Category: SKKN Luận Văn Luận Án

  • SKKN Xây dựng quỹ đề kiểm tra đánh giá định kì môn Toán 1 theo Thông tư 27/2020/TT-BGDĐT

    SKKN Xây dựng quỹ đề kiểm tra đánh giá định kì môn Toán 1 theo Thông tư 27/2020/TT-BGDĐT

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
    Trong quá trình giáo dục nói chung, quá trình dạy học nói riêng, việc kiểm tra,
    đánh giá là khâu cuối cùng có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng
    cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Trong dạy học, kiểm tra, đánh giá là hai việc khác
    nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thường được tiến hành liền kề nhau.
    Kiểm tra cung cấp các thông tin về kết quả đạt được của học sinh sau một giai đoạn
    học tập, những thuận lợi, khó khăn khi học tập… đồng thời là cơ sở không thể thiếu
    để đánh giá hiệu quả việc thực hiện mục tiêu dạy học, góp phần định hướng và thúc
    đẩy giáo viên đổi mới phương pháp giảng dạy, thúc đẩy học sinh đổi mới phương
    pháp học tập theo hướng tích cực, hiệu quả hơn. Đánh giá là việc đưa ra những nhận
    xét, những kết luận cần thiết về đối tượng hoặc hoạt động vừa kiểm tra, khẳng định
    lại kết quả kiểm tra. Hoạt động kiểm tra, đánh giá không chỉ phát hiện những mặt tốt,
    mặt chưa tốt, vướng mắc, khó khăn… mà còn xác định nguyên nhân để đề ra các
    giải pháp nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục. Kiểm tra, đánh giá đúng thực tế,
    chính xác và khách quan sẽ giúp người học tự tin, hăng say, nâng cao tính tích cực và
    năng lực sáng tạo trong học tập. Muốn kiểm tra, đánh giá được học sinh, giáo viên
    phải có công cụ để thực hiện công việc này. Một trong những công cụ đó chính là
    các đề kiểm tra môn học mình giảng dạy.
    Đối với các môn học trong nhà trường nói chung và môn Toán ở trường
    tiểu học nói riêng, việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là việc
    bắt buộc phải thực hiện đầy đủ và nghiêm túc. Từ trước đến nay, ngoài việc
    kiểm tra, đánh giá thường xuyên như các môn học khác thì việc dạy học môn
    Toán đòi hỏi phải thực hiện kiểm tra, đánh giá định kì. Kết quả kiểm tra, đánh
    giá định kì sẽ phản ánh mức độ đạt được về năng lực Toán học của học sinh sau
    một giai đoạn học tập, làm cơ sở để giáo viên điều chỉnh nội dung, phương pháp
    dạy học môn Toán trong thời gian tiếp theo cho phù hợp, hiệu quả hơn.
    Nghị quyết 29 – NQ/TƯ ngày 04 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn
    diện giáo dục và đào tạo đã đang được thực hiện trong các nhà trường có nhấn mạnh
    vào việc phải đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh. Theo đó là sự
    2
    ra đời của Thông tư 30/2014/TT- BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 đã tạo ra
    những chuyển biến tích cực ban đầu trong việc kiểm tra, góp phần nâng cao chất
    lượng giáo dục tiểu học. Sau 2 năm triển khai thực hiện trên cả nước, Thông tư 30 đã
    cho thấy việc kiểm tra, đánh giá học sinh có nhiều ưu điểm được giáo viên, học sinh,
    phụ huynh và xã hội ghi nhận, tuy nhiên cũng không tránh khỏi những hạn chế.
    Chính vì vậy, Bộ GD&ĐT đã tiếp tục ban hành Thông tư 22 nhằm điều chỉnh, hoàn
    thiện hơn Thông tư 30, có hiệu lực từ ngày 6 tháng 11 năm 2016 với mục đích giúp
    cho giáo viên thực hiện việc đánh giá học sinh tiểu học thuận lợi và hiệu quả hơn.
    Năm học 2020 – 2021 là năm học đầu tiên thực hiện Chương trình giáo dục
    phổ thông 2018. Để thực hiện đánh giá học sinh tiểu học trên cơ sở kế thừa và đổi mới
    về nội dung, hình thức tổ chức triển khai đánh giá học sinh tiểu học đáp ứng yêu cầu
    thực hiện CTGDPT 2018, ngày 04/9/2020 Bộ GDĐT đã ban hành Thông tư số
    27/2020/TT-BGDĐT về việc quy định đánh giá học sinh tiểu học, trong đó khẳng
    định “Đánh giá học sinh tiểu học là quá trình thu thập, xử lý thông tin thông qua các
    hoạt động quan sát, theo dõi, trao đổi, kiểm tra, nhận xét quá trình học tập, rèn luyện
    của học sinh; tư vấn, hướng dẫn, động viên học sinh; diễn giải thông tin định tính hoặc
    định lượng về kết quả học tập, rèn luyện, sự hình thành và phát triển một số phẩm
    chất, năng lực của học sinh tiểu học.” và đảm bảo tính kế thừa, đổi mới. Điều này đòi
    hỏi người giáo viên cần có năng lực ra đề kiểm tra định kì một cách vững vàng, chắc
    chắn để thực hiện việc kiểm tra, đánh giá học sinh theo Thông tư 27 đạt hiệu quả cao.
    Trong các trường tiểu học, Thông tư 27 mới được triển khai, thực hiện từ năm
    học 2020 – 2021 nên phần lớn giáo viên chưa kịp xây dựng quỹ đề thi cho các môn
    học nói chung và môn Toán nói riêng theo những điểm mới của Thông tư này. Việc
    xây dựng quỹ đòi hỏi giáo viên phải mất nhiều thời gian nghiên cứu vận dụng nhiều
    kiến thức, kĩ năng về môn học và về chuyên môn nghiệp vụ mới có thể làm tốt được.
    Bản thân tôi là giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 1 cần thực hiện những nhiệm vụ của
    người giáo viên; trong đó có nhiệm vụ xây dựng đề kiểm tra định kì các môn học nói
    chung, môn Toán nói riêng để đánh giá kết quả học tập của học sinh.
    Với những lí do trên, tôi nhận thấy: Quỹ đề kiểm tra định kì các môn học
    nói chung và môn Toán nói riêng là rất quan trọng và cần thiết. Đây là tiền đề
    3
    giúp tôi có thêm niềm tin, mạnh dạn quyết định viết sáng kiến kinh nghiệm:
    “Xây dựng quỹ đề kiểm tra đánh giá định kì môn Toán 1 theo Thông tư
    27/2020/TT-BGDĐT ”
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến
    1.1 Nghiên cứu Chƣơng trình môn Toán ở tiểu học và chƣơng trình môn
    Toán lớp 1 theo Chƣơng trình giáo dục phổ thông 2018
    1.1.1 Khái quát chương trình môn Toán ở tiểu học
    1.1.1.1 Mục tiêu chương trình môn Toán ở tiểu học
    Giáo dục trong nhà trường Tiểu học hiện nay nhấn mạnh mục tiêu đào tạo
    con người phát triển toàn diện: có đức, có tài, có khả năng thích ứng với cuộc
    sống. Mục tiêu của môn Toán ở nhà trường Tiểu học được xác định trong
    CTGDPT 2018 là:
    a) Góp phần hình thành và phát triển năng lực toán học với yêu cầu cần đạt:
    • Thực hiện được các thao tác tư duy ở mức độ đơn giản;
    • Nêu và trả lời được câu hỏi khi lập luận, giải quyết vấn đề đơn giản;
    • Lựa chọn được các phép toán và công thức số học để trình bày, diễn đạt
    (nói hoặc viết) được các nội dung, ý tưởng, cách thức giải quyết vấn đề;
    • Sử dụng được ngôn ngữ toán học kết hợp với ngôn ngữ thông thường, động
    tác hình thể để biểu đạt các nội dung toán học ở những tình huống đơn giản;
    • Sử dụng được các công cụ, phương tiện học toán đơn giản để thực hiện
    các nhiệm vụ học tập toán đơn giản.
    b) Có những kiến thức và kĩ năng toán học cơ bản ban đầu, thiết yếu về:
    – Số và phép tính: Số tự nhiên, phân số, số thập phân và các phép tính trên
    những tập hợp số đó.
    – Hình học và Đo lường: Quan sát, nhận biết, mô tả hình dạng và đặc điểm
    (ở mức độ trực quan) của một số hình phẳng và hình khối trong thực tiễn; tạo lập
    một số mô hình hình học đơn giản; tính toán một số đại lượng hình học; phát
    triển trí tưởng tượng không gian; giải quyết một số vấn đề thực tiễn đơn giản
    gắn với Hình học và Đo lường (với các đại lượng đo thông dụng).
    4
    – Thống kê và Xác suất: Một số yếu tố thống kê và xác suất đơn giản; giải quyết
    một số vấn đề thực tiễn đơn giản gắn với một số yếu tố thống kê và xác suất.
    c) Cùng với các môn học và hoạt động giáo dục khác như: Đạo đức, Tự
    nhiên và xã hội, Hoạt động trải nghiệm,… góp phần giúp học sinh có những
    hiểu biết ban đầu về một số nghề nghiệp trong xã hội.
    Môn Toán góp phần hình thành và phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ
    yếu và năng lực chung theo các mức độ phù hợp với môn học, cấp học đã được
    quy định tại Chương trình tổng thể. Đồng thời, Môn Toán góp phần hình thành
    và phát triển cho học sinh năng lực toán học đặc thù (biểu hiện tập trung nhất
    của năng lực tính toán) bao gồm các thành phần cốt lõi sau: năng lực tư duy và
    lập luận toán học; năng lực mô hình hoá toán học; năng lực giải quyết vấn đề
    toán học; năng lực giao tiếp toán học; năng lực sử dụng công cụ, phương tiện
    học toán.
    1.1.1.2. Phương pháp dạy học môn Toán ở tiểu học
    Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh để
    giúp học sinh nắm vững từng đơn vị kiến thức, hình thành cho các em những kĩ
    năng kĩ xảo nhất định. Nó cũng được coi là những cách truyền đạt tri thức có
    hiệu quả nhất, bằng con đường ngắn nhất của người này cho người khác. Các
    phương pháp dạy học rất đa dạng và cần sử dụng, kết hợp một cách khéo léo
    giữa các phương pháp để đạt được hiệu quả tốt nhất trong việc dạy học. Một số
    phương pháp chỉ vận dụng trong dạy Toán ở Tiểu học, đó là:
    + Phương pháp trực quan trong dạy học toán ở tiểu học
    + Phương pháp gợi mở – vấn đáp
    + Phương pháp thực hành luyện tập;
    + Phương pháp giảng giải minh họa;
    + Tổ chức nhóm học tập tương tác trong dạy học Toán ở Tiểu học
    + Tổ chức hoạt động học tập cá nhân bằng phiếu giao việc;
    + Tổ chức hoạt động trò chơi trong dạy học toán ở tiểu học;
    + Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề;
    5
    1.1.2. Chương trình môn Toán lớp 1
    1.1.2.1. Mục tiêu môn Toán lớp 1
    – Bước đầu hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu, các năng lực
    chung và năng lực toán học ở mức độ phù hợp với học sinh lớp 1.
    – Giúp học sinh đạt được các yêu cầu cơ bản:
    + Đếm, đọc, viết, so sánh, cộng, trừ (không nhớ) các số trong phạm vi 100.
    + Nhận dạng được (ở mức độ trực quan) một số hình phẳng và hình khối
    đơn giản.
    + Nhận biết được đơn vị đo độ dài xăng – ti – mét, tuần lễ, ngày trong tuần.
    + Thực hành đo độ dài (với đơn vị đo là cm), đọc đúng giờ trên đồng hồ,
    xem lịch (loại lịch tờ hàng ngày), lắp ghép, xếp hình (gắn với một số hình phẳng
    và hình khối đơn giản.)
    + Nhận biết được ý nghĩa và viết được phép tính (cộng, trừ) phù hợp với
    câu trả lời của bài toán có liên quan đến phép tính (cộng, trừ) trong một vài tình
    huống thực tiễn đơn giản.
    1.1.2.2. Nội dung chương trình môn Toán lớp 1 và yêu cầu cần đạt

    Nội dungYêu cầu cần đạt
    Số và phép tính
    Số tự nhiênĐếm, đọc, viết các
    số trong phạm vi
    100.
    – Đếm, đọc, viết được các số trong phạm vi
    10, trong phạm vi 20, trong phạm vi 100.
    So sánh các số trong
    phạm vi 100.
    – Nhận biết được cách so sánh, xếp thứ tự
    các số trong phạm vi 100 (ở các nhóm có
    không quá 4 số)
    Các phép
    tính với số
    tự nhiên
    Phép cộng, phép trừ– Nhận biết được ý nghĩa của phép cộng,
    phép trừ.
    – Thực hiện được phép cộng, phép trừ
    (không nhớ) các số trong phạm vi 100.
    – Làm quen với việc thực hiện tính toán
    trong trường hợp có hai dấu phép tính

    6

    cộng, trừ (theo thứ tự từ trái sang phải).
    Tính nhẩm– Thực hiện được việc cộng, trừ nhẩm các
    số trong phạm vi 10.
    – Thực hiện được việc cộng, trừ nhẩm các
    số tròn chục.
    Thực hành giải
    quyết vấn đề liên
    quan đến các phép
    tính cộng, trừ.
    – Nhận biết được ý nghĩa thực tiễn của
    phép tính (cộng, trừ) thông qua tranh ảnh,
    hình vẽ hoặc tình huống thực tiễn.
    – Nhận biết và viết được phép tính (cộng,
    trừ) phù hợp với câu trả lời của bài toán có
    lời văn và tính được kết quả đúng.
    Hình học trực quan
    Hình phẳng
    và hình khối
    Quan sát, nhận biết
    hình dạng của một
    số hình phẳng và
    hình khối đơn giản
    – Nhận biết được vị trí định hướng trong
    không gian: trên – dưới, phải – trái, trước
    sau, ở giữa.
    – Nhận biết được hình vuông, hình tròn,
    hình tam giác, hình chữ nhật thông qua
    việc sử dụng bộ đồ dùng học tập cá nhân
    hoặc vật thật.
    – Nhận dạng được khối lập phương, khối
    hộp chữ nhật thông qua việc sử dụng bộ đồ
    dùng học tập cá nhân hoặc vật thật.
    Thực hành lắp ghép,
    xếp hình gắn với
    một số hình phẳng
    và hình khối đơn
    giản
    – Nhận biết và thực hiện được việc lắp
    ghép, xếp hình gắn với sử dụng bộ đồ
    dùng học tập cá nhân hoặc vật thật.
    Đo lƣờng
    Đo lườngBiểu tượng về đại– Nhận biết được về “dài hơn”, “ngắn

    7

    lượng và đơn vị đo
    đại lượng
    hơn”.
    – Nhận biết được đơn vị đo độ dài: cm
    (Xăng-ti-mét); đọc và viết được số đo độ
    dài trong phạm vi 100 cm.
    – Nhận biết được mỗi tuần lế có 7 ngày và
    tên gọi, thứ tự các ngày trong tuần lễ.
    – Nhận biết được giờ đúng trên đồng hồ.
    Thực hành đo đại
    lượng
    – Thực hiện được việc đo và ước lượng độ
    dài theo đơn vị do tự quy ước (gang tay,
    bước chân,..)
    – Thực hiện được việc đo độ dài bằng
    thước thẳng với đơn vị đo là xăng – ti –
    mét (cm).
    – Thực hiện được việc đọc giờ đúng trên
    đồng hồ.
    – Xác định được thứ, ngày trong tuần khi
    xem lịch (loại lịch hằng ngày)
    – Giải quyết được một số vấn đề thực tiễn
    đơn giản liên quan đến đo độ dài, đọc giờ
    đúng và xem lịch (loại lịch hằng ngày)
    Hoạt động thực hành và trải nghiệm
    Hoạt động 1: Thực hành ứng dụng các kiến thức toán học vào thực tiễn, chẳng
    hạn:
    – Thực hành đếm, nhận biết số, thực hiện phép tính trong một số tình huống thực
    tiễn hằng ngày (ví dụ: đếm số bàn học và số cửa sổ trong lớp học, đếm số bạn
    nam trong tổ, …)
    – Thực hành các hoạt động liên quan đến vị trí, định hướng không gian (ví dụ:
    xác định được một vật ở trên hoặc dưới mặt bàn, một vật cao hơn hoặc thấp hơn
    vất khác, …)
    – Thực hành đo và ước lượng độ dài một số đồ vật trong thực tế gắn với đơn vị

    8

    đo xăng – ti – mét (cm), thực hành đọc giờ đúng trên đồng hồ, xem lịch loại lịch
    tờ hằng ngày.
    Hoạt động 2: Tổ chức các hoạt động ngoài giờ chính khóa (ví dụ: các trò chơi
    học toán, …) liên quan đến ôn tập, củng cố các kiến thức cơ bản.

    1.1.2.3. Thời lượng thực hiện Chương trình và thời lượng dành cho các nội
    dung giáo dục
    Thời lượng cho môn Toán lớp 1: 3 tiết/ tuần x 35 tuần = 105 tiết.
    Ước lượng thời gian (tính theo %) cho các mạch nội dung toán ở lớp 1:

    Mạch kiến thứcSố và phép tínhHình học và đo
    lường
    Hoạt động thực
    hành và trải
    nghiệm
    Thời lƣợng80%15%5%

    1.1.2.4. Phương pháp dạy học môn Toán lớp 1
    Để dạy tốt môn Toán lớp 1 người giáo viên cần phải sử dụng và kết hợp
    các phương pháp dạy học một cách linh hoạt, phù hợp và khéo léo. Đặc biệt, cần
    chú trọng việc đổi mới phương pháp dạy học vì đây chính là điểm nhấn chủ yếu
    nhất trong đổi mới chương trình môn Toán. Để đổi mới phương pháp dạy học
    tốt, đạt hiệu quả, người giáo viên cần chú ý:
    – Tổ chức quá trình dạy học theo hướng kiến tạo phù hợp với tiến trình
    nhận thức, năng lực nhận thức, cách thức học tập khác nhau của từng cá nhân
    HS, tạo điều kiện giúp người học phát huy tính tích cực, độc lập, phát triển các
    năng lực chung và năng lực toán học.
    – Linh hoạt trong việc vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích
    cực,… Kết hợp các hoạt động dạy học trong lớp học với hoạt động thực hành,
    trải nghiệm. Khuyến khích sử dụng các phương tiện nghe nhin, phương tiện kĩ
    thuật hiện đại hỗ trợ quá trình dạy học, đồng thời coi trọng việc sử dụng các
    phương tiện truyền thống.
    9
    – Sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học theo tiến trình tổ chức cho HS
    hoạt động trải nghiệm khám phá phát hiện. Tiến trình đó bao gồm các bước chủ
    yếu: Trải nghiệm – Hình thành kiến thức mới – Thực hành, luyện tập – Vận dụng.
    Bên cạnh đó, tổ chức cho HS được tham gia một số hoạt động thực hành ứng
    dụng các kiến thức toán học vào thực tiễn và các hoạt động ngoài giờ chính khoá
    liên quan đến ôn tập, củng cố các kiến thức cơ bản.
    – Quá trình dạy Toán 1 không phải là quá trình áp đặt một cách cứng nhắc
    mà là một quá trình linh hoạt và có tính “mở”. Giáo viên cần căn cứ vào đặc
    điểm của học sinh, điều kiện, hoàn cảnh của từng lớp học, từng trường để chủ
    động lựa chọ hay tiến hành những điều chỉnh hay bổ sung cụ thể về nội dung,
    phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Tuy nhiên, việc điều chỉnh phải trên
    cơ sở đảm bảo yêu cầu cần đạt của chương trình môn Toán (với những kiến
    thức, kĩ năng cơ bản, trọng tâm trong mỗi bài học), nội dung điều chỉnh phải phù
    hợp với thực tế cuộc sống, với truyền thống văn hóa của cộng đồng dân cư nơi
    HS sinh sống, phù hợp với đặc điểm và trình độ HS trong lớp học.
    1.2. Nghiên cứu Thông tƣ 27/2020/TT-BGDĐT về đánh giá kết quả học tập của
    học sinh và Hƣớng dẫn cách thiết kế đề kiểm tra định kì môn Toán theo TT27
    1.2.1. Thông tư 27/2020/TT-BGDĐT về đánh giá kết quả học tập của học sinh
    Năm học 2020 – 2021 là năm học đầu tiên ngành Giáo dục triển khai
    Chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học ban hành kèm theo Thông tư số
    32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
    (Chương trình giáo dục phổ thông 2018) đối với lớp 1; thực hiện các nội dung
    theo Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội, Chỉ thị số
    16/CT-TTg ngày 18/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới chương trình,
    sách giáo khoa giáo dục phổ thông bảo đảm chất lượng, hiệu quả, đúng lộ trình.
    Để thực hiện đánh giá học sinh tiểu học trên cơ sở kế thừa và đổi mới về nội
    dung, hình thức tổ chức triển khai đánh giá học sinh tiểu học đáp ứng yêu cầu
    thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018, ngày 04/9/2020 Bộ GDĐT đã
    ban hành Thông tư số 27/2020/TT-BGDĐT về việc quy định đánh giá học sinh
    10
    tiểu học với mục đích giúp cho giáo viên thực hiện việc đánh giá học sinh tiểu
    học thuận lợi và hiệu quả hơn. Cụ thể như sau:
    a) Đánh giá định kỳ về nội dung học tập các môn học, hoạt động giáo dục ở bậc
    Tiểu học:
    – Vào giữa học kỳ I, cuối học kỳ I, giữa học kỳ II và cuối năm học, giáo
    viên dạy môn học căn cứ vào quá trình đánh giá thường xuyên và yêu cầu cần
    đạt, biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của từng môn học, hoạt động
    giáo dục để đánh giá học sinh đối với từng môn học, hoạt động giáo dục theo
    các mức sau:
    + Hoàn thành tốt: thực hiện tốt các yêu cầu học tập và thường xuyên có
    biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của môn học hoặc hoạt động giáo
    dục;
    + Hoàn thành: thực hiện được các yêu cầu học tập và có biểu hiện cụ thể về
    các thành phần năng lực của môn học hoặc hoạt động giáo dục;
    + Chưa hoàn thành: chưa thực hiện được một số yêu cầu học tập hoặc chưa có
    biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của môn học hoặc hoạt động giáo dục.
    – Vào cuối học kỳ I và cuối năm học, đối với các môn học bắt buộc: Tiếng
    Việt, Toán, Ngoại ngữ 1, Lịch sử và Địa lí, Khoa học, Tin học và Công nghệ có
    bài kiểm tra định kỳ;
    Đối với lớp 4, lớp 5, có thêm bài kiểm tra định kỳ môn Tiếng Việt, môn
    Toán vào giữa học kỳ I và giữa học kỳ II.
    – Đề kiểm tra định kỳ phù hợp với yêu cầu cần đạt và các biểu hiện cụ thể
    về các thành phần năng lực của môn học, gồm các câu hỏi, bài tập được thiết kế
    theo 3 mức độ. Những điểm mới về đề kiểm tra định kỳ theo TT27/2020 so với
    TT22/2016 được thể hiện cụ thể như sau:

    TT27/2020TT22/2016
    – Mức 1: Nhận biết, nhắc lại hoặc mô
    tả được nội dung đã học và áp dụng
    trực tiếp để giải quyết một số tình
    huống, vấn đề quen thuộc trong học
    – Mức 1: nhận biết, nhắc lại được kiến
    thức, kĩ năng đã học;
    – Mức 2: hiểu kiến thức, kĩ năng đã
    học, trình bày, giải thích được kiến

    11

    tập;
    – Mức 2: Kết nối, sắp xếp được một số
    nội dung đã học để giải quyết vấn đề
    có nội dung tương tự;
    – Mức 3: Vận dụng các nội dung đã
    học để giải quyết một số vấn đề mới
    hoặc đưa ra những phản hồi hợp lý
    trong học tập và cuộc sống.
    thức theo cách hiểu của cá nhân;
    – Mức 3: biết vận dụng kiến thức, kĩ
    năng đã học để giải quyết những vấn
    đề quen thuộc, tương tự trong học tập,
    cuộc sống;
    – Mức 4: vận dụng các kiến thức, kĩ
    năng đã học để giải quyết vấn đề mới
    hoặc đưa ra những phản hồi hợp lý
    trong học tập, cuộc sống một cách linh
    hoạt;

    1.2.1.1. Mục đích, nguyên tắc đánh giá
    1.2.1.1.1. Mục đích đánh giá
    Mục đích chung của việc đánh giá là để nắm bắt được quá trình thực hiện
    và kết quả thực hiện hoạt động dạy học, giáo dục học sinh, trên cơ sở đó giúp
    cho những người thực hiện điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy – học và giáo
    dục để đạt hiệu quả cao hơn. Cụ thể như sau:
    – Giúp giáo viên nắm bắt và đưa ra nhận định đúng đắn về những ưu điểm
    nổi bật và những hạn chế của mỗi học sinh về năng lực học tập, về phẩm chất,
    kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để động viên, khích lệ
    hoặc giúp các em khắc phục khó khăn trong quá trình học tập. Đồng thời giáo
    viên sẽ điều chỉnh phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học, giáo dục
    trong quá trình và sau mỗi quá trình dạy học cho phù hợp, hiệu quả, góp phần
    thực hiện tốt mục tiêu giáo dục Tiểu học.
    – Giúp học sinh có khả năng tự nhận xét, tham gia nhận xét; tự học, tự điều
    chỉnh cách học; giao tiếp, hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ.
    – Giúp cha mẹ học sinh hoặc người giám hộ (sau đây gọi chung là cha mẹ
    học sinh) tham gia đánh giá quá trình và kết quả học tập, rèn luyện, quá trình
    hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh; tích cực hợp tác với
    nhà trường trong các hoạt động giáo dục học sinh.
    12
    – Giúp cán bộ quản lý giáo dục các cấp kịp thời chỉ đạo các hoạt động giáo
    dục, đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp đánh giá nhằm đạt hiệu quả
    giáo dục.
    – Giúp các tổ chức xã hội nắm thông tin chính xác, khách quan, phát huy
    nguồn lực xã hội tham gia đầu tư phát triển giáo dục.
    1.2.1.1.2. Nguyên tắc đánh giá
    – Đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh, coi trọng việc động viên, khuyến
    khích sự cố gắng trong học tập, rèn luyện của học sinh, giúp học sinh phát huy
    nhiều nhất khả năng, đảm bảo kịp thời, công bằng, khách quan.
    – Đánh giá toàn diện học sinh thông qua đánh giá mức độ đạt chuẩn kiến
    thức, kĩ nẵng và một số biểu hiện năng lực, phẩm chất của học sinh theo mục
    tiêu giáo dục tiểu học.
    – Đánh giá thường xuyên bằng nhận xét, đánh giá định kì bằng điểm số kết
    hợp với nhận xét, kết hợp đánh giá của giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh,
    trong đó đánh giá của giáo viên là quan trọng nhất.
    – Đánh giá sự tiến bộ của học sinh, không so sánh học sinh này với học sinh
    khác, không tạo áp lực cho học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh.
    1.2.1.2. Nội dung, cách thức, công cụ đánh giá.
    1.2.1.2.1. Nội dung đánh giá
    – Đánh giá quá trình học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập của học sinh đáp
    ứng yêu cầu cần đạt và biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của từng
    môn học, hoạt động giáo dục theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối
    với cấp tiểu học.
    – Đánh giá sự hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh
    thông qua những phẩm chất chủ yếu và những năng lực cốt lõi như sau:
    – Những phẩm chất chủ yếu: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách
    nhiệm.
    – Những năng lực cốt lõi:
    +) Những năng lực chung: tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết
    vấn đề và sáng tạo;
    13
    +) Những năng lực đặc thù: ngôn ngữ, tính toán, khoa học, công nghẹ , tin
    học, thẩm mĩ, thể chất.
    1.2.1.2.2. Cách thức đánh giá
    a. Đánh giá thường xuyên
    Đánh giá thường xuyên là đánh giá trong quá trình học tập, rèn luyện về
    kiến thức kĩ năng, thái độ và một số biểu hiện năng lực, phẩm chất của học sinh,
    được thực hiện theo tiến trình nội dung của các môn học và các hoạt động giáo
    dục.
    Đánh giá thường xuyên cung cấp thông tin phản hổi cho giáo viên và học
    sinh nhằm hỗ trợ, điều chỉnh kịp thời, thúc đẩy sự tiến bộ của học sinh theo mục
    tiêu giáo dục tiểu học.
    * Đánh giá thường xuyên về học tập.
    – Giáo viên dùng lời nói chỉ ra cho học sinh biết được chỗ đúng, chưa đúng
    và cách sửa chữa, viết nhận xét vào vở hoặc sản phẩm học tập của học sinh khi
    cần thiết, có biện pháp cụ thể giúp đỡ kịp thời.
    – Học sinh tự nhận xét và tham gia nhận xét sản phẩm học tập của bạn,
    nhóm bạn trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập và làm tốt hơn.
    – Khuyến khích cha mẹ học sinh trao đổi với giáo viên về các nhận xét,
    đánh giá học sinh bằng các hình thức phù hợp và phân phối với giáo viên động
    viên, giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện.
    * Đánh giá thường xuyên về năng lực, phẩm chất.
    – Giáo viên căn cứ vào các biểu hiện về nhận thức, kĩ năng, thái độ của học
    sinh ở từng năng lực, phẩm chất để nhận xét và được tham gia nhận xét về bạn,
    nhóm bạn về những biểu hiện của từng năng lực, phẩm chất để hoàn thiện bản
    thân.
    – Khuyến khích cha mẹ học sinh trao đổi, phối hợp với giáo viên, động
    viên, giúp đỡ học sinh rèn luyện và phát triển năng lực, phẩm chất.
    b. Đánh giá định kì
    Đánh giá định kì là đánh giá kết quả giáo dục học sinh sau một giai đoạn
    học tập, rèn luyện, nhằm xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, rèn
    14
    luyện của học sinh theo yêu cầu cần đạt và biểu hiện cụ thể về các thành phần
    năng lực của từng môn học, hoạt động giáo dục được quy định trong chương
    trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học và sự hình thành, phát triển phẩm chất,
    năng lực học sinh.
    b1. Đánh giá định kỳ về nội dung học tập các môn học, hoạt động giáo dục:
    – Vào các thời điểm: giữa học kỳ I, cuối học kỳ I, giữa học kỳ II và cuối
    năm học, giáo viên dạy môn học căn cứ vào quá trình đánh giá thường xuyên và
    yêu cầu cần đạt, biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của từng môn học,
    hoạt động giáo dục để đánh giá học sinh đối với từng môn học, hoạt động giáo
    dục theo các mức sau:
    + Hoàn thành tốt: học sinh thực hiện tốt các yêu cầu học tập và thường
    xuyên có biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của môn học hoặc hoạt
    động giáo dục;
    + Hoàn thành: học sinh thực hiện được các yêu cầu học tập và có biểu hiện
    cụ thể về các thành phần năng lực của môn học hoặc hoạt động giáo dục;
    + Chưa hoàn thành: học sinh chưa thực hiện được một số yêu cầu học tập
    hoặc chưa có biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của môn học hoặc hoạt
    động giáo dục.
    – Vào cuối học kỳ I và cuối năm học, đối với các môn học bắt buộc: Tiếng
    Việt, Toán, Ngoại ngữ 1, Lịch sử và Địa lí, Khoa học, Tin học và Công nghệ có
    bài kiểm tra định kỳ;
    Đối với lớp 4, lớp 5, có thêm bài kiểm tra định kỳ môn Tiếng Việt, môn
    Toán vào giữa học kỳ I và giữa học kỳ II.
    – Đề kiểm tra định kỳ phù hợp với yêu cầu cần đạt và các biểu hiện cụ thể
    về các thành phần năng lực của môn học, gồm các câu hỏi, bài tập được thiết kế
    theo các mức như sau:
    + Mức 1: Nhận biết, nhắc lại hoặc mô tả được nội dung đã học và áp dụng
    trực tiếp để giải quyết một số tình huống, vấn đề quen thuộc trong học tập;
    + Mức 2: Kết nối, sắp xếp được một số nội dung đã học để giải quyết vấn
    đề có nội dung tương tự;
    15
    + Mức 3: Vận dụng các nội dung đã học để giải quyết một số vấn đề mới
    hoặc đưa ra những phản hồi hợp lý trong học tập và cuộc sống.
    – Bài kiểm tra được giáo viên sửa lỗi, nhận xét, cho điểm theo thang điểm 10,
    không cho điểm thập phân và được trả lại cho học sinh. Điểm của bài kiểm tra
    định kỳ không dùng để so sánh học sinh này với học sinh khác. Nếu kết quả bài
    kiểm tra cuối học kỳ I và cuối năm học bất thường so với đánh giá thường
    xuyên, giáo viên đề xuất với nhà trường có thể cho học sinh làm bài kiểm tra
    khác để đánh giá đúng kết quả học tập của học sinh.
    b2. Đánh giá định kỳ về sự hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực:
    Vào giữa học kỳ I, cuối học kỳ I, giữa học kỳ II và cuối năm học, giáo viên
    chủ nhiệm phối hợp với các giáo viên dạy cùng lớp, thông qua các nhận xét, các
    biểu hiện trong quá trình đánh giá thường xuyên về sự hình thành và phát triển
    từng phẩm chất chủ yếu, năng lực cốt lõi của mỗi học sinh, đánh giá theo các mức
    sau:
    – Tốt: Đáp ứng tốt yêu cầu giáo dục, biểu hiện rõ và thường xuyên.
    – Đạt: Đáp ứng được yêu cầu giáo dục, biểu hiện nhưng chưa thường
    xuyên.
    – Cần cố gắng: Chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu giáo dục, biểu hiện chưa rõ.
    1.2.1.2.3. Công cụ đánh giá
    – Công cụ đánh giá với hình thức kiểm tra thường xuyên là bảng tham
    chiếu trong đó xác định rõ các tiêu chí và chỉ báo hành vi (biểu hiện cụ thể)
    tương ứng với các mức độ đánh giá (Hoàn thành tốt, hoàn thành, chưa hoàn
    thành)
    – Công cụ đánh giá với hình thức kiểm tra định kì chính là đề bài kiểm tra
    định kì và hướng dẫn chấm bài kiểm tra định kì.
    1.2.1.3. Quy trình thiết kế đề kiểm tra định kì: gồm 4 bước chính
    1.2.1.3.1. Bước 1: Xác định mục tiêu, mức độ, nội dung và hình thức kiểm tra
    Trước khi ra đề kiểm tra , cần đối chiếu với các mục tiêu dạy học để xác
    minh mục tiêu, mức độ, nội dung và hình thức kiểm tra nhằm đánh giá khách
    16
    quan trình độ học sinh, đồng thời thu thập các thông tin phản hồi để điều chỉnh
    quá trình dạy học và quản lí GD.
    1.2.1.3.2. Bước 2: Thiết lập bảng hai chiều (Ma trận nội dung đề kiểm tra)
    – Lập 1 bảng có hai chiều, trong đó một chiều thể hiện nội dung, một chiều
    thể hiện các mức độ nhận thức cần kiểm tra.
    – Viết các chuẩn cần kiểm tra ứng với mỗi mức độ nhận thức, mỗi nội dung
    tương ứng trong từng ô của bảng.
    – Xác định số điểm cho từng nội dung kiến thức và mức độ nhận thức cần
    KT trong đó:
    + Xác định số điểm cho từng nội dung căn cứ vào tổng số tiết quy định và
    mức độ quan trọng của nội dung đó.
    + Xác định số điểm cho từng mức độ nhận thức để đảm bảo cho phân phối
    điểm có dạng tương đối chuẩn dựa trên nguyên tắc: mức độ nhận thức cơ bản
    nên có tỉ lệ điểm số cao hơn hoặc bằng mức độ nhận thức khác.
    + Xác định số lượng, hình thức cho các câu hỏi trong mỗi ô của bảng hai
    chiều.
    + Xác định thời gian, số điểm tương ứng cho từng phần.
    + Xác định số điểm, số lượng câu hỏi cho từng ô của bảng hai chiều.
    1.2.1.3.3. Bước 3: Thiết kế câu hỏi theo bảng hai chiều (Thiết kế nội dung cụ thể
    của đề kiểm tra)
    Căn cứ vào bảng hai chiều, giáo viên thiết kế câu hỏi cho đề kiểm tra cần
    xác định rõ nội dung, hình thức, lĩnh vực kiến thức và mức độ nhận thức cần đo
    qua từng câu hỏi và toàn bộ câu hỏi trong đề. Các câu hỏi phải được biên soạn
    sao cho đánh giá được chính xác mức độ đáp ứng chuẩn kiến thức, kĩ năng và
    yêu cầu về thái độ được quy định chương trình môn học.
    1.2.1.3.4. Bước 4: Xây dựng đáp án và hướng dẫn chấm.
    Việc xây dựng đáp án và hướng dẫn chấm được thể hiện trên cơ sở bám sát
    bảng hai chiều. Điểm toàn bài kiểm tra định kì tính theo thang điểm 10.
    17
    1.2.2. Về cách thiết kế đề kiểm tra định kì môn Toán
    1.2.2.1. Yêu cầu, tiêu chí thiết kế
    1.2.2.1.1. Về yêu cầu khi thiết kế đề kiểm tra định kì môn Toán
    * Yêu cầu cơ bản:
    – Nội dung bao quát chương trình đã học.
    – Đảm bảo mục tiêu dạy học; bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng và yêu cầu
    về thái độ ở các mức độ đã được quy định trong chương trình môn học, cấp học.
    – Đảm bảo tính chính xác, khoa học.
    – Phù hợp với thời gian kiểm tra.
    – Góp phần đánh giá khách quan trình độ học sinh.
    Từng bước đổi mới hình thức ra đề kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của
    từng học sinh theo tiếp cận năng lực và đảm bảo phù hợp với điều kiện cụ thể
    của từng địa phương, vùng miền. Đề kiểm tra môn Toán kết hợp hình thức kiểm
    tra tự luận với trắc nghiệm khách quan.
    Thông thường hình thức trắc nghiệm khách quan có các dạng câu hỏi sau:
    – Nhiều lựa chọn;
    – Có/Không; Đúng/Sai phức hợp;
    – Đối chiếu cặp đôi;
    – Điền khuyết – yêu cầu các HS viết tiếp vào ô trống; chỗ chấm cho thích
    hợp; viết ra ý kiến, nhận định của mình hoặc giải thích logic;
    – Câu hỏi ngắn;
    – Câu hỏi bằng hình vẽ;
    – Điền đáp án.
    * Yêu cầu cụ thể với từng dạng câu hỏi:
    – Các yêu cầu đối với câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn:
    + Câu hỏi phải đánh giá những nội dung quan trọng của chương trình;
    + Câu hỏi phải phù hợp với các tiêu chí ra đề KT về mặt trình bày và số
    điểm tương ứng;
    + Câu dẫn phải đặt ra câu hỏi trực tiếp hoặc một vấn đề cụ thể;
    18
    + Từ ngữ, cấu trúc của câu hỏi phải rõ ràng và dễ hiểu đối với mọi học
    sinh;
    + Mỗi phương án nhiễu phải hợp lý đối với những học sinh không nắm
    vững kiến thức;
    + Mỗi phương án sai nên xây dựng dựa trên các lỗi hay nhận thức sai lệch
    của học sinh;
    + Đáp án đúng của câu hỏi này phải độc lập với đáp án đúng của các câu
    hỏi khác trong bài kiểm tra;
    + Phần lựa chọn phải thống nhất và phù hợp với nội dung của câu dẫn;
    + Mỗi câu hỏi chỉ có một đáp án đúng, chính xác nhất;
    + Không đưa ra phương án “Tất cả các đáp án trên đều đúng” hoặc
    “Không có phương án nào đúng”.
    – Các yêu cầu đối với câu hỏi tự luận:
    + Câu hỏi phải đánh giá nội dung quan trọng của chương trình.
    + Câu hỏi phải phù hợp với các tiêu chí ra đề kiểm tra về mặt hình thức và
    số điểm tương ứng.
    + Câu hỏi yêu cầu học sinh phải vận dụng kiến thức vào các tình huống
    mới.
    + Câu hỏi thể hiện rõ nội dung và cấp độ tư duy cần đo;
    + Nội dung câu hỏi phải đặt ra một yêu cầu và các hướng dẫn cụ thể về
    cách thực hiện yêu cầu đó.
    + Yêu cầu của câu hỏi phù hợp với trình độ và nhận thức của học sinh.
    + Yêu cầu học sinh phải hiểu nhiều hơn là ghi nhớ những khái niệm, thông
    tin.
    + Ngôn ngữ sử dụng trong câu hỏi phải truyền tải được hết những yêu cầu
    của cán bộ ra đề đến học sinh.
    1.2.2.1.2. Về tiêu chí đề kiểm tra định kì
    – Nội dung không nằm ngoài chương trình.
    – Nội dung rải rác trong chương trình học kì.
    19
    – Có nhiều câu hỏi trong một đề. Tùy theo đặc trưng của từng bộ môn, phân
    định tỉ lệ phù hợp giữa câu trắc nghiệm khách quan và câu hỏi tự luận. Đối với
    đề kiểm tra có câu trắc nghiệm khách quan: không ít hơn 5 câu đối với thời
    lượng từ 35 – 40 phút.
    – Tỉ lệ điểm dành cho các mức độ nhận thức so với tổng số điểm phù hợp
    với chuẩn kiến thức, kĩ năng và yêu cầu về thái độ ở từng bộ môn; đảm bảo tỉ lệ
    chung cho cấp học. Tùy theo từng trường có thể đưa ra tỉ lệ ở các mức khác
    nhau phù hợp với yêu cầu đánh giá của từng địa phương, chẳng hạn: Đề kiểm tra
    định kì phù hợp với chuẩn kiến thức, kĩ năng và định hướng phát triển năng lực,
    gồm các câu hỏi, bài tập được thiết kế theo các mức sau: Mức 1: Khoảng 50%;
    Mức 2: Khoảng 30%; Mức 3: Khoảng 20%.
    – Các câu hỏi của đề được diễn đạt rõ, đơn nghĩa, nêu đúng và đủ yêu cầu
    của đề.
    – Mỗi câu hỏi phải phù hợp với thời gian dự kiến trả lời và với số điểm
    dành cho nó.
    1.2.2.2. Quy trình thiết kế
    Với môn Toán, việc thiết kế đề kiểm tra định kì dựa trên 4 bước chung đã
    nêu trên để cụ thể hóa hơn thông qua 6 bước như sau:
    – Bƣớc 1: Xác định rõ mục đích đánh giá (đánh giá kết quả học tập, năng
    lực, phẩm chất nào của học sinh? Vào thời điểm nào? Đối học sinh nào? …)
    – Bƣớc 2: Xác định hình thức đánh giá: Đánh giá qua kiểm tra tự luận,
    kiểm tra trắc nghiệm khách quan hoặc kiểm tra kết hợp cả hai hình thức trên.
    – Bƣớc 3: Xây dựng nội dung đánh giá, lập bảng ma trận của đề kiểm tra.
    (dựa vào mục đích đánh giá, Chuẩn kiến thức, kĩ năng, nội dung trọng tâm cốt
    lõi….để xác định các chủ đề nội dung cần đánh giá).
    – Bƣớc 4: Biên soạn câu hỏi theo ma trận (xây dựng nội dung kiểm tra)
    Viết câu hỏi phải phù hợp với nội dung, yêu cầu kiến thức, kĩ năng và mức
    độ tư duy cần được đánh giá tương ứng với nội dung mục tiêu đo lường cụ thể.
    – Bƣớc 5: Xây dựng hướng dẫn chấm (đáp án), thời gian làm bài, điểm số.
    20
    – Bƣớc 6: Kiểm tra, rà soát hoặc thẩm định lại các câu hỏi trong đề kiểm
    tra. (Rà soát lại các câu hỏi/ bài tập, mức độ, điểm số, dựa vào các yêu cầu ở các
    bước 1, bước 2)
    2. Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến
    2.1. Xác định các bƣớc xây dựng quỹ đề kiểm tra định kì môn Toán lớp 1
    theo bộ sách Cánh diều
    Bƣớc 1: Xác định mục đích, nội dung kiểm tra, đánh giá
    Đánh giá định kì kết quả học tập là đánh giá kết quả của học sinh sau một
    giai đoạn học tập, rèn luyện, nhằm xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ học
    tập của học sinh so với chuẩn kiến thức, kĩ năng quy định trong chương trình
    môn Toán lớp 1.
    Nội dung đánh giá học sinh môn Toán được làm 1 bài kiểm tra nhằm kiểm
    tra, đánh giá trình độ kiến thức, kĩ năng về toán của từng HS sau mỗi HK, năm
    học.
    Bƣớc 2: Xác định hình thức đánh giá: Đánh giá qua kiểm tra bằng câu
    hỏi tự luận kết hợp với câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
    Bƣớc 3: Xây dựng nội dung đánh giá cụ thể và ma trận đề kiểm tra
    (thông qua việc thiết lập bảng 2 chiều)
    * Đối với bài kiểm tra môn Toán 1 (10 điểm):
    + Căn cứ vào thời điểm làm bài kiểm tra đánh giá định kì, thời lượng, nội
    dung chương trình, phân phối tỉ lệ theo mạch kiến thức: Số học: khoảng 80%,
    Hình học và Đại lượng khoảng 20% ;
    + Tỉ lệ các mức: Mức 1: khoảng 50%; Mức 2: khoảng 30%; Mức 3: khoảng
    20%.
    – Thời lượng làm bài kiểm tra: khoảng 35 phút.
    Bƣớc 4: Biên soạn câu hỏi theo ma trận
    Từ ma trận đề kiểm tra người giáo viên soạn ra những câu hỏi phù hợp với
    các chủ đề, nội dung cụ thể ở bước 3.
    21
    Bƣớc 5: Xây dựng hƣớng dẫn chấm (đáp án)
    Từ những câu hỏi ở bước 4, người giáo viên xây dựng đáp án, hướng dẫn
    chấm cho từng câu hỏi cụ thể.
    Bƣớc 6: Kiểm tra, rà soát hoặc thẩm định lại các câu hỏi trong đề kiểm tra
    Rà soát lại các câu hỏi/ bài tập, mức độ, điểm số… dựa vào các yêu cầu ở
    các bước 1, bước 2 và ma trận đề.
    Sau khi cho học sinh làm bài kiểm tra và thu lại kết quả, người giáo viên sẽ
    có nhận xét, đánh giá về tính phù hợp, khả thi của đề kiểm tra do mình biên soạn
    và rút ra kết luận cần thiết.
    2.2. Thực hiện xây dựng quỹ đề kiểm tra định kì môn Toán lớp 1
    2.2.1. Các đề kiểm tra cuối học kì I
    2.2.1.1. Ma trận đề kiểm tra cuối học kì 1 năm học 2020 -2021
    MÔN: TOÁN– LỚP 1

    Chủ đềMức 1Mức 2Mức 3Tổng
    TNTLTNTLTNTL
    Số họcSố câu4131110
    Câu số1, 2, 3,
    4
    85, 6, 7912
    Số điểm222118
    Hình
    học và
    đo
    lƣờng
    Số câu112
    Câu số1011
    Số điểm112
    TổngSố câu42311112
    Số điểm23211110

    22
    2.2.1.2. Các đề kiểm tra cuối học kì I

    Đề số 1ĐỀ KIỂM TRA ĐỊNH KÌ CUỐI HỌC KÌ 1 NĂM HỌC 2020 – 2021
    MÔN: TOÁN – LỚP 1

    Em hãy khoanh vào chữ cái trước kết quả đúng hoặc làm theo yêu cầu:
    Câu 1: Số thích hợp viết tiếp vào dãy số 1, 2, 3, 4,…
    A. 1 B. 5 C. 0 D. 6
    Câu 2: Các số viết theo thứ tự từ bé đến lớn là:

    A. 0, 3, 9, 10
    Câu 3: Số ?
    B. 9, 0, 3, 10
    7 – … = 2
    C. 9, 3, 0, 10D. 10, 3, 9, 0

    A. 3 B. 4 C. 5 D. 6
    Câu 4: Phép tính có kết quả bằng 9 là :
    A. 4 + 5 B. 5 + 5 C. 4 + 6 D. 4 + 4
    Câu 5. Điền dấu >, <, =
    3 + 5 …… 7
    A. > B. < C. =
    Câu 6. Đúng ghi Đ , sai ghi S

    a) 6 + 2 = 8c) 9 – 7 = 2
    b) 5 + 2 = 3d) 8 – 3 = 4

    Câu 7. Kết quả của phép tính : 8 – 3 – 2 = ?

    A. 2
    Câu 8: Tính
    B. 3C. 4

    D. 5

    2+ 3 = …….2 + 6 = …….8 – 4 = …….7 – 2 = …….
    3 + 4 = …….5 + 4 = …….10 – 3 = …….9 – 5 = …….

    Câu 9: Điền số thích hợp vào chỗ chấm
    Câu 10: Hình vẽ bên có:
    ….. hình vuông
    …… hình chữ nhật
    …… hình tròn
    …… hình tam giác
    + 5 + 1
    43
    – 7 – 1
    2
    2
    23
    Câu 11: Hình vẽ bên có:
    ….. khối hình lập phương
    ….. khối hình hộp chữ nhật
    Câu 12: Viết phép tính thích hợp với mỗi hình vẽ dƣới đây:
    ĐÁP ÁN VÀ HƢỚNG DẪN CHẤM ĐỀ SỐ 1

    Câu123457
    Đáp ánBACAAB
    Số điểm0,50,50,50,50,50,5

    Câu 6. Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm

    a) Đ b) Sc) Đ d) S
    Câu 8: Mỗi phép tính đúng đƣợc 0,25 điểm
    2+ 3 = 52 + 6 = 88 – 4 = 47 – 2 = 5
    3 + 4 = 75 + 4 = 910 – 3 = 79 – 5 = 4

    Câu 9: Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm
    + 5
    – 4
    – 3 – 4
    5
    3
    8
    4
    8 1
    24

    Câu 10: Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm
    3 hình vuông
    2 hình chữ nhật
    4 hình tròn
    2 hình tam giác
    Câu 11: Mỗi ý đúng đƣợc 0,5 điểm
    2 khối hình lập phương
    4 khối hình hộp chữ nhật

    Câu 12: Mỗi ý đúng đƣợc 0,5 điểm

    8+2=1041=3
    Đề số 2ĐỀ KIỂM TRA ĐỊNH KÌ CUỐI HỌC KÌ 1 NĂM HỌC 2020 – 2021
    MÔN: TOÁN – LỚP 1

    Em hãy khoanh vào chữ cái trước kết quả đúng hoặc làm theo yêu cầu:
    Câu 1: Số thích hợp viết tiếp vào dãy số 9, 8, 7, 6,…
    A. 5 B. 7 C. 0 D. 6
    Câu 2: Các số 0, 3, 9, 10 viết theo thứ tự từ lớn đến bé là:

    A. 0, 3, 9, 10
    Câu 3: Số ?
    B. 9, 0, 3, 10
    8 – … = 2
    C. 9, 3, 0, 10D. 10, 9, 3, 0

    A. 3 B. 4 C. 5 D. 6
    Câu 4: Phép tính có kết quả bằng 7 là :
    A. 4 + 5 B. 5 + 5 C. 1 + 6 D. 4 + 4
    Câu 5. Điền dấu >, <, =
    5 + 4 ……..9
    A. > B. < C. =
    Câu 6. Đúng ghi Đ , sai ghi S

    a) 4 + 2 = 8c) 1 + 7 = 8
    b) 5 – 2 = 3d) 8 – 7 = 2

    Câu 7. Kết quả của phép tính : 9 – 1 – 2 = ?

    A. 2
    Câu 8: Tính
    B. 6C. 8

    D. 5

    4 + 3 = …….2 + 6 = …….9 – 4 = …….8 – 2 = …….
    3 + 4 = …….2 + 4 = …….5 – 3 = …….9 – 8 = …….

    25
    Câu 9: Điền số thích hợp vào chỗ chấm
    Câu 10: Hình vẽ bên có:
    ….. hình vuông
    …… hình chữ nhật
    …… hình tròn
    …… hình tam giác.
    Câu 11: Hình vẽ bên có:
    ….. khối hình lập phương
    ….. khối hình hộp chữ nhật
    Câu 12: Viết phép tính thích hợp với mỗi hình vẽ dƣới đây:
    + 8 + 1
    43
    – 2 – 2
    3
    0
    26
    ĐÁP ÁN VÀ HƢỚNG DẪN CHẤM ĐỀ SỐ 2

    Câu123457
    Đáp ánADDCCB
    Số điểm0,50,50,50,50,50,5

    Câu 6. Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm

    a) S b) Đc) Đ d) S

    Câu 8: Mỗi phép tính đúng đƣợc 0,25 điểm

    4 + 3 = 72 + 6 = 89 – 4 = 58 – 2 = 6
    3 + 4 = 72 + 4 = 65 – 3 = 29 – 8 = 1

    Câu 9: Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm

    Câu 10: Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm
    3 hình vuông
    2 hình chữ nhật
    6 hình tròn
    5 hình tam giác
    Câu 11: Mỗi ý đúng đƣợc 0,5 điểm
    3 khối hình lập phương
    5 khối hình hộp chữ nhật

    Câu 12: Mỗi ý đúng đƣợc 0,5 điểm

    4+3=753=2
    Đề số 3ĐỀ KIỂM TRA ĐỊNH KÌ CUỐI HỌC KÌ 1 NĂM HỌC 2020 – 2021
    MÔN: TOÁN – LỚP 1

    Em hãy khoanh vào chữ cái trước kết quả đúng hoặc làm theo yêu cầu:

    Câu 1: Số?
    A. 1
    8 – 6 = ………..
    B. 2
    C. 3D. 0

    Câu 2: Các số 3, 5, 0, 9 viết theo thứ tự từ lớn đến bé là:

    A. 0, 3, 5, 9
    Câu 3: Số ?
    B. 9, 0, 3, 5
    1 + … = 7
    C. 9, 5, 3, 0D. 5, 9, 3, 0

    A. 3 B. 4 C. 5 D. 6
    Câu 4: Phép tính có kết quả bằng 5 là :
    A. 0 + 5 B. 1 + 5 C. 1 + 6 D. 3 + 3
    + 8 + 1
    43
    – 2 – 2
    3
    0 8 9
    5
    1
    27
    Câu 5. Điền dấu >, <, =
    5 + 4 …….. 6
    A. > B. < C. =
    Câu 6. Đúng ghi Đ , sai ghi S

    a) 2 + 2 = 5c) 2 + 7 = 9
    b) 9 – 2 = 7d) 7 – 7 = 10

    Câu 7. Kết quả của phép tính : 6 – 1 + 2 = ?

    A. 7
    Câu 8: Tính
    B. 8C. 6

    D. 5

    2 + 3 = …….1 + 6 = …….9 – 8 = …….6 – 2 = …….
    5 + 4 = …….1 + 4 = …….9 – 1 = …….9 – 6 = …….

    Câu 9: Điền số thích hợp vào chỗ chấm
    Câu 10: Hình vẽ bên có:
    ….. hình vuông
    …… hình chữ nhật
    …… hình tròn
    …… hình tam giác
    Câu 11: Hình vẽ bên có:
    ….. khối hình lập phương
    ….. khối hình hộp chữ nhật
    + 8
    – 6
    + 2 – 4
    7
    1
    28
    Câu 12: Viết phép tính thích hợp với mỗi hình vẽ dƣới đây:
    ĐÁP ÁN VÀ HƢỚNG DẪN CHẤM ĐỀ SỐ 3

    Câu123457
    Đáp ánBCDAAA
    Số điểm0,50,50,50,50,50,5

    Câu 6. Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm

    a) S b) Đc) Đ d) S

    Câu 8: Mỗi phép tính đúng đƣợc 0,25 điểm

    2 + 3 = 51 + 6 = 79 – 8 = 16 – 2 = 4
    5 + 4 = 91 + 4 = 59 – 1 = 89 – 6 = 3

    Câu 9: Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm

    Câu 10: Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm
    3 hình vuông
    3 hình chữ nhật
    1 hình tròn
    5 hình tam giác
    Câu 11: Mỗi ý đúng đƣợc 0,5 điểm
    5 khối hình lập phương
    2 khối hình hộp chữ nhật

    Câu 12: Mỗi ý đúng đƣợc 0,5 điểm

    51=45+1=6

    3
    9
    + 8
    – 6
    + 2 – 4
    7
    1 5
    3
    29

    Đề số 4ĐỀ KIỂM TRA ĐỊNH KÌ CUỐI HỌC KÌ 1 NĂM HỌC 2020 – 2021
    MÔN: TOÁN – LỚP 1

    Em hãy khoanh vào chữ cái trước kết quả đúng hoặc làm theo yêu cầu:

    Câu 1: Số?
    A. 1
    6 – 6 = ………..
    B. 2
    C. 3D. 0

    Câu 2: Các số 3, 5, 0, 9 viết theo thứ tự từ bé đến lớn là:
    A. 0, 3, 5, 9 B. 9, 0, 3, 5 C. 9, 5, 3, 0 D. 5, 9, 3, 0
    Câu 3: Số lớn nhất trong các số: 6; 9; 2; 7 là số:
    A. 6 B. 9 C. 2 D. 7
    Câu 4: Phép tính có kết quả bằng 6 là :
    A. 0 + 5 B. 2 + 5 C. 1 + 6 D. 3 + 3
    Câu 5. Điền dấu >, <, =
    9 – 7 …….. 6
    A. > B. < C. =
    Câu 6. Đúng ghi Đ , sai ghi S

    a) 2 + 2 = 4c) 2 + 1 = 3
    b) 9 – 2 = 6d) 7 – 7 = 0

    Câu 7. Kết quả của phép tính : 9 – 6 + 3 = ?

    A. 7
    Câu 8: Tính
    B. 8C. 6D. 5
    7 + 3 = …….3 + 6 = …….9 – 0 = …….8 – 2 = …….
    2 + 4 = …….4 + 4 = …….9 – 9 = …….8 – 6 = …….

    Câu 9: Điền số thích hợp vào chỗ chấm
    Câu 10: Hình vẽ bên có:
    ….. hình vuông
    …… hình chữ nhật
    …… hình tròn
    …… hình tam giác
    + 4
    – 3
    + 1 – 4
    4
    1
    30
    Câu 11: Hình vẽ bên có:
    ….. khối hình lập phương
    ….. khối hình hộp chữ nhật
    Câu 12: Viết phép tính thích hợp với mỗi hình vẽ dƣới đây:
    ĐÁP ÁN VÀ HƢỚNG DẪN CHẤM ĐỀ SỐ 4

    Câu123457
    Đáp ánDABDBC
    Số điểm0,50,50,50,50,50,5

    Câu 6. Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm

    a) Đ b) Sc) Đ d) Đ

    Câu 8: Mỗi phép tính đúng đƣợc 0,25 điểm

    7 + 3 = 103 + 6 = 99 – 0 = 98 – 2 = 6
    2 + 4 = 64 + 4 = 89 – 9 = 08 – 6 = 2

    Câu 9: Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm
    5 2
    + 4
    – 3
    + 1 – 4
    4
    1 3
    3
    31

    Câu 10: Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm
    2 hình vuông
    1 hình chữ nhật
    2 hình tròn
    5 hình tam giác
    Câu 11: Mỗi ý đúng đƣợc 0,5 điểm
    3 khối hình lập phương
    4 khối hình hộp chữ nhật

    Câu 12: Mỗi ý đúng đƣợc 0,5 điểm

    83=52+1=3
    Đề số 5ĐỀ KIỂM TRA ĐỊNH KÌ CUỐI HỌC KÌ 1 NĂM HỌC 2020 – 2021
    MÔN: TOÁN – LỚP 1

    Em hãy khoanh vào chữ cái trước kết quả đúng hoặc làm theo yêu cầu:

    Câu 1: Số?
    A. 6
    5 + 3 = ………..
    B. 8
    C. 7D. 9

    Câu 2: Các số 5, 4, 8, 9 viết theo thứ tự từ bé đến lớn là:
    A. 5, 4, 8, 9 B. 9, 8, 4, 5 C. 9, 5, 8, 4 D. 4, 5, 8, 9
    Câu 3: Số bé nhất trong các số: 1 ; 9 ; 3 ; 7 là số:
    A. 1 B. 9 C. 3 D. 7
    Câu 4: Phép tính có kết quả bằng 4 là :
    A. 0 + 5 B. 5 – 1 C. 6 – 3 D. 9 – 3
    Câu 5. Điền dấu >, <, =
    3 + 2 …….. 7
    A. > B. < C. =
    Câu 6. Đúng ghi Đ , sai ghi S

    a) 7 + 2 = 9c) 3 + 1 = 3
    b) 9 – 2 = 6d) 8 – 5 = 3

    Câu 7. Kết quả của phép tính : 3 + 5 – 6 = ?

    A. 4
    Câu 8: Tính
    B. 3C. 2D. 5
    5 + 3 = …….3 + 5 = …….6 – 0 = …….7 – 2 = …….
    2 + 4 = …….4 + 4 = …….9 – 7 = …….7 – 6 = …….

    32
    Câu 9: Điền số thích hợp vào chỗ chấm
    Câu 10: Hình vẽ bên có:
    ….. hình vuông
    …… hình chữ nhật
    …… hình tròn
    …… hình tam giác
    Câu 11: Hình vẽ bên có:
    ….. khối hình lập phương
    ….. khối hình hộp chữ nhật
    Câu 12: Viết phép tính thích hợp với mỗi hình vẽ dƣới đây:
    + 5
    – 3
    + 1 – 4
    9
    1
    33
    ĐÁP ÁN VÀ HƢỚNG DẪN CHẤM ĐỀ SỐ 5

    Câu123457
    Đáp ánBDABBC
    Số điểm0,50,50,50,50,50,5

    Câu 6. Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm

    a) Đ b) Sc) S d) Đ

    Câu 8: Mỗi phép tính đúng đƣợc 0,25 điểm

    5 + 3 = 83 + 5 = 86 – 0 = 67 – 2 = 5
    2 + 4 = 64 + 4 = 89 – 7 = 27 – 6 = 1

    Câu 9: Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm

    Câu 10: Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm
    3 hình vuông
    4 hình chữ nhật
    1 hình tròn
    4 hình tam giác
    Câu 11: Mỗi ý đúng đƣợc 0,5 điểm
    4 khối hình lập phương
    3 khối hình hộp chữ nhật

    Câu 12: Mỗi ý đúng đƣợc 0,5 điểm

    74=32+3=5
    Đề số 6ĐỀ KIỂM TRA ĐỊNH KÌ CUỐI HỌC KÌ 1 NĂM HỌC 2020 – 2021
    MÔN: TOÁN – LỚP 1

    Em hãy khoanh vào chữ cái trước kết quả đúng hoặc làm theo yêu cầu:
    Câu 1: Số? 3 + 4 =…..
    A. 9 B. 8 C. 7 D. 6
    Câu 2: Số nhỏ nhất trong các số: 5 ; 9 ; 2 ; 7 là số:
    A. 5 B. 9 C. 2 D. 7
    Câu 3: Số điền vào chỗ chấm trong phép tính: 4 + ….= 9 là:

    A. 5B. 4C. 3D. 2
    Câu 4:8 ….. 1 + 7 . Dấu cần điền vào chỗ chấm là:

    A. > B. < C. =
    Câu 5: Cho dãy số 0; 2; 4; 6; ……. Số thích hợp điền vào chỗ chấm là:
    A. 7 B. 8 C. 9
    6 3
    + 5
    – 3
    + 1 – 4
    9
    1 8
    5
    34
    Câu 6: Điền dấu +; – thích hợp vào chỗ chấm:
    A. 6 …. 1 = 5 B. 7….. 3 = 10

    C. 8 …. 1 = 9D. 6 …… 4 = 2
    Câu 7:4 + 5 …… 9 – 2. Dấu cần điền vào chỗ chấm là:
    A. >
    Câu 8: Tính:
    B. <C. =
    5 + 3 = …….2 + 3 = …….9 – 4 = …….4 – 2 = …….
    6 + 4 = …….5 + 2 = …….9 – 3 = …….5 – 5 = …….
    Câu 9 : Số?

    Câu 10: Số?
    Hình bên có:
    …. hình tam giác.
    …. hình vuông.
    Câu 11: Số?
    Hình bên có:
    ……. Khối lập phương.
    ……. Khối hình hộp chữ nhật.
    Câu 12: Viết phép tính thích hợp với hình vẽ
    a. b.
    1
    0
    + 5 – 3
    – 2 + 8
    35
    ĐÁP ÁN VÀ HƢỚNG DẪN CHẤM ĐỀ SỐ 6

    Câu123457
    Đáp ánCCACBA
    Số điểm0,50,50,50,50,50,5

    Câu 6. Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm

    A. – B. +C. + D. –

    Câu 8: Mỗi phép tính đúng đƣợc 0,25 điểm

    5 + 3 = 82 + 3 = 59 – 4 = 54 – 2 = 2
    6 + 4 = 105 + 2 = 79 – 3 = 65 – 5 = 0

    Câu 9: Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm

    Câu 10: Mỗi ý đúng đƣợc 0,5 điểm
    1 hình tam giác
    2 hình vuông
    Câu 11: Mỗi ý đúng đƣợc 0,5 điểm
    2 khối hình lập phương
    2 khối hình hộp chữ nhật

    Câu 12: Mỗi ý đúng đƣợc 0,5 điểm

    5+3=851=4
    Đề số 7ĐỀ KIỂM TRA ĐỊNH KÌ CUỐI HỌC KÌ 1 NĂM HỌC 2020 – 2021
    MÔN: TOÁN – LỚP 1

    Em hãy khoanh vào chữ cái trước kết quả đúng hoặc làm theo yêu cầu:

    Câu 1: Số?
    A. 6
    8 – 2 = ………..
    B. 8
    C. 7D. 9

    Câu 2: Các số 5, 4, 0, 9 viết theo thứ tự từ bé đến lớn là:
    A. 5, 4, 0, 9 B. 9, 0, 4, 5 C. 9, 5, 0, 4 D. 0, 4, 5, 9
    Câu 3: Số lớn nhất trong các số: 1 ; 5 ; 3 ; 7 là số:
    A. 1 B. 9 C. 3 D. 7
    Câu 4: Phép tính có kết quả bằng 8 là :
    A. 2 + 5 B. 5 – 3 C. 6 + 2 D. 9 – 3
    1 6
    0 8
    3
    2
    + 5 – 3
    – 2 + 8
    36
    Câu 5. Điền dấu >, <, =
    3 + 6 …….. 7
    A. > B. < C. =
    Câu 6. Đúng ghi Đ , sai ghi S

    a) 1 + 2 = 8c) 3 + 1 = 4
    b) 9 – 2 = 7d) 8 – 7 = 3

    Câu 7. Kết quả của phép tính : 4 + 5 – 8 = ?

    A. 4
    Câu 8: Tính
    B. 3C. 2

    D. 1

    5 + 2 = …….3 + 5 = …….6 – 6 = …….7 – 4 = …….
    2 + 5 = …….5 + 3 = …….7 – 7 = …….7 – 3 = …….

    Câu 9: Điền số thích hợp vào chỗ chấm
    Câu 10: Hình vẽ bên có:
    ….. hình vuông
    …… hình chữ nhật
    …… hình tròn
    …… hình tam giác
    Câu 11: Nối ?
    + 6
    – 7
    + 0 – 4
    8
    3
    khối lập phương khối hộp chữ nhật
    37
    Câu 12: Viết phép tính thích hợp với mỗi hình vẽ dƣới đây:
    ĐÁP ÁN VÀ HƢỚNG DẪN CHẤM ĐỀ SỐ 7

    Câu123457
    Đáp ánADDCAD
    Số điểm0,50,50,50,50,50,5

    Câu 6. Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm

    a) S b) Đc) Đ d) S

    Câu 8: Mỗi phép tính đúng đƣợc 0,25 điểm

    5 + 2 = 73 + 5 = 86 – 6 = 07 – 4 = 3
    2 + 5 = 75 + 3 = 87 – 7 = 07 – 3 = 4
    Câu 9: Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm

    Câu 10: Mỗi ý đúng đƣợc 0,25 điểm
    1 hình vuông
    5 hình chữ nhật
    2 hình tròn
    2 hình tam giác
    9 2
    + 6
    – 7
    + 0 – 4
    8
    3 8
    4
    38
    Câu 11: Nối mỗi hình đúng đƣợc 0,25 điểm
    Câu 12: Mỗi ý đúng đƣợc 0,5 điểm

    75=22+3=5
    Đề số 8ĐỀ KIỂM TRA ĐỊNH KÌ CUỐI HỌC KÌ 1 NĂM HỌC 2020 – 2021
    MÔN: TOÁN – LỚP 1

    Em hãy khoanh vào chữ cái trước kết quả đúng hoặc làm theo yêu cầu:

    Câu 1: Số?
    A. 6
    8 – 1 = ………..
    B. 8
    C. 7D. 9

    Câu 2: Các số 6, 3, 0, 9 viết theo thứ tự từ lớn đến bé là:
    A. 6, 3, 0, 9 B. 9, 0, 6, 3 C. 9, 6, 3, 0 D. 0, 3, 6, 9
    Câu 3: Số bé nhất trong các số: 1 ; 5 ; 3 ; 7 là số:
    A. 1 B. 5 C. 3 D. 7
    Câu 4: Phép tính có kết quả bằng 9 là :
    A. 4 + 5 B. 5 – 3 C. 6 + 2 D. 9 – 2
    Câu 5. Điền dấu >, <, =
    0 + 6 …….. 8
    A. > B. < C. =
    Câu 6. Đúng ghi Đ, sai ghi S

    a) 6 + 2 = 8c) 3 – 1 = 4
    b) 8 – 2 = 7d) 8 – 7 = 1

    Câu 7. Kết quả của phép tính: 8 – 5 + 4 = ?
    A. 4 B. 5 C. 6 D. 7

    khối lập phương

    khối hộp chữ nhật
    39
    Câu 8: Tính

    3 + 2 = …….3 + 6 = …….6 – 5 = …….7 – 6 = …….
    2 + 3 = …….6 + 3 = …….7 – 2 = …….7 – 4 = …….

    Câu 9: Điền số thích hợp vào chỗ chấ

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Biện pháp để xây dựng lớp học hạnh phúc

    SKKN Biện pháp để xây dựng lớp học hạnh phúc

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
    Tiểu học là bậc học nền tảng đặt nền móng vững chắc cho ngành giáo dục,
    góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng
    của nhân cách con người. Bởi vậy, giáo dục Việt Nam đã và đang có nhiều
    chuyển biến tích cực để bắt kịp với sự phát triển của giáo dục thế giới. Mục tiêu
    của giáo dục là “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri
    thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc
    và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực
    của công dân đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Trích
    Luật giáo dục).
    Để làm được việc này, từ năm 2008, bộ Giáo dục – Đào tạo đã phát động
    phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện – học sinh tích cực” rộng
    khắp trong cả nước. Trường học, lớp học được các em coi như ngôi nhà thứ hai
    của mình, để “mỗi ngày đến trường là một ngày vui” thật sự chứ không chỉ dừng
    lại là câu khẩu hiệu. Xây dựng trường học hạnh phúc tạo cơ hội cho nhà giáo đổi
    mới, thực hiện phương pháp giáo dục và các tình huống sư phạm phù hợp, đảm
    bảo các quy định về đạo đức nhà giáo; đồng thời mang lại hiệu quả và ý nghĩa
    quan trọng trong việc phát triển tình cảm xã hội của trẻ. Nhưng với bản thân tôi,
    mỗi ngày đến trường là một ngày chưa thật vui của cả cô và trò. Việc dạy dỗ các
    em không hề đơn giản như tôi từng ước mơ. Tất cả mọi thứ gọi là “niềm yêu
    nghề” chỉ là lời nói suông nếu chúng ta không hiểu, không từng ngày thật sự nỗ
    lực và cố gắng. Sự cầu toàn của tôi đặt ra bắt buộc các em phải theo khuân mẫu.
    Các em đến trường như một nghĩa vụ hơn là niềm đam mê, khát khao học hỏi,
    khám phá. Liệu rằng những đứa trẻ của mình có hạnh phúc không khi cứ “ lập
    trình” các em như một con robot như thế?
    Tôi đã suy nghĩ về việc giáo dục các em như hiện tại đã đáp ứng đúng tiêu
    chí mà ngành giáo dục đã đề ra? Các em có vui vẻ, có hạnh phúc khi đến trường,
    đến lớp không? Và tôi đã thực sự thay đổi suy nghĩ của bản thân về việc dạy học
    2
    hướng tới học sinh sau khi xem các tập phát sóng của chương trình “Thầy cô
    chúng ta đã thay đổi”, bởi bản thân mỗi đứa trẻ là một thế giới quan sinh động,
    các em có quyền sáng tạo và trải nghiệm. Sẽ thật phản giáo dục nếu cứ mãi bắt ép
    các em vào những thứ rập khuôn. Đội ngũ thầy cô giáo chúng ta cần phải suy
    nghĩ, đề ra những giải pháp thích hợp giúp các em phát huy được khả năng của
    mình trước tập thể lớp, cần tránh cho các em những biểu hiện ganh đua thái quá,
    cần phải làm sao để các em có tinh thần hợp tác, tạo nên một môi trường học tập
    thân thiện, giúp các em thêm yêu lớp, khăng khít với lớp, với mái trường mà
    mình đang học, các em xem “ trường học là nhà” đúng như khẩu hiệu đã đề ra.
    Là một giáo viên, tôi rất mong muốn góp phần vào việc nâng cao năng lực
    ứng xử sư phạm, đạo đức nhà giáo vì một trường học hạnh phúc đem lại hiệu quả
    thiết thực trong hoạt động dạy và học, học sinh không có cảm giác sợ và học
    trong áp lực, nơi khiến cả cô và trò đều có cảm giác “muốn đến”. Chính những lí
    do trên đã thúc đẩy tôi nghiên cứu đồng thời tích lũy kinh nghiệm để đến với đề
    tài “ Biện pháp để xây dựng lớp học hạnh phúc” góp phần đào tạo thế hệ trẻ
    phát triển toàn diện, bắt kịp xu thế toàn cầu hóa, thị trường hóa hiện nay.
    II. Mô tả giải pháp kỹ thuật
    II.1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Nền giáo dục của nước ta đã có những thay đổi tích cực giúp học sinh chủ
    động hơn trong học tập. Qua quan sát kết hợp trao đổi với bạn bè đồng nghiệp, tôi
    nhận thấy, những năm gần đây, giáo viên đã đi sâu nghiên cứu, tìm tòi và đúc kết
    nhiều biện pháp hay trong giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục. Ngoài ra,
    hưởng ứng các phong trào do ngành Giáo dục phát động, giáo viên đã có nhiều
    sáng tạo trong đổi mới phương pháp, hình thức dạy học. Nhờ đó, kết quả học tập
    và rèn luyện của học sinh được nâng cao rõ rệt. Bên cạnh đó, tôi cũng nhận thấy
    vẫn còn một số giáo viên tập trung quá nhiều vào việc giảng dạy văn hóa, ít quan
    tâm đến tâm tư, nguyện vọng của học sinh, khẩu hiệu “Mỗi ngày đến trường là
    một ngày vui” bị mờ nhạt; việc phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, các
    tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường chưa phát huy hiệu quả. Hầu hết mỗi
    3
    giáo viên đều có tấm lòng yêu thương học sinh, luôn quan tâm, chăm sóc và tôn
    trọng các em. Tuy nhiên, đôi khi do hoàn cảnh, cảm xúc của mỗi người mà trong
    quá trình giảng dạy đã có những hành vi gây tổn thương đến học sinh. Giáo viên
    không còn là động lực để các em học sinh tìm thấy niềm vui, sự sáng tạo trong
    học tập.
    Ngoài ra, xã hội luôn đặt kì vọng cao cho giáo viên và ngành Giáo dục;
    luôn quan niệm giáo viên phải là những con người chuẩn mực, vừa có tài vừa có
    tâm, là tấm gương cho học sinh noi theo. Thế nhưng thực tế cho thấy, với sự phát
    triển của báo chí, của mạng xã hội thì những hạn chế của ngành Giáo dục, của
    giáo viên dù là đúng hay sai sự thật đều được đưa lên với những tiêu đề giật gân
    làm cho giáo viên ngày càng thu mình lại, ngọn lửa đam mê với nghề cũng lụi
    dần. Bên cạnh đó, giáo viên còn bị áp lực từ kết quả thi, thành tích trong giáo dục;
    từ phụ huynh học sinh với tâm lý giao khoán con cho giáo viên. Và cuối cùng đó
    là áp lực từ chính bản thân mỗi giáo viên: luôn mong muốn học sinh hoàn thành
    tốt mọi điều mà mình lập trình sẵn, có như vậy mới là con ngoan, trò giỏi. Chính
    áp lực của giáo viên đã dồn lên đôi vai bé nhỏ của các em học sinh lúc nào không
    hay. Đến khi học sinh không đạt được như kì vọng của giáo viên khiến cho giáo
    viên chán nản, mệt mỏi, tình yêu với nghề giảm đi. Và thế là giáo viên và học sinh
    mỗi ngày đến trường không còn là một ngày vui, hạnh phúc, lớp học cũng trở nên
    tẻ nhạt, gượng ép.
    Năm học 2019 – 2020, tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ
    nhiệm và giảng dạy lớp 3C với tổng số là 34 học sinh và năm học 2020 – 2021 tôi
    chủ nhiệm và giảng dạy lớp 3D gồm 29 học sinh. Các em đi học chuyên cần đầy
    đủ. Bên cạnh những em mạnh dạn, tự tin còn không ít những em rụt rè, nhút nhát,
    không dám bày tỏ ý kiến cá nhân trước đông người hoặc không chủ động, tích cực
    tham gia việc lớp, việc trường; một vài em còn hiếu động, tự do trong các giờ tự
    quản; ích kỉ, không quan tâm đến người khác; một vài em luôn tỏ vẻ chán nản khi
    đi học hoặc không nhiệt tình với các hoạt động tập thể…
    Với mong muốn hiểu về mình, hiểu về học sinh để tạo môi trường học tập
    4
    lý tưởng, đầu năm học tôi đã phát phiếu điều tra tới từng em. Tôi hướng dẫn các
    em đánh dấu theo cảm xúc và suy nghĩ của mình. Tổng hợp phiếu của học sinh
    trong lớp và thu được kết quả như sau:

    Nội dung điều traSố học sinh mong muốn
    Lớp 3CLớp 3D
    1. Con muốn điều gì về cô giáo chủ nhiệm của con?
    – Cô cười nhiều hơn trong giờ học2725
    – Cô nhẹ nhàng dạy dỗ các con hơn2422
    – Cô không phê bình con trước lớp2926
    2. Con mong muốn điều gì về bạn bè trong lớp con?
    – Các bạn trong lớp biết yêu thương, giúp đỡ nhau2926
    – Các bạn luôn quan tâm đến nhau3024
    – Các bạn không nói tục, chửi bậy2823
    3. Con muốn lớp học của con được trang trí như thế nào?
    – Gọn gàng, sạch sẽ3327
    – Đẹp, có nhiều cây xanh3228
    4. Con muốn giờ học diễn ra như thế nào?
    – Mong được vừa học vừa chơi3429
    – Mong được cùng cô giáo và các bạn học tập vui
    vẻ.
    3328

    Từ kết quả trên cho thấy, học sinh luôn mong muốn cô giáo vui vẻ, nhẹ
    nhàng, bạn bè biết quan tâm, yêu thương nhau; lớp học trang trí sạch đẹp, khang
    trang. Đặc biệt, các em luôn muốn được tự học, tự khám phá kiến thức một cách
    vui vẻ,…
    Đánh giá lại bản thân cùng những mong muốn của học sinh, tôi thấy việc
    xây dựng một lớp học có đủ về cơ sở vật chất, không khí luôn vui vẻ là vấn đề cần
    quan tâm. Chúng ta cần làm những gì để cho học sinh luôn cảm thấy lớp học là
    ngôi nhà thứ hai của mình, cô giáo là mẹ hiền, còn các bạn là anh chị em. Tôi đã
    5
    mạnh dạn đưa ra đề tài xây dựng lớp học hạnh phúc trong 2 năm học kế tiếp nhau
    ở lớp 3C và lớp 3D và bước đầu đem lại một số kết quả nhất định.
    II.2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
    II.2.1. Xây dựng lớp học hạnh phúc:
    Theo Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Ân ( Phó Chủ tịch Công đoàn Giáo dục Việt
    Nam) đã chia sẻ: “Trường học hạnh phúc là nơi mà cả thầy cô, phụ huynh và học
    sinh đều cảm thấy hạnh phúc. Đó là nơi mà các thầy cô tìm được niềm đam mê,
    nhiệt huyết giảng dạy và tích cực đưa ra các phương pháp dạy học chủ động, sáng
    tạo, luôn hỗ trợ, giúp đỡ học trò của mình trong quá trình học tập, thiết lập được
    mối quan hệ thân thiết, gắn bó và chia sẻ với học sinh. Trường học hạnh phúc là
    nơi học sinh cảm thấy có hứng thú với những giờ học, không có áp lực, căng
    thẳng, mệt mỏi, được thỏa sức vui đùa, hòa đồng với bạn bè. Đối với phụ huynh,
    một trường học hạnh phúc là nơi họ muốn gửi gắm con em mình, để cho chúng
    được phát triển tốt nhất, nơi họ có thể tin tưởng giao phó tương lai của con em
    mình. Hơn thế nữa, trường học hạnh phúc là nơi không có bạo lực học đường,
    không có những vụ đánh nhau, xô xát giữa học sinh, không có những hành vi, lời
    lẽ vi phạm đạo đức xã hội, xúc phạm nhân phẩm, danh dự của nhà giáo. Đặc biệt,
    đó là nơi phải biết tôn trọng sự khác biệt, không áp đặt một cá nhân lên cái chung
    của tập thể.”
    Với tôi, hiểu một cách đơn giản, lớp học hạnh phúc là nơi khiến cả cô và
    trò đều có cảm giác “muốn đến”, là nơi có thể cảm nhận được sự an toàn, sự nâng
    đỡ hay sự thú vị khi có nhiều điều nằm trong nhu cầu được thỏa mãn là lớp học
    được xây lên đến từ trái tim biết cho đi yêu thương và chúng ta cũng sẽ nhận lại
    được quả ngọt từ sự yêu thương đó. Xây dựng lớp học hạnh phúc là tạo ra môi
    trường học tập thân thiện, an toàn, gần gũi với học sinh. Nơi mà ở đó học sinh
    được tạo điều kiện để sống khỏe mạnh, vui vẻ, tích cực học tập và tham gia các
    hoạt động khác, được giáo viên nhiệt tình giảng dạy, yêu thương, tôn trọng, được
    gia đình và cộng đồng tạo điều kiện phát huy hết tiềm năng của mình, quyền được
    đi học của học sinh được bảo đảm.
    6
    II.2.1.1. Xây dựng mối quan hệ thân thiết giữa giáo viên và học sinh:
    Mục tiêu: Xây dựng mối quan hệ thân thiết giữa giáo viên và học sinh giúp
    mang lại nhiều lợi ích to lớn, lâu dài với kết quả các hoạt động giáo dục và cuộc
    sống của học sinh trong lớp và ngoài xã hội.
    Chuẩn bị:
    – Các kế hoạch chi tiết cho mỗi hoạt động, phù hợp trong và ngoài lớp học.
    Ví dụ: Hoạt động sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt lớp, “ Vui Tết Trung thu – Chào chị
    Hằng, chú Cuội”; “ Giáng sinh an lành”,…
    – Các phiếu tìm hiểu: “ Bạn có muốn biết về tớ”; “ Điều chúng mình tự hào
    về bản thân”,…
    – Một số trò chơi phù hợp trong và ngoài không gian lớp.
    – Có kế hoạch chi tiết thể hiện sự phối hợp với nhà trường, liên đội, hội phụ
    huynh học sinh trong các hoạt động của lớp.
    Biện pháp tiến hành:
    – Tổ chức tìm hiểu theo các phiếu:
    Ví dụ: Phiếu “ Bạn có muốn biết về tớ”
    Giáo viên là người mẹ thứ hai của học sinh ở trường. Vì vậy, là một giáo
    viên chủ nhiệm lớp, để tạo sự thân thiện, gần gũi với học sinh, ngay từ khi nhận
    lớp, tôi đã chủ động giới thiệu với học sinh về tên, tuổi, sở thích, mơ ước, những
    điểm mạnh và những điểm còn hạn chế. Sau đó, tôi phát cho mỗi em một phiếu
    “Bạn có muốn biết về tớ?” để ghi lại thông tin của mình, giúp các em bớt lúng
    túng khi vừa ghi nhớ, vừa phải trình bày. Lần lượt từng em mạnh dạn đứng lên để
    giới thiệu về những sở thích, ước mơ cũng như mong muốn của mình. Hoạt động
    này giúp cô trò hiểu nhau đồng thời tạo một môi trường học tập thân thiện
    “Trường học là ngôi nhà thứ hai của em, thầy cô giáo như người thân trong gia
    đình”. Đó cũng là một hoạt động quan trọng tạo niềm tin, niềm hạnh phúc cho học
    sinh.
    7
    Phiếu “ Bạn có muốn biết về tớ”
    Phiếu khảo sát học sinh
    8
    – Lựa chọn vị trí ngồi phù hợp:
    Tiếp theo, ở những tuần đầu, tôi để cho các em tự lựa chọn chỗ ngồi của
    mình để phần nào nắm được đặc điểm tính cách của trẻ: mạnh dạn hay nhút nhát,
    thụ động hay tích cực…Tôi tiếp tục quan sát những biểu hiện về hành vi, thái độ
    tại vị trí ngồi mà các em lựa chọn để bắt đầu điều chỉnh cho phù hợp. Sau 1 tuần
    nhận lớp, tôi nắm được tương đối chính xác về tính cách của từng học sinh trong
    lớp. Buổi sinh hoạt lớp đầu tiên, tôi sắp xếp lại chỗ ngồi của học sinh cho phù
    hợp: các em chậm chạp ngồi cạnh các em nhanh nhẹn, em nhút nhát ngồi bên
    những em bạo dạn tự tin. Đồng thời, tôi còn xếp các em xen kẽ theo nhóm đối
    tượng: học sinh khá giỏi ngồi kèm học sinh yếu kém. Cách sắp xếp chỗ ngồi cho
    học sinh rất quan trọng vì trong quá trình học tập và hoạt động, các em làm việc
    theo nhóm nhiều. Đây là yếu tố góp phần không nhỏ vào việc phát triển một số kĩ
    năng của trẻ “Học thầy không tày học bạn”. Đó là câu thành ngữ mà bất cứ giáo
    viên chủ nhiệm nào cũng áp dụng khi tham gia giáo dục học sinh. Bên cạnh đó,
    tôi cũng thường đến lớp sớm để trò chuyện, hỏi thăm về tâm tư, tình cảm, sở thích
    từng em, có em gửi thư vào hộp điều em muốn nói. Nhờ vậy mà tôi nắm bắt được
    từng đối tượng học sinh trong lớp. Từ đó đề ra biện pháp giáo dục phù hợp, tạo
    không khí lớp học thân thiện, gần gũi giữa cô và trò, giữa trò và trò.
    – Tổ chức trò chơi và các hoạt động trải nghiệm:
    Đối với hoạt động trò chơi: Khác với lớp học truyền thống, lớp học hạnh
    phúc không áp đặt phát triển theo khuôn mẫu mà đóng vai trò định hướng để các
    em được làm những gì mình yêu thích và say mê. Ở đó, các em không học theo
    kiểu nhồi nhét mà được học những gì có ý nghĩa, được khơi gợi niềm yêu thích để
    tiếp tục tự tìm hiểu. Từng tiết học được biến hóa thành bài học thú vị qua những
    trò chơi. Tôi cố gắng phần đầu mỗi buổi học, dành ra 3 -5 phút để “khởi động”
    cùng các em. Đó là một trò chơi trí tuệ ngắn, một vài câu hát, mẩu chuyện, hay
    bức tranh nhỏ, đoạn video mà tôi thấy ý nghĩa… với mục đích cùng các em nói
    lên tâm tư, cảm xúc của mình. Như thế sẽ giúp tôi hiểu hơn về tính cách, tâm lí và
    9
    sở trưởng ở các em. Hay những giờ giải lao, thời gian trước buổi học, tôi thường
    sử dụng các câu hỏi đại loại như:
    – Sáng nay các bạn ăn món gì đấy, ngon không?
    – Các em đi học từ lúc mấy giờ?
    – Tối qua bạn nào đi ngủ sớm ( muộn) nhất? Vì sao?
    Chắc chắn để lớp học luôn hạnh phúc thì nụ cười và sự hài hước luôn đồng
    hành và được đặt lên hàng đầu ở mọi bài học, mọi tiết học trên lớp. Vì cô muốn
    mở lòng với các em, bản thân cô phải rất chân thành.
    Tôi học được cách ứng xử thông qua một câu nói khá hay: “Trường học
    chính là sự tôn trọng”. Điều này luôn đúng, vì đã là con người thì ai ai cũng
    muốn mình được tôn trọng. Nhưng nhiều ý nghĩ sẽ là: chỉ cần người lớn tôn trọng
    nhau là đủ, trẻ con thì không cần thiết, nhất là các con học sinh cấp 1. Nhiều khi ở
    trên lớp, tôi đã có những câu nói có dạng như:
    – Trời ơi! Có thế thôi mà không biết! (coi thường)
    – Học thế này thì mai này làm gì?… ( mỉa mai)
    – Thôi! Thôi! Ngồi xuống…! ( không tin tưởng)
    – Anh làm thế mà được à?…( xưng hô thiếu tôn trọng)
    Và tất nhiên, các em thật buồn, còn tôi thì không bận tâm mấy. Vì lỗi do
    các em mà, tôi đã nhắc nhở rồi, tôi đã giảng bài rất kĩ rồi…. và còn nhiều lí do
    ngụy biện nữa. Nhưng không đâu, thưa các thầy cô, lỗi do chính chúng ta. Chúng
    ta không chịu lắng nghe các em, không cho các em cơ hội bày tỏ lúc các em ở nhà
    như thế nào, đã diễn ra điều gì?… Tôi đã học cách bình tĩnh, lắng nghe, đặt mình
    vào vị trí của người khác, sẵn sàng nói lời xin lỗi và cùng tìm ra cách giải quyết,
    kết nối,… Vì nhờ đó, tôi mới hiểu các học trò của mình, nuôi dưỡng và truyền
    cảm xúc, truyền cảm hứng trong cuộc sống mới có thể giúp các em một cách hiệu
    quả. Và tôi đã thay đổi cách ứng xử của mình đó là:
    – Không sao đâu, thế em nhớ được điều gì thì nói cho cô nghe (muốn lắng
    nghe).
    10
    – Ồ, em thật thông minh, ý kiến chưa hợp với bài học nhưng rất hay trong
    thực tế… em cố gắng nêu ý kiến tiếp theo nào! ( hi vọng, tin tưởng)
    Kết quả tôi đạt được, học sinh rất thoải mái, tự tin, giáo viên cũng chẳng
    căng thẳng và áp lực. Tôi và các em đã được tôn trọng! Tôn trọng cảm xúc là một
    trong những yếu tố tạo nên lớp học hạnh phúc. Bởi dù ở lứa tuổi nào, các em cũng
    có những cảm xúc như người lớn: cần được lắng nghe, tôn trọng và được yêu
    thương, giúp các em tìm và phát huy thế mạnh của riêng mình.
    Vì chất lượng giáo dục của lớp, tôi cố gắng thường xuyên quan tâm bài vở
    của học sinh trên lớp, đi lại, kiểm tra, chấm và chữa bài…., để rồi đổi lấy là sự
    nóng giận liên tiếp. “Trời! Đơn vị diện tích viết thế này hả A?”; “Dạng toán đơn
    giản này mà em không nhớ gì chứ?”; Em bỏ bảng cửu chương đi, tự nhẩm xem
    nào!”…. Nghe những điều đó ai mà không căng thẳng, ai mà không dám sợ cô?
    Và việc làm tiếp sau đó có thể là: Cô phạt em chép lại 5 lần, 100 lần, thậm chí
    hơn nữa. Cô phạt trực nhật lớp, phạt đứng, phạt viết bản kiểm điểm…Chính điều
    này làm cho các em muốn hỏi nhưng không dám hỏi, lo lắng, sợ hãi cô, vì kiểu gì
    cô cũng “moi” cái sai của mình cho cả lớp biết. Nhưng cứ đổ lỗi cho áp lực thành
    tích thì lớp học sẽ có thể hạnh phúc hay sao? Lớp học hạnh phúc phải là lớp học
    không có sự bắt nạt, không có bất công và áp lực. Và tôi đã tìm ra cách giải quyết.
    Lúc này, tôi cần là sự bình tĩnh để đặt mình vào tâm thế của các em, trở thành
    người bạn biết hỗ trợ và giúp đỡ. Tôi đã học cách chấp nhận những lỗi sai của học
    trò và sẽ kiên nhẫn, tận tình hướng dẫn các em cách sửa sai thay vì cáu giận như
    trước kia. Điều đấy sẽ giúp các em tiếp thu tốt hơn, tự tin và hòa đồng hơn. Đặc
    biệt, biết cười nhiều hơn với các em. Điều này thật quan trọng thưa các thầy cô,
    chỉ cần một tiếng cười của cô giáo thôi cũng sẽ làm xóa tan mọi nỗi sợ hãi mà
    thay vào đó lại nhận được sự tin tưởng, sự biết ơn và yêu quý của các em. Tiếng
    cười giúp học sinh dễ đón nhận lỗi sai và tìm cách sửa chữa hơn là nghe lời chê
    bai từ cô. Từ đó, rèn luyện ý thức và khả năng tập trung từ chính nhận thức của
    bản thân.
    11
    Đối với các hoạt động trải nghiệm: Để cảm nhận được sự hạnh phúc, các
    em phải được tích lũy kiến thức thông qua những hoạt động trải nghiệm. Các hoạt
    động không chỉ nằm trong khuôn khổ lớp học mà còn được tổ chức ngoài khuôn
    viên trường lớp, giúp các em cảm nhận sâu sắc về thế giới tự nhiên xung quanh.
    Bên cạnh những hoạt động học tập, để tạo sự gần gũi, thân thiện giữa cô và trò,
    vào các ngày lễ lớn trong năm tôi thường kết hợp với Ban đại diện cha mẹ học
    sinh của lớp tổ chức giao lưu cho các em, tổ chức các trò chơi. Mỗi ngày lễ gắn
    với nhiều hoạt động có ý nghĩa.
    Ví dụ: Hoạt động “Vui Tết trung thu – Chào chị Hằng, chú Cuội”: cô, trò
    cùng nhau bày mâm cỗ và chia sẻ về nghĩa của ngày Tết; trải nghiệm hoạt động
    múa lân, múa sư tử của đoàn nghệ thuật tại địa phương.
    Các em học sinh vui Trung thu tại lớp
    12
    Tham gia hoạt động tập thể “ Vui Tết Trung thu”
    Đoàn múa lân, múa sƣ tử của địa phƣơng
    13
    Hoạt động “ Giáng sinh an lành” : Tôi thay bằng nhiều hình thức khác
    nhau, phối hợp cùng phụ huynh đóng vai ông già Noel đến phát quà cho mỗi em
    nhân ngày Noel, tổ chức các trò chơi phù hợp…
    Phụ huynh đóng ông già Noel đến phát quà
    Ông già Noel múa hát cùng các em
    14
    Hoạt động sinh hoạt lớp: Tôi tổ chức sinh hoạt theo chủ đề, chủ điểm. Các
    em được tự tin thể hiện khả năng hội họa, dẫn chương trình,… thông qua mỗi giờ
    sinh hoạt lớp.
    Các em học sinh lớp 3B trang trí bảng lớp
    Hoạt động sinh hoạt dưới cờ: các em được thỏa sức sáng tạo với những
    điệu múa đẹp, vở kịch hay,…
    Học sinh lớp 3C, 3D sinh hoạt dƣới cờ
    15
    Hoạt động tập thể: Các em được thể hiện tinh thần đoàn kết, cùng nhau
    hoạt động, giải quyết vấn đề, điều đó tạo nên một không khí sôi nổi, một lớp học
    hạnh phúc trong quá trình trải nghiệm cùng nhau,…
    Học sinh hào hứng tham gia hoạt động tập thể
    Qua các hoạt động đó, học sinh nào cũng hồ hởi, hào hứng thể hiện bản
    thân mình về năng khiếu cũng như mạnh dạn tặng quà cho bạn và cô, phấn khởi
    khi nhận quà và tự hứa sẽ cố gắng học tập tốt hơn.
    Về cách xưng hô giao tiếp giữa thầy và trò, có ý kiến cho rằng kiểu xưng
    hộ “cô mời con, cô mời con ngồi xuống, cảm ơn con, cho phép cô kiểm tra…” sẽ
    chiếm nhiều thời gian và làm mất đi sự nghiêm khắc của thầy, làm cho học sinh
    không sợ, không học. Trong nhiều năm qua, tôi thường sử dụng cách xưng hô nói
    trên đã mang lại hiệu quả rõ rệt: học sinh hăng hái phát biểu bài hơn vì các em
    thấy được sự gần gũi với mình hơn; các em trở nên tự tin hơn và sẽ không sợ khi
    phát biểu sai. Cách xưng hô đó không những càng làm tăng thêm tính nghiêm túc,
    tôn trọng mà còn giáo dục học sinh biết lễ phép và tạo nên mối quan hệ thân thiện
    trong lớp hơn.
    Đặc biệt hơn trong đợt học sinh nghỉ học vì dịch Covid-19, tôi vẫn thường
    xuyên trao đổi với phụ huynh, với học sinh thông qua điện thoại. Tôi giao bài cho
    16
    học sinh, động viên các con ôn bài nhưng không quên những lời nhắc nhở nhẹ
    nhàng: “Các con nhớ làm bài cô giao cẩn thận, thường xuyên giúp bố mẹ, ông bà
    việc nhẹ nhàng, vừa sức với con.” hay “Các con nhớ giữ vệ sinh nhé!.”
    Để xây dựng được lớp học hạnh phúc, bản thân tôi luôn tự nhủ cố gắng
    từng ngày để thật sự thay đổi, mong muốn cởi bỏ tất cả mọi thứ bên ngoài lớp
    học, hoàn toàn vui vẻ khi đến với các em, tạo cơ hội để gần gũi các em, xoá bỏ
    mọi ngăn cách về tuổi tác và tâm lý, trở thành người bạn thực sự của học sinh. Hy
    vọng rằng đến với các em bằng tình thương, sự tôn trọng, bằng cả tâm trí, sự sáng
    tạo thì các em sẽ hạnh phúc.
    II.2.1.2. Xây dựng mối quan hệ thân thiết giữa học sinh với học sinh:
    Mục tiêu: Xây dựng mối quan hệ thân thiết giữa học sinh với học sinh giúp
    các em hiểu được sự tôn trọng lịch sự với nhau trong giao tiếp, có cách ứng xử
    hợp lí với bạn, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
    Chuẩn bị: Xây dựng nội dung hoạt động của nhóm năng khiếu, nhóm cùng
    sở thích; một số trò chơi tăng cường vốn từ trong giao tiếp.
    Biện pháp tiến hành:
    – Hướng dẫn học sinh sử dụng ngôn ngữ phù hợp:
    Quan tâm tới sự phát triển nhân cách của học sinh bằng cách cư xử lịch sự,
    lễ phép khi giao tiếp là điều không thể thiếu. Con người giao tiếp thân thiện với
    nhau bằng nhiều phương tiện khác nhau như cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt nhưng giao
    tiếp bằng ngôn ngữ vẫn là quan trọng hơn cả. Để học sinh có được mối quan hệ
    thân thiện với bạn trong lớp, giáo viên cần hướng dẫn học sinh sử dụng lời nói với
    bạn sao cho thể hiện sự tôn trọng, tế nhị, lịch sự trong giao tiếp.
    Nhận thức việc dạy cho học sinh cách thể hiện lời nói thân thiện cùng bạn
    là cần thiết. Trong những năm qua cũng như đầu năm học này, thông qua tiết dạy,
    tôi đã cố gắng uốn nắn, sửa chữa lời nói cho học sinh. Ví dụ: Trong tiết học, khi
    trao đổi nội dung với bạn, tôi thường hướng học sinh sử dụng đại từ xưng hộ tôi
    và bạn cũng như: “Xin mời bạn, bạn cho tôi biết…, cảm ơn bạn…” Hay trong tiết
    17
    sinh hoạt lớp, khi nhận xét bạn, tôi hướng các em nhận xét bằng từ ngữ tế nhị, lịch
    sự. Chẳng hạn: “Tôi thấy bạn A còn quên đồ dùng, bạn cố gắng sắp đầy đủ để học
    tốt hơn nhé!”.
    Không chỉ có trong giờ học mà vào giờ ra chơi, tôi cũng thường xuyên gần
    gũi, theo dõi học sinh của mình chơi đùa cùng nhau. Đôi khi, có những học sinh
    nói chuyện với nhau bằng từ ngữ chưa hay như gọi nhau bằng “mày, tao”, “ông,
    bà”. Có những khi tôi còn nghe thấy tiếng nói tục, chửi nhau…. Với học sinh lớp
    3, nhiều khi các em không biết đó là những từ ngữ chưa hay, cũng có khi học sinh
    biết mà vẫn sử dụng, tôi lại gần mỉm cười và nhẹ nhàng nhắc nhở và giải thích
    cho học sinh hiểu. Nếu học sinh đó còn lặp lại ở những lần sau tôi nghiêm mặt,
    thậm chí phạt em đó.
    – Tăng cường sự gắn kết giữa học sinh với học sinh thông qua các hình
    thức hoạt động nhóm:
    Ngoài việc hướng dẫn học sinh sử dụng ngôn ngữ tế nhị, thiện cảm, tôi
    cũng đã sử dụng hình thức đôi bạn cùng tiến, các nhóm năng khiếu, nhóm cùng sở
    thích. Trong mỗi giờ học, tôi chia lớp thành các nhóm nhỏ để các em thảo luận,
    chia sẻ ý kiến giúp các em hợp tác với nhau và mạnh dạn trình bày ý kiến của
    mình. Thông qua các đội, nhóm, các em hiểu nhau hơn, có trách nhiệm giúp đỡ
    nhau cùng tiến bộ. Khi có chuyện xích mích giữa em này với em kia, tôi kịp thời
    can thiệp, không để mâu thuẫn kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến tình bạn. Tôi gặp
    gỡ trao đổi riêng với từng học sinh hoặc nhóm học sinh để biết rõ sự việc; phân
    tích ai đúng, ai sai; ai sai thì phải nhận lỗi và xin lỗi bạn, sau đó giảng hòa và bắt
    tay nhau vui vẻ trở lại. Từ đó, các em trở nên thân thiện với nhau hơn và đã hạn
    chế sự gây gổ, cãi nhau trong lớp học.
    II. 2.2. Xây dựng không gian lớp học:
    II. 2.2.1. Trang trí lớp
    Mục tiêu: Trang trí lớp giúp học sinh có không gian học tập thân thiện, tạo
    hứng thú và hiệu quả các hoạt động cho học sinh thông qua các góc.
    18
    Chuẩn bị:
    – Phối hợp cùng với Phụ huynh và học sinh trang trí lớp.
    – Lên kế hoạch xây dựng mô hình và nội dung các góc phù hợp với lớp học.
    – Vận động phụ huynh, học sinh ủng hộ, bổ sung trang thiết bị, đồ dùng,
    cây xanh cho các góc
    Biện pháp
    – Trang trí lớp theo góc, tạo hiệu quả trong các hoạt động giáo dục
    Không gian lớp học ảnh hưởng lớn đến tâm lý thoải mái của giáo viên và
    học sinh. Vì vậy, tôi luôn chú trọng để mang đến cho các em không gian học tập
    thân thiện và gần gũi với thiên nhiên. Thực hiện tích cực phong trào “Trường học
    xanh- sạch- đẹp -an toàn” mà cấp trên phát động, ngay từ đầu năm học, tôi đã
    phối hợp cùng phụ huynh trang trí lớp học bằng nhiều góc theo chủ điểm khác
    nhau như: Thư viện của em, thiên nhiên quanh em…Tủ đồ dùng luôn gọn gàng
    sắp xếp khoa học, sạch đẹp, để thuận tiện khi sử dụng.
    Phụ huynh và giáo viên trang trí không gian lớp học
    Với góc thư viện: Để tạo điều kiện cho các em ham đọc sách, mở rộng hiểu
    biết, phát triển khả năng đọc, rèn kĩ năng và trách nhiệm bảo quản tài sản chung,
    19
    tôi đã huy động học sinh và cha mẹ các em cùng tham gia xây dựng “Góc thư
    viện”. Thông qua công tác tuyên truyền, các em đã ủng hộ thêm được rất nhiều
    đầu sách vào thư viện lớp. Các loại sách được phân ra từng mảng như: sách giáo
    khoa, sách bài tập, sách bổ trợ nâng cao, sách an toàn giao thông và các loại
    truyện như truyện cổ tích, truyện tranh, truyện cười, truyện giáo dục đạo đức
    chuyện Bác Hồ, truyện khoa học viễn tưởng,… Chỉ trong khoảng thời gian ngắn
    sau khi phát động, góc thư viện lớp tôi đã rất phong phú với những cuốn sách,
    truyện hay để các em sử dụng vào giờ ra chơi, giờ nghỉ hay giờ đọc sách, hoạt
    động tập thể. Tự tay lựa chọn, sắp xếp; tự quản lí, sử dụng và bổ sung đầu sách
    thường xuyên giúp các em thêm yêu những giờ đọc sách.
    Góc thƣ viện sau khi học sinh sắp xếp
    Với góc môi trường: Chúng ta hiểu rằng hoạt động thần kinh căng thẳng sẽ
    dịu đi khi mắt ta bắt gặp màu xanh của cây lá, sắc hoa thiên nhiên. Trong các gia
    đình cũng vì lợi ích đó mà người ta hay trang trí cây xanh hay cây cảnh. Do vậy,
    cũng giống như mỗi căn nhà, tôi đã sử dụng “Góc môi t

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 yêu thích và học tốt phân môn lịch sử

    SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 yêu thích và học tốt phân môn lịch sử

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
    I.1. Lí do chọn sáng kiến
    Mỗi lần đọc những câu thơ của Người – vị Cha già vĩ đại của dân tộc mà tôi
    thấy xúc động vô cùng:
    “Dân ta phải biết sử ta
    Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
    Kể năm hơn bốn nghìn năm,
    Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà…”
    Đó là những câu thơ mở đầu trong bài “Nên học sử ta” được Bác Hồ viết vào
    tháng 2 năm 1942 trên báo Việt Nam độc lập. Đúng vậy, đã là người Việt Nam thì
    ai ai cũng phải nắm được lịch sử nước nhà, từ người già đến người trẻ, từ người
    thuộc tầng lớp trí thức đến nông dân,….. để biết được những việc đã diễn ra, có thật
    và tồn tại khách quan trong quá khứ. Đó là niềm rất đáng tự hào của cả dân tộc ta.
    Nó là truyền thống của một quốc gia. Do đó, mọi người dân đều phải có nghĩa vụ,
    trách nhiệm học tập, noi gương và phát huy những gì tốt đẹp trong quá khứ- những
    điều quý báu mà cha ông đã phải đổ biết bao mồ hôi và xương máu để gìn giữ đến
    ngày hôm nay.
    Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách
    học sinh, trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về tự nhiên và xã
    hội, phát triển các năng lực nhận thức, trang bị cho các em phương pháp kỹ năng
    sống về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Trong chương trình Tiểu học,
    học sinh được học rất nhiều môn với nhiều kiến thức, nội dung phong phú nhằm
    giúp học sinh hình thành những năng lực, phẩm chất đặc thù cần có ở người học
    sinh.
    Có thể nói Lịch sử là một môn học giúp trẻ em bước đầu nhận biết được về
    từng giai đoạn, thời kì lịch sử khác nhau của đất nước, từ đó còn bồi dưỡng thêm
    tình yêu thương, niềm biết ơn và lòng tự hào sâu sắc của con cháu đối với lớp lớp
    cha ông trong công cuộc đấu tranh, bảo vệ giữ nước. Nó không chỉ hướng các em
    biết về những thành quả ở hiện tại, biết kết nối hiện tại với quá khứ, mà còn tạo
    nền tảng cho sự phát triển trong tương lai. Và đây cũng là một môn học này không
    2
    thể thiếu trong chương trình giảng dạy nào ở hầu hết các nước trên thế giới bởi mỗi
    một nước đều có một trang sử hào hùng riêng đáng tự hào.
    Môn Lịch sử được đưa vào chương trình học bắt đầu từ lớp 4- nơi bước đầu
    hình thành cho học sinh các kĩ năng, tri thức, một cái nhìn đầy tự hào về sử ta. Các
    kiến thức trọng tâm của phân môn Lịch sử lớp 4 cung cấp cho các em học sinh
    những kiến thức cơ bản về các nhân vật lịch sử, các mốc sự kiện đánh dấu sự phát
    triển của đất nước theo từng giai đoạn, thời kì, đặc biệt là từ buổi đầu dựng nước
    cho tới nửa đầu thế kỉ XIX. Bên cạnh đó bước đầu rèn luyện và hình thành cho học
    sinh các kĩ năng: biết quan sát sự vật, hiện tượng, thu nhập, tìm kiếm tư liệu lịch sử
    từ các nguồn thông tin khác nhau, biết nêu thắc mắc và đặt câu hỏi trong quá trình
    học tập và chọn thông tin để giải đáp, nhận biết đúng các sự vật, sự kiện, hiện
    tượng lịch sử, biết trình bày lại kết quả học tập bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ
    đồ,…Vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống, góp phần bồi dưỡng thêm
    sự yêu thích môn học, tính ham học hỏi, tình yêu con người, quê hương, đất nước
    và sự tôn trọng, biết bảo vệ những cảnh quan thiên nhiên mà cha ông cha đã tạo
    dựng nên qua các thời kì, niềm tự hào về truyền thống dựng nước và giữ nước của
    cha ông. Từ đó biết nâng cao tinh thần, trách nhiệm của mỗi cá nhân: giữ gìn và
    tiếp tục phát huy những truyền thống tốt đẹp của cha ông.
    Tuy vậy, hiện nay vẫn còn một số giáo viên tiểu học vẫn còn coi nhẹ, chưa
    quan tâm xứng đáng cho tiết dạy Lịch sử và một số học sinh thì lại không có hứng
    thú khi học môn này dẫn đến chất lượng giờ của môn Lịch sử còn hạn chế. Do đó
    việc nâng cao chất lượng giờ học Lịch sử ở trường Tiểu học hiện nay là vấn đề bức
    thiết.
    Tại sao việc dạy học môn Lịch sử nói chung và ở bậc Tiểu học nói riêng lại
    chưa hiệu quả? Tại sao học sinh lại chưa thích học dù các kiến thức lịch sử ở nhiều
    bài đã được xây dựng như một câu chuyện? Tại sao học sinh chưa chăm? Phải
    chăng là do giáo viên dạy nhàm chán hay do học sinh hình thành suy nghĩ môn học
    không quan trọng? Tôi hi vọng rằng tất cả đều có giải pháp nếu ta hướng tới mục
    tiêu giảng dạy của mình trong môn học.
    Chính vì lẽ đó, trong quá trình giảng dạy và giáo dục học sinh tại trường Tiểu
    học Nghĩa Hùng tôi tiến hành tìm hiểu và có được một số kinh nghiệm mong được
    chia sẻ cùng quý đồng nghiệp qua đề tài: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 yêu
    thích và học tốt phân môn Lịch sử.”
    3
    I.2. Mục đích nghiên cứu:
    Trước hết tạo cho các con một niềm yêu thích môn học, hứng thú tìm hiểu
    Lịch sử khi cảm nhận được giá trị của nó. Điều đó là trách nhiệm của mỗi giáo
    viên chúng tôi. Vì vậy muốn học sinh yêu thích, học tốt môn Lịch sử thì giáo viên
    phải là người truyền cảm hứng, hứng thú học tập cho học sinh ngay từ đầu năm
    học.
    Thông qua sáng kiến kinh nghiệm này, tôi mong muốn góp một phần nhỏ của
    mình vào mục tiêu chung, nhằm:
    – Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói quen
    ham học hỏi, thích tìm hiểu lịch sử.
    – Giúp học sinh thêm yêu thiên nhiên, con người, quê hương, đất nước, biết
    tôn trọng và bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và văn hóa.
    – Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Lịch sử ở tiểu học.
    Với việc áp dụng sáng kiến này cho học sinh lớp 4A tôi chủ nhiệm năm học
    2021- 2022, gồm 25 học sinh, tôi cảm nhận được sự thay đổi về phương pháp, cách
    tiếp cận kiến thức đã bược đầu thành công trong việc dạy và học môn Lịch sử.
    I.3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
    I.3.1. Phạm vi nghiên cứu.
    Thực hiện biện pháp “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 yêu thích và học
    tốt phân môn Lịch sử” đối với lớp 4A trong các tiết học trong lớp và ngoài giờ lên
    lớp tại trường Tiểu học xã Nghĩa Hùng năm học 2020- 2021.
    I.3.2. Đối tượng nghiên cứu.
    – Điều kiện:
    + Phòng học: rộng rãi, đủ tiêu chuẩn.
    + Đồ dùng dạy học: Sách giáo khoa Lịch sử, Vở bài tập, phương tiện dạy học
    hiện đại có ti vi kết nối wifi đảm bảo chất lượng, đồ dùng dạy học tự làm, đồ dùng
    dạy học phục vụ cho giảng dạy.
    – Thời gian: Lần đầu áp dụng sáng kiến vào tháng 9/2020.
    – Đối tượng áp dụng sáng kiến:
    4
    + Lớp nghiên cứu: Học sinh lớp 4A trường Tiểu học xã Nghĩa Hùng năm học
    2020 – 2021.
    + Phạm vi áp dụng: Môn Lịch sử lớp 4.
    – Trong quá trình lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 yêu
    thích và học tốt phân môn Lịch sử”.
    I.4. Nội dung sáng kiến:
    I.4.1. Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:
    + Thay đổi các kĩ thuật, phương pháp dạy học và vận dụng linh hoạt, sáng tạo
    các hình thức tổ chức dạy học để học sinh được thoải mái, vui vẻ, phát huy được
    tính tích cực của học sinh và giờ học có chất lượng cao.
    + Giáo viên khai thác triệt để tính năng ưu việt của đồ dùng dạy học tự làm,
    của công nghệ thông tin, việc lĩnh hội tri thức đúng với thông điệp “học mà chơi,
    chơi mà học” thông qua các trò chơi lí thú, bổ ích, các hoạt động trải nghiệm ngoài
    giờ lên lớp, tuy nhiên không lạm dụng chúng quá mức mà cần linh hoạt áp dụng
    chúng, đem lại hiệu quả ở mức tối ưu nhất. Không chỉ vậy, học sinh còn được làm
    quen với phương tiện dạy học hiện đại là các video giới thiệu về các nhân vật lịch
    sử, các địa danh hay diễn biến của những cuộc đấy tranh đầy gay go, ác liệt nhưng
    cũng đầy tính táo bạo, bất ngờ của quân và dân ta trong mạng Internet. Mỗi bài
    học, tiết dạy đều được giáo viên xây xựng như những cuộc chơi kì thú, giúp các
    em khám phá những điều bổ ích, lý thú trong tâm thế hồ hởi, hứng khởi đầy say
    mê.
    I.4.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến
    Khi viết sáng kiến này, tôi tập trung nghiên cứu một số biện pháp có nội dung
    trọng tâm sau:
    – Sự chuẩn bị về cơ sở vật chất.
    – Sự chuẩn bị của giáo viên.
    – Các biện pháp giúp học sinh yêu thích và hứng thú đối với phân môn lịch sử
    + Giải pháp 1: Sử dụng linh hoạt và sáng tạo các kĩ thuật dạy học, các phương
    pháp, hình thức dạy học
    + Giải pháp 2: Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy
    5
    + Giải pháp 3: Tổ chức linh hoạt và sáng tạo các trò chơi
    + Giải pháp 4: Giáo viên cần mở rộng kiến thức cho học sinh sau mỗi bài học.
    + Giải pháp 5: Học lịch sử kết hợp với tham gia các hoạt động ngoại khóa.
    + Giải pháp 6: Khơi gợi hứng thú học tập của học sinh qua các góc học tập,
    thư viện lớp, trường học.
    I.4.3. Lợi ích thiết thực của sáng kiến:
    Học sinh yêu thích, có niềm say mê với môn học, qua đó biết được công cuộc
    dựng nước và giữ nước của cha ông ta vất vả như thế nào, hình thành tình yêu quyê
    hương, đất nước, niềm tự hào đối với những trang sử hào hung của dân tộc ta.
    Thành quả các em đạt được sẽ giúp các em hiểu giá trị của lao động và biết trân
    trọng thành quả của người xưa. Sự cảm nhận đó là động lực thúc đẩy học sinh học
    tập tốt hơn. Đó cũng chính là sự động viên đối với giáo viên, học sinh và cha mẹ
    các em.
    II. Mô tả giải pháp kỹ thuật
    II.1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    II.1.1. Cơ sở lí luận và thực tiễn
    Ở các lớp thuộc giai đoạn đầu của tiểu học: lớp 1, lớp 2, lớp 3 các em chưa
    được học môn Lịch sử do đó Lịch sử là môn học rất mới mẻ với các em khi đặt
    chân lên lớp 4. Có lẽ đó mà cách các em tiếp thu bài ở lớp 4 cũng lạ lẫm hơn với
    các lớp dưới rất nhiều. Hơn nữa phân môn lịch sử là phân môn đặc trưng, các em
    bước đâu phải làm quen với nhiều điều mới lạ như: bản đồ, lược đồ, bảng số liệu,
    sử liệu… Từ những điều nêu trên nếu người giáo viên không yêu thích, tâm huyết
    với môn học này, không biết vận dụng các hình thức dạy học cũng như không có
    phương pháp dạy học phù hợp, không biết khai thác triệt để các kênh thông tin,
    những học liệu hay không có những gợi mở để học sinh tự tìm tòi thì rất dễ làm
    cho các em không có hứng thú hoặc sợ học phân môn này.
    Từ tâm lý thích thú, háo hức khi lên lớp 4 được học thêm môn học mới, các
    em bị “vỡ mộng”, thực tế khi học môn này không giống như các em tưởng tượng.
    Khi đó vai trò của nhà trường, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm lớp thực sự rất quan
    trọng. Phải làm sao để đồng hành cùng với học sinh, chia sẻ với học sinh trong giai
    đoạn chuyển giao hoạt động học tập của các môn học từ lớp 1, 2, 3 lên lớp 4? Làm
    6
    cách nào để học sinh luôn duy trì được sự hào hứng, thích thú đến trường, cùng
    bạn bè, thầy cô học tập, tiếp thu những kiến thức thú vị, bổ ích mà các em chưa
    được biết đến, chưa được trải nghiệm từ môn Lịch sử? Đây cũng chính là vấn đề
    rất cần sự quan tâm kịp thời mà đôi khi các nhà trường và chính bản thân giáo viên
    chủ nhiệm lớp Bốn cũng chưa thực sự để tâm đến.
    II.1.2. Thực trạng của vấn đề khi áp dụng giải pháp mới
    * Về phía nhà trường:
    – Thiết bị dạy học trong môn Lịch sử còn hạn chế, thiếu tranh ảnh, bản đồ, mô
    hình,….nên trong quá trình dạy chưa được giáo viên đầu tư khai thác triệt để.
    – Công tác phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường
    thiếu sự đồng bộ, không chặt chẽ. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, các tiết
    sinh hoạt tập thể, ngoại khóa, trải nghiệm…chưa được chú trọng đúng mức, chưa
    lồng ghép được nội dung giáo dục lịch sử cho học sinh.
    * Về phía giáo viên:
    Với tâm huyết của một nhà giáo đồng thời bản thân cũng được phân công
    giảng dạy lớp 4- đây cũng là khối lớp bắt đầu các em được làm quen với lịch sử,
    tôi cũng cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, linh hoạt trong phương pháp giảng dạy để
    đưa lịch sử trở nên gần gũi hơn với các em học sinh, kích thích cho các em có
    hứng thú học và để các em cảm thấy học lịch sử không còn là một môn học quá
    khô khan, khó nhớ với rất nhiều các mốc lịch sử, sự kiện, nhân vật… đặc biệt là các
    em học sinh vùng nông thôn.
    Từ trước đến nay tôi hầu như chỉ quan tâm và nghiên cứu về vấn đề dạy và
    học Lịch sử nhưng các đề tài đó chỉ đi sâu vào một khía cạnh nhất định như: truyền
    dạy đủ tri thức cho học sinh khi học phân môn Lịch sử hoặc sử dụng một vài trò
    chơi trong dạy phân môn Lịch sử để thay đổi không khí lớp học,…mà chưa thực sự
    bỏ ra một chút tâm huyết nào để nghiên cứu sâu về vấn đề này.
    Trong quá trình dạy giáo viên ít sử dụng đồ dùng, đặc biệt là ngại áp dụng
    công nghệ thông tin vào dạy học, nếu có cũng chỉ trong các giờ thao giảng hoặc thi
    giáo viên giỏi. Vì vậy, tiết học thiếu trực quan sinh động, chưa gây hứng thú cho
    học sinh.
    7
    Là một giáo viên trẻ nên tôi cũng tự nhận thức được rằng kiến thức lịch sử
    của mình còn hạn chế vô cùng, chưa biết cách khai thác hết nội dung bài dạy, chưa
    mở rộng được kiến thức cho học sinh nên dẫn đến học sinh ghi nhớ một cách sách
    vở mà không có sự đọng lại trong tâm trí các em, chưa biết lồng ghép giáo dục lịch
    sử địa phương, đặc biệt là chưa vận dụng được vai trò của góc học tập, thư viện lớp
    học vào việc khơi dậy niềm đam mê học lịch sử của học sinh. Tất cả những nguyên
    do trên một phần đã khiến cho học sinh của tôi có kết quả môn Lịch sử chưa cao.
    * Về phía phụ huynh học sinh:
    Hầu hết các bậc phụ huynh có thái độ chưa coi trọng, chưa hỗ trợ các em
    trong môn học này. Họ thường xuyên chú ý hơn về các môn: Toán, Tiếng Việt,
    Tiếng Anh bởi lẽ đối với họ các em chỉ cần học tốt các môn đó là đã đủ rồi. Không
    cần học giỏi, không cần biết nhiều về môn Lịch sử thì có sao, các em vẫn trở thành
    những người có khả năng phát triển về kinh tế. Từ đó góp phần hình thành trong
    suy nghĩ của các em môn Lịch sử là môn học không quan trọng, không phải là môn
    để ưu tiên đầu tư thời gian cho việc phát triển trí tuệ. Đây là một trong nhưng suy
    nghĩ vô cùng lệch lạc của các bậc phụ huynh vì như thế họ đã gián tiếp giáo dục
    con em của mình trở thành một con người phát triển chưa hoàn thiện, chưa có tình
    yêu quê hương, đất nước: không biết được nhờ đâu mà chúng ta có ngày hôm nay?
    Chính vì thế mà kết quả của môn học chưa thực sự cao.
    II.1.3. Phân tích ưu, nhược điểm của giải pháp cũ
    – Ưu điểm: Trường tôi đã chỉ đạo việc dạy và học theo đúng chương trình.
    Bên cạnh các buổi sinh hoạt chuyên môn nghiệp vụ theo hướng nghiên cứu bài
    học, trường còn tổ chức các buổi giao lưu giữa giáo viên với giáo viên để trao đổi
    kinh nghiệm trong việc dạy học, đưa ra những phương pháp, những chương trình
    hành động phù hợp, thiết thực trong các hoạt động của trường, lớp; gặp gỡ giữa
    giáo viên với học sinh để kịp thời nắm bắt những tâm tư, nguyện vọng của các em
    với nhiều hình thức khác nhau. Về phía học sinh, các em ngoan ngoãn, vâng lời
    thầy cô, hòa đồng với bạn bè.
    – Hạn chế:
    + Để tạo ra một mối quan hệ tích cực giữa giáo viên và học sinh giúp cho quá
    trình học tập phát triển một cách hiệu quả đem lại lợi ích lâu dài cả về mặt học tập
    trong trường lớp và ngoài xã hội thì giáo viên phải vừa là một người thầy vừa là
    8
    một một người thầy, chưa để tâm đến học sinh với vai trò của một người bạn. Vì
    giáo người bạn đồng hành cùng học sinh. Tuy nhiên một số giáo viên mới chỉ dừng
    ở vai trò của viên còn đang đặt nặng vấn đề về thành tích, điểm số học tập mà bỏ
    quên mất chỉ số hạnh phúc và đời sống xã hội của các em. Cho nên khi tiếp xúc với
    các thầy cô, nhiều em học sinh còn rụt rè, ngại ngùng, chưa nói lên được những
    điều mìnhmong muốn.
    + Nhà trường còn đang gặp một số khó khăn về cơ sở vật chất, các trang biết
    bị hiện đại chưa đầy đủ khiến cho việc đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học
    cũng như các hoạt động tập thể chưa đạt hiệu quả cao.
    Theo dõi qua đánh giá thường xuyên, các biểu hiện hành vi của học sinh và
    dựa trên kết quả khảo sát mức độ hứng thú học tập cũng như mức độ tiếp thu về
    kiến thức kĩ năng của học sinh thông qua một số bài tập, đến giữa học kì I năm học
    2020-2021, tôi nhận được kết quả như sau:

    Tổng
    số học
    sinh
    Mức độ hứng thú
    Rất hứng thúHứng thúBình thườngKhông hứng
    thú
    25SLTLSLTLSLTLSLTL
    416%832%1352%00

    Bảng: Đánh giá mức độ hứng thú của học sinh

    Tổng số
    học sinh
    Mức độ nhận biết về kiến thức và kĩ năng
    Hoàn thành tốtHoàn thànhChưa hoàn thành
    25SLTLSLTLSLTL
    520%2080%00

    Bảng: Đánh giá mức độ nhận biết về kiến thức và kĩ năng của học sinh
    Từ thực trạng nói trên, tôi băn khoăn, trăn trở làm thế nào để học lịch sử trở
    thành niềm đam mê đối với học sinh, để các em hiểu hơn về truyền thống dân tộc,
    tự hào về những gì mà cha ông ta đã mang lại, qua đó góp phần nâng cao chất
    lượng của phân môn Lịch sử nói riêng và các môn học khác nói chung trong
    chương trình tiểu học.
    II.2. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN
    9
    II.2.1. Những vấn đề cần giải quyết
    – Sự chuẩn bị về cơ sở vật chất: Muốn giờ học đạt hiệu quả thì cần phải chuẩn
    bị tốt các điều kiện dạy học như:
    + Phòng học có đầy đủ ánh sáng, đảm bảo cho việc ngồi học của các em.
    + Nhà trường trang bị các thiết bị dạy học, sẵn sàng phục vụ việc học tập
    nhằm gây hứng thú cho các em học sinh: máy chiếu, ti vi có kết nối wifi,…
    – Sự chuẩn bị của giáo viên:
    + Trước hết, để giờ học đạt được hiệu quả cao, bản thân tôi luôn xác định
    rằng muốn các em học tốt môn Lịch sử thì giáo viên phải là người tâm huyết với
    nghề, yêu thích phân môn Lịch sử, nên tự trang bị cho mình kho tàng kiến thức về
    lịch sử là điều vô cùng cần thiết. Việc bồi dưỡng kho tàng này không bao giờ là đủ
    mà phải được thực hiện thường xuyên, liên tục suốt cuộc đời. Bởi vậy tôi luôn tìm
    đọc những cuốn sách về lịch sử, những câu chuyện, bộ phim lịch sử, em các tài
    liệu trên mạng internet để hiểu hơn về lịch sử dân tộc cũng như thế giới. Học sinh
    tiểu học vô cùng đáng yêu, các em xem giáo viên như là thần tượng, như là một
    chuẩn mực để hướng đến, các em bắt chước và làm theo giống như giáo viên. Lời
    giảng của giáo viên càng rõ ràng, càng truyền cảm sẽ gây được sự chú ý cao ở học
    sinh.
    + Bản thân tôi luôn nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, tìm tòi tài liệu, nắm vững
    mục tiêu các kiến thức cần truyền đạt, để từ đó có phương pháp giảng dạy thích
    hợp tới học sinh lớp mình. Trước khi lên lớp tôi nghiên cứu kĩ hoạt động dạy của
    môn Lịch sử để xác định rõ trọng tâm của bài, từ đó soạn bài, chuẩn bị đồ dùng
    cho tiết dạy một cách chi tiết, cụ thể phù hợp với nội dung bài học. Khi soạn bài
    cần soạn chi tiết, cụ thể, phân phối thời gian tiết dạy hợp lí, không để các em làm
    một việc quá lâu, tránh sự chán nản. Trong giảng dạy giáo viên vận dụng linh hoạt
    các kĩ thuật dạy học tích cực: kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật phòng tranh, kĩ thuật
    các mảnh ghép, kĩ thuật sơ đồ tư duy,…hay các phương pháp dạy học: phương
    pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai, …để tạo sự tò mò, gây được sự hứng
    thú, phấn khởi ở các em, từ đó nâng cao được hiệu quả của giờ dạy. Bên cạnh đó
    giáo viên linh hoạt, tinh tế trong việc động viên, khen thưởng kịp thời để tạo sự
    hứng thú học tập cho các em.
    10
    – Sự chuẩn bị của học sinh: Giáo viên, học sinh là hai đối tượng luôn song
    hành với nhau trong một tiết dạy. Ngoài sự chuẩn bị tiết dạy, khi lên lớp giáo viên
    chỉ thiết giảng mà không quan tâm đến sự chán nản, mệt mỏi của học sinh. Làm
    sao để khắc phục tình trạng trên? Không có cách nào khác, cần phải có sự hòa hợp,
    hợp tác nhịp nhàng giữa giáo viên và học sinh, học sinh cũng cần phải có sự chuẩn
    bị bài ở nhà trước khi đến lớp, tích cực sưu tầm tài liệu, sử liệu có liên quan đến
    bài học để việc học tập được tốt hơn. Đọc thêm sách báo, sách lịch sử, truyện kể
    lịch sử, em phim lịch sử để bổ sung, tích lũy kiến thức về môn học. Khi vào lớp
    chú ý nghe giảng, nghe theo sự hướng dẫn của giáo viên, biết hợp tác với các bạn
    trong nhóm, trong lớp để tập trung và hoàn thành tốt nội dung bài học. Có như thế
    mới thể hiện được sự hợp tác nhịp nhàng giữa người dạy- người học, tạo ra không
    khí vui tươi, phấn khởi, đem lại hiệu quả cao của giờ học.
    II.2.2. Các giải pháp giúp học sinh yêu thích và học tốt phân môn Lịch sử
    Giải pháp 1: Sử dụng linh hoạt và sáng tạo các kĩ thuật dạy học, các
    phương pháp, hình thức dạy học
    Thứ nhất: Sử dụng linh hoạt và sáng tạo các kĩ thuật dạy học
    Có rất nhiều các kĩ thuật dạy học khác nhau, giáo viên phải chọn lựa những
    kĩ thuật dạy học tích cực, phù hợp với đối tượng học sinh của mình, phù hợp với
    điều kiện thực tế của lớp học. Khi dạy học có kết hợp với các kĩ thuật dạy học này,
    các em có cơ hội được thực hành, trải nghiệm, tích cực, chủ động, làm cho các em
    thích thú, giờ học nhẹ nhàng, thiết thực, bổ ích. Cụ thể, đối với học sinh lớp 4A, tôi
    thường sử dụng những kĩ thuật dạy học sau:
    * Kĩ thuật khăn trải bàn
    Cả lớp được chia thành các nhóm nhỏ gồm 4 người. Mỗi nhóm sẽ có một tờ
    giấy đặt trên bàn, như là một chiếc khăn trải bàn. Chia tờ giấy thành phần chính
    giữa và phần xung quanh, tiếp tục chia phần xung quanh thành 4 phần tuỳ theo số
    thành viên của nhóm mình chia. Mỗi thành viên sẽ suy nghĩ và viết những suy nghĩ
    của mình (về một vấn đề nào đó mà giáo viên yêu cầu) vào phần cạnh “khăn trải
    bàn” phía trước mặt. Sau đó các bạn sẽ cùng nhau thảo luận nhóm, tìm ra những ý
    tưởng chung và viết vào phần chính giữa “khăn trải bàn”.
    11
    Ảnh: Mô phỏng kĩ thuật khăn trải bàn- Nguồn Internet
    Ví dụ : Bài 15: “Nước ta cuối thời Trần”
    Hoạt động 1: Tìm hiểu tình hình nước ta cuối thời Trần
    Ảnh: Nước ta cuối thời Trần- Nguồn Internet
    12
    Tôi yêu cầu học sinh đọc thông tin, kết hợp với tư liệu sưu tầm làm việc theo
    nhóm 4: Nêu tình hình nước ta cuối thời Trần bằng kĩ thuật khăn trải bàn. Sau đó
    cử đại diện trình bày trước lớp.
    Các em được làm việc, được ghi lại những ý kiến của bản thân rồi tổng hợp
    thành ý kiến chung của nhóm. Học sinh rất tích cực, hào hứng học tập với kĩ thuật
    dạy học này.
    Ảnh: Các em học sinh hoạt động nhóm bằng kỹ thuật khăn trải bàn
    13
    * Kĩ thuật các mảnh ghép
    Đây là hình thức học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa
    các nhóm nhằm giải quyết một nhiệm vụ phức hợp (có nhiều chủ đề); Kích thích
    sự tham gia tích cực của học sinh và nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình
    hợp tác.
    Kĩ thuật dạy học này giúp tạo ra những hoạt động đa dạng và phong phú. Khi
    giáo viên tổ chức hoạt động này, người học sẽ được tham gia vào các hoạt động
    với nhiệm vụ khác nhau và đương nhiên các mức độ yêu cầu cũng sẽ khác nhau. Ở
    đây đòi hỏi người học phải tích cực, nỗ lực tham gia và bị cuốn hút vào các hoạt
    động để hoàn thành vai trò, trách nhiệm của mỗi cá nhân. Thông qua hoạt động
    này góp phần hình thành ở người học tính chủ động, năng động, linh hoạt, sáng tạo
    và tinh thần trách nhiệm cao trong học tập đối với chính mình và các bạn trong lớp.
    Đồng thời cũng hình thành ở người học các kĩ năngnhư: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng
    trình bày, kĩ năng hợp tác- giải quyết các vấn đề…Đặc biệt người học có thể giải
    quyết các vấn đề học tập, trải nghiệm các tình huống thực tế từ “tự nghiên cứu”
    đến “hợp tác với bạn và thầy” và quay trở về “tự nghiên cứu” ở những tình huống
    mới dần dần sẽ tạo cho bản thân người học trình độ và năng lực tự học, tự nghiên
    cứu, năng lực tư duy, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề trong cuộc sống.
    Ảnh: Sơ đồ dạy học kỹ thuật các mảnh ghép- Nguồn Internet
    Ví dụ: Bài Trường học thời Hậu Lê
    14
    Tôi chia HS thành các nhóm, sau đó phân công cho mỗi nhóm thảo luận, tìm
    hiểu về một nội dung: Nhóm 1,2: Cách tổ chức trường học thời Hậu Lê; Nhóm 3,4:
    Dưới thời Lê, những ai được chọn vào học trong trường Quốc Tử Giám; Nhóm
    5,6: Nội dung học tập và thi cử dưới thời Hậu Lê; Nhóm 7,8: Nề nếp thi cử dưới
    thời Hậu Lê.
    Sau khi thảo luận nhóm về vấn đề đã được phân công, mỗi thành viên của các
    nhóm này sẽ tập hợp lại thành các nhóm mới, như vậy trong mỗi nhóm mới sẽ có
    đủ các HS đã tìm hiểu về vấn đề đã nêu ở trên và HS đã được tìm hiểu sâu vấn
    trong nhóm cũ sẽ có trách nhiệm trao đổi lại với cả nhóm về vấn đề mà mình có cơ
    hội tìm hiểu sâu.
    * Kĩ thuật sử dụng sơ đồ tư duy
    Việc sử dụng sơ đồ tư duy giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy
    động tối đa tiềm năng của bộ não, giúp hình thành và phát triển ở học sinh một số
    năng lực đặc thù như: năng lực tìm kiếm thông tin, năng lực khái quát hóa, trừu
    tượng hóa, năng lực giao tiếp- hợp tác- giải quyết các vấn đề,… Học sinh trở nên
    sáng tạo, tự tin hơn.
    Để các em có thể vẽ được sơ đồ tuy duy, tôi đã hướng dẫn các em thông qua
    các bước như sau:
    – Bước 1: Chủ đề (từ khóa gốc) nằm ở chính giữa (có thể là tên một đề mục,
    một bài học).
    – Bước 2: Từ trung tâm của sơ đồ tư duy vẽ các nhánh chính, mỗi nhánh thể
    hiện 1 nội dung chính của chủ đề (Tôi khuyến khích các em nên dùng các đường
    cong với các màu sắc khác nhau để dễ nhớ các nội dung bài học).
    – Bước 3: Cuối cùng, từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ thể hiện các
    đặc điểm của nhánh chính.
    Ví dụ: Bài: Nước Văn Lang
    15
    Ảnh: Bài: “Nhà nước Văn Lang”- Nguồn: Sách giáo khoa
    Để vẽ được sơ đồ tư duy thể hiện cơ cấu, bộ máy nhà nước, tình hình kinh tế-
    văn hóa- xã hội của nhà nước Văn Lang, tôi đã hướng dẫn học sinh như sau:
    – Chọn từ khóa chủ đề: Nước Văn Lang
    – Chọn các từ khóa nhánh chính: Hoàn cảnh ra đời, Thành lập, Tổ chức…
    – Chọn các từ khóa nhánh phụ: Học sinh tự tìm hiểu thông tin để viết vào
    16
    Ảnh: Học sinh vẽ sơ đồ tư duy về “Nhà nước Văn Lang”
    Thứ hai: Sử dụng linh hoạt và sáng tạo các phương pháp, hình thức dạy
    học
    * Phương pháp quan sát
    Tranh, ảnh, lược đồ,…là phương tiện dạy học rất đặc trưng của môn Lịch sử,
    giúp cho học sinh tái hiện lại những sự kiện, nhân vật lịch sử trong quá khứ, giúp
    học sinh có những hiểu biết sâu sắc về các sự kiện lịch sử đã học, tạo ra được biểu
    tượng lịch sử chân thực, chính xác, thông qua đó khơi dậy những xúc cảm nhất
    định.
    Thông qua các tranh ảnh về kinh thành, chùa chiền, lăng tẩm hay các hiện vật,
    chứng tích giáo viên cần giúp học sinh thấy được nét đặc trưng về văn hóa, xã hội,
    tín ngưỡng hay sự phát triển về kinh tế của từng triều đại, của một giai đoạn lịch sử
    nhất định.
    Ví dụ 1: Khi dạy bài: “Nhà Lý dời đô ra Thăng Long” ở hoạt động: Tìm hiểu
    việc dời đô và ý nghĩa của nó, tôi tổ chức cho học sinh khai thác ảnh như sau:
    17
    Ảnh: Một số hiện vật của kinh đô Thăng Long (thời Lý)- Nguồn Internet
    Bước 1: Cho học sinh quan sát hình ảnh ở SGK theo nhóm bàn
    Bước 2: Các nhóm thảo luận câu hỏi trong phiếu bài tập:
    + Em có nhận xét gì về các hiện vật có trong hình?
    + Những hiện vật đó chứng tỏ Thăng Long dưới triều nhà Lý được xây dựng
    như thế nào?
    Bước 3: Đại diện các nhóm chia sẻ trước lớp, bổ sung.
    Bước 4: Sau đó, tôi chốt lại: Trong quá trình đào móng để tiến hành xây dựng
    nhà quốc hội và Hội trường Ba Đình mới, đã lộ ra di tích của Hoàng thành Thăng
    Long xưa. Di tích đã được khai quật từ tháng 12- 2002 đến tháng 12-2003, với
    hàng triệu hiện vật về đồ gốm, đồ sứ, vật dụng, vật liệu xây dựng. Trong các hiện
    vật đó có các hiện vật bằng đất nung như lá đề, chim phượng và tượng đất nung
    chim uyên ương được chạm trổ tinh vi, uyển chuyển rất đẹp. Nhưng hiện vật độc
    đáo nhất là đầu rồng bằng đất nung thời Lý, điều đó chứng tỏ sự tài hoa của nhân
    dân ta.
    Ngoài ra, trong chương trình phân môn lịch sử lớp 4 có rất nhiều các tranh
    ảnh về các nhân vật lịch sử như Hai Bà Trưng, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Thái
    Tổ, Quang Trung,…. Mỗi nhân vật lịch sử gắn liền với một sự kiện hay giai đoạn
    18
    lịch sử nhất định. Qua việc khai thác sử dụng lược đồ, bản đồ, tôi thấy học sinh của
    mình rất hứng thú theo dõi bài giảng, ghi nhớ bền lâu, nhất là các mốc thời gian
    kèm theo những sự kiện tiêu biểu, những biến động kinh tế – xã hội thông qua biểu
    đồ, bảng thống kê.
    * Phương pháp thảo luận nhóm
    Dạy học theo nhóm là chia lớp ra thành các nhóm nhỏ. Giáo viên nêu ra vấn
    đề cần giải quyết và giao cho các nhóm thảo luận. Phương pháp này yêu cầu học
    sinh phải có tính hợp tác cao thì hiệu quả của nhóm mới đạt hiệu quả. Những vấn
    đề có nhiều cách hiểu hoặc phức tạp cần tranh luận hoặc những phần kết luận,
    nhận xét mà tác giả sách giáo khoa đã khéo léo “để dành”, không viết sẵn thì giáo
    viên cho học sinh thảo luận nhóm. Giáo viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn, chỉ
    đạo, điều khiển; còn học sinh tích cực, tự giác, chủ động làm việc với các nguồn tri
    thức dưới sự chỉ đạo của giáo viên.
    Ví dụ: Nước ta dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc
    Giáo viên hỏi: Sau khi thôn tính được nước ta, các triều đại phong kiến
    phương Bắc đã thi hành những chính sách áp bức bóc lột nào đối với nhân dân ta?
    Với câu hỏi này, mỗi học sinh đều có thể dựa vào sách giáo khoa và trả lời
    được dễ dàng: Chúng chia nước ta thành nhiều quận, huyện do chính quyền người
    Hán cai quản, chúng bắt nhân dân ta lên rừng săn voi, tê giác, bắt chim quý, đẵn gỗ
    trầm, xuống biển mò ngọc trai. giáo viên hỏi câu tiếp theo: Tìm sự khác biệt về
    tình hình nước ta về chủ quyền, về kinh tế, về văn hóa trước và sau khi bị các triều
    đại phong kiến phương Bắc đô hộ. Với câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải hoàn
    thành bảng so sánh, mỗi cá nhân phải phân tích, tổng hợp kiến thức bởi vậy giáo
    viên sẽ cho học sinh làm việc nhóm 4 hoặc nhóm 6. Qua làm việc trong nhóm dưới
    sự điều khiển của nhóm trưởng, học sinh được tự do nêu ý kiến của mình và thống
    nhất ý kiến đi đến kết quả chung. Làm việc như vậy, học sinh thấy rất thích thú và
    đem lại hiệu quả cao.
    19
    Ảnh: Các bạn học sinh tham gia thảo luận nhóm
    Áp dụng phương pháp này trong dạy học, tôi nhận thấy nó đem lại cho học
    sinh cơ hội được sử dụng các kiến thức và kỹ năng mà các em được lĩnh hội và rèn
    luyện, cho phép diễn đạt những ý tưởng, những khám phá của mình và mở rộng
    suy nghĩ và thực hành các kỹ năng tư duy như: so sánh, phân tích, tổng hợp, đánh
    giá, góp phần thực hiện các kĩ thuật dạy học. Ngoài ra phương pháp này còn giúp
    các em rèn luyện và phát triển kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp, tạo điều kiện
    cho học sinh giao lưu, học hỏi lẫn nhau, phát huy vai trò trách nhiệm, tính tích cực
    xã hội trên cơ sở làm việc hợp tác.
    * Phương pháp kể chuyện, đóng vai
    Có thể nói đây là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “làm thử” một
    số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Việc “diễn” không phải là
    phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng nhất là sự thảo luận sau phần
    diễn ấy. Học sinh cùng nhau tham gia giải quyết một tình huống của nội dung học
    tập gắn liền với thực tế cuộc sống bằng cách tự mình cùng với các bạn diễn xuất
    một cách ngẫu hứng mà không cần kịch bản hoặc luyện tập trước. Đồng thời, học
    sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi
    20
    trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn. Phương pháp này có rất nhiều
    ưu điểm như: kích thích thảo luận, tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo, học
    sinh tham gia có thức vào việc học tập tích cực, khích lệ sự thay đổi thái độ, hành
    vi của học sinh theo hướng tích cực.
    Ảnh: Học sinh giơ tay lên tham gia đóng vai
    21
    Ảnh: Học sinh tham gia đóng tiểu phẩm
    Giải pháp 2: Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy
    Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy và học lịch sử là giải pháp mà tôi
    thường xuyên sử dụng và chú trọng nhằm gây hứng thú cho học sinh. Đây là một
    cách làm rất tốt cho cả cô và trò vì tính trực quan sinh động của phương pháp này
    sẽ giúp quá khứ lịch sử được tái hiện một cách chân thực trong đời sống hiện tại,
    giống như một thước phim ngắn, giúp học sinh được trở về thời điểm hào hùng đầy
    khí thế, đáng tự hào ấy của cha ông. Từ đó giúp các em học tập một cách tích cực,
    chủ động, sáng tạo hơn.
    Tôi thường sử dụng ti vi để hỗ trợ cho việc tường thuật, miêu tả các sự kiện,
    hiện tượng lịch sử hoặc chiếu một đoạn phim tài liệu hay những mẩu chuyện về
    các nhân vật lịch sử, các trận đanh để các em được xem..
    Ví dụ 1: Khi dạy bài 25: “Quang Trung đại phá quân Thanh năm 1789”, tôi
    thực hiện như sau:
    Sau khi cho học sinh tìm hiểu diễn biến trong sách giáo khoa thì tôi cho các
    em chia sẻ trước lớp bằng ngôn ngữ nói và khả năng ghi nhớ của mình. Sau đó, tôi
    cho các em xem lại diễn biến của các cuộc khởi nghĩa đó trên máy chiếu, giúp các
    em hứng thú, muốn được tìm hiểu hơn và đặc biệt khắc sâu được kiến thức.
    22
    Ảnh: Lược đồ Quang Trung đại phá quân Thanh- Nguồn Internet
    Ví dụ 2: Hay khi dạy bài 28: “Kinh Thành Huế” tôi cho học sinh đọc thông
    tin trong sách giáo khoa sau đó tôi cho các em xem các slides giới thiệu về Kinh
    thành Huế.
    23
    Kinh thành Huế được xây dựng theo kiến trúc của phương Tây kết hợp kiến
    trúc thành quách phương Đông. Kinh thành gồm ba vòng thành: Phòng thành,
    Hoàng thành và Tử cấm thành. Phòng thành là vòng ngoài cùng có chu vi 9950m
    24
    Hoàng thành là vòng thứ hai có tên là Đại nội, có chu vi 2450m. Cửa chính
    của Hoàng thành là Ngọ môn, cửa này xưa chỉ dùng cho vua đi.
    Tử cấm thành là vòng trong cùng có chu vi 1225m.Đây là nơi ở, làm việc
    của vua và gia đình.
    25
    Thành có 10 cổng chính ra vào. Bên trên cửa thành xây các vọng gác có mái
    uốn cong hình chim phượng.
    Cửa Nam tòa thành có cột cờ cao 37m. Từ đỉnh cột cờ có thể nhìn thấy cửa
    biển Thuận An.
    Ngọ môn là cửa chính vào Hoàng thành. Cửa này chỉ dành cho vua đi.
    26
    Được đọc các thông tin kết hợp xem các hình ảnh và lời giới thiệu của giáo
    viên thì học sinh rất hào hứng, thích thú và học tập một cách hăng say và đạt kết
    quả tốt.
    Với việc sử dụng công nghệ thông tin hỗ trợ cho việc học, tôi thấy học sinh
    như bị lôi cuốn vào tiết học, các em hăng hái, sôi nổi tích cực hẳn lên. Tiết học lịch
    sử vốn khô khan vì thế mà trở nên nhẹ nhàng, hiệu quả hơn.
    Giải pháp 3: Tổ chức linh hoạt và sáng tạo các trò chơi
    Việc tổ chức trò chơi trong các giờ dạy Lịch sử không nhằm mục đích
    giải trí cho học sinh mà điều quan trọng là thông qua các trò chơi sẽ tạo nên một
    không khí hăng say học tập, một không khí làm việc nghiêm túc để đi tìm cái phải
    hướng đến, đó là kiến thức lịch sử. Qua các trò chơi, các em có thể độc lập suy
    nghĩ, tìm tòi đồng thời vừa rèn luyện kĩ năng hoạt động nhóm cho các em để có
    đáp án vừa nhanh vừa chính xác. Vì vậy, khi các em học lịch sử thông qua các trò
    chơi sẽ tạo sự thoải mái hơn, hứng thú hơn. Từ đó, các em ghi nhớ những kiến thức
    cơ bản cần đạt.
    Với giải pháp này, tôi thường áp dụng trong những dạng bài ôn tập hoặc
    lồng ghép trong một số hoạt động giáo dục: Hoạt động trải nghiệm, Ngoài giờ lên
    lớp.
    Ví dụ 1: Trò chơi: “Ô chữ kì diệu”
    a. Chuẩn bị: Ô chữ được kẻ sẵn trên giấy A0 có dán giấy bóng kính để có thể
    dùng được nhiều lần, bút viết, bảng con.
    b. Cách tổ chức:
    Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên, mục đích của trò chơi.
    Bước 2: Hướng dẫn chơi: GV lần lượt đưa ra các câu hỏi theo ô hàng ngang
    để học sinh đoán. Để nhiều em được tham gia, tôi cho các em ghi nhanh đáp án
    vào bảng con, mỗi câu trả lời đúng sẽ tính một điểm, nếu ai đoán ra được chữ ở
    hàng dọc có thể giơ tay để nêu trước và được cộng thêm 10 điểm, nếu sai sẽ bị loại
    luôn. Nếu ô nào không ai giải được thì sẽ có câu hỏi gợi ý và đưa ra sau cùng.
    Bước 3: Thực hiện trò chơ

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt môn địa lý

    SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt môn địa lý

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Hiện nay đất nước chúng ta đang trong quá trình đổi mới kinh tế xã hội, đẩy
    mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đặc biệt là cuộc
    cách mạng công nghiệp 4.0. Hòa chung trong không khí đổi mới đó, ngành giáo
    dục cũng đã và đang có sự đổi mới đáng kể. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới
    căn bản, toàn diện GDĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
    điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã
    nêu rõ mục tiêu: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo
    dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và
    nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện
    và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình,
    yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục
    mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức
    giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao
    chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế
    hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc
    dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến
    trong khu vực”.
    Địa lí là khoa học chú trọng đến nghiên cứu các quy luật, các mối liên hệ
    giữa các thành phần, các hiện tượng cũng như các mối quan hệ giữa con người và
    tự nhiên. Trong trường Tiểu học, Địa lí là phân môn của môn Lịch sử và Địa lí, có
    mục tiêu cung cấp cho học sinh các biểu tượng địa lí, bước đầu hình thành một số
    khái niệm, xây dựng một số quan hệ địa lí đơn giản và rèn luyện các kỹ năng địa lí
    như: kỹ năng sử dụng bản đồ, kỹ năng nhận xét, so sánh, phân tích các mối quan
    hệ địa lí đơn giản. Do đặc điểm kiến thức của từng bài, từng chương có mối quan
    hệ chặt chẽ, lôgic, nên việc sử dụng bản đồ tư duy sẽ giúp các em nắm tri thức một
    cách hệ thống, dễ nhớ, hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn
    đề một cách khoa học, sâu sắc. Các em không chỉ học tốt các kiến thức trong sách
    vở mà còn nắm bắt được các kiến thức từ thực tế cuộc sống.
    Thực tiễn những năm gần đây cho thấy giáo viên đã nhận thức được sự cần
    thiết phải tiến hành đổi mới phương pháp dạy học, có ý thức cải tiến phương pháp
    dạy học. Tuy nhiên việc dạy và học các môn học nói chung và Địa lí nói riêng vẫn
    chưa vượt qua quỹ đạo cũ. Đó là phương pháp dạy học theo kiