giao chất lượng giáo dục học sinh cho giáo viên, định ra các
    tiêu chí thi đua lớp tiên tiến, lớp xuất sắc cho tập thể học sinh, lao động tiên tiến,
    lao động xuất sắc cho giáo viên, khen thưởng cho giáo viên đạt thành tích lao
    5
    động tiên tiến, lao động xuất sắc, lớp tiên tiến, lớp xuất sắc, học sinh đạt các
    thành tích trong năm học.
    – Nhà trường luôn thực hiện nghiêm túc công tác chỉ đạo chuyên môn của
    các cấp lãnh đạo, đặc biệt là các công việc chuẩn bị và triển khai Chương trình
    GDPT 2018. Bước vào đầu năm học, được sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ của của
    các cấp lãnh đạo, BCU, BGH nhà trường, tôi đã ổn định nề nếp sinh hoạt, công
    tác. Tôi và đội ngũ GV dạy lớp 1 đã được tham gia đầy đủ các lớp tập huấn
    chuyên môn về nội dung chương trình và sử dụng SGK lớp 1 chương trình giáo
    dục phổ thông 2018.
    – Cơ sở vật chất nhà trường đảm bảo sạch sẽ, thoáng mát, tạo không khí
    hồ hởi cho học sinh và giáo viên. Lớp 1 là lớp có học sinh nhỏ tuổi nhất trường,
    nên luôn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của ban giám hiệu, sự cộng tác chặt
    chẽ của các giáo viên bộ môn. Lớp 1 là lớp học đầu tiên mở đầu cho việc triển
    khai nội dung chương trình và sách giáo khoa mới nên được quan tâm, tạo điều
    kiện tốt nhất. Các lớp học đều có ti vi màn hình lớn kết nối internet hỗ trợ cho
    dạy và học.
    – Đặc biệt, công nghệ thông tin phát triển, nên hầu hết phụ huynh học sinh
    đều có số điện thoại riêng, sự liên lạc giữa gia đình nhà trường và giáo viên chủ
    nhiệm dễ dàng hơn vì thế sự phối hợp giữa các bậc phụ huynh và giáo viên càng
    trở nên chặt chẽ. Đại đa số cha mẹ học sinh còn trẻ, ít con nên có điều kiện chăm
    lo cho con cái.
    1.3. Khó khăn
    – Học sinh lớp Một còn nhỏ, ở lứa tuổi này các em chưa ý thức được tầm
    quan trọng của việc học, chưa có nề nếp, cũng chưa có ý thức tự học ở nhà. Đến
    lớp, chưa chú ý vào các hoạt động học tập, còn thích chơi như ở lớp mẫu giáo,
    hay chọc ghẹo bạn, hay nói leo, nói tự do trong giờ học.
    – Là học sinh lớp đầu tiên bậc học Tiểu học, khi chuyển từ hoạt động vui
    chơi là hoạt động chủ đạo ở trường mầm non sang hoạt động học tập ở trường
    tiểu học là một bước chuyển lớn. Hơn nữa, thời gian nghỉ phòng chống dịch
    Covid 19 quá dài, các em quen với nếp ăn, chơi, nghỉ tự do ở gia đình đã ảnh
    hưởng đến ý thức tự giác tới trường của các em. Thời gian tựu trường quá muộn
    do vậy công tác tổ chức và chuẩn bị tâm thế cho học sinh bước vào năm học mới
    gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là việc xây dựng ý thức tổ chức, ý thức học tập
    cho học sinh lớp 1. Các em chưa kịp làm quen với môi trường và hoạt động ở
    trường tiểu học thì đã phải học luôn nội dung chương trình mới. Một số học sinh
    đến trường còn khóc sướt mướt, bố mẹ còn bế trên tay nên việc xây dựng nề nếp
    sinh hoạt, học tập cho các em mất nhiều thời gian.
    – Đa số phụ huynh học sinh làm nghề nông, buôn bán hoặc đi làm ăn xa
    không có thời gian quản lý, kiểm tra đôn đốc nhắc nhở việc học hành cho con
    em. Một số phụ huynh học sinh còn mang tư tưởng “khoán trắng” cho nhà
    trường. Họ coi việc giáo dục học sinh là trách nhiệm của nhà trường, của các
    thầy các cô.
    6
    – Ý thức tự giác học tập, rèn luyện của một số HS chưa tốt, còn ỷ lại.
    Nhiều học sinh tiếp xúc sớm với điện thoại, vi tính, bố mẹ bận làm ăn nên có
    một số em chưa có khả năng tập trung vào học tập, lớp nào cũng có HS chậm
    phát triển, tăng động hoặc có những biểu hiện tăng động.
    – Năm học 2020 – 2021 là năm học đầu tiên Triển khai thực hiện Chương
    trình giáo dục phổ thông 2018 đối với lớp 1, giáo viên không tránh khỏi một số
    lúng túng, thời lượng giảng dạy môn Toán Lớp 1 lại giảm chỉ còn 3 tiết/tuần; có
    nhiều nội dung gắn với thực tiễn cuộc sống, sức ép từ phụ huynh học sinh về nội
    dung chương trình và sách giáo khoa mới còn băn khoăn: Liệu với chương trình
    và sách giáo khoa mới chất lượng học tập của con em có tốt hơn không?
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    Đứng trước thực trạng đó, nhận thức được sự cần thiết cần phải thực hiện
    tốt chương trình GDPT 2018, trong đó có nội dung chương trình môn toán lớp 1,
    tôi đã mạnh dạn đề ra một số giải pháp tích cực giúp giáo viên Dạy tốt môn
    Toán lớp 1 Chương trình GDPT 2018 như sau:
    2.1. Giải pháp 1: Nắm chắc quan điểm xây dựng chương trình, mục tiêu của
    chương trình môn toán và những yêu cầu cần đạt của môn Toán lớp 1
    2.1.1. Quan điểm xây dựng chương trình GDPT 2018
    – Bảo đảm tính tinh giản, thiết thực, hiện đại
    – Bảo đảm tính thống nhất, sự nhất quán và phát triển liên tục.
    – Bảo đảm tính tích hợp và phân hoá
    – Bảo đảm tính mở.
    Việc xây dựng và triển khai chương trình môn Toán mới đã bảo đảm kế
    thừa và phát triển những ưu điểm của các chương trình GDPT đã có của Việt
    Nam, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm của những nền giáo dục tiên tiến trên thế
    giới.
    Danh mục các khái niệm về toán của chương trình mới so với chương
    trình hiện hành không khác nhau nhiều. Tuy nhiên, sự khác nhau về các nguyên
    tắc xây dựng, cấu trúc nội dung, cũng như phương pháp tiếp cận mới trong việc
    trình bày tài liệu có thể làm cho quá trình học sâu sắc hơn, từ đó tạo điều kiện
    cho việc thực hiện các mục tiêu. Nó cũng giống như từ những cặp nhiễm sắc thể
    như nhau nhưng bằng những cách tổ hợp khác nhau chúng ta đã lai tạo ra được
    những giống lúa với chất lượng rất khác nhau. Làm tốt điều đó chính là tạo ra
    bản sắc riêng, tạo ra cái mới của chương trình và sách giáo khoa môn Toán trong
    CT GDPT mới.
    Trong quá trình phát triển chương trình môn Toán, việc tìm hiểu các
    thông tin về xây dựng CT GDPT nói chung, chương trình môn Toán nói riêng,
    của các nước có nền giáo dục phát triển cao và các nước tương đồng với Việt
    Nam. Từ đó phân tích, tổng hợp kinh nghiệm của một số quốc gia trong khu vực
    và thế giới nhằm tìm hiểu những vấn đề cơ bản nhất về xu thế phát triển chương
    trình môn Toán trên thế giới và vận dụng trong phát triển chương trình môn
    7
    Toán mới của Việt Nam.
    Chuyển một chương trình theo định hướng nội dung sang chương trình
    theo định hướng năng lực và quản lý dựa trên kết quả đầu ra chính là việc
    chuyển từ mục tiêu hướng tới nội dung dạy học sang mục tiêu hướng tới “cách
    học” của học sinh.
    So sánh Dạy học tiếp cận nội dung và dạy học phát triển phẩm chất,
    năng lực ( PC, NL)

    Tiêu chí so
    sánh
    Dạy học
    tiếp cận nội dung
    Dạy học phát triển PC, NL
    1.Mục tiêu– Chú trọng hình thành kiến
    thức, kĩ năng, thái độ.
    – Mục tiêu dạy học được mô tả
    không chi tiết và khó có thể
    quan sát, đánh giá được.
    – Lấy mục tiêu học để thi, học
    để hiểu
    – Chú trọng hình thành PC và
    NL thông qua việc hình thành
    kiến thức, kĩ năng, thái độ.
    – Mục tiêu dạy học được mô tả
    chi tiết, có thể quan sát, đánh
    giá được.
    – Lấy mục tiêu học để sống,
    học để biết để làm.
    2. Về nội
    dung
    – Nội dung được lựa chọn dựa
    vào các khoa học chuyên môn,
    được quy định chi tiết trong
    chương trình.
    – Chú trọng hệ thống kiến thức
    lý thuyết, sự phát triển tuần tự
    của các khái niệm, định luật,
    học thuyết khoa học. SGK
    được trình bày liền mạch
    thành hệ thống kiến thức
    – Việc quy định cứng nhắc
    những nội dung chi tiết trong
    chương trình dễ bị thiếu tính
    cập nhật.
    – Nội dung được lựa chọn
    nhằm đạt được kết quả đầu ra
    đã quy định; chương trình chỉ
    quy định những nội dung
    chính.
    – Chú trọng các kĩ năng thực
    hành, vận dụng lí thuyết vào
    thực tiễn. SGK không trình
    bày thành hệ thống mà phân
    nhánh, xen kẽ kiến thức với
    hoạt động.
    – Nội dung chương trình không
    quá chi tiết, có tính mở nên
    tạo điều kiện để người dạy dễ
    cập nhật tri thức mới.
    3. Về PP
    DH
    – Người dạy là người truyền
    thụ tri thức
    – Người học có phần “thụ
    – Người dạy chủ yếu là người
    tổ chức, hỗ trợ trò chiếm lĩnh
    tri thức; chú trọng khả năng
    giải quyết vấn đề của trò.
    – Coi trọng các tổ chức hoạt
    động, trò chủ động tham gia

    8

    động”, ít phản biện.
    – Giáo án thường được thiết kế
    theo trình tự đường thẳng,
    chung cho cả lớp.
    – Người học khó có điều kiện
    tìm tòi bởi kiến thức đã sẵn có
    trong sách.
    – GV sử dụng nhiều PP truyền
    thống (thuyết trình, hướng dẫn
    thực hành, trực quan,…)
    các hoạt động. Coi trọng
    hướng dẫn tự tìm tòi.
    – Giáo án được thiết kế phân
    nhánh, có sự phân hóa theo
    trình độ và năng lực.
    – Người học có nhiều cơ hội
    bày tỏ ý kiến, tham gia phản
    biện.
    – GV sử dụng nhiều PPDH tích
    cực (giải quyết vấn đề, tự phát
    hiện, trải nghiệm,…) kết hợp
    PP truyền thống
    4. Về môi
    trƣờng học
    tập
    – Thường sắp xếp cố định
    (theo các dãy bàn) người dạy
    ở vị trí trung tâm
    – Có tính linh hoạt, người dạy
    không luôn luôn ở vị trí trung
    tâm
    5. Về đánh
    giá
    – Tiêu chí đánh giá chủ yếu
    được xây dựng dựa trên kiến
    thức, kĩ năng, thái độ gắn với
    nội dung đã học, chưa quan
    tâm đầy đủ đến khả năng vận
    dụng kiến thức vào thực tiễn.
    – Người dạy thường được toàn
    quyền trong đánh giá
    – Tiêu chí đánh giá dựa vào kết
    quả “đầu ra”, quan tâm tới sự
    tiến bộ của người học, chú
    trọng khả năng vận dụng kiến
    thức đã học vào thực tiễn.
    – Người học được tham gia vào
    đánh giá lẫn nhau

    2.2.2. Nội dung cụ thể và yêu cầu cần đạt ở MÔN TOÁN LỚP 1

    Nội dungYêu cầu cần đạt
    SỐ VÀ PHÉP TÍNH
    Số tự nhiên
    Số tự nhiênĐếm, đọc, viết
    các số trong
    phạm vi 100
    – Đếm, đọc, viết được các số trong phạm vi 10;
    trong phạm vi 20; trong phạm vi 100.
    – Nhận biết được chục và đơn vị, số tròn chục.
    So sánh các số
    trong phạm vi 100
    Nhận biết được cách so sánh, xếp thứ tự các số
    trong phạm vi 100 (ở các nhóm có không quá 4 số).
    Các phép
    tính với số
    tự nhiên
    Phép cộng, phép
    trừ
    – Nhận biết được ý nghĩa của phép cộng, phép trừ.
    – Thực hiện được phép cộng, phép trừ (không
    nhớ) các số trong phạm vi 100.
    – Làm quen với việc thực hiện tính toán trong

    9

    Nội dungYêu cầu cần đạt
    trường hợp có hai dấu phép tính cộng, trừ (theo
    thứ tự từ trái sang phải).
    Tính nhẩm– Thực hiện được việc cộng, trừ nhẩm trong
    phạm vi 10.
    – Thực hiện được việc cộng, trừ nhẩm các số
    tròn chục.
    Thực hành giải
    quyết vấn đề liên
    quan đến các
    phép tính cộng,
    trừ
    – Nhận biết được ý nghĩa thực tiễn của phép
    tính (cộng, trừ) thông qua tranh ảnh, hình vẽ
    hoặc tình huống thực tiễn.
    – Nhận biết và viết được phép tính (cộng, trừ)
    phù hợp với câu trả lời của bài toán có lời văn
    và tính được kết quả đúng.
    HÌNH HỌC VÀ ĐO LƯỜNG
    Hình học trực quan
    Hình phẳng
    và hình
    khối
    Quan sát, nhận
    biết hình dạng
    của một số hình
    phẳng và hình
    khối đơn giản
    – Nhận biết được vị trí, định hướng trong không
    gian: trên – dưới, phải – trái, trước – sau, ở giữa.
    – Nhận dạng được hình vuông, hình tròn, hình
    tam giác, hình chữ nhật thông qua việc sử dụng
    bộ đồ dùng học tập cá nhân hoặc vật thật.
    – Nhận dạng được khối lập phương, khối hộp
    chữ nhật thông qua việc sử dụng bộ đồ dùng
    học tập cá nhân hoặc vật thật.
    Thực hành lắp
    ghép, xếp hình
    gắn với một số
    hình phẳng và
    hình khối đơn giản
    Nhận biết và thực hiện được việc lắp ghép, xếp
    hình gắn với sử dụng bộ đồ dùng học tập cá
    nhân hoặc vật thật.
    Đo lường
    Đo lườngBiểu tượng về
    đại lượng và
    đơn vị đo đại
    lượng
    – Nhận biết được về “dài hơn”, “ngắn hơn”.
    – Nhận biết được đơn vị đo độ dài: cm (xăng-ti
    mét); đọc và viết được số đo độ dài trong phạm
    vi 100cm.
    – Nhận biết được mỗi tuần lễ có 7 ngày và tên
    gọi, thứ tự các ngày trong tuần lễ.
    – Nhận biết được giờ đúng trên đồng hồ.
    Thực hành đo
    đại lượng
    – Thực hiện được việc đo và ước lượng độ dài
    theo đơn vị đo tự quy ước (gang tay, bước
    chân,…).

    10

    Nội dungYêu cầu cần đạt
    – Thực hiện được việc đo độ dài bằng thước
    thẳng với đơn vị đo là cm.
    – Thực hiện được việc đọc giờ đúng trên đồng hồ.
    – Xác định được thứ, ngày trong tuần khi xem
    lịch (loại lịch tờ hàng ngày).
    – Giải quyết được một số vấn đề thực tiễn đơn
    giản liên quan đến đo độ dài, đọc giờ đúng và
    xem lịch (loại lịch tờ hằng ngày).
    HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH VÀ TRẢI NGHIỆM
    Nhà trường tổ chức cho học sinh một số hoạt động sau và có thể bổ sung
    các hoạt động khác tuỳ vào điều kiện cụ thể.
    Hoạt động 1: Thực hành ứng dụng các kiến thức toán học vào thực tiễn, chẳng hạn:
    – Thực hành đếm, nhận biết số, thực hiện phép tính trong một số tình huống thực
    tiễn hằng ngày (ví dụ: đếm số bàn học và số cửa sổ trong lớp học,…).
    – Thực hành các hoạt động liên quan đến vị trí, định hướng không gian (ví dụ:
    xác định được một vật ở trên hoặc dưới mặt bàn, một vật cao hơn hoặc thấp hơn
    vật khác,…).
    – Thực hành đo và ước lượng độ dài một số đồ vật trong thực tế gắn với đơn vị
    đo cm; thực hành đọc giờ đúng trên đồng hồ, xem lịch loại lịch tờ hằng ngày.
    Hoạt động 2: Tổ chức các hoạt động ngoài giờ chính khoá (ví dụ: các trò chơi
    học toán,…) liên quan đến ôn tập, củng cố các kiến thức cơ bản.

    2.2. Giải pháp 2: Xác định nội dung, mục tiêu bài học
    Việc thiết kế một bài học hay một nội dung bài học cụ thể trong chương
    trình Toán Lớp 1 GDPT phải tuân theo các nguyên tắc: xây dựng trên cơ sở phát
    triển phẩm chất, năng lực người học, có tính đến việc lĩnh hội kiến thức, làm chủ
    các kỹ năng và ứng dụng được trong thực tế (hình thành năng lực cốt lõi) của cá
    nhân người học; biểu đạt theo hoạt động học tập chứ không phải theo hoạt động
    giảng dạy; và hướng tới kết quả học tập của đại đa số người học.
    Nội dung dạy học là sự cụ thể hoá của mục tiêu, do đó GV cần xác định
    cụ thể những tri thức, kĩ năng, năng lực cần đạt cho HS.
    – Căn cứ vào chương trình môn học: Do nội dung bài học là sự cụ thể hoá
    nội dung chương trình môn học mà chương trình ( sau đây viết tắt là CT) môn
    học có tính pháp lí nên GV cần bám sát nội dung CT, không dạy cho HS những
    nội dung ngoài CT quy định.
    – Căn cứ vào mục tiêu của bài học đã đề ra: Nội dung phải phù hợp và phục
    vụ cho việc giúp HS đạt được mục tiêu của bài. Ngược lại, nếu nội dung không phù
    hợp với mục tiêu thì năng lực tương ứng cần phát triển cho HS không đạt được.
    – Nội dung bài học cần gắn liền với thực tiễn cuộc sống của HS, thực tiễn
    11
    địa phương, điều kiện tự nhiên, xã hội của đất nước. Những kiến thức thực tiễn
    sẽ giúp HS hiểu rõ hơn bản chất của tri thức khoa học, tạo cho HS có thêm hứng
    thú học tập qua đó góp phần phát triển năng lực thực tiễn.
    – Tăng cường nội dung thực hành, nhất là qua hoạt động ứng dụng được
    HS tiến hành chủ yếu vào thời gian ngoài giờ lên lớp ở gia đình, tại cộng đồng
    dân cư. Những nội dung thực hành này gắn kiến thức, kĩ năng mà HS được hình
    thành qua các tiết học trên lớp với thực tiễn cuộc sống xung quanh mình.
    – Lựa chọn nội dung dạy học vừa sức tính đến cá nhân HS, nhóm, lớp.
    – Khai thác nội dung học tập từ nhiều nguồn thông tin khác nhau. Ngoài
    sách giáo khoa, GV cần khuyến khích HS tìm hiểu nội dung học tập từ các
    nguồn thông tin trong thực tiễn, trên mạng Internet, … Những nội dung thông
    tin này không chỉ được HS tìm kiếm phát hiện mà còn được vận dụng vào cuộc
    sống hàng ngày.
    Như vậy, ở giai đoạn hết lớp 1 HS cần đạt được các yêu cầu về: Đếm,
    đọc, viết được các số trong phạm vi 10; trong phạm vi 20; trong phạm vi 100.
    Nhận biết được chục và đơn vị, số tròn chục. Ở giai đoạn giữa học kỳ 1 HS chỉ
    cần đạt được các yêu cầu về: Đếm, đọc, viết, so sánh các số trong phạm vi 10.
    Trong từng giai đoạn cụ thể như vậy, cần xác định rõ KN tiến trình và các
    biểu hiện hành vi mà HS thể hiện qua các hoạt động học tập:
    Ví dụ: Để có năng lực đếm, đọc, viết các số trong phạm vi 100 HS cần
    phải thể hiện được năng lực thông qua các hoạt động học tập được kiểm soát ở
    các biểu hiện hành vi của hoạt động học tập như sau :
    – Đếm được số lượng các nhóm có đến 100 đồ vật
    – Biểu diễn được kết quả của việc đếm qua số đếm
    – Lấy đúng số lượng đồ vật tương ứng với số đã cho
    – Biết các cách biểu diễn số bằng nhiều cách: bằng chữ số , bằng lời đọc,
    bằng mô hình, biểu diễn qua cấu tạo thập phân,…
    Khi xác định rõ yêu cầu cần đạt về năng lực như vậy, người GV sẽ nhận
    ra nếu HS chỉ đếm vẹt mà không hiểu được nghĩa thực của phép đếm không cảm
    nhận được số lượng thì chưa đạt được yêu cầu. Hoặc nếu HS đếm được nhưng
    không biết dùng số để ghi lại số lượng là kết quả của phép đếm thì cũng chưa có
    năng lực này. Hay nếu như HS chỉ biết xác định số lượng thông qua đếm mà
    không thực hiện được thao tác lấy đúng nhóm đồ vật có số lượng tương ứng với
    một số cho trước thì HS cũng chưa có năng lực này.
    Để đạt được yêu cầu đầu ra đã xác định, GV cần tuân thủ KN tiến
    trình, nghĩa là cần chú ý quá trình HS tư duy, suy nghĩ giải quyết vấn đề để đạt
    được những kết quả mong đợi về KT, KN về hành vi, thái độ… đã xác định.
    Trong yêu cầu về Đếm các số đến 100 vừa phân tích ở trên KN tiến trình thể
    hiện ở việc HS đếm bằng cách nào, chẳng hạn: HS đếm bằng cách đếm lần lượt
    bắt đầu từ một, mỗi vật đếm tương ứng với một số đếm, hay HS đếm lần lượt
    12
    nhưng bắt đầu từ một số nào đó (đếm từ 3; đếm từ 5, đếm từ 10,…), hoặc HS
    đếm cách, đếm xuôi, đếm ngược, đếm thêm, đếm bớt. Với kỹ năng tiến trình
    như vậy thì GV sẽ tổ chức các hoạt động giúp HS học đếm: học đếm lần lượt.
    đếm xuôi, đếm ngược, đếm cách, đếm thêm, đếm bớt và dùng số để ghi lại kết
    quả đếm. GV cũng cần lựa chọn tiến trình dạy đếm phù hợp với trình độ nhận
    thức của HS phù hợp với lô gic của môn học. Chẳng hạn: Dựa trên kinh nghiệm
    trải nghiệm trong cuộc sống HS có đếm các số đến 10, các số đến 20. Bước sang
    các số từ 21 đến 100 HS cần nhận ra những điểm mốc quan trọng trong quá trình
    đếm đó là các số 10, 20,…90, 100. Khái niệm chục, đơn vị khá trừu tượng với
    HS lớp 1 cần được cân nhắc lựa chọn thời điểm và tiến trình dạy học để HS có
    thể tiếp nhận một cách tự nhiên phù hợp với nhận thức của trẻ mà không phải
    học thuộc lòng nhưng không hiểu bản chất. Như vậy, trong dạy học phát triển
    năng lực mạch kiến thức số học vấn đề xác định kết quả đầu ra và kỹ năng tiến
    trình trong mỗi giai đoạn học tập là rất cần thiết. Việc HS suy nghĩ thế nào, giải
    quyết vấn đề ra sao theo tiến trình lô gic nào sẽ giúp GV quyết định hoạt động
    học tập cần thiết phải tổ chức cho học sinh. “Các năng lực cần hình thành và
    phát triển cho người học qua dạy học môn toán trong là: năng lực tư duy; năng
    lực giải quyết vấn đề; năng lực mô hình hóa toán học; năng lực giao tiếp; năng
    lực sử dụng các công cụ Toán học. Tiếp cận về năng lực môn toán theo cách
    nghiên cứu các thành tố của nó cũng là cách tiếp cận phổ biến của các tổ chức
    và các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, tôi quan niệm năng lực toán học bao gồm
    các thành tố cốt lõi: năng lực tư duy và lập luận toán học; năng lực mô hình hóa
    toán học; năng lực giải quyết vấn đề toán học; năng lực giao tiếp toán học; năng
    lực sử dụng công cụ, phương tiện học toán. Ở bậc Tiểu học nói chung và lớp 1
    nói riêng, ta có thể hiểu các thành phần năng lực môn Toán có những biểu hiện
    như sau:
    Do việc hình thành, phát triển các năng lực đòi hỏi sự vận dụng phối hợp
    các kiến thức, kĩ năng,… nên chương trình môn Toán chú ý tới tính tổng thể,
    tính tích hợp Logic khoa học bộ môn không phải là yếu tố duy nhất chi phối việc
    tổ chức nội dung chương trình môn Toán. Chương trình liên quan chặt chẽ đến
    các bình diện văn hóa và hoạt động rộng lớn nhưng không đặt vấn đề chú trọng
    tới việc cung cấp nhiều kiến thức của khoa học toán học mà chú ý lựa chọn, tổ
    chức các nội dung học tập một cách hợp lí, tạo cơ sở cho việc phát triển các
    năng lực của học sinh.
    Như vậy, trong một số trường hợp nào đó, việc mô tả mục tiêu phải đi
    kèm với các dấu hiệu hoặc các chỉ số để làm rõ hơn sự “hiểu”, sự “phát hiện”,
    hay “thực hiện được”… của học sinh.
    13
    Bảng các thuật ngữ mô tả biểu hiện của năng lực môn toán cấp Tiểu học

    Các thành tố
    của năng lực
    môn toán
    Thuật ngữ đƣợc sử dụng
    1. Năng lực tƣ
    duy và lập luận
    toán học
    – Thực hiện được các thao tác tư duy …
    – Biết đặt và trả lời câu hỏi; biết chỉ ra chứng cứ và lập
    luận …
    2. Năng lực mô
    hình hóa toán
    học
    – Sử dụng được các phép toán và công thức số học…
    – Giải quyết được các bài toán liên quan…
    3. Năng lực
    giải quyết vấn
    đề toán học
    – Nhận biết được vấn đề…
    – Nêu được cách thức giải quyết vấn đề.
    – Thực hiện và trình bày được cách thức giải quyết vấn đề.
    – Kiểm tra giải pháp đã thực hiện.
    4. Năng lực
    giao tiếp toán
    học
    – Nghe hiểu, đọc hiểu vấn đề cần giải quyết.
    – Trình bày, diễn đạt (nói hoặc viết) được các nội dung, ý
    tưởng, giải pháp toán học…
    – Biết sử dụng ngôn ngữ toán học…
    5. Năng lực sử
    dụng công cụ,
    phƣơng tiện
    học toán
    – Biết tên gọi, tác dụng, quy cách sử dụng, …
    – Sử dụng các công cụ và phương tiện học toán…
    – Làm quen với máy tính cầm tay, …
    – Bước đầu nhận biết được một số ưu điểm, hạn chế của
    những công cụ, phương tiện hỗ trợ để có cách sử dụng hợp lí.

    Các năng lực toán học này không hoàn toàn độc lập mà liên quan chặt chẽ
    và có phần giao thoa với nhau. Chính vì thế trong việc lựa chọn phương pháp và
    tổ chức dạy học toán ở lớp 1 cần chú ý:
    – Năng lực được hình thành và phát triển thông qua hoạt động học tập
    và trải nghiệm cá nhân. Cần xác định các cơ hội mà môn Toán góp phần hình
    thành và phát triển năng lực cho học sinh (năng lực chung cốt lõi và các năng
    lực toán học với mức độ cần đạt phù hợp ở từng lớp, từng cấp học). Điều đó đòi
    hỏi lựa chọn hệ thống tri thức, kỹ năng đưa vào nhà trường phổ thông phải tạo
    được cơ hội thuận lợi để hình thành phát triển các năng lực cần đạt. Do đó,
    chúng phải được đối chiếu với cấu trúc của các năng lực định hình thành và phát
    triển ở học sinh và cái đích cuối cùng (kết quả đầu ra cần đạt) là phải hình thành
    được các năng lực này ở người học. Trong cấu trúc của CT(sau đây viết tắt là
    CT) môn Toán, các “mạch nội dung” và các “nhánh năng lực” cần liên kết chặt
    chẽ với nhau.
    14
    Như chúng ta đã biết, năng lực được hình thành, phát triển thông qua hoạt
    động và thể hiện ở sự thành công trong hoạt động thực tiễn. Năng lực có thể
    hiểu là sự kết hợp của các kiến thức, kỹ năng, phẩm chất, thái độ và hành vi của
    một cá nhân để thực hiện một công việc có hiệu quả. Bởi vậy, để phát triển năng
    lực môn Toán cần tổ chức cho học sinh thực hành khám phá, vận dụng, luyện
    tập kiến thức, kĩ năng toán học. Thông thường, người ta cần tìm kiếm các cơ hội
    giúp học sinh phát triển các thành tố của năng lực môn Toán.
    Ví dụ về một tình huống tổ chức các hoạt động nhằm phát triển năng lực
    môn Toán cho học sinh lớp 1:

    Khi học về các phép tính cộng, trừ trong phạm vi
    10, học sinh lớp 1 có bài toán: Xem tranh, viết phép
    tính thích hợp vào ô trống:
    Học sinh thực hiện các thao tác:
    – Quan sát tranh và hình dung được tình huống:
    trên cành có 3 con chim đang đậu, sau đó có thêm 1
    con chim bay tới;
    – Liên hệ phép tính thích hợp với hình (phép
    cộng);
    Hình 1

    – Viết phép tính thích hợp vào ô trống (3 + 1 = 4)
    Từ việc phát triển năng lực phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề qua
    quan sát tranh học sinh sẽ viết phép tính thích hợp. Việc viết phép tính cộng
    thích hợp với tình huống tranh vẽ chính là hình thành và phát triển năng lực mô
    hình hóa toán học.
    Ta có thể thay thế việc viết phép tính bằng việc ghép phép tính đó trên bộ
    đồ dùng học tập nếu lớp học có đủ bộ đồ dùng sẽ giúp học sinh phát triển Năng
    lực sử dụng công cụ, phương tiện học toán .
    – Kiểm tra lại kết quả.
    Qua việc thực hiện bài toán này, học sinh có cơ hội phát triển năng lực
    giải quyết vấn đề toán học.
    Hoặc khi dạy bài “Bảng cộng 1 trong phạm vi 10”, sau khi làm việc
    chung bằng việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên, các em thao tác trên que tính
    (trong bộ đồ dùng) để lập được một số phép cộng như :

    1+ 1 = 2
    1+ 2 = 3
    1+ 3 = 4
    1+ 4 = 5

    Giáo viên có thể giao cho các nhóm đôi (2 bạn cùng bàn) thao tác trên que
    tính (phát triển năng lực sử dụng công cụ, phương tiện học toán) để tiếp tục lập
    thêm các phép tính 1 cộng với 1 số. Với việc làm này chúng ta phát triển cho
    học sinh Năng lực giao tiếp toán học: các em nghe, hiểu yêu cầu của nhiệm vụ
    học tập, trình bày ý hiểu qua việc thao tác trên que tính để lập được 1 số phép
    cộng theo yêu cầu (khác với những phép cộng đã lập trước đó), năng lực hợp tác
    15
    với bạn để hoàn thành việc nhiệm vụ học tập, bạn thao tác trên que tính, bạn thì
    ghép phép tính,… để lập tiếp các phép cộng như:

    1 + 5 = 6
    1 + 6 = 7
    1 + 7 = 8
    1 + 8 = 9
    1 + 9 = 10

    Học sinh làm việc nhóm đôi với đồ dùng học tập môn toán
    Học sinh làm việc nhóm đôi với đồ dùng học tập môn toán
    – Hơn thế nữa, trong việc thực hiện yêu cầu, các nhóm phải thực hiện
    được các thao tác tư duy (ở mức độ đơn giản), biết quan sát, tìm kiếm sự tương
    đồng và khác biệt trong các phép tính cộng đã lập trước đó.
    Chẳng hạn, khi dạy Bài “ Bảng cộng 6 trong phạm vi 10”, giáo viên yêu
    cầu học sinh thao tác trên que tính và lập thêm các phép cộng 6 trong phạm vi
    10. Với yêu cầu này, các em phải quan sát các phép cộng đã lập trước đó có gì
    giống và khác nhau để lập tiếp phép cộng 6 với một số, biết loại trừ các phép
    cộng đã lập để thao tác lập các phép cộng 1 với một số khác có kết quả trong
    phạm vị 10. Những tình huống quen thuộc và mô tả được kết quả của việc quan
    sát. Đây chính là tạo cơ hội để phát triển cho học sinh Năng lực tư duy và lập
    luận toán học.
    16
    Học sinh lập được các phép cộng 6 trong phạm 10
    – Hoặc ở bài tập dưới đây cần tạo cơ hội phát triển năng lực tư duy và lập
    luận toán học cho học sinh thông qua các việc:
    Hình nào còn thiếu trong ô trống dưới đây?
    HS quan sát tranh, nhận dạng hình và thấy được sự tương đồng: Các hình
    trong tranh đều là hình tam giác.
    – Qua quan sát, HS nhận ra được sự khác biệt: Hình tam giác màu xanh,
    hình tam giác màu vàng, hình tam giác màu đỏ; Kích cỡ của hình tam giác ở các
    màu cũng khác nhau.
    – Từ đó HS suy nghĩ và nhận ra được: Các hình tam giác được sắp xếp
    theo một thứ tự nhất định: Hình màu xanh – hình màu vàng – hình màu đỏ.
    – Qua các thao tác tư duy trên, HS sẽ xác định được hình cần xếp vào
    trong ô trống là hình tam giác màu đỏ và đưa ra được những lí lẽ để lập luận cho
    kết quả tìm được.
    – Tăng cường tính ứng dụng, gắn kết giữa nội dung môn Toán với đời
    sống thực tế hay liên môn, gắn với xu hướng phát triển hiện đại của kinh tế,
    khoa học và đời sống xã hội, góp phần giúp học sinh hình thành, rèn luyện khả
    năng ứng dụng tri thức đã học trong thực tiễn và làm chủ các “kỹ năng sống”.
    Trong thực tế giảng dạy môn toán lớp 1 cho học sinh nhiều năm qua, tôi
    nhận thấy số lượng học sinh biết cách học Toán lớp 1 không nhiều, các em
    thường ỷ lại vào sự hướng dẫn của giáo viên, ít biết vận dụng kiến thức đã học
    vào giải quyết các vấn đề có liên quan trong thực tế cuộc sống. Những bài toán
    dù rất đơn giản nhưng mang tính thực tế thì các em rất ngại suy nghĩ, chưa liên
    hệ được với kiến thức đã học để giải quyết. Các em học sinh và kể cả một số
    phụ huynh cho đó là các nội dung khó trong chương trình toán lớp 1. Trong năm
    học này, khi dạy chương trình Toán 1 – chương trình GDPT 2018, tôi thấy có rất
    nhiều nội dung bài tập mang tính mở, có nội dung gắn với thực tế cuộc sống mà
    các em cần liên hệ kiến thức toán đã học để giải quyết.
    Chính vì thế, với mỗi đơn vị kiến thức, bên cạnh những bài tập mang tính
    17
    ứng dụng, tôi luôn tìm cách để gắn với thực tế cuộc sống, giúp các em thấy toán
    học rất gần gũi, dùng toán để giải quyết nhuwngc vấn đề có trong cuộc sống
    hằng ngày.
    Chẳng hạn khi dạy Bài 72: “So sánh các số có hai chữ số”, tôi có thể cho học
    sinh trả lời 1 số câu hỏi mở rộng liên quan đến thực tế về nội dung kiến thức này.
    + Câu hỏi 1: Lớp mình có bao nhiêu bạn nữ? (19 bạn nữ)
    + Câu hỏi 2: Em hãy cho cô biết lớp mình có bao nhiêu bạn nam? (17 bạn nam)
    + Câu hỏi 3: Số bạn nữ nhiều hơn hay ít hơn số bạn nam?
    Như vậy, để trả lời được câu hỏi số 1, số 2, các em phải có kiến thức thực
    tế: phân biệt ai là bạn nữ, ai là bạn nam trong các bạn của lớp mình; (Với nội
    dung thực tế này, ta thấy có tính liên môn giữa nội dung học tập môn toán với
    nội dung môn tự nhiên và xã hội); các em sẽ phân biệt và đếm riêng số lượng
    được biểu diễn bằng từ lớn hơn (dấu >); quan hệ ít hơn thường được biểu diễn
    bằng từ bé hơn (dấu <). Các em cần tư duy, muốn so sánh số bạn nữ với số bạn
    nam ta cần so sánh 2 số 19 (số học sinh nữ) với số 17 (số học sinh nam).
    – Nội dung dạy học môn Toán, phải đi từ cụ thể đến trừu tượng, từ dễ đến
    khó. Không chỉ coi trọng tính logic của Toán học như một khoa học suy diễn, mà
    cần chú ý cách tiếp cận dựa trên vốn kinh nghiệm và sự trải nghiệm của học sinh.
    Cũng vẫn về Dạy so sánh các số có 2 chữ số, ở Bài 72 thì có thể đưa ví dụ
    mang tính cụ thể, gần gũi, sát thực với các em. Nhưng đến Bài 93: “Ôn tập các
    số trong phạm vi 100” thì nội dung so sánh các số có 2 chữ số lại mang tính trừu
    tượng mà vẫn gắn với thực tiễn cuộc sống.
    Ví dụ: Bài 5 trang 96 sách Toán 1, tập 2 – Vì sự bình đẳng và dân chủ
    trong trường học.
    Rõ ràng với số lượng 79 cây quýt, 92 cây cam và 85 cây bưởi thì các em
    không thể đếm cụ thể từng cây được; muốn Điền Đ/ S vào từng ô trống thứ nhất
    ở phần a thì các em phải hiểu ít hơn là bé hơn khi so sánh 2 số lượng cây quýt và
    cây cam.
    18
    Tương tự như việc so sánh số lượng (92) cây cam có nhiều hơn (lớn hơn)
    số lượng (85) cây bưởi hay không?
    Hay việc so sánh số lượng (85) cây bưởi có bằng số lượng (79) cây quýt
    hay không? Nếu em so sánh 2 số đó không bằng nhau thì có ý nhận xét 2 số
    lượng cây đó không bằng nhau để điiền chữ S vào ô trồng thứ 3.
    Nếu như ở phần a, các em chỉ cần so sánh nhóm 2 số có 2 chữ số để có
    thể làm bài thì ở phần b các em phải so sánh nhóm 3 số có 2 chữ số để nhận ra
    loại cây nào có số lượng nhiều nhất (tương ứng với số lớn nhất), loại cây nào có
    số lượng ít nhất (tương ứng với số nhỏ nhất) trong nhóm 3 số đó. Rõ ràng mức
    độ khó đã được tăng dần và trừu tượng hơn so với việc so sánh số bạn nam với
    số bạn nữ của lớp.
    Tăng cường tính ứng dụng của nội dung giáo dục toán học trong nhà
    trường. Điều này có nghĩa là đảm bảo một cách hài hòa và thích hợp giữa nội
    dung giáo dục toán học mang tính hàn lâm với nội dung giáo dục toán học gắn
    với đời sống thực tế của học sinh và gắn với xu hướng phát triển hiện đại của
    kinh tế, khoa học và đời sống xã hội, gắn bó mật thiết với việc góp phần giúp
    học sinh hình thành, rèn luyện và làm chủ các “kỹ năng sống”.
    – Việc rèn luyện phương pháp học tập có ý nghĩa quan trọng. Việc kiểm
    tra đánh giá không chỉ kiểm tra khả năng tái hiện tri thức mà định hướng vào
    khả năng vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn.
    2.3 Giải pháp 3: Lựa chọn phương pháp, kĩ thuật và hình thức dạy học phát
    triển phẩm chất và năng lực học sinh
    Sau khi xác định được mục tiêu, nội dung bài học, GV cần lựa chọn và
    vận dụng phương pháp dạy học (PPDH) thích hợp sao cho giúp HS giải quyết
    được các nhiệm vụ học tập, chiếm lĩnh được nội dung tương ứng và từ đó đạt
    được mục tiêu phát triển năng lực của bản thân.
    Trong dạy học, điều quan trọng nhất là HS giải quyết được những nhiệm
    vụ học tập gì, chiếm lĩnh được nội dung đó như thế nào, tức là phát triển được
    những năng lực gì. Do đó, có thể khẳng định quá trình học tập quan trọng hơn
    kết quả học tập vì quá trình học tập phù hợp sẽ dẫn đến kết quả học tập đúng
    đắn, còn kết quả đúng chưa hẳn đã đảm bảo được phát triển năng lực HS. PPDH
    phản ánh quá trình học tập của HS. Vì vậy cần coi PPDH là yếu tố cốt lõi ảnh
    hưởng mạnh mẽ đến phát triển năng lực HS.
    Nguyên tắc khi lựa chọn PPDH phải góp phần phát triển năng lực của HS,
    đạt được mục tiêu của bài học. Do đó, khi lựa chọn PPDH cần quán triệt các
    quan điểm sau:
    – Chú trọng đến dạy HS cách học và phát triển khả năng tự học của HS.
    Về bản chất, dạy học là quá trình HS biến những giá trị xã hội thành giá
    trị cá nhân dưới sự tổ chức, điếu khiển, hướng dẫn của GV. Do đó, để bảo đảm
    học tập thành công, HS phải có phương pháp tự học đúng đắn.
    Tự học của HS phải được tổ chức theo con đường hợp lí sao cho phù hợp
    19
    với logic khoa học của môn học và logic nhận thức của các em. Việc tự học của
    HS chủ yếu được tiến hành theo hình thức nhóm và cá nhân với sự hỗ trợ của
    những tài liệu, phương tiện, đổ dùng dạy học thích hợp.
    Tự học của HS không chỉ được thực hiện trên lớp, mà còn ở thư viện, gia
    đình (qua sách, báo, tạp chí, mạng internet…), ngoài xã hội (quan sát, điều tra
    những sự vật, hiện tượng có trong thực tiễn…) để mở rộng, làm giàu kiến thức,
    kinh nghiệm của mình và phát triển các năng lực tự học.
    – Thiết kế, tổ chức một chuỗi các hoạt động học tập cho HS.
    Những hoạt động được thiết kế, tổ chức phải là của HS, dành cho HS
    (nhằm mục tiêu phát triển năng lực HS với những PPDH mang tính thực hành.
    Khi đó, HS cần sử dụng các giác quan khác nhau, trải nghiệm thực tiễn cuộc
    sống, khái quát những cảm nhận thông thường thành tri thức khoa học, đối chiếu
    tri thức được học qua các môn học với thực tiễn phong phú.
    – Coi trọng việc phát triển tư duy của HS
    Trong dạy học, việc phát triển tư duy HS là cực kì quan trọng, bởi lẽ, nhờ
    có tư duy mà HS mới có khả năng tự tìm tòi, phát hiện, tự làm giàu vốn kiến
    thức của mình, tự vận dụng vào thực tiễn cuộc sống, làm chủ được bản thân
    trong môi trường cuộc sống đa dạng, nhờ đó, các em phát triển được các năng
    lực khác. Do đó, bài học phát triển năng lực HS không cho phép GV truyền đạt
    kiến thức, đưa ra các dạng bài mẫu để HS làm theo mà đòi hỏi phải tổ chức cho
    HS phát hiện và giải quyết vấn đề.
    Quán triệt các quan điểm trên, khi thiết kế và tổ chức một bài học, GV cần
    lựa chọn và vận dụng PP trên cơ sở căn cứ vào những yếu tố sau:
    – Căn cứ vào mục tiêu bài học đã xác định: Vì mục tiêu bài học là phát
    triển năng lực HS nên những PPDH được lựa chọn cần phát huy được tính tích
    cực học tập của HS, phát huy được vai trò chủ thể của HS trong quá trình học
    tập.
    – Căn cứ vào nội dung bài học đã dự kiến: Nội dung được cụ thể hoá qua
    các hoạt động học tập của HS (khởi động (trải nghiệm), phân tích khám phá rút
    ra kiến thức, thực hành – luyện tập, vận dụng kiến thức vào thực tiễn).
    – Căn cứ vào khả năng, trình độ nhân thức của mỗi HS trong lớp. Ở mỗi
    lớp, HS có những kinh nghiệm, khả năng tham gia thực hiện các nhiệm vụ học
    tập liên quan đến PPDH đã từng được vận dụng, ví như trò chơi – có lớp HS đã
    quen với việc tham gia, thực hiện, có thể có lớp chưa từng biết tới. Khi đó, việc
    vận dụng PP trò chơi đối với những lớp đã có kinh nghiệm rõ ràng thuận lợi
    hơn. Hơn nữa, với những lớp có nhiều kinh nghiệm hên quan, tác động của GV
    đến HS “mờ nhạt” hơn so với những lớp thiếu kinh nghiệm đó. Khi đó, đối với
    những lớp thiếu kinh nghiệm, GV cần hướng dẫn các em một cách tỉ mỉ, chi tiết,
    cụ thể hơn…
    – Căn cứ vào phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ cho việc tổ chức bài học:
    Việc vận dụng PPDH phát triển năng lực HS thường phải có những phương tiện,
    cơ sở vật chất nhất. Những phương tiện dạy học này chủ yếu dành cho HS (tranh
    20
    ảnh, sơ đồ, mẫu vật, đồ dùng thí nghiệm, máy tính, máy chiếu…) nhằm giúp HS
    sử dụng chúng, vận dụng các thao tác tư duy (như phân tích, tổng hợp, so sánh,
    khái quát hoá…) để phát hiện, tìm ra tri thức mới, hình thành kĩ năng, bày tỏ thái
    độ và từ đó, phát triển các năng lực.
    – Căn cứ vào thời gian thực hiện bài học: Theo quy định hiện hành, mỗi
    tiết học được thực hiện trong khoảng 35 – 40 phút và được GV phân phối hợp lí
    cho từng hoạt động của tiết. Tuỳ thuộc vào quỹ thời gian dành cho hoạt động và
    nội dung bài học, GV vận dụng PPDH tương ứng sao cho phù hợp và hiệu quà.
    – Căn cứ vào điều kiện thực tiễn cuộc sống địa phương phục vụ bài học:
    Những yếu tố liên quan đến điều kiện thực tiễn cuộc sống địa phương (các sự
    vật, sự việc, hiện tượng) cần thiết cho việc tổ chức các hoạt động khác nhau và
    nhất là hoạt động vận dụng kiến thức, kĩ năng vào thực tiễn cuộc sống. Khi đó,
    GV cần cân nhắc: HS sẽ tham gia và thực hiện hoạt động gì? Tổ chức hoạt động
    này, cần những điều kiện thực tiễn gì? Cần vận dụng PPDH tương ứng nào để
    thực hiện được hoạt động?
    – Lựa chọn và vận dụng hình thức tổ chức dạy học phát triển năng lực HS
    Hình thức tổ chức dạy học là biểu hiện bên ngoài của hạot động phối hợp
    giữa GV và HS. Chúng được phối hợp với nhau bởi quy mô HS tham gia dạy
    họcc cá nhân, theo nhóm, cả lớp), không gian (dạy học trong lớp, tại hiện
    trường, …), thời gian tiến hành (dạy học nội khoá, ngoại khoá), loại hình, hình
    thức hoạt động cụ thể được tổ chức (trò chơi, tham quan, câu lạc bộ,…)
    Những hình thức tổ chức dạy học cần được chú trọng vận dụng trong quá
    trình dạy học phát triển năng lực HS:
    Dạy học theo nhóm nhỏ là hình thức tổ chức dạy học, mà những HS trong
    nhóm nhỏ tương tác với nhau để thực hiện nhiệm vụ học tập chung của mình.
    GV tổ chức lớp học thành các nhóm nhỏ, giao nhiệm vụ học tập để HS
    cùng nhau thực hiện và từ đó, chiếm lĩnh được nội dung bài học và phát triển
    được năng lực. Qua hoạt động nhóm, HS tiểu học phát huy được tính tích cực,
    chủ động, sáng tạo, phát triển tư duy, trí tuệ của mình, phát triển các năng lực và
    những phẩm chất tốt đẹp phát triển những kĩ năng sống quan trọng (biết lập kế
    hoạch công việc của mình, biết hợp tác và phối hợp với những người xung
    quanh, biết đánh giá việc thực hiện sau khi hoàn thành nhiệm vụ).
    Khi vận dụng hình thức này, GV cần:
    – Xác định mục tiêu của hoạt động: Mục tiêu của hoạt động nhóm phải cụ
    thể hoá, tương ứng, phục vụ mục tiêu phát triển năng lực của bài học đã xác
    định. Cần tránh các hiện tượng: mục tiêu bài học một đằng và mục tiêu hoạt
    động nhóm một nẻo; mục tiêu hoạt động nhóm không phải là năng lực; mục tiêu
    không rõ ràng, khó đánh giá…
    – Lựa chọn nội dung phù hợp: Nội dung phải cụ thể hoá mục tiêu phát
    triển năng lực của hoạt động nhóm đã xác định. Để bảo đảm hiệu quả hoạt động,
    nội dung phải vừa sức và hấp dẫn với HS tiểu học. Cần tránh các hiện tượng
    như: mục tiêu và nội dung thiếu thống nhất với nhau.
    21
    – Vận dụng PPDH tích cực: Để giúp HS đạt được mục tiêu phát triển
    năng lực, nhất thiết phải vận dụng các PP với vai trò chủ thể tích cực của HS.
    Bên cạnh đó, GV cần tính đến những phương tiện, đồ dùng học tập cần thiết
    nhằm nâng cao hiệu quả của PPDH được vận dụng.
    – Tổ chức nhóm phù hợp: Tuỳ thuộc vào mục tiêu, nội dung và PPDH đã
    xác định, tính chất của hoạt động được tổ chức, cần tổ chức nhóm phù hợp về
    quy mô, số lượng HS trong nhóm, trình độ nhóm và trình độ HS trong nhóm,
    cách chia nhóm, nhiệm vụ nhóm trưởng, thư kí, vị trí ngồi của HS trong nhóm…
    – Giao nhiệm vụ một cách rõ ràng, bảo đảm rằng tất cả các nhóm, mọi HS
    trong các nhóm đều hiểu rõ nhiệm vụ. Sau khi giao nhiệm vụ, GV nên yêu cầu
    một hoặc vài HS nhắc lại nhiệm vụ để chắc chắn rằng HS đã hiểu. Ngoài ra, HS
    cũng cần biết hoạt động nhóm sẽ được đánh giá như thế nào? Cần tránh các hiện
    tượng: nhiệm vụ nêu ra không rõ ràng, HS không biết cách thực hiện…
    – Kiểm soát, giám sát hoạt động của các nhóm: Cần bảo đảm rằng, GV
    kiểm soát được tình hình hoạt động của các nhóm HS. Khi đó, GV cần đi vòng
    quanh, tiếp cận các nhóm, theo dõi, quan sát hoạt động diễn ra, điều chỉnh, giúp
    đỡ khi cần thiết, động viên và khuyến khích HS làm việc.
    Tổ chức cho HS trình bàỵ, báo cáo kết quả hoạt động nhóm: Việc trình
    bày, báo cáo kết quả hoạt động nhóm có thể được thực hiện qua các hình thức
    khác nhau.
    Đánh giá và tạo điều kiện cho HS tự đánh giá hoạt động của nhóm: Sau
    khi hoạt động nhóm kết thúc, GV cần đánh giá và tạo điều kiện, khuyến khích
    HS tự đánh giá quá trình làm việc nhóm của mình.
    Dạy học cá nhân là hình thức tổ chức dạy học được thực hiện trên cơ sở
    tương tác trực tiếp giữa GV và một cá nhân HS.
    Dạy học cá nhân mang lại hiệu quả cao trong việc phát triển năng lực HS vì:
    – Mỗi HS trong lớp có sự khác biệt về trình độ, trí thông minh, năng lực nhận
    thức, sự phát triển tư duy, hứng thú học tập, nhu cầu mở rộng hiểu biết, điều
    kiện học tập của riêng mình… Do đó, dạy học phát triển năng lực sẽ có hiệu quả
    hơn nếu phù hợp với tốc độ, cường độ, tiến độ, điều kiện học tập của mỗi HS.
    – DH phát triển năng lực sẽ có hiệu quả cao nếu GV xác định chính xác
    “vùng phát triển hiện tại” của mỗi HS và tác động phù hợp đến “vùng phát triển
    gần nhất” của cá nhân đó, giúp từng HS thành công trong học tập.
    – Sự tương tác trực tiếp giữa GV và cá nhân HS tiểu học giúp cho GV xác
    định được những đặc điểm riêng, nhất là học lực, trí thông minh, năng lực, tư
    duy, hứng thú…, và từ đó, GV có sự tác động riêng đến HS đó; nhờ vậy có thể
    nâng cao kết quả học tập, phát triển tư duy, năng lực của HS. Thông qua các
    hoạt động học tập, giáo viên tạo cơ hội để học sinh bộc lộ những điểm mạnh,
    điểm khác biệt ở mỗi em.
    22
    2.4 Giải pháp 4: Sử dụng hiệu quả Sách giáo khoa và Thiết bị dạy học môn
    Toán lớp 1:
    2.4.1 Sách giáo khoa
    Với quan điểm Chương trình 2018 là pháp lệnh, Sách giáo khoa là công
    cụ thực hiện mục tiêu cần đạt của chương trình vì vậy GV có thể thay thế, bổ
    sung ngữ liệu cho phù hợp đối tượng học sinh và điều kiện nhà trường.
    Trên cơ sở nắm chắc nội dung chương trình môn Toán, tôi đã tìm hiểu
    những điểm mới cơ bản trong sách giáo khoa Toán 1 năm học 2020-2021 để sử
    dụng sách có hiệu quả trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học. Đó là:
    1) Hình thức trình bày: chia thành 2 tập là Toán 1 tập một và Toán 1 tập 2.
    2) Thời lượng chỉ còn 3 tiết toán/tuần.
    3) Có hai mạch kiến thức:
    + Số và phép tính
    + Hình học và đo lường
    và Hoạt động trải nghiệm Toán học.
    Nội dung Giải toán có lời văn lồng ghép khi dạy về phép tính.
    4) Nội dung 100 bài chia thành 5 chủ đề. 5 bài còn lại dành cho ôn tập
    kiểm tra hoặc những ngày nghỉ lễ, Tết trùng hoặc nghỉ do thiên tai.
    5) Chủ đề: “Các số đến 10”
    – Hình thành theo từng nhóm 3 số: Số 1,2,3; Số 4,5,6; Số 7,8,9; Số 0, Số 10.
    – Dạy lập số theo bản số chứ không dạy theo cách thêm 1 như ở CT hiện
    hành. (cũ: số 7 dạy từ việc đã học số 6, 6 thêm 1 bằng 7)
    – Dành 1 tiết dạy tách số, 1 tiết dạy đếm đến 9.
    6) Các số có 2 chữ số trình bày ngắn gọn lại, cụ thể:
    – Các số trong phạm vi 20.
    – Các số tròn chục.
    – Các số có 2 chữ số ( có chữ số tận cùng khác chữ số 1,4,5)
    – Các số có 2 chữ số ( có chữ số tận cùng là chữ số 1,4,5)
    7) Dạy các bảng cộng theo cấu trúc bảng nhân.
    8) Dạy các bảng cộng, trừ trong bảng không yêu cầu đặt tính cột dọc. Chỉ
    yêu cầu đặt tính cột dọc khi dạy phép cộng, trừ có số có 2 chữ số.
    9) Khi dạy bài dạng tính có 2 phép tính trình bày theo hàng ngang. VD:
    1+2+1 = 3 +1= 4
    10) Khi dạy Giải bài toán bằng 1 phép tính cộng ( trừ) không nhớ trong
    phạm vi 100: HS không phải trình bày bài giải, chỉ cần viết và tính đúng kết quả
    (nêu câu trả lời)
    23
    11) Các hoạt động trải nghiệm toán học được thiết kế thành 4 chủ đề trong
    4 tiết học ở Toán 1 tập 2.
    12) Tăng cường tính tích cực của HS trong học tập: Các hình ảnh trong
    SGK Toán 1 chỉ mang tính minh họa để Gv tham khảo, không áp đặt.
    13) Hệ thống các bài toán mở. Bài toán có nhiều cách giải hoặc nhiều đáp
    án tạo cơ hội cho HS phát huy tính sáng tạo, phát triển tư duy toán học, đáp ứng
    yêu cầu dạy học phân hóa.
    14) Các bài về lắp ghép hình đều xuất phát từ Bộ con giống hình học
    trong bộ đồ dùng dạy học tạo điều kiện cho học sinh hoạt động trải nghiệm.
    15) Logo “ Em học xong bài này”Được thiết lập sau mỗi tiết học trong
    SGK
    16) Nội dung luyện tập ở SGK Toán 1 được biên soạn trong cuốn vở bài
    tập toán 1 theo từng tiết tương ứng . HS không viết, vẽ, nối vào SGK toán.
    17) Mạch Hình học: Có thêm nhận diện khối lập phương, khối hộp chữ nhật.
    18) Thay đổi về cách viết các số đo đại lượng: giữa số đo và đơn vị đo có
    1 dấu cách (không viết liền) chẳng hạn: 15 cm thay cho 15cm.
    Khi đã nắm chắc các điểm mới về chương trình và sách giáo khoa Toán
    1 chương trình GDPT 2018, tôi đã có những lưu ý khi thực hiện nội dung
    chương trình.
    Ví dụ như:
    * Với ưu điểm của sách giáo khoa Toán 1 Chương trình GDPT 2018 là có
    ghi nội dung logo “Em học xong bài này”, tôi đã tư vấn cho cha mẹ học sinh dựa
    vào đó để kiểm tra xem con mình đã đạt được yêu cầu cần đạt của bài học chưa.
    Hay với chính bản thân các em ở thời điểm cuối năm học sẽ tự đối chiếu với yêu
    cầu cần đạt để tự đánh giá hoặc đánh giá bạn.
    * Ở mạch Hình học: chương trình Toán 1 có thêm nội dung nhận diện khối
    lập phương, khối hộp chữ nhật, tôi đã sưu tầm thêm các đồ vật quen thuộc với học
    sinh có dạng khối hộp đó như con súc sắc, hộp mứt tết, hộp bánh, viên gạch xây
    nhà, hộp phấn, … cho học sinh dễ nhận diện và làm quen. Trên cơ sở đó học sinh có
    sự phân biệt cơ bản ban đầu giữa hình chữ nhật/ khối hộp chữ nhật; hình vuông /
    khối lập phương.
    * Đồng hành cùng sách giáo khoa Toán 1 là Vở bài tập toán 1. Đây là một
    tài liệu bổ trợ rất hữu ích giúp cho học sinh hoàn thành yêu cầu học tập môn
    toán. Cuốn vở này giúp giảm bớt rất nhiều thời gian phải chép lại đề bài, hơn
    nữa ở giai đoạn học kì I, học sinh chưa biết viết hoặc kẻ vẽ lại các yêu cầu của
    đề bài.
    Tuy nhiên giáo viên cần chú ý một số yêu cầu cho phù hợp (Thay yêu cầu
    ở sách giáo khoa vì học sinh không được viết vào sách mà hoàn thành nội dung
    đó trong vở bài t

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Một số biện pháp giúp phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh thông qua dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1

    SKKN Một số biện pháp giúp phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh thông qua dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
    Theo mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông 2018 thì chương trình
    giáo dục tiểu học giúp học sinh hình thành và phát triển những yếu tố căn bản
    đặt nền móng cho sự phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần, phẩm chất và
    năng lực; định hướng chính vào giáo dục về giá trị bản thân, gia đình, cộng đồng
    và những thói quen, nề nếp cần thiết trong học tập và sinh hoạt.
    Bên cạnh đó, môn Tự nhiên và Xã hội là môn học bắt buộc ở các lớp 1, 2, 3
    được xây dựng dựa trên nền tảng khoa học cơ bản, ban đầu về tự nhiên và xã
    hội. Môn học cung cấp cơ sở quan trọng cho việc học tập các môn Khoa học,
    Lịch sử và Địa lí ở lớp 4, lớp 5 và các môn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội ở
    các cấp học trên. Môn học coi trọng việc tổ chức cho học sinh trải nghiệm thực
    tế, tạo cho học sinh cơ hội tìm hiểu, khám phá thế giới tự nhiên và xã hội xung
    quanh; vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào thực tiễn, học cách ứng xử phù
    hợp với tự nhiên và xã hội.
    Theo Luật giáo dục năm 2019 thì mục tiêu giáo dục là nhằm phát triển toàn
    diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hoá, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
    nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần
    dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy
    tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn
    nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
    quốc và hội nhập quốc tế.
    Như vậy có thể thấy môn Tự nhiên và Xã hội đóng vai trò quan trọng trong
    việc thực hiện mục tiêu giáo dục. Nó góp phần hình thành và phát triển ở học
    sinh tình yêu con người, thiên nhiên; đức tính chăm chỉ; ý thức tiết kiệm, giữ
    gìn, bảo vệ tài sản; tinh thần trách nhiệm với môi trường sống; các năng lực
    chung và năng lực khoa học.
    Thực tế cho thấy, việc hình thành, phát triển năng lực và phẩm chất cho
    học sinh thông qua dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1 chưa bao giờ là điều
    đơn giản. Đây luôn là vấn đề trăn trở của hầu hết các giáo viên trong quá trình
    giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1.
    2
    Năm học 2020 – 2021 là năm học đầu tiên thực hiện chương trình giáo dục
    phổ thông 2018 trong đó có môn Tự nhiên và Xã hội nên giáo viên sẽ gặp một
    số khó khăn ban đầu trong cách tiếp cận, triển khai chương trình.
    Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp phát triển
    năng lực và phẩm chất cho học sinh thông qua dạy học môn Tự nhiên và Xã
    hội lớp 1”
    II. Mô tả giải pháp kĩ thuật:
    II.1. Mô tả giải pháp kĩ thuật trƣớc khi tạo ra sáng kiến
    Chương trình môn Tự nhiên và Xã hội trong chương trình giáo dục phổ
    thông 2018 nhằm góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu,
    năng lực chung và năng lực khoa học cho học sinh lớp 1.
    Môn Tự nhiên và Xã hội là môn học về các sự vật, hiện tượng của môi
    trường tự nhiên và xã hội xung quanh. Môn học cần trang bị cho học sinh những
    hiểu biết khoa học ban đầu làm cơ sở cho việc học tập các môn học khác và ở
    các lớp, cấp học trên. Đồng thời việc học tập môn học cũng giúp học sinh có
    thêm kinh nghiệm, kiến thức để áp dụng vào cuộc sống bản thân ở gia đình,
    trường học và cộng đồng. Do đó, giáo viên có thể khai thác vốn sống của học
    sinh ở các mức độ khác nhau giúp các em tham gia vào bài học và từng bước áp
    dụng được những kiến thức đã học vào cuộc sống. Giáo viên có thể khai thác
    điều kiện tự nhiên, xã hội của địa phương để tổ chức cho học sinh ở mọi vùng
    miền của đất nước được học tập thông qua chính cuộc sống của bản thân, gia
    đình và cộng đồng của mình. Để giúp phát triển năng lực và phẩm chất cho học
    sinh thông qua dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1 ở trường Tiểu học Trần
    Quốc Toản bước đầu tôi gặp một số thuận lợi và khó khăn như sau:
    Thuận lợi
    Trường Tiểu học Trần Quốc Toản là một cơ sở giáo dục chất lượng cao của
    Thành phố Nam Định, được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ, đáp ứng được nhu
    cầu dạy học theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018, đặc biệt là trang bị
    đồng bộ hệ thống máy tính, máy chiếu, đường truyền mạng ổn định giúp cho tôi
    thuận lợi hơn trong việc sử dụng học liệu điện tử khi giảng dạy.
    3
    Năm học 2020 – 2021 là năm học đầu tiên áp dụng giảng dạy theo chương
    trình giáo dục phổ thông 2018 được xây dựng theo hướng mở. Chương trình
    giáo dục phổ thông mới cấp tiểu học theo định hướng vừa hình thành kiến thức,
    vừa phát triển năng lực, phẩm chất học sinh tiểu học; dạy học không chỉ cung
    cấp kiến thức mà phải phát triển hài hòa cả phẩm chất và năng lực. Trong
    chương trình Giáo dục phổ thông mới thì 3 yếu tố này được hình thành và phát
    triển hài hòa trong một đứa trẻ và vững như „kiềng 3 chân”, nếu chỉ thiếu hay
    coi nhẹ một yếu tố thì sẽ không phát triển hài hòa đối với quá trình phát triển
    nhân cách, tư duy của học sinh tiểu học.
    Năm học 2020 – 2021 là năm học nhà trường và giáo viên được chủ động
    trong việc lựa chọn sách giáo khoa. Bên cạnh đó chương trình môn Tự nhiên và
    Xã hội mới giao quyền chủ động cho nhà trường và giáo viên; cho phép giáo
    viên được lựa chọn đối tượng học tập sẵn có ở địa phương để dạy học nhưng
    vẫn đảm bảo mục tiêu chương trình. Ngoài ra, chương trình mở còn cho phép
    giáo viên có thể thay đổi thứ tự các chủ đề học tập, đặt ra các tiêu đề bài học
    trong mỗi chủ đề, xác định thời gian và điều chỉnh thời lượng học tập cho mỗi
    chủ đề cho phù hợp với thực tế địa phương, điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị của
    nhà trường. Đây cũng là năm học mà đội ngũ giáo viên được tham gia học tập
    bồi dưỡng, nâng cao năng lực tổ chức hoạt động dạy học, trong đó có bồi dưỡng
    kĩ năng sư phạm để hiểu được những yêu cầu, nội dung của chương trình mới,
    làm quen với quan điểm, cách thức, cấu trúc biên soạn sách giáo khoa mới và
    cách tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh. Giáo viên được tập huấn trực
    diện và cụ thể thông qua các hoạt động, được kết hợp sử dụng các băng hình
    minh họa cách tổ chức các hoạt động dạy học theo sách giáo khoa mới.
    Đặc biệt là trong năm học 2020 – 2021, giáo viên được hỗ trợ tiếp cận với
    việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy qua các trang học liệu điện
    tử có sẵn các hình ảnh, video, trò chơi học tập trong bài học giúp tăng hứng thú
    trong học tập của học sinh, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho giáo viên trong quá
    trình giảng dạy.
    4
    Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, môn Tự nhiên và xã hội lớp 1
    được quán triệt theo hướng phát triển năng lực cho học sinh. Môn học chú trọng
    khai thác những kiến thức, kinh nghiệm ban đầu của học sinh về cuộc sống xung
    quanh; chú trọng phát huy trí tò mò khoa học, hướng đến sự phát triển các mối
    quan hệ tích cực của học sinh với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh;
    hướng dẫn học sinh cách đặt câu hỏi, cách thu thập thông tin và tìm kiếm các
    bằng chứng, cách vận dụng các thông tin, bằng chứng thu thập được để đưa ra
    những nhận xét, kết luận mang tính khách quan, khoa học; tăng cường tổ chức
    các hoạt động tìm tòi, khám phá, liên hệ, vận dụng gắn với thực tiễn cuộc sống
    xung quanh, qua đó học sinh học cách giải quyết một số vấn đề đơn giản thường
    gặp; ứng xử thích hợp liên quan đến sức khoẻ, sự an toàn của bản thân và những
    người xung quanh; bảo vệ môi trường sống; chú trọng thực hiện nội dung giáo
    dục thông qua các trò chơi, các hoạt động đóng vai, trao đổi, thảo luận, thực
    hành, tìm tòi, điều tra đơn giản, từ đó tăng kỹ năng hợp tác, giao tiếp, tự tin
    trong việc phát biểu các ý tưởng, trình bày các sản phẩm học tập.
    Trong những năm trở lại đây có nhiều dự án, mô hình dạy học mới được áp
    dụng và nhân rộng ở nước ta, giúp giáo viên được làm quen và áp dụng các cách
    tiếp cận, phương pháp và kĩ thuật dạy học hiện đại. Các cách tiếp cận, phương
    pháp, kĩ thuật dạy học mới đó hoàn toàn phù hợp trong việc dạy học theo chương
    trình và sách giáo khoa mới. Nói cách khác giáo viên sẽ không bỡ ngỡ với các
    phương pháp dạy học theo sách giáo khoa mới. Đặc biệt các bộ sách giáo khoa mới
    được thiết kế với các hoạt động cụ thể giáo viên có thể dễ dàng thực hiện.
    Năm học 2020 – 2021 tôi được phân công dạy học môn Tự nhiên và Xã hội
    khối 1, chính vì vậy tôi nhận thấy bản thân có nhiều cơ hội hơn để đầu tư tìm
    hiểu nghiên cứu môn học, hiểu sâu hơn về nội dung cũng như phương pháp dạy
    học môn học. Và đặc biệt cũng được dạy nhiều giờ học với nhiều đối tượng học
    sinh nên tôi được “cọ sát” nhiều hơn.
    Việc phụ huynh đang bước đầu có sự thay đổi trong việc không còn phân
    biệt môn chính, môn phụ ở cấp Tiểu học là một thuận lợi vô cùng to lớn góp
    phần giúp giáo viên đạt được hiệu quả cao hơn trong giảng dạy. Tự nhiên và Xã
    5
    hội là môn học về các sự vật, hiện tượng cụ thể gần gũi với học sinh nên học
    sinh có nhiều kinh nghiệm và vốn sống để tham gia tìm hiểu, khám phá nội dung
    bài học. Ở các giờ học môn học này, học sinh được phát huy tối đa tính tích cực,
    tính sáng tạo của mình. Vì vậy, học sinh luôn yêu thích môn học và các giờ học
    tự nhiên và xã hội.
    Qua trao đổi với đồng nghiệp, phụ huynh học sinh và học sinh, tôi nhận thấy
    cả giáo viên, phụ huynh và học sinh đều mong muốn được dạy – học môn Tự nhiên
    và Xã hội nhiều hơn. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 có quy định thời
    lượng giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội ở cấp tiểu học là 2 tiết/tuần, tăng 1 tiết/
    tuần so với chương trình năm 2000. Đây là một điều kiện thuận lợi giúp giáo viên
    có nhiều thời gian hơn để cung cấp kiến thức, rèn luyện năng lực và phẩm chất cho
    học sinh thông qua quá trình dạy học môn học này. Việc học tập môn học Tự nhiên
    và Xã hội theo chương trình mới sẽ dễ dàng giúp học sinh được hình thành và phát
    triển các kĩ năng sống, là tiền đề cho việc hình thành các phẩm chất và năng lực
    theo định hướng của chương trình giáo dục phổ thông 2018.
    Khó khăn
    Năm học 2020 – 2021 là năm học đầu tiên thực hiện chương trình giáo dục
    phổ thông 2018 trong đó có môn Tự nhiên và Xã hội. Bên cạnh đó chương trình
    môn Tự nhiên và Xã hội mới được xây dựng trên cơ sở định hướng tiếp cận
    năng lực, có một số nội dung kiến thức mới nên giáo viên sẽ gặp một số khó
    khăn ban đầu trong cách tiếp cận, triển khai chương trình.
    Năm học 2020 – 2021 cũng là một năm học đầy biến động với đại dịch
    Covid-19 nên việc triển khai tiếp cận chương trình cũng như tập huấn chương
    trình tới giáo viên cũng gặp một số hạn chế nhất định.
    Trẻ em ở lứa tuổi tiểu học là thực thể đang hình thành và phát triển cả về
    mặt sinh lý, tâm lý, xã hội các em đang từng bước gia nhập vào xã hội thế giới
    của mọi mối quan hệ, đặc biệt là học sinh lớp 1, các em đang chuyển từ giai
    đoạn vui chơi là chủ đạo sang giai đoạn học tập là chủ đạo. Do đó, học sinh lớp
    1 chưa đủ ý thức, chưa đủ phẩm chất và năng lực như một công dân trong xã
    hội, mà các em luôn cần sự hướng dẫn, giúp đỡ của thầy cô, của gia đình, nhà
    6
    trường và xã hội. Học sinh lớp 1 dễ thích nghi và tiếp nhận cái mới và luôn
    hướng tới tương lai. Nhưng cũng thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi nhớ và
    chú ý có chủ định chưa được phát triển mạnh, tính hiếu động, dễ xúc động còn
    bộc lộ rõ nét. Trẻ nhớ rất nhanh và quên cũng nhanh. Đối với học sinh tiểu học,
    trí nhớ trực quan – hình tượng phát triển chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ –
    logíc. Tư duy của trẻ em mới đến trường là tư duy cụ thể, dựa vào những đặc
    điểm trực quan của đối tượng và hiện tượng cụ thể. Trong sự phát triển tư duy ở
    học sinh tiểu học, tính trực quan cụ thể còn thể hiện rõ rệt ở các em học sinh lớp
    1. Việc học tập của các em còn bị chi phối bởi yếu tố gia đình, điều kiện địa lý
    và các yếu tố xã hội khác đòi hỏi nhà trường, gia đình, xã hội cần có sự kết hợp
    chặt chẽ để tạo động lực học tập cho học sinh.
    Giai đoạn đầu năm lớp 1 học sinh đang bắt đầu học chữ và rèn nề nếp học
    tập nên việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh sẽ gặp nhiều khó khăn.
    Ngoài ra, việc thay đổi quan niệm về môn học chính và môn học phụ ở tiểu
    học trong phụ huynh học sinh chưa được đồng bộ tới tất cả phụ huynh nên sẽ
    đẫn đến tình trạng thiếu quan tâm, hỗ trợ động viên của phụ huynh, gây khó
    khăn cho giáo viên khi triển khai các hoạt động vận dụng. Môn Tự nhiên và Xã
    hội là môn học yêu cầu đòi hỏi vốn sống và vốn hiểu biết về các sự vật, hiện
    tượng của môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh chính vì vậy một số phụ
    huynh khó có thể giải đáp các thắc mắc của các em liên quan đến bài học nhất là
    với học sinh lớp 1 với “hàng vạn câu hỏi vì sao” vì thực tế nhiều phụ huynh còn
    hạn chế về những nội dung này.
    Kiến thức thực tế của học sinh còn hạn chế nên ảnh hưởng đến việc tiếp thu
    bài học. Vốn từ vựng của các em chưa nhiều nên cũng gây khó khăn trong quá
    trình diễn đạt, thực hành. Một số em học sinh chưa mạnh dạn, tự tin trong học
    tập; chưa có ý thức tự giác đọc sách báo, sưu tầm tài liệu phục vụ cho kiến thức
    liên quan đến môn học.
    Giáo viên chưa linh động, sáng tạo khi tổ chức các hoạt động dạy học, chưa
    phát huy hết vai trò gợi mở óc tò mò, khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh. Từ
    đó các em cảm thấy nhàm chán, mất hứng thú học tập.
    7
    Với những thuận lợi và khó khăn trên, tôi nhận thấy để khắc phục những
    khó khăn này, tôi nhận thấy người giáo viên phải có kinh nghiệm và sáng tạo
    trong giảng dạy, phải thật kiên trì và nhẫn nại giúp học sinh và phụ huynh nhận
    thức được tầm quan trọng của môn học. Từ đó giáo dục các em ý thức tự tìm
    hiểu khám phá thế giới xung quanh, nâng cao hiểu biết, vốn sống của chính các
    em góp phần hình thành năng lực và phẩm chất.
    Nếu vận dụng tốt một số biện pháp mà tôi đưa ra dưới đây thì việc giúp học
    sinh hình thành và phát triển năng lực và phẩm chất thông qua dạy học môn Tự
    nhiên và Xã hội lớp 1, sẽ đem lại nhiều kết quả khả quan hơn. Từ đó rèn luyện
    cho các em niềm đam mê nghiên cứu khoa học và đồng thời cũng góp phần là
    nền tảng giúp các em học tốt các môn học khác.
    II.2. Mô tả giải pháp kĩ thuật sau khi có sáng kiến
    II.2.1. Giới thiệu khái quát về chƣơng trình môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
    theo chƣơng trình giáo dục phổ thông 2018
    II.2.1.1. Đặc điểm của môn học
    Tự nhiên và Xã hội là môn học bắt buộc ở các lớp 1, 2, 3, được xây dựng dựa
    trên nền tảng khoa học cơ bản, ban đầu về tự nhiên và xã hội. Môn học cung cấp cơ
    sở quan trọng cho việc học tập các môn Khoa học, Lịch sử và Địa lí ở lớp 4, lớp 5
    và các môn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội ở các cấp học trên. Môn học coi
    trọng việc tổ chức cho học sinh trải nghiệm thực tế, tạo cho học sinh cơ hội tìm
    hiểu, khám phá thế giới tự nhiên và xã hội xung quanh; vận dụng kiến thức, kĩ năng
    đã học vào thực tiễn, học cách ứng xử phù hợp với tự nhiên và xã hội.
    II.2.1.2. Quan điểm xây dựng chương trình môn học
    Chương trình môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1 quán triệt các quan điểm, mục
    tiêu, yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực, kế hoạch giáo dục và các định
    hướng về nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và đánh giá kết quả giáo dục
    được nêu trong chương trình tổng thể. Đồng thời, xuất phát từ đặc thù của môn
    học, những quan điểm sau được nhấn mạnh trong xây dựng chương trình:
    Dạy học tích hợp: Chương trình môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1 được xây
    dựng dựa trên quan điểm dạy học tích hợp, coi con người, tự nhiên và xã hội là
    8
    một chỉnh thể thống nhất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó con
    người là cầu nối giữa tự nhiên và xã hội. Các nội dung giáo dục giá trị sống và
    kĩ năng sống, giáo dục sức khỏe, giáo dục môi trường, giáo dục tài chính được
    tích hợp vào môn Tự nhiên và Xã hội ở mức độ đơn giản, phù hợp với điều
    kiện của Việt Nam.
    Dạy học theo chủ đề: Nội dung giáo dục môn Tự nhiên và Xã hội được tổ
    chức theo các chủ đề: gia đình, trường học, cộng đồng địa phương, thực vật và
    động vật, con người và sức khoẻ, Trái Đất và bầu trời. Các chủ đề này được phát
    triển theo hướng mở rộng và nâng cao từ lớp 1 đến lớp 3. Mỗi chủ đề đều thể
    hiện mối liên quan, sự tương tác giữa con người với các yếu tố tự nhiên và xã
    hội. Tuỳ theo từng chủ đề, nội dung giáo dục giá trị sống và kĩ năng sống; giáo
    dục các vấn đề liên quan đến việc giữ gìn sức khoẻ, bảo vệ cuộc sống an toàn
    của bản thân, gia đình và cộng đồng, bảo vệ môi trường, phòng tránh thiên tai,…
    được thể hiện ở mức độ đơn giản và phù hợp.
    Tích cực hoá hoạt động của học sinh: Chương trình môn Tự nhiên và Xã
    hội tăng cường sự tham gia tích cực của học sinh vào quá trình học tập, nhất là
    những hoạt động trải nghiệm; tổ chức hoạt động tìm hiểu, điều tra, khám phá;
    hướng dẫn học sinh học tập cá nhân, nhóm để tạo ra các sản phẩm học tập;
    khuyến khích học sinh vận dụng được những điều đã học vào đời sống.
    II.2.1.3. Mục tiêu của chương trình môn học
    Chương trình môn Tự nhiên và Xã hội góp phần hình thành, phát triển ở học
    sinh tình yêu con người, thiên nhiên; đức tính chăm chỉ; ý thức bảo vệ sức khoẻ của
    bản thân, gia đình, cộng đồng; ý thức tiết kiệm, giữ gìn, bảo vệ tài sản; tinh thần
    trách nhiệm với môi trường sống; các năng lực chung và năng lực khoa học.
    II.2.1.4. Yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực
    a. Yêu cầu cần đạt về phẩm chất
    Cùng với các môn học khác và hoạt động giáo dục ở cấp Tiểu học, môn Tự
    nhiên và Xã hội góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu đã quy
    định trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể: yêu nước, nhân ái, chăm
    chỉ, trung thực, trách nhiệm.
    9
    b. Yêu cầu cần đạt về năng lực chung
    Môn Tự nhiên và Xã hội có nhiệm vụ hình thành và phát triển các năng lực
    chung cho học sinh là năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác,
    năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
    Những biểu hiện của năng lực chung trong môn Tự nhiên và Xã hội được
    trình bày trong bảng sau:

    Thành phần
    năng lực
    Biểu hiện
    Năng lực tự chủ
    và tự học
    – Tự phục vụ, chăm sóc sức khoẻ bản thân; nhận biết và bày
    tỏ được tình cảm, cảm xúc của bản thân với gia đình, bạn bè,
    những người xung quanh.
    – Biết đọc và thực hiện những yêu cầu, nhiệm vụ trong sách
    giáo khoa; thực hiện quan sát và ghi lại một số sự vật, hiện
    tượng trong môi trường tự nhiên và xã hội quan sát được.
    Năng lực giao
    tiếp và hợp tác
    – Biết giao tiếp ứng xử phù hợp với vị trí, vai trò và các mối
    quan hệ của bản thân với các thành viên trong gia đình,
    trường học, cộng đồng và trong môi trường tự nhiên.
    – Biết chia sẻ thông tin, giúp đỡ bạn trong học tập; biết cách
    làm việc theo nhóm, hoàn thành nhiệm vụ của mình và giúp
    đỡ các thành viên khác cùng hoàn thành nhiệm vụ của nhóm.
    Năng lực giải
    quyết vấn đề và
    sáng tạo
    – Nhận biết được một số vấn đề thường gặp trong môi trường
    tự nhiên và xã hội, đặt được câu hỏi và tìm thông tin để giải
    thích, ứng xử phù hợp.
    – Đưa ra ý kiến, bình luận theo các cách khác nhau về một số
    sự vật, hiện tượng diễn ra trong môi trường tự nhiên và xã
    hội xung quanh.

    10
    c. Yêu cầu cần đạt về năng lực đặc thù
    Môn Tự nhiên và Xã hội hình thành và phát triển ở học sinh năng lực khoa
    học, bao gồm các thành phần: nhận thức khoa học, tìm hiểu môi trường tự nhiên
    và xã hội xung quanh, vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học. Những biểu hiện của
    năng lực khoa học trong môn Tự nhiên và Xã hội được trình bày trong bảng sau:

    Thành phần
    năng lực
    Biểu hiện
    Nhận thức khoa
    học
    – Nêu, nhận biết được ở mức độ đơn giản một số sự vật,
    hiện tượng, mối quan hệ thường gặp trong môi trường tự
    nhiên và xã hội xung quanh như về sức khoẻ, an toàn trong
    cuộc sống, mối quan hệ của học sinh với gia đình, nhà
    trường, cộng đồng và thế giới tự nhiên,…
    – Mô tả được một số sự vật, hiện tượng tự nhiên và xã hội
    xung quanh bằng các hình thức biểu đạt như nói, viết, vẽ,…
    – Trình bày được một số đặc điểm, vai trò của một số sự vật,
    hiện tượng thường gặp trong môi trường tự nhiên và xã hội
    xung quanh.
    – So sánh, lựa chọn, phân loại được các sự vật, hiện tượng
    đơn giản trong tự nhiên và xã hội theo một số tiêu chí.
    Tìm hiểu môi
    trường tự nhiên
    và xã hội xung
    quanh
    – Đặt được các câu hỏi đơn giản về một số sự vật, hiện
    tượng, mối quan hệ trong tự nhiên và xã hội xung quanh.
    – Quan sát, thực hành đơn giản để tìm hiểu được về sự vật,
    hiện tượng, mối quan hệ trong tự nhiên và xã hội xung
    quanh.
    – Nhận xét được về những đặc điểm bên ngoài, so sánh sự
    giống, khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng xung quanh và
    sự thay đổi của chúng theo thời gian một cách đơn giản
    thông qua quan sát, thực hành.

    11

    Vận dụng kiến
    thức, kĩ năng đã
    học
    – Giải thích được ở mức độ đơn giản một số sự vật, hiện
    tượng, mối quan hệ trong tự nhiên và xã hội xung quanh.
    – Phân tích được tình huống liên quan đến vấn đề an toàn, sức
    khoẻ của bản thân, người khác và môi trường sống xung quanh.
    – Giải quyết được vấn đề, đưa ra được cách ứng xử phù hợp
    trong các tình huống có liên quan; trao đổi, chia sẻ với
    những người xung quanh để cùng thực hiện; nhận xét được
    cách ứng xử trong mỗi tình huống.

    II.2.2. Các biện pháp giúp phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh
    thông qua dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
    Biện pháp 1: Giáo viên cần nghiên cứu và hiểu rõ về chương trình tiếp cận
    định hướng năng lực
    Chương trình tiếp cận định hướng năng lực hay còn gọi là định hướng kết
    quả đầu ra là cách tiếp cận rõ kết quả – những khả năng hoặc kỹ năng mà học
    sinh mong muốn đạt được ở mỗi giai đoạn học tập, trả lời cho câu hỏi: học sinh
    làm được những gì từ điều đã biết?
    Tiếp cận năng lực chủ trương giúp người học không chỉ biết học thuộc, ghi
    nhớ mà còn phải biết làm thông qua các hoạt động cụ thể, sử dụng những tri
    thức học được để giải quyết các tình huống do cuộc sống đặt ra. Nói cách khác
    phải gắn với thực tiễn đời sống. Nếu như tiếp cận nội dung chủ yếu yêu cầu
    người học trả lời câu hỏi: Biết cái gì, thì tiếp cận theo năng lực luôn đặt ra câu
    hỏi: Biết làm gì từ những điều đã biết. Nói cách khác, nói đến năng lực là phải
    nói đến khả năng thực hiện, là phải biết làm, chứ không chỉ biết và hiểu.
    Chính vì vậy, xây dựng, thiết kế chương trình giáo dục theo hướng tiếp
    cận năng lực người học là một xu thế tất yếu. Nó giúp người học có khả năng
    giải quyết các vấn đề thực tiễn ngay khi rời ghế nhà trường. Nói cách khác, đào
    tạo phù hợp với nhu cầu xã hội. Ngoài ra, với tiếp cận năng lực, người học sẽ
    được trang bị kỹ năng để có thể học cả đời. Đây là điều bắt buộc trong bối cảnh
    khối lượng tri thức tăng lên nhanh chóng như hiện nay.
    12
    Từ những lí do trên, tôi nhận thấy để có thể hình thành và phát triển năng
    lực, phẩm chất cho học sinh thông qua dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
    thì giáo viên cần nghiên cứu và hiểu rõ về chương trình tiếp cận theo định
    hướng năng lực.
    Biện pháp 2: Nghiên cứu và xây dựng bài học trên mô hình dạy học 5E
    Để thực hiện mục tiêu hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực cho học
    sinh, mỗi bài học có thể áp dụng linh hoạt mô hình dạy học 5E dựa trên thuyết
    kiến tạo nhận thức của quá trình học, theo đó học sinh xây dựng các kiến thức
    mới dựa trên các kiến thức hoặc trải nghiệm đã biết trước đó. Tôi xây dựng các
    hoạt động dạy và học trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1 theo mô hình dạy học
    5E gồm các bước: Gắn kết, khám phá, diễn giải, phát triển chi tiết, đánh giá.
    – Gắn kết là bước đầu tiên của quá trình dạy khám phá khoa học. Ở bước
    này, tôi thường tổ chức một số hoạt động sau:
    + Cho học sinh xem clip về chủ đề có liên quan bài học để học sinh có thể
    liên hệ với hiểu biết trước đây của mình hoặc hình dung ra nội dung sắp học.
    + Tổ chức trò chơi có liên quan đến vấn đề bài học để học sinh có thể liên
    hệ với kinh nghiệm đã biết.
    + Kể một câu chuyện có thông tin liên quan đến chủ đề sắp học.
    + Đưa ra một thử thách hoặc một câu đố cho học sinh liên hệ tìm giải pháp
    bằng kinh nghiệm đã có của mình để giải quyết vấn đề có liên quan đến bài học.
    – Khám phá là bước thứ hai, tôi tổ chức cho học sinh tìm tòi những kiến
    thức hoặc những trải nghiệm mang tính cơ bản, nền tảng, dựa vào đó các kiến
    thức mới của học sinh có thể được hình thành. Ở bước này, tôi thường tổ chức
    một số hoạt động sau:
    + Tổ chức một hoạt động, trò chơi, thí nghiệm…cho học sinh quan sát hoặc
    trải nghiệm để khám phá ra kiến thức chuẩn bị được kết luận trong bài.
    + Cho học sinh khám phá thông tin qua đoạn phim ngắn, poster, tranh ảnh
    chứa thông tin, kiến thức sẽ được kết luận trong bài.
    13
    – Diễn giải là bước thứ ba. Tôi tạo điều kiện cho học sinh được trình bày,
    miêu tả, phân tích các trải nghiệm hoặc những điều quan sát vừa được thực hiện
    ở bước khám phá. Ở bước này, tôi thường tổ chức một số hoạt động sau:
    + Tổ chức cho học sinh trình bày, miêu tả, phân tích các trải nghiệm hoặc
    những điều quan sát được ở bước khám phá, từ đó đưa ra kết luận theo gợi ý của
    giáo viên.
    + Giới thiệu các thuật ngữ mới, công thức mới để học sinh hiểu rõ hơn về
    các trải nghiệm hoặc quan sát được ở bước khám phá.
    + Đưa ra các kết luận chính trong bài.
    – Phát triển chi tiết là bước thứ tư, tôi giúp học sinh thực hành và vận dụng
    các kiến thức đã học được ở bước diễn giải, làm sâu sắc hơn các hiểu biết, khéo
    léo hơn các kĩ năng và có thể áp dụng được trong những tình huống, hoàn cảnh
    đa dạng khác nhau. Ở bước này, tôi thường tổ chức các hoạt động sau:
    + Tổ chức một hoạt động thực hành vận dụng kiến thức vừa chốt.
    + Cho học sinh làm việc với phiếu học tập để kiểm tra sâu hơn về kiến
    thức.
    + Có thể đưa ra những tình huống ứng dụng thực tế để kiểm tra khả năng
    vận dụng kiến thức của học sinh.
    – Đánh giá là bước thứ năm nhưng cũng được xem là bước đi đồng thời
    cùng với các bước trên. Ở đây, tôi sử dụng các kĩ thuật đánh giá đa dạng để nhận
    biết quá trình nhận thức và khả năng của từng học sinh, từ đó đưa ra các phương
    hướng điều chỉnh và hỗ trợ học sinh phù hợp, giúp học sinh đạt được các mục
    tiêu học tập như đã đề ra. “Đánh giá” giúp học sinh tổng kết lại những kiến thức
    đã học và gợi mở những vấn đề cần được khám phá trong bài học tiếp theo. Ở
    bước này, tôi thường tổ chức các hoạt động sau:
    + Câu hỏi ôn tập bài.
    + Làm việc với phiếu học tập tại lớp.
    + Yêu cầu vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào cuộc sống.
    Ví dụ: Vận dụng mô hình 5E trong dạy học chủ đề 2: Trường học – Bài 4:
    Giữ gìn lớp học sạch, đẹp (tiết 3)
    14
    Bước 1: Gắn kết
    – Học sinh xem video bài hát: “Giữ gìn vệ sinh trường lớp” sáng tác Phan
    Thiên Hương
    – Qua bài hát ta thấy các bạn nhỏ đang làm gì?
    Bước 2: Khám phá
    – Yêu cầu học sinh quan sát các hình ở trang 32 sách giáo khoa thảo luận cặp
    đôi và trả lời câu hỏi: Nêu những điểm khác nhau của lớp học trong hai hình?
    Bước 3: Diễn giải
    – Đại diện một số cặp trình bày kết quả thảo luận ở bước Khám phá trước lớp.
    – Em có nhận xét gì về lớp học ở hình 1 trang 32 sách giáo khoa?
    – Em có nhận xét gì về lớp học ở hình 2 trang 32 sách giáo khoa?
    – Em thích lớp học của em như lớp học ở hình nào? Vì sao?
    – Học sinh thực hành sắp xếp lại bàn học cho gọn gàng, sạch đẹp trong 2 phút
    – Sau khi sắp xếp lại bàn học em cảm thấy thế nào?
    – Theo em, thế nào là lớp học sạch đẹp?
    Bước 4: Phát triển chi tiết
    -Yêu cầu học sinh quan sát các hình trang 33 sách giáo khoa và làm việc
    theo cặp đôi và trả lời câu hỏi: Các bạn trong tranh đang làm gì?
    – Đại diện một số cặp trình bày kết quả làm việc trước lớp.
    – Việc làm của các bạn trong tranh giúp ích gì cho lớp học của các bạn?
    – Em có nhận xét gì về trang phục của các bạn khi tham gia vệ sinh lớp học?
    – Vì sao khi lao động chúng ta phải sử dụng đồ dùng bảo hộ và đồ dùng lao
    động phù hợp ?
    – Vì sao hàng ngày chúng ta phải giữ lớp học sạch, đẹp?
    – Hãy chia sẻ với bạn những việc em đã làm để giữ lớp học sạch đẹp?
    – Theo em, chúng ta có cần giữ sạch, đẹp môi trường xung quanh lớp học
    không?
    – Vì sao chúng ta cần phải giữ môi trường xung quanh lớp học sạch, đẹp?
    – Giáo viên chia nhóm và phân công nhóm trưởng.
    + Tổ 1: lau chậu cây, dọn vệ sinh phía hành lang lớp học.
    15
    + Tổ 2: Lau bàn ghế, cửa sổ, cửa ra vào
    + Tổ 3: Nhặt giấy rác trong lớp, kê lại bàn ghế
    + Tổ 4: Sắp xếp lại góc học tập
    – Yêu cầu các nhóm trưởng lấy đồ dùng lao động của nhóm theo sự phân
    công của giáo viên và phát cho các thành viên của nhóm mình. Nhóm trưởng
    phân chia công việc cho các thành viên dọn dẹp lớp học trong 5 phút. Hết thời
    gian học sinh bỏ đồ bảo hộ và dụng cụ lao động vào nơi quy định sau đó thực
    hiện sát khuẩn tay với dung dịch rửa tay khô.
    – Các em vừa làm gì để lớp học sạch đẹp?
    – Sau khi vệ sinh lớp học, em thấy như thế nào?
    – Khi tham gia lao động các bạn em có tích cực làm việc không?
    Bước 5: Đánh giá
    – Học sinh tự đánh giá việc giữ gìn lớp học và sử dụng đồ dùng học tập
    trong phiếu tự đánh giá.
    – Học sinh tự đánh giá nội dung trong phiếu bằng cách:
    + Tô màu vào  nếu em thường xuyên thực hiện việc đó.
    + Tô màu vào  nếu thỉnh thoảng thực hiện việc đó.
    + Tô màu vào  nếu em hiếm khi hoặc chưa thực hiện việc đó.
    PHIẾU TỰ ĐÁNH GIÁ

    Việc làmEm tự đánh giá
    Sắp xếp đồ dùng cá nhân (cặp, sách, vở, hộp bút, ..) gọn gàng.  
    Cất, đặt, để đồ dùng học tập đúng chỗ sau khi sử dụng.  
    Sử dụng đồ dùng học tập cẩn thận và đúng cách.  
    Lau chùi bàn, ghế, bảng đen, …  
    Quét dọn lớp học (quét lớp, nhặt rác, phủi bụi tranh ảnh và
    sản phẩm treo tường, …)
      
    Trang trí góc học tập, lớp học, …  

    – Nhắc nhở học sinh cần giữ vệ sinh lớp học thường xuyên, hàng ngày.
    16
    Biện pháp 3: Thực hiện tốt một số nguyên tắc trong quá tình giảng dạy môn
    Tự nhiên và Xã hội lớp 1
    a. Nguyên tắc 1: Liên hệ thực tế
    Để giúp học sinh nhận biết được ở mức độ đơn giản một số sự vật, hiện
    tượng, mối quan hệ thường gặp trong môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh
    như về sức khoẻ và sự an toàn trong cuộc sống, mối quan hệ của học sinh với
    gia đình, nhà trường, cộng đồng và thế giới tự nhiên,… từ đó hình thành và phát
    triển năng lực tự chủ và tự học, năng lực khoa học, tôi tổ chức cho học sinh
    khám phá kiến thức bắt đầu từ thực tiễn và kết thúc bằng thực tiễn. Hay nói cách
    khác là “học phải đi đôi với hành”. Những gì được dạy trên lớp phải gắn với
    cuộc sống bên ngoài, đặc biệt là với các em học sinh lớp 1, lứa tuổi đầu cấp tiểu
    học. Các em chỉ có thể khám phá được kiến thức thông qua ví dụ thực tế. Thông
    qua việc liên hệ thực tế, tôi giúp học sinh hình thành và phát triển các phẩm chất
    chủ yếu được quy định trong chương trình giáo dục phổ thông 2018.
    Vì vậy để có thể liên hệ thực tế trong quá trình giảng dạy môn Tự nhiên và
    Xã hội cho học sinh lớp 1, tôi đã nêu ra các ví dụ liên quan đến công việc hàng
    ngày của học sinh. Những ví dụ này sẽ khiến học sinh cảm thấy tò mò và nhận
    ra rằng những kiến thức mà các em tiếp thu được trong giờ học có thể ứng dụng
    vào thực tế công việc, gần gũi và hữu ích với học sinh. Qua đó, tôi có thể rút ra
    kết luận về những kiến thức mới cần khám phá trong tiết học. Đến cuối bài tôi
    lại một lần nữa thiết lập mối quan hệ giữa bài học và thực tế.
    Ví dụ 1: Khi dạy Chủ đề 5: Con người và sức khoẻ – Bài 18: Thực hành:
    Rửa tay, chải răng, rửa mặt, tôi yêu cầu học sinh thực hiện các bước sau:
    + Hãy nói về lợi ích của việc rửa tay?
    + Hằng ngày, em rửa tay khi nào?
    + Em hãy nêu 6 bước rửa tay đúng cách của Bộ y tế?
    + Cả lớp thực hành vận động theo đúng quy trình 6 bước rửa tay của Bộ y
    tế trên video
    + Cả lớp thực hành rửa tay theo quy trình 6 bước của Bộ y tế
    + Chúng ta cần rửa tay đúng cách khi nào?
    17
    Ví dụ 2: Khi dạy Chủ đề 6: Trái đất và bầu trời – Bài 21: Thời tiết, tôi yêu
    cầu học sinh lựa chọn trang phục phù hợp với thời tiết: trời nắng, trời mưa, trời
    nóng, trời lạnh:
    18
    b. Nguyên tắc 2: Tạo không khí tích cực trong giờ học
    Học và chơi không phải là hai hoạt động đối nghịch nhau. Khi học sinh tìm
    thấy niềm vui trong học tập, việc học cũng trở nên dễ dàng hơn. Trách nhiệm
    của thầy cô là giúp học sinh nhận ra được “học là niềm vui”. Thông qua đó học
    sinh sẽ tự giác, tích cực chủ động trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập
    và góp phần hình thành và phát triển phẩm chất chăm chỉ ở học sinh.
    Trong quá trình dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, tôi tổ chức cho các
    em tham gia các hoạt động múa, hát, vẽ, chơi trò chơi, thực hành vận động có
    liên quan đến nội dung bài học để khơi gợi niềm đam mê, yêu thích tìm hiểu nội
    dung bài.
    Ví dụ 1: Khi dạy chủ đề 5: Con người và sức khoẻ – bài 18: Thực hành rửa
    tay, chải răng, rửa mặt, tôi tổ chức cho học sinh nêu 6 bước rửa tay đúng quy
    trình của Bộ y tế sau đó tổ chức cho học sinh thực hiện vận động theo video quy
    trình 6 bước rửa tay của Bộ y tế. Đồng thời tôi cũng tổ chức cho các em thực
    hành rửa tay ngay trong tiết học cùng với dung dịch rửa tay.
    19
    Ví dụ 2: Khi dạy chủ đề 5: Con người và sức khoẻ – bài 17: Vận động và
    nghỉ ngơi, tôi tổ chức cho các em thực hiện một số động tác vận động cơ thể ở
    giữa tiết học.
    20
    Ví dụ 3: Khi dạy chủ đề 5: Con người và sức khoẻ – bài 19: Giữ an
    toàn cho cơ thể, tôi tổ chức cho các em vẽ và tô màu quần, áo lót cho vùng
    riêng tư của hình cơ thể con trai và con gái sau khi các em đã được hình
    thành kiến thức về vùng riêng tư của con trai và con gái để giúp các em
    nhớ được nội dung đã học tốt hơn, tạo bầu không khí thoải mái trong quá
    trình học tập.
    c. Nguyên tắc 3: Trực quan hoá, trình bày nội dung bằng hình ảnh
    Con người không chỉ học bằng cách nghe mà còn học được nhiều thông
    qua quan sát. Vì thế tất cả những nội dung quan trọng cần phải được trực quan
    hoá đặc biệt là đối với học sinh lớp 1, việc làm này sẽ giúp các em dễ tiếp thu
    kiến thức và nhớ lâu hơn, giúp các em nhận thấy việc học không hề áp lực, khô
    khan. Trực quan hoá, trình bày nội dung bằng hình ảnh được thực hiện thông
    qua các phương tiện giảng dạy như: bảng viết, trình chiếu bằng máy, dụng cụ
    trực quan, tranh, ảnh, hình vẽ… Việc làm này cũng góp phần nâng cao hiệu quả
    trong quá trình nhận thức khoa học, tìm hiểu môi trường tự nhiên và xã hội xung
    quanh, vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học.
    21
    Ví dụ 1: Khi dạy chủ đề 3: Cộng đồng địa phương – Bài 9: An toàn trên
    đường, tôi cho học sinh quan sát các hình ảnh học sinh sử dụng các phương tiện
    giao thông (ô tô, xe máy, thuyền đò, đi bộ) để đi học. Khi học sinh chỉ ra những
    hành động không đảm bảo an toàn giao thông khi đi trên các phương tiện giao
    thông, tôi đánh dấu ngay những hình ảnh đó để học sinh khắc sâu được những
    hành vi không đảm bảo an toàn.
    22
    Ví dụ 2: Khi dạy chủ đề Gia đình – bài Ôn tập và đánh giá: chủ đề Gia
    đình, tôi đã sử dụng sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học nhưng vì là giai đoạn
    đầu năm học, học sinh mới bắt đầu học chữ nên tôi đã trực quan hoá nội dung
    bằng hình ảnh. Khi học sinh hoàn thành sơ đồ tư duy các em có thể ghi lại nội
    dung bằng cách vẽ lại bằng hình vẽ với những từ mình chưa biết viết.
    23
    d. Nguyên tắc 4: Khuyến khích ngƣời học tự làm
    “Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm”. Không
    một học sinh nào có thể học trong khoảng thời gian dài bằng cách ngồi một chỗ
    tiếp thu kiến thức với tinh thần thụ động. Khuyến khích học sinh tích cực có
    nghĩa là khuyến khích học sinh vận động suốt buổi học và chủ động tiếp thu
    kiến thức. Khi được khuyến khích học sinh sẽ trở nên chủ động học hỏi với tinh
    thần hào hứng trong suốt tiết học.
    Tôi thường tổ chức học chủ động bằng nhiều cách khác nhau như: Tạo cơ
    hội cho học sinh đóng góp ý kiến, làm việc nhóm, tham gia hỏi đáp; làm bài tập;
    thực hành; tạo điều kiện cho học sinh truyền đạt lại nôi dung vừa học cho học
    sinh khác.
    Ví dụ: Khi dạy chủ đề 2: Trường học – Bài 4: Lớp học của em, tôi luôn tạo
    cơ hội cho học sinh được hoạt động, kích thích sự tích cực chủ động của học
    sinh ở bất kì thời điểm nào.
    – Hoạt động Khởi động: Tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: Bắn tên để
    nêu tên một hoạt động ở lớp học của em
    24
    – Hoạt động Khám phá kiến thức mới: Tôi tổ chức cho học sinh thực hiện
    các hoạt động sau:
    + Quan sát hình hai lớp học (hình 1: Lớp học gọn gàng, sạch đẹp; hình 2:
    Lớp học bừa bộn, chưa sạch sẽ) rồi thảo luận cặp đôi và trả lời câu hỏi: Nêu
    những điểm khác nhau của lớp học trong hai hình?
    + Em thích lớp học của em như lớp học ở hình nào? Vì sao?
    + Theo em, chúng ta cần làm gì để lớp học ở hình 2 gọn gàng, sạch đẹp?
    + Tổ chức cho học sinh thực hành sắp xếp lại bàn học cho gọn gàng sạch
    đẹp hơn trong 2 phút
    – Hoạt động Luyện tập và vận dụng: Tôi tổ chức cho học sinh thực hiện các
    hoạt động sau:
    + Quan sát hình ảnh một số bạn học sinh đang quét dọn làm vệ sinh lớp học
    và làm việc theo cặp đôi và trả lời câu hỏi: Các bạn trong tranh đang làm gì?
    + Việc làm của các bạn trong tranh giúp ích gì cho lớp học của các bạn?
    + Em có nhận xét gì về trang phục của các bạn khi tham gia vệ sinh lớp học?
    + Vì sao khi lao động chúng ta phải sử dụng đồ dùng bảo hộ và đồ dùng lao
    động phù hợp ?
    + Vì sao hàng ngày chúng ta phải giữ lớp học sạch, đẹp?
    + Yêu cầu học sinh chia sẻ với bạn những việc em đã làm để giữ lớp học
    sạch, đẹp?
    + Theo em, chúng ta có cần giữ sạch, đẹp môi trường xung quanh lớp học
    không?
    + Vì sao chúng ta cần phải giữ môi trường xung quanh lớp học sạch, đẹp?
    + Giáo viên chia nhóm và cho học sinh thực hành làm vệ sinh lớp học
    trong 5 phút: Tổ 1: lau chậu cây, dọn vệ sinh phía hành lang lớp học; tổ 2: Lau
    bàn ghế, cửa sổ, cửa ra vào; tổ 3: Nhặt giấy rác trong lớp, kê lại bàn ghế; tổ 4:
    Sắp xếp lại góc học tập.
    + Các em vừa làm gì để lớp học sạch đẹp?
    + Sau khi vệ sinh lớp học, em thấy như thế nào?
    + Khi tham gia lao động các bạn nhóm em có tích cực làm việc không?
    25
    e. Nguyên tắc 5: Đặt câu hỏi hiệu quả để lôi cuốn học sinh
    Trong dạy học phát triển năng lực, học sinh và giáo viên cùng chủ động
    tham gia vào bài giảng. Trong đó, giáo viên đóng vai trò chủ yếu là người tổ
    chức, cố vấn, hỗ trợ học sinh lĩnh hội kiến thức. Vì vậy, tôi thường phải sử dụng
    các câu hỏi để gợi mở, dẫn dắt học sinh tìm hiểu, khám phá thông tin, kiến thức,
    kĩ năng mới… để đánh giá mức độ tiếp nhận kiến thức và kết quả học tập của
    học sinh. Học sinh của tôi cũng thường xuyên phải sử dụng các câu hỏi để tìm
    kiếm sự tư vấn, gợi ý từ giáo viên và các bạn khác trong lớp… Do đó chúng ta
    có thể thấy được vai trò quan trọng của kỹ thuật đặt câu hỏi trong hình thành và
    phát triển năng lực của học sinh.
    Việc sử dụng các câu hỏi một cách có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn
    nhau giữa học sinh với giáo viên và học sinh với học sinh. Kỹ thuật đặt câu hỏi
    càng tốt thì mức độ tham gia vào bài học của học sinh càng cao, học sinh sẽ học
    tập tích cực hơn và được kích tư duy nhiều hơn trong quá trình học.
    Trong quá trình xây dựng câu hỏi trong dạy học, tôi nhận thấy khi đặt câu
    hỏi hiệu quả trong dạy học sẽ góp phần:
    – Tạo điều kiện và kích thích học sinh tham gia vào quá trình dạy học.
    – Dẫn dắt, gợi mở và kích thích học sinh tư duy, tìm tòi, khám phá tri thức mới.
    – Kiểm tra, đánh giá mức độ làm chủ kiến thức và kỹ năng cũng như sự
    quan tâm, hứng thú của học sinh đối với nội dung học tập.
    – Định hướng, thu thập, mở rộng thông tin, kiến thức cho học sinh.
    Trong quá trình dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, tôi thường sử dụng
    một số dạng câu hỏi giúp hình thành và phát triển năng lực như:
    – Câu hỏi đóng: Dạng câu hỏi đơn giản chỉ có thể trả lời Đúng – Sai, Có –
    Không hoặc có thể trả lời bằng một từ hoặc một câu ngắn. Dạng câu hỏi này tôi
    thường dùng trong phần tổng kết bài học, sau phần giới thiệu bài hoặc sau khi
    giao nhiệm vụ cho học sinh.
    Ví dụ: Khi củng cố kiến thức cho học sinh ở chủ đề 5: Con người và sức
    khoẻ – Bài 14: Cơ thể em, tôi sử dụng dạng câu hỏi Đúng – Sai để khắc sâu và
    mở rộng kiến thức cho học sinh. Học sinh sẽ giơ thẻ để biểu thị câu trả lời của
    26
    mình, đúng giơ thẻ chữ Đ, sai giơ thẻ chữ S. Sau khi học sinh giơ thẻ tôi sẽ yêu
    cầu một vài học sinh nêu lí do vì sao em lựa chọn đáp án đó.
    Câu 1: Cơ thể của con trai và con gái đều có tất cả các bộ phận tương tự nhau.
    Câu 2: Chỉ có con trai mới để tóc ngắn.
    Câu 3: Chỉ có con gái mới mặc áo dài.
    Câu 4: Cả con gái và con trai đều có thể chơi đá bóng.
    – Câu hỏi mở: Dạng câu hỏi có nhiều hướng trả lời hay nhiều đáp án chấp
    nhận được thường được dùng để đánh giá và thảo luận. Dạng câu hỏi này giúp
    học sinh phát hiện, giải quyết vấn đề, đồng thời kích thích trí tưởng tượng để tìm
    tòi khám phá và tiếp nhận tri thức mới. Câu hỏi mở kích thích học sinh đào sâu
    suy nghĩ và đưa ra nhiều quan điểm. Không chỉ có một câu trả lời đúng hoặc sai.
    Câu hỏi mở giúp học sinh có cái nhìn tổng quát hoặc đưa ra những boăn khoăn,
    thắc mắc về tình huống được đưa ra. Khi đưa ra các câu hỏi mở, tôi sẽ thu được
    nhiều ý tưởng hoặc câu trả lời khác nhau từ học sinh. Điều này cũng giúp cho tôi
    định hướng được nội dung và phương pháp phù hợp đối với học sinh.
    Ví dụ: Chủ đề 5: Con người và sức khoẻ – Bài 16: Ăn uống hàng ngày, tôi yêu
    cầu học sinh nói về những thức ăn, đồ uống cần ăn để cơ thể khoẻ mạnh và an toàn.
    – Câu hỏi giả định: Dạng câu hỏi kích thích học sinh suy nghĩ vượt khỏi
    khuôn khổ của các tình huống được giáo viên đưa ra. Tôi thường sử dụng dạng
    câu hỏi này để phát triển năng lực giải quyết vấn đề sáng tạo ở học sinh.
    Ví dụ: Chủ đề 5: Con người và sức khoẻ – Bài 14: Cơ thể em, tôi yêu cầu
    học sinh thảo luận nhóm và trả lời câu hỏi: Nếu có người có chân hoặc tay
    không cử động được thì họ sẽ gặp khó khăn gì? Em có thể làm gì để giúp đỡ họ?
    – Câu hỏi hành động: Dạng câu hỏi giúp học sinh lập kế hoạch và triển khai
    các ý tưởng vào tình huống thực tế.
    Ví dụ: Chủ đề 3: Cộng đồng địa phương – Bài 6: Nơi em sống, tôi yêu cầu
    học sinh lập kế hoạch để kể những việc em có thể làm để đóng góp cho cộng
    đồng nơi em sống.
    – Câu hỏi làm rõ: Dạng câu hỏi khai thác, thu thập thêm thông tin. Câu hỏi
    này là loại được tôi sử dụng nhiều nhất trong sự tương tác trực tiếp giữa giáo viên
    27
    và học sinh. Nó có tác dụng dẫn dắt để hướng tới sự hiểu biết, thúc đẩy trạng thái
    lắng nghe tích cực, khuyến khích, tạo hứng thú và thử thách cho học sinh.
    Ví dụ: Chủ đề 5: Con người và sức khoẻ – Bài 16: Ăn uống hàng ngày, tôi
    yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi: Vì sao tất cả chúng ta đều cần ăn uống hàng ngày?
    – Câu hỏi mở rộng: Là câu hỏi khuyến khích sự trình bày, phân tích, giải
    thích, mở rộng, đào sâu suy nghĩ. Tôi sử dụng dạng câu hỏi này giúp học sinh
    nhận thức toàn diện hơn, sâu sắc hơn về một vấn đề mà giáo viên đưa ra.
    Ví dụ: Chủ đề 5: Con người và sức khoẻ – Bài 14: Cơ thể em, tôi yêu cầu
    học sinh trả lời câu hỏi: Hãy cho biết tay và chân còn làm được những việc gì
    khác ngoài những việc trên? Sau khi học sinh đã quan sát tranh và nêu những
    việc mà bộ phận tay và chân có thể làm được trong tranh.
    – Câu hỏi so sánh: Dạng câu hỏi yêu cầu so sánh, đánh giá, bình luận.
    Trong quá trình dạy học tôi sử dụng dạng câu hỏi này để khuyến khích tư duy
    phê phán, bình luận, đánh giá, thúc đẩy kỹ năng tư duy bậc cao, định hướng suy
    nghĩ vào các khái niệm và các vấn đề trọng tâm của bài học.
    Ví dụ: Chủ đề 2: Trường học – Bài 4: Lớp học của em, tôi yêu cầu học sinh
    quan sát hình ảnh hai lớp học và nêu những điểm khác nhau của hai lớp học đó.
    28
    – Câu hỏi tóm tắt: Dạng câu hỏi yêu cầu trình bày vắn tắt những nội dung
    đã học. Loại câu hỏi này khi tôi sử dụng trong quá trình dạy học đã góp phần
    giúp cho học sinh của tôi nhìn nhận nội dung học tập một cách khái quát và
    logic từ đó khắc sâu kiến thức đã học. Đồng thời giúp học sinh hình thành và
    phát triển khả năng tư duy, khái quát hóa, trừu tượng hóa.
    Ví dụ: Chủ đề 4: Thực vật và động vật – Bài 11: Các con vật quanh em, khi
    củng cố bài học tôi yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi sau để tóm tắt lại những
    nội dung đã tìm hiểu trong bài học.
    + Hãy kể tên các bộ phận bên ngoài của con vật?
    + Bộ phận nào của con vật dùng để di chuyển?
    + Chúng ta cần làm gì để chăm sóc và bảo vệ con vật?
    + Chúng ta cần làm gì để đảm bảo an toàn khi tiếp xúc?
    – Bên cạnh đó, trong quá trình dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1 để
    đặt câu hỏi hiệu quả, tôi nhận thấy cần phải nắm rõ quy trình để đưa ra câu hỏi
    phù hợp đúng thời điểm.
    Bƣớc 1. Chuẩn bị câu hỏi: xác định nội dung và ý chính của nội dung học
    tập, hỏi về những gì, hỏi để làm gì?
    Bƣớc 2. Đối chiếu và thích ứng các câu hỏi với đặc điểm và trình độ khác
    nhau của học sinh. Câu hỏi cần đáp ứng các yếu tố sau:
    + Tính minh bạch, rõ ràng: Câu hỏi đơn giản, ngắn gọn không đánh đố.
    + Tính thách thức. Câu hỏi không nên quá dễ mà đòi hỏi học sinh phải suy
    nghĩ và nỗ lực nhất định khi đưa ra câu trả lời. Đồng thời phải làm cho học sinh
    cảm thấy hãnh diện và thỏa mãn khi trả lời đúng.
    + Tính định hướng: Câu hỏi phải hướng đến số đông. Câu hỏi phải gây
    được phản ứng ở nhiều học sinh; ai cũng cảm thấy mình có trách nhiệm trả lời,
    phải suy nghĩ; do đó tạo được không khí học tập sôi nổi.
    + Tính vừa sức: đây là nguyên tắc quan trọng và là yêu cầu chung cho mọi
    phương pháp dạy học. Câu hỏi phải nằm trong giới hạn của khả năng tri giác
    thông tin, ngôn ngữ, ý trong câu; kinh nghiệm cảm nhận các tình huống giao
    tiếp, năng lực tư duy, tưởng tượng; khả năng diễn đạt của học sinh.
    29
    + Tính linh hoạt. Câu hỏi cần tổng hợp về kiểu loại, độ khó, tính đối tượng.
    Chọn thời điểm thích hợp để hỏi (tình huống cụ thể) để dạy học đạt hiệu quả cao.
    Bƣớc 3. Lựa chọn ngôn từ diễn đạt phù hợp khi đặt câu hỏi. Câu hỏi đưa ra
    càng ngắn gọn, ít từ, ít mệnh đề, ít cấu trúc, ít thuật ngữ mới lạ càng tốt.
    Bƣớc 4. Khích lệ học sinh tư duy để trả lời câu hỏi. Khi đặt câu hỏi, không
    nên quá dễ, không có tác dụng khích lệ học sinh. Giáo viên cũng không nên thừa
    nhận câu trả lời của học sinh một cách dễ dãi. Đối với những câu hỏi khó, giáo
    viên cần chuẩn bị kỹ để chủ động giải quyết các tình huống bất ngờ.
    Bƣớc 5. Duy trì tiến trình hỏi – đáp bằng câu hỏi bổ trợ, mở rộng.
    Bƣớc 6. Đánh giá và thu thập thông tin phản hồi về quá trình học tập. Các
    câu hỏi cần tập trung vào nội dung chính yếu, cơ bản của bài học; nhất là những
    yếu tố khái niệm và ứng dụng.
    – Kỹ thuật đặt câu hỏi là một yêu tố quan trọng, là linh hồn và là trung tâm
    của dạy học phát triển năng lực. Điều quan trọng là phải lựa chọn được loại câu
    hỏi thích hợp để kích thích tư duy của học sinh và thu hút họ vào các cuộc thảo
    luận hiệu quả.
    Khi đặt câu hỏi cho học sinh trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy cần chú
    ý các yếu tố sau:
    + Câu hỏi phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bài học.
    + Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu.
    + Đúng lúc, đúng chỗ.
    + Phù hợp với trình độ học sinh, thời gian thực tế.
    + Kích thích trí tưởng tượng, tư duy của học.
    + Sắp xếp theo trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
    + Không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xính, đánh đố.
    + Không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc.
    g. Nguyên tắc 6: Khuyến khích, động viên kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ
    Trong quá trình dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, tôi luôn động viên
    kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ. Điều này giúp các em hào hứng, kích thích tinh
    thần tự giác, tích cực trong học tập. Đồng thời còn giúp cho các em có thêm
    30
    động lực khi giải quyết các vấn đề mang tính sáng tạo. Để kích thích học sinh tự
    giác, chủ động trong quá trình học tập, tôi đã sử dụng những bông hoa khen để
    khen thưởng, ghi nhận sự nỗ lực của học sinh trong quá trình học tập.
    Biện pháp 4: Tổ chức hoạt động quan sát, đọc tài liệu một cách hiệu quả
    Học sinh tiểu học “dễ nhớ – dễ quên” mức tập trung chú ý của các em còn
    thấp. Vì vậy, bản thân tôi luôn phải tạo hứng thú học tập cho các em, làm cho
    giờ học có những ấn tượng riêng biệt và phải thường xuyên được thực hành,
    luyện tập. Tâm lý trẻ lớp 1 chưa được ổn định, giàu tình cảm, dễ xúc động, bản
    tính tò mò, thích khám phá. Các em thích tiếp xúc với các sự vật – hiện tượng
    gây cảm xúc mạnh. Tuy nhiên, các em cũng chóng chán. Do vậy, trong dạy học
    tôi thường sử dụng nhiều đồ dùng dạy học, tổ chức cho học sinh đi tham quan
    thực tế, tăng cường thực hành, để củng cố, khắc sâu kiến thức. Như vậy, sử dụng
    phương pháp quan sát trong dạy học Tự nhiên và Xã hội lớp 1 tức là chúng ta đã
    tạo nền móng khởi đầu cho sự phát triển nhận thức tư duy cho các em.
    Phương pháp quan sát là hình thức dạy học giáo viên hướng dẫn học sinh
    cách sử dụng các giác quan để tri giác trực tiếp, có mục đích các đối tượng trong
    tự nhiên và xã hội nhằm tiếp nhận thông tin mà không có sự can thiệp vào quá
    trình diễn biến của các sự vật, hiện tượng đó.
    Phương pháp quan sát được tôi thường xuyên sử dụng trong dạy học môn
    Tự nhiên và Xã hội lớp 1. Thông qua quá trình quan sát, tôi giúp học sinh nhận
    biết hình dạng, đặc điểm bên ngoài của cơ thể người, cây cối, một số con vật
    và các hiện tượng đang diễn ra trong môi trường tự nhiên trong cuộc sống hàng
    ngày. Bên cạnh đó còn tạo được hứng thú học tập cho học sinh, phù hợp quá
    trình nhận thức của học sinh tiểu học. Dạy học sử dụng phương pháp quan sát
    giúp tôi tiết kiệm lời giảng, khi giảng có kèm theo ví dụ minh họa làm cho bài
    giảng sinh động, cụ thể, hấp dẫn. Khi sử dụng phương pháp quan sát tôi
    thường kết hợp với các phương pháp khác để làm cho bài giảng không nhàm
    chán như phương pháp phân tích, giảng giải; phương pháp thảo luận nhóm;
    phương pháp đàm thoạ

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh

    SKKN Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Mô hình giáo dục của thế giới trong thế kỷ XXI dựa trên bốn trụ cột, đó là:
    học để biết, học để làm, học để cùng chung sống và học để tự khẳng định
    mình. Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang hướng đến một nền giáo dục
    tiến bộ, hiện đại, ngang tầm với các nước trong khu vực và thế giới, trong đó
    “học để làm” – “làm đƣợc gì từ những điều đã học” là yếu tố trọng tâm mà
    giáo dục hướng tới.
    Để theo kịp xu hướng phát triển mạnh mẽ của thế giới, giáo dục nước nhà
    cần phải đào tạo ra những con người lao động có kiến thức, có kĩ năng nhưng
    quan trọng hơn là phải có khả năng vận dụng những hiểu biết, kĩ năng đó trong
    điều kiện cụ thể nhằm mang lại những kết quả thiết thực. Hay nói cách khác
    chương trình giáo dục hiện đại cần chú trọng phát triển năng lực người học.
    Năng lực của mỗi con người được hình thành và phát triển thông qua hoạt
    động vận dụng kiến thức, kĩ năng, thái độ… để giải quyết thành công các tình
    huống phát sinh trong thực tiễn. Dạy học phát triển năng lực, người giáo viên
    cần quan tâm đến các yếu tố:
    Dạy học thông qua việc tổ chức các hoạt động
    Tạo cơ hội để học sinh tự học
    Tạo cơ hội để học sinh trao đổi, tương tác, tranh luận…
    Tạo cơ hội để học sinh đánh giá: tự đánh giá, đánh giá đồng đẳng, đánh giá
    của các lực lượng
    Tạo cơ hội để học sinh thực hành, vận dụng, giải quyết những vấn đề liên
    quan đến thực tiễn
    Chính vì thế, dạy học gắn liền với thực tiễn, tạo cơ hội cho trẻ áp dụng các
    kiến thức đã học vào đời sống trở thành xu hướng tất yếu. Bên cạnh đó, để phát
    triển năng lực người học, giáo viên cần đặc biệt quan tâm đến việc tạo ra mong
    muốn, khơi gợi hứng thú học tập.
    Chương trình môn Toán ở tiểu học có tính ứng dụng thực tiễn rất cao. Tuy
    nhiên, trong mắt trẻ Toán vẫn là một môn học khá xa rời thực tiễn nên
    Giáo viên: Nguyễn Thị Thêu Trường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định
    2
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh
    khi giải toán các em thường mắc những lỗi sai hết sức ngô nghê như: tuổi mẹ ít hơn
    tuổi con hay số học sinh nữ trong một lớp lại nhiều hơn số học sinh cả lớp…, khả
    năng ước lượng về độ dài, chiều cao, cân nặng hay khả năng ước lượng về không
    gian, thời gian của các em còn không ít hạn chế. Chẳng hạn, có em ước lượng chiều
    dài của sân trường khoảng 60 cm; chiều cao của một cái bàn khoảng 3m hay cân
    nặng của con voi trưởng thành khoảng 80 kg, thời gian ấp trứng của gà 9 tháng…
    Nhiều học sinh có thể rất giỏi trong việc thuộc lòng các công thức, giải quyết thành
    thạo các bài tập sách giáo khoa nhưng lại khá lúng túng với những bài toán thực
    tiễn như: tính độ dài đoạn dây cần quấn vòng quanh một bồn cây, tính số tiền sau
    khi được giảm giá hay chọn lựa sản phẩm nào để có lợi nhất…
    Có thể có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên. Nhưng chắc chắn có
    một nguyên nhân quan trọng là do trẻ chưa được tạo nhiều cơ hội để thực hành,
    ứng dụng và trải nghiệm Toán vào thực tiễn. Chính vì thế năng lực Toán học,
    năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn của trẻ còn hạn chế.
    Khả năng giải quyết thành công các tình huống phát sinh trong thực tiễn chính
    là thước đo năng lực của mỗi con người. Việc đưa Toán học gắn liền với cuộc sống
    là con đường phát triển năng lực học sinh. Không những thế, Toán học khi được áp
    dụng vào thực tiễn sẽ góp phần kiểm chứng và củng cố kiến thức mà các em đã học
    được một cách vững chắc. Giáo dục nước ta đang chuyển mình từ dạy học tiếp cận
    nội dung sang dạy học chú trọng phát triển phẩm chất và năng lực người học. Đứng
    trước định hướng của ngành, trước những khó khăn mà học sinh đang gặp phải và
    với tâm niệm làm sao để người học Tự học, Tự tin, Gắn kết thực tiễn, Định
    hƣớng tƣơng lai tôi đã tìm ra lối đi và phần nào thực hiện
    thành công sáng kiến “Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm
    phát triển năng lực học sinh”
    Giáo viên: Nguyễn Thị Thêu Trường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định
    3
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh
    PHẦN THỨ HAI: MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DẠY VÀ HỌC TOÁN LỚP 5
    1. Ƣu điểm
    Chương trình và sách giáo khoa hiện hành đã có những đổi mới như không
    quá nhấn mạnh lý thuyết và tính hàn lâm, tinh giản nội dung, tăng hoạt động thực
    hành – vận dụng, tăng chất liệu thực tiễn như thêm những kiến thức về thống kê,
    xác suất để giúp cho học sinh có điều kiện vận dụng toán học vào cuộc sống và
    giảm những kiến thức khó về số học. Sau các chương mục, hoặc sau một khái niệm
    Toán học thường có những ví dụ, bài tập được ứng dụng vào thực tiễn…
    Chúng ta đang tích cực thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
    tăng cường các hoạt động trải nghiệm ứng dụng. Đây là một hướng đi đúng đắn
    giúp cho học sinh bước đầu có khái niệm vận dụng những kiến thức được học
    trong nhà trường vào thực tế cuộc sống.
    Trong những năm gần đây, giáo viên đã quan tâm nhiều hơn tới các nội
    dung dạy học có yếu tố thực tiễn, nhằm mục đích giải quyết các vấn đề xung
    quanh cuộc sống của các em học sinh.
    Đây chính là những tín hiệu rất tích cực, mang lại hiệu quả rõ nét trong quá
    trình dạy và học tại các nhà trường.
    2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế
    2.1. Chương trình và sách giáo khoa hiện hành tuy có chú ý tới vấn đề vận
    dụng Toán học thực tiễn, song:
    Sách viết cho học sinh trên cả nước nên một số tình huống chưa thực sự sát và
    gần gũi với học sinh ở từng địa phương, nên chưa thu hút được các em và đặc biệt
    là khiến cho tính ứng dụng trở nên chưa thực sự rõ nét và gần gũi trong mắt các em.
    Thêm vào đó, vì cuộc sống luôn biến đổi không ngừng nên một số ngữ liệu
    cách đây gần 20 năm trong sách không còn phù hợp.
    Ví dụ như Bài tập 1, trang 77, Toán 5:
    Một lớp học có 32 học sinh, trong đó số học sinh 10 tuổi chiếm 75%,
    còn lại là học sinh 11 tuổi. Tính số học sinh 11 tuổi của lớp học đó
    Giáo viên: Nguyễn Thị Thêu Trường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định
    4
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh
    2.2. Nhiều học sinh vẫn làm Toán một cách máy móc xa rời thực tiễn, các
    em chưa hiểu được ý nghĩa của việc học toán, và chưa nhìn thấy tính ứng dụng,
    tính thực tiễn.
    2.3. Giáo viên chưa thực sự quan tâm đúng mực đến việc giúp học sinh thấy
    được mối liên hệ giữa toán học và cuộc sống.
    Một số giáo viên ngại thay đổi, bổ sung mà vẫn sử dụng các bài tập trong
    sách giáo khoa một cách máy móc, không còn phù hợp với cuộc sống cũng như
    phù hợp với học sinh của mình.
    Một số giáo viên thường ngại thay đổi phương pháp cũng như hình thức tổ
    chức dạy học vì thấy phiền phức và mất thời gian do khối lượng kiến thức ở mỗi
    tiết học là khá nhiều… Về cơ bản, khi nhắc đến tăng cường mối liên hệ với thực
    tiễn trong môn học, giáo viên chúng ta thường đề cập đến các bài tập, các tình
    huống giả định cho học sinh thực hành. Vấn đề nằm ở chỗ tất cả các nội dung đó
    vẫn đang chỉ dừng lại ở trong sách vở. Các em vẫn chưa có nhiều cơ hội trải
    nghiệm thực tế vì thế vẫn chưa thể phát triển được năng lực.
    2.4. Về phía phụ huynh: Tất cả các bậc phụ huynh đều mong muốn con lớn
    khôn từng ngày, có kĩ năng trong cuộc sống nhưng vẫn còn một số phụ huynh
    lại chưa hiểu đúng về toán ứng dụng.
    Một số phụ huynh vẫn còn coi trọng điểm số, coi trọng các kỳ thi nên chỉ
    tập trung thời gian cho con học tập kiến thức. Trẻ không có thời gian để vui
    chơi, để ứng dụng và khám phá cuộc sống.
    Một số phụ huynh đã quan tâm tới việc phát triển năng lực cho trẻ, thường
    xuyên giao nhiệm vụ, tạo điều kiện cho con để trẻ được trải nghiệm và phát
    triển. Tuy nhiên, các nhiệm vụ đó nhiều khi chưa thực sự tương thích với kiến
    thức mà trẻ đang được học trong nhà trường vì vậy tính hiệu quả sẽ còn hạn chế.
    Có thể thấy, vấn đề ở đây phụ thuộc rất lớn ở người thầy, ở sự đầu tư thay
    đổi nội dung, phương pháp cũng như hình thức tổ chức của người thầy và sự
    phối kết hợp với các bậc phụ huynh học sinh để học sinh có cơ hội hoạt động,
    trải nghiệm và hình thành năng lực, đưa Toán học đến với thực tiễn.
    Giáo viên: Nguyễn Thị Thêu Trường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định
    5
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh
    II. SÁNG KIẾN NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIẢNG DẠY MÔN
    TOÁN CHO HỌC SINH LỚP 5
    1. Tên sáng kiến: Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống
    nhằm phát triển năng lực học sinh
    2. Điều kiện, hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
    Từ việc nhận thức được:
    + Xu hướng giáo dục mà ngành đang hướng tới
    + Tầm quan trọng của việc cho trẻ được ứng dụng Toán vào thực tiễn
    + Thực trạng công tác dạy học Toán 5
    + Những sai lầm trẻ đang gặp phải
    + Những khó khăn phụ huynh học sinh đang vướng mắc
    Và với mong muốn làm thế nào để trẻ có thể áp dụng hiệu quả những kiến
    thức Toán học để giải quyết thật tốt những tình huống trong chính cuộc sống của
    các em. Tôi đã áp dụng sáng kiến:
    ” Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống
    nhằm phát triển năng lực học sinh”
    Giải pháp thứ nhất Giải pháp thứ hai Giải pháp thứ ba Giải pháp thứ tƣ
    Giúp học sinh
    hiểu vai trò to lớn
    của Toán học đối
    với cuộc sống
    Điều chỉnh và bổ
    sung một số ngữ
    liệu sách giáo khoa
    theo hướng phù
    hợp với thực tế
    Lựa chọn các
    phương pháp,
    hình thức tổ chức
    dạy học tạo điều
    kiện cho học sinh
    được áp dụng kiến
    thức toán học
    trong thực tiễn.
    Phát huy vai trò
    của CMHS trong
    việc đồng hành
    cùng con mang bài
    học vào cuộc sống.
    Giáo viên: Nguyễn Thị Thêu Trường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định
    6
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh
    3. Nội dung sáng kiến
    3.1. Giải pháp thứ nhất: Giúp học sinh hiểu vai trò to lớn của toán học
    đối với cuộc sống.
    Như chúng ta đã biết, để dạy học phát triển năng lực thành công thì bước
    khởi đầu người giáo viên phải biết tạo cảm hứng cho trẻ.
    Theo Lý thuyết vòng tròn vàng truyền cảm hứng của Simon sinek?
    Thông thường đứng trước một vấn đề được giao, chúng ta luôn đặt ra câu hỏi:
    Mình phải làm gì? (What?) Mình phải làm như thế nào (How?) mà ít ai đặt ra câu hỏi:
    Tại sao mình phải làm (Why?). Khi bạn hiểu rõ tại sao mình phải làm, tức là hiểu được
    ý nghĩa, vai trò của việc làm đó chắc chắn bạn sẽ làm trong một tâm thế chủ
    động, sẽ có động lực, bạn sẽ biết phải làm những gì và làm như thế nào.
    Học sinh lứa tuổi tiểu học vốn giàu trí tưởng tượng, nên các thể loại văn học
    dân gian như thần thoại, cổ tích, tục ngữ, ca dao luôn luôn hấp dẫn các em. Bên
    cạnh đó các câu chuyện kể dù là rất đơn giản nhưng lại tác động mạnh mẽ đến các
    em. Chính vì vậy trong quá trình dạy học môn toán, tôi đã sưu tầm các câu chuyện
    kể về toán, đặc biệt là các câu chuyện kể lí thú gắn với nội dung kiến thức bài học
    hay các câu chuyện thực tế, những tình huống vì thiếu hiểu biết về toán học mà
    đem đến những rắc rối những khó khăn cho mình… để sử dụng trong
    các tiết dạy.
    Tôi đã áp dụng các câu chuyện Toán học phù hợp với nội dung của từng
    dạng bài vào những thời điểm thích hợp như hoạt động khởi động tạo hứng thú,
    Giáo viên: Nguyễn Thị Thêu Trường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định
    7
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh
    hoạt động luyện tập thực hành hay hoạt động ứng dụng. Bên cạnh đó các câu
    chuyện Toán học còn được sử dụng trong những hoạt động ngoại khóa, các hoạt
    động sinh hoạt câu lạc bộ…
    Sau đây là hệ thống các câu chuyện tôi đã sử dụng ở các bài dạy trong
    chương trình Toán lớp 5:

    Các câu chuyệnSử dụng trongThời điểm
    bài học
    1. Truyện Đố tuổi trên bia mộ Đi-ô-Hoạt động
    phăng là nhà toán học Hy Lạp, đượcÔn tập về phân số
    ứng dụng
    mệnh danh là “cha đẻ ngành đại số”
    2. Câu chuyện về Bài toán của Pi-ta-goÔn tập về phân sốHoạt động
    ứng dụng
    3. Truyện kể về công việc chung củaÔn tập và bổ sung vềHoạt động
    Newtongiải toánứng dụng
    4. Truyện kể về kích thước sân bóng đáĐề-ca-métvuông.Hoạt động
    chuẩn quốc tế, sân bóng chuyền chuẩn
    Héc-tô-mét vuông.ứng dụng
    quốc tế.
    5. Trạng lường Lương Thế Vinh cân voiBảngđơnvịđoHoạt động luyện
    khối lượngtập thực hành
    6. Vũ Hữu xây thành không thừa mộtBảngđơnvịđoHoạt động luyện
    viên gạchdiện tíchtập thực hành
    7. Thần đồng tính nhanh Gauss. “Tôi đãBuổingoạikhóa,Hoạt động thi tài
    học tính trước khi học nói”câu lạc bộToán học
    8. Câu chuyện về Siêu tính nhẩmBuổingoạikhóa,Hoạt động thi tài
    Anbe Anhxtanhcâu lạc bộToán học
    Giáo viên: Nguyễn Thị ThêuTrường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định

    8
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh

    Các câu chuyệnSử dụng trongThời điểm
    bài học
    9. Câu chuyện Một vài kỷ lục của động vậtViết các số đo độ dàiHoạt động luyện
    dưới dạng số thập phântập thực hành
    10. Kích thước não bộ và sự thông minhTrừ hai số thập phânHoạt động luyện
    của con ngườitập thực hành
    11. Thần đồng chia sữaHoạt động
    Nhà toán học lỗi lạc người PhápToán thể tích
    ứng dụng
    Xi-mông Poát-xông
    12. Chú quạ thông minhThể tích của một hìnhHoạt động luyện
    tập thực hành
    13. Truyện bài toán lí thú về “Hai bà lão”Hoạt động
    Nhà toán học vĩ đại nhất của nước NgaToán chuyển động
    ứng dụng
    thế kỉ 20 Vladimir Arnold
    14. Nguồn gốc năm nhuậnBảng đơn vị đoHoạt động
    thời gianứng dụng
    15. Truyện Tìm hiểu về loài chim cắtThời gianHoạt động
    khởi động
    16. Truyện Tốc độ của ánh sáng và âm thanhVận tốcHoạt động
    ứng dụng

    Các câu chuyện Toán học không chỉ mang lại cho các em sự thích thú,
    đam mê mà nó còn là một cách để hướng các em vận dụng kiến thức Toán học
    vào cuộc sống. Các câu chuyện dù đơn giản nhưng lại có sự tác động rất lớn đến
    các em, có khi mạnh hơn các lời giảng. Thông qua các câu chuyện các em học
    hỏi được trí thông minh của các nhân vật trong truyện, biết liên hệ vận dụng để
    giải toán hoặc giải thích nhiều hiện tượng trong đời sống. Từ đó giúp các em
    hiểu được vai trò to lớn của Toán học đối với cuộc sống.
    Giáo viên: Nguyễn Thị Thêu Trường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định
    9
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh
    Ví dụ 1:
    Cho học sinh tính thể tích của một viên đá (bài tập 3 trang 121) tôi đã kể
    cho học sinh nghe câu chuyện “Chú quạ thông minh”
    Sau câu chuyện, các em đã liên tưởng, áp dụng và tính luôn được thể tích
    của viên đá theo mực nước dâng lên mà không cần chờ đến sự hướng dẫn của
    giáo viên. Không những thế, sau câu chuyện đó, các em học sinh của tôi còn tự
    tìm ra nhiều cách để tính thể tích của vật có hình dạng bất kì (như là cho các vật
    đó vào một cái bình đã chia sẵn vạch thể tích, chỉ cần nhìn vạch mực nước dâng
    lên là biết thể tích vật đó).
    Giáo viên: Nguyễn Thị Thêu Trường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định
    10
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh
    Như vậy, thông qua những câu chuyện giáo viên kể, các em được phát triển
    tư duy sáng tạo, khả năng ứng biến linh hoạt trước những vấn đề khác nhau
    trong cuộc sống chứ không đơn thuần là những công thức trên sách vở.
    Không chỉ có thế, các em học sinh của tôi còn biết tự tìm kiếm những câu
    chuyện liên quan đến Toán học chia sẻ với bạn bè thầy cô, như: những câu
    chuyện, những giai thoại về các nhà Toán học nổi tiếng như Eculid, Gauss,
    Terence Tao… hay những phát minh Toán học lý thú về đường thẳng song song,
    hệ đếm, số thập phân… Từ đó kĩ năng đọc sách và văn hóa đọc của các em cũng
    được nuôi dưỡng và phát triển.
    3.2. Giải pháp thứ hai: Điều chỉnh và bổ sung một số ngữ liệu sách giáo
    khoa theo hƣớng phù hợp với thực tế.
    Sách giáo khoa là tài liệu tin cậy để giáo viên và học sinh sử dụng vì vậy các
    ngữ liệu trong sách giáo khoa có vai trò vô cùng quan trọng. Đó chính là các tình
    huống giả định ban đầu để học sinh áp dụng kiến thức vào giải quyết. Muốn học
    sinh nhìn nhận Toán học gắn với thực tiễn, tránh tình trạng các em giải toán một
    cách máy móc thì bản thân các đề toán, các tình huống Toán học phải tạo hứng thú
    cho các em, phải phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên như chúng ta đã biết vì cuộc
    sống luôn biến đổi không ngừng nên một số ngữ liệu sách giáo khoa được viết cách
    đây gần 20 năm sẽ không còn sát thực với cuộc sống hiện nay. Vì vậy tôi đã chủ
    động điều chỉnh và bổ sung ngữ liệu sách giáo khoa theo ba hướng cơ bản:
    Hướng thứ nhất: Cập nhật và điều chỉnh số liệu cho phù hợp với thực tế.
    Hướng thứ hai: Xây dựng các bài tập điền khuyết để học sinh tự liên hệ,
    tìm tòi số liệu hoàn thành các đề toán rồi thực hiện giải toán.
    Hướng thứ ba: Xây dựng những tình huống mới, những vấn đề cấp thiết
    trong cuộc sống mà học sinh quan tâm.
    Cụ thể:
    Hướng thứ nhất: Cập nhật và điều chỉnh số liệu cho phù hợp với thực tế.
    Tôi đã chủ động rà soát sách giáo khoa, cập nhật và thay đổi lại ngữ liệu phù
    hợp với thực tế.
    Giáo viên: Nguyễn Thị Thêu Trường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định
    11
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh
    Sau đây là hệ thống các bài tập mà tôi đã thay thế trong chương trình Toán
    5 hiện hành:

    Tên bàiNgữ liệu ban đầuNgữ liệu điều chỉnh
    Ôn tập vàBài 1: Mua 5m vải hết 80 000Bài 1: Mua 5m vải hết 350 000
    bổ sung về
    đồng. Hỏi mua 7m vải loại đó hếtđồng. Hỏi mua 7m vải loại đó hết
    giải toán
    bao nhiêu tiền?bao nhiêu tiền?
    (Trang 18)
    Bài 1: Mua 12 quyển vở hếtBài 1: Mua 12 quyển vở hết
    24 000 đồng. Hỏi mua 30 quyển96 000 đồng. Hỏi mua 30 quyển
    vở như thế hết bao nhiêu tiền?vở như thế hết bao nhiêu tiền?
    Bài 2: Bạn Hà mua 1 tá bút chì hếtBài 2: Bạn Hà mua 1 tá bút chì
    30 000 đồng. Hỏi bạn Mai muốnhết 60 000 đồng. Hỏi bạn Mai
    mua 8 cái bút chì như thế thì phảimuốn mua 8 cái bút chì như
    Luyện tập.trả người bán hàng bao nhiêu tiền?thế thì phải trả người bán hàng
    (Trang 19)bao nhiêu tiền?
    Bài 4: Một người làm trong 2 ngàyBài 4: Một người làm trong 2
    được trả 72 000 đồng tiền công.ngày được trả 300 000 đồng
    Hỏi với mức trả công như thế, nếutiền công. Hỏi với mức trả
    làm trong 5 ngày thì người đócông như thế, nếu làm trong 5
    được trả bao nhiêu tiền?ngày thì người đó được trả bao
    nhiêu tiền?
    Bài 1: Một người mua 25Bài 1: Một người mua 25
    Luyện tậpquyển vở, giá 3 000 đồng mộtquyển vở, giá 16 000 đồng một
    quyển thì vừa hết số tiền đangquyển thì vừa hết số tiền đang
    (Trang 21)
    có. Cũng với số tiền đó nếucó. Cũng với số tiền đó nếu
    mua vở với giá 1 500 đồng mộtmua vở với giá 8 000 đồng một

    Giáo viên: Nguyễn Thị Thêu Trường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định
    12
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh

    quyển thì người đó mua đượcquyển thì người đó mua được
    bao nhiêu quyển vở?bao nhiêu quyển vở?
    Bài 2: Một gia đình gồm 3 ngườiBài 2: Một gia đình gồm 3
    (bố, mẹ và một con). Bình quânngười (bố, mẹ và một con).
    thu nhập hằng tháng là 800 000Bình quân thu nhập hằng
    đồng mỗi người. Nếu gia đình đótháng là 2 500 000 đồng mỗi
    có thêm một con nữa mà tổng thungười. Nếu gia đình đó có
    nhập của gia đình không đổi thìthêm một con nữa mà tổng thu
    bình quân thu nhập hàng thángnhập của gia đình không đổi
    của mỗi người bị giảm đi baothì bình quân thu nhập hàng
    nhiêu tiền?tháng của mỗi người bị giảm đi
    bao nhiêu tiền?
    Bài 4: Trước đây mua 5m vải phảiBài 4: Trước đây mua 5m vải
    trả 60 000 đồng. Hiện nay giá bánphải trả 300 000 đồng. Hiện nay
    Luyện tậpmỗi mét vải đã giảm 2 000 đồng.giá bán mỗi mét vải đã giảm
    chungHỏi với 60 000 đồng, hiện nay có20 000 đồng. Hỏi với 300 000
    (Trang 32)thể mua được bao nhiêu mét vảiđồng, hiện nay có thể mua được
    như thế?bao nhiêu mét vải như thế?
    Bài 3: Mua 5kg đường phải trảBài 3: Mua 5kg đường phải trả
    Luyện tập
    38 500 đồng. Hỏi mua 3,5kg đường175 000 đồng. Hỏi mua 3,5kg
    chungcùng loại phải trả ít hơn baođường cùng loại phải trả ít hơn
    (Trang 61)nhiêu tiền?bao nhiêu tiền?
    Luyện tậpBài 4: Mua 4m vải phải trả 60 000Bài 4: Mua 4m vải phải trả
    đồng. Hỏi 6,8m vải cùng loại phải240 000 đồng. Hỏi 6,8m vải
    chung
    trả nhiều hơn bao nhiêu tiền?cùng loại phải trả nhiều hơn
    (Trang 62)
    bao nhiêu tiền?

    Giáo viên: Nguyễn Thị Thêu Trường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định
    13
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh
    Bài 1: Một lớp có 32 học sinh,
    trong đó số học sinh 10 tuổi
    Giải toán
    chiếm 75%, còn lại là học sinh
    về tỉ số
    11 tuổi. Tính số học sinh 11 tuổi
    phần trăm
    của lớp học đó?
    (Trang 76)
    Bài 1: Một lớp có 32 học sinh,
    trong đó số học sinh tham gia
    câu lạc bộ Toán chiếm 75%,
    còn lại là số học sinh tham gia
    câu lạc bộ Tiếng Việt. Tính số
    học sinh đăng ký câu lạc bộ
    Tiếng Việt?
    Hướng thứ hai: Xây dựng các bài tập điền khuyết để học sinh tự liên hệ, tìm
    tòi số liệu rồi thực hiện giải toán
    Các bài tập dưới dạng để trống thông tin, nhiệm vụ của các em là đi tìm
    hiểu thông tin thực tế hoàn thành đề toán, sau đó giải bài toán dựa trên thông tin
    mình vừa tìm được. Thông qua việc liên hệ tìm kiếm thông tin để giải toán, học
    sinh sẽ được huy động được sự hiểu biết kiến thức thực tế, được tăng cường các
    hoạt động ứng dụng và quan trọng là các em rất hứng thú khi được áp dụng
    Toán học vào giải quyết các tình huống gắn với cuộc sống của mình.
    Với dạng bài này tôi thường thiết kế các phiếu bài tập và phiếu giao việc
    cho các em khi về nhà.

    Bài dạyBài bổ sung
    Bài 1: Một gia đình gồm …. người là ……… Bình quân thu
    Luyện tậpnhập hằng tháng là ……… đồng mỗi người. Nếu gia đình đó
    (Trang 21)có thêm một con nữa mà tổng thu nhập của gia đình không
    đổi thì bình quân thu nhập hàng tháng của mỗi người bị giảm
    đi bao nhiêu tiền?
    Bảng đơn vị đo1. Chiều dài bàn học của em: ………………
    độ dài2. Phòng khách nhà em có chiều dài: ………………
    chiều rộng ………………
    3. Khoảng cách từ nhà em đến trường: ………………
    Giáo viên: Nguyễn Thị ThêuTrường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định

    14
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh

    Bài dạyBài bổ sung
    1. Chọn một căn phòng bất kỳ trong nhà em
    + Chiều dài căn phòng là: ……………
    + Chiều rộng căn phòng là: ………………
    Bảng đơn vị đoDiện tích căn phòng: ………………
    diện tíchHãy chọn gạch hình vuông để lát nền cho căn phòng đó
    + Cạnh viên gạch: ………………

    Số viên gạch cần thiết để lát nền căn phòng đó là:
    ………………
    Bảng chi tiêu trong tuần của nhà em
    Nội dung chi tiêuSố tiềnPhần trăm so với
    (đồng)tổng số tiền chi tiêu
    Giải toán về tỉ sốMua gạo
    phần trămMua thịt
    Mua rau
    Mua hoa quả
    Chi tiêu khác
    Tổng số tiền chi tiêu trong tuần: ………………
    Bảng chi tiêu trong tháng của nhà em
    Biểu đồ hìnhNội dung chi tiêuSố tiềnPhần trăm so với
    (đồng)tổng số tiền chi tiêu
    quạt tròn
    Học hành
    Ăn uống
    Đi lại
    Giáo viên: Nguyễn Thị ThêuTrường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định

    15
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh

    Bài dạyBài bổ sung

    Điện nước
    Mua sắm
    Tổng số tiền chi tiêu trong tháng: ………………
    Hãy biểu diễn trên biểu đồ hình quạt tròn thể hiện việc
    chi
    tiêu trong tháng của gia đình em

    Hãy chọn một căn phòng bất kỳ trong nhà em:
    1.Phòng ………………….nhà em có chiều dài ……………
    chiều rộng……………chiều cao ………………
    2.Các cửa có chiều dài …………………………………….
    Diện tích xungchiều rộng……………………………………
    quanh, diện tích3.Tổng diện tích các cửa ………………
    toàn phần hình4.Diện tích xung quanh của căn phòng là: ………………
    hộp chữ nhật5.Diện tích toàn phần của căn phòng là: ………………
    6.Dùng sơn để sơn toàn bộ không gian phía trong căn phòng.
    Diện tích cần sơn là: ………………
    7.Biết giá sơn là …………./ 2.
    Số tiền mua sơn để sơn cho cả căn phòng đó là: …………..
    1.Bồn nước nhà em có thể tích là ………………
    Thể tích2.Trung bình ……ngày sẽ dùng hết 1 bồn nước
    3. Cả tháng gia đình em dùng hết lượng nước là ……………

    Giáo viên: Nguyễn Thị Thêu Trường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định
    16
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh

    Bài dạyBài bổ sung

    4. Giá 1 3 nước nơi em đang ở: 10m3 đầu có giá: ………………
    10m3 tiếp theo có giá: ………………
    10m3 tiếp theo có giá: ……………….
    Cả tháng gia đình em đã phải trả số tiền cho việc dùng nước
    là: ………………
    1. Quãng đường từ nhà em đến trường: ………………
    2. Thời gian em đi từ nhà đến trường ………………
    Vận tốc
    => Vận tốc đi của em: ………………
    Thời gian
    Tương tự như vậy, em hãy khảo sát thời gian đi từ nhà đến
    trường của các thành viên trong tổ.
    Hướng thứ ba: Xây dựng những tình huống mới, những vấn đề cấp thiết
    trong cuộc sống mà học sinh quan tâm
    Bên cạnh việc thay đổi các ngữ liệu trong sách giáo khoa cho cập nhật và
    phù hợp, tôi còn chủ động xây dựng và bổ sung thêm các tình huống Toán học.
    Kinh nghiệm cho thấy, không có động lực nào thúc đẩy mạnh mẽ động cơ học
    tập của học sinh bằng những tình huống thực tế gần gũi và thiết thực xung quanh
    các em. Vì vậy khi xây dựng ngữ liệu bổ sung tôi tập trung lựa chọn:
    + Những tình huống mang tính cập nhật, phù hợp với nhu cầu cấp thiết của
    cuộc sống.
    + Những tình huống thực tế ngay tại nơi các em sống, đó có thể là: trường
    học, khu dân cư, công viên, siêu thị, khu vui chơi… điều mà sách giáo khoa
    không thể đến được với từng học sinh.
    * Những vấn đề tôi lựa chọn để xây dựng tình huống thực tiễn:
    – Tính toán, so sánh số tiền khi đi chợ, siêu thị…; số tiền phải thanh toán cho
    các hóa đơn điện, nước, điện thoại… hoặc tính số tiền thu được (lãi suất, thua lỗ),
    số sản phẩm làm ra của công ty, doanh nghiệp, nhà hàng… trong quá trình sản
    Giáo viên: Nguyễn Thị Thêu Trường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định
    17
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh
    xuất kinh doanh
    – Tính chu vi của các vật có dạng hình phẳng (tính chu vi mảnh vườn,
    khoảng sân, cánh cửa, tấm bìa, bánh xe… đi kèm với nó là tính số cây trồng
    trong vườn, số cọc để rào quanh vườn, quãng đường đi được của bánh xe…)
    – Tính diện tích của các vật hình phẳng (tính diện tích bồn hoa, vườn
    trường, nền lớp, sân… kèm theo nội dung mở rộng hoặc thu hẹp diện tích, tính
    năng suất, sản lượng, tính số gạch lát nền…)
    – Tính diện tích xung quanh và diện tích toàn phần của hình hộp chữ nhật,
    hình lập phương… ở các nội dung lát gạch, sơn tường, quét vôi, dán giấy liên
    quan tới các hình khối đã học.
    – Tính thể tích của các vật có dạng hình khối (tính thể tích khối gỗ, bể bơi,
    bể cá…).
    – Tính thời gian, vận tốc, quãng đường của các đối tượng tham gia vào
    chuyển động trong thực tế cuộc sống…
    Ví dụ: Khi dạy các bài toán về “Tỉ số phần trăm” tôi xây dựng các hệ
    thống bài bổ sung.
    Bài 1: Cuối tuần gia đình em định đi ăn pizza, cửa hàng Pizza Big One có
    giá niêm yết là 100 000 đồng/chiếc nhưng hôm nay có chương trình khuyến mại
    mua 2 tặng 1. Cửa hàng Pizza Company có giá niêm yết 130 000 đồng/chiếc và
    chương trình khuyến mại giảm giá 20%. Gia đình em sẽ chọn cửa hàng nào? Vì
    sao? (Biết kích cỡ và chất lượng của bánh là như nhau)
    Bài 2: Một nhà hàng bán phở bò ở Nam Định trung bình mỗi ngày bán 100
    bát phở. Mỗi bát phở bán với giá 30 000 đồng. Biết tiền lãi bằng 20% tiền vốn.
    Hỏi trong tháng 12 vừa qua nhà hàng đã thu về bao nhiêu tiền lãi? (Biết nhà
    hàng không nghỉ bán ngày nào)
    Bài 3: Gia đình em đi siêu thị BigC mua hàng. Chào đón dịp Tết dương
    lịch, siêu thị có chương trình giảm giá tất cả các mặt hàng lên đến 50%.
    Gia đình em mua các đồ sau:
    Giáo viên: Nguyễn Thị Thêu Trường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định
    18
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh

    STTTên sảnSốGiá niêm yếtPhần trămSố tiền
    phẩmlƣợngđƣợc giảmphải trả
    1Dầu ăn 2 lít1 can120 000 đồng30%
    2Hạt nêm2 gói60 000 đồng /gói30%
    3Nước giặt1 can220 000 đồng30%
    4Thịt bò0,5 kg210 000 đồng/kg40%
    5Trứng gà20 quả30 000 đồng/chục40%
    6Thịt lợn2 kg170 000 đồng /kg40%
    7Cam3 kg45 000 đồng /kg50%

    Tổng
    Hỏi gia đình em phải thanh toán bao nhiêu tiền?
    Bài 4: Cửa hàng thời trang Tokyo life có chương trình
    giảm giá như trong hình
    Mẹ muốn mua một chiếc áo có giá là 500 000 đồng.
    Trong túi mẹ hiện có 375 000 đồng, liệu mẹ có đủ tiền mua
    chiếc áo đó không? Vì sao?
    Bài 5: Gia đình em cần thay chiếc ti-vi. Mẹ em đã đi tham khảo giá ở trung
    tâm Điện máy xanh. Chiếc ti-vi mẹ muốn mua có ghi giá 8 600 000 đồng và cửa
    hàng đang giảm giá 20%. Mẹ sang cửa hàng điện máy Media Mart cũng với
    chiếc ti-vi đó nhưng đang có chương trình giảm giá 30% và giá niêm yết là 9
    200 000 đồng. Mẹ nên chọn mua ở đâu cho tiết kiệm? Vì sao?
    Được áp dụng kiến thức vừa học để tập dượt với những tình huống giả định
    nhưng rất chân thật và gần gũi chính là bước đầu cho trẻ kiểm chứng kiến thức
    vừa học, cho trẻ thấy được toán học gắn bó với đời sống, thấy vai trò của Toán
    học, tạo dựng niềm tin và khơi dậy động cơ, hứng thú học tập cho các em.
    Giáo viên: Nguyễn Thị Thêu Trường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định
    19
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh
    3.3. Giải pháp thứ ba: Lựa chọn các phƣơng pháp, hình thức tổ chức dạy
    học tạo cơ hội để học sinh đƣợc áp dụng kiến thức Toán học vào thực tiễn.
    Sau khi giáo viên đã quan tâm đến việc đổi mới nội dung thì việc đổi mới
    phương pháp, hình thức dạy học là việc làm cấp thiết để các em được trải
    nghiệm thực tế, phát huy cao nhất phẩm chất và năng lực của người học.
    Bên cạnh việc sử dụng thường xuyên các phương pháp dạy học tích cực trong
    môn Toán như: phương pháp nêu và giải quyết vấn đề thực tiễn, phương pháp trực
    quan, gợi mở vấn đáp… tôi đã chú trọng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy
    học theo hướng tăng cường các hoạt động ứng dụng trải nghiệm và dạy học
    theo dự án.
    Một trong những phương pháp dạy học có thể nói giúp giáo viên rèn luyện
    cho học sinh khả năng vận dụng kiến thức được học vào thực tiễn một cách nhanh
    nhất, hiệu quả nhất, đó chính là: dạy học trải nghiệm và dạy học theo dự án.
    Dạy học trải nghiệm và dạy học dự án là những hình thức dạy học mà học
    sinh được học dưới sự điều khiển và giúp đỡ của các giáo viên, nhưng phải tự
    giải quyết nhiệm vụ học của mình, nó đòi hỏi sự kết hợp cả về mặt lý thuyết và
    thực hành. Thông qua quá trình nó sẽ tạo ra những sản phẩm học tập.
    Dạy học trải nghiệm và dạy học theo dự án có nhiều đặc điểm riêng và
    rất rõ ràng để phân biệt với các hình thức khác. Đồng thời các đặc điểm này
    cũng rất phù hợp và tạo nên sự tích cực cho các học sinh.
    Việc trải nghiệm và thực hiện các dự án học tập giúp học sinh vận dụng
    một cách sáng tạo nhất, tổng hợp nhất các kiến thức không chỉ đối với môn Toán
    vào việc xử lý các tình huống mang tính thực tiễn cao ngay trong môi trường
    trường học và dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
    3.3.1. Hoạt động trải nghiệm ứng dụng
    Với thời lượng ít nhất 1 tiết/tuần cho việc tổ chức cho hoạt động trải
    nghiệm. Tôi thường lựa chọn các lĩnh vực mang đậm tính ứng dụng toán học
    vào thực tiễn và phù hợp với cấu trúc chương trình để giúp các em vừa được học
    tập, rèn luyện, vừa vui chơi.
    Giáo viên: Nguyễn Thị Thêu Trường Tiểu học Trần Nhân Tông – TP. Nam Định
    20
    Dạy học Toán 5 gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển năng lực học sinh
    KẾ HOẠCH THỰC HIỆN CÁC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM

    Các hoạt động trải nghiệmThời gian
    thực hiện
    Lĩnh vực sản xuấtBuổi 1, 2: Trải nghiệm tính toán, tính nhẩmTuần 3, 4
    mua bán, tài chínhnhanh trong mua bán
    Buổi 1: Trải nghiệm đo độ dài, chu vi, diện tíchTuần 5
    Buổi 2: Học ước lượng độ dài, chu vi, diện tíchTuần 6
    Lĩnh vựcBuổi 3: Trải nghiệm cân đo về khối lượngTuần 7
    đo lƣờngBuổi 4: Ước lượng về khối lượngTuần 8
    Buổi 5: Trải nghiệm về cách đo thể tíchTuần 24
    Buổi 6: Ước lượng về thể tíchTuần 25
    Buổi 1, 2: Trải nghiệm học tập cách quan sátTuần
    và cách thu thập thông tin.19, 20
    Lĩnh vực thống kêBuổi 3, 4: Trải nghiệm cách lập bảng biểuTuần
    và biểu diễn trên biểu đồ21, 22
    Buổi 5, 6: So sánh, phân tích, tổng hợp đưa raTuần
    các kết luận, đưa ra chứng cứ, lý lẽ giải thích.23, 24

    * Lĩnh vực tài chính
    Các bài toán về vật liệu, năng suất, sản xuất, nuôi trồng, buôn bán … luôn có
    tính ứng dụng rất cao. Có thể thấy, phần lớn các bài toán trong chương trình học kể
    từ lớp 1 đều xuất phát từ thực tế của sản xuất và kinh tế. Với dạng toán ứng dụng
    này, giáo viên không chỉ dạy được cho học sinh kiến thức toán học, tính thực tiễn.
    Cao hơn cả là qua đó có thể cho học sinh thấy nét đẹp của lao động, biết yêu lao
    động, biết chăm chỉ học tập, lao động để tự phục vụ bản thân, chăm sóc gia đình …
    Lĩnh vực mua và bán, trước nay luôn là lĩnh vực được ứng dụng nhiều trong cuộc
    sống. Đây chính là lĩnh vực rất hấp dẫn với học sinh, không chỉ bởi tính thực tế mà còn
    mang đậm yếu tố giáo dục hiện đại về quan điểm

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education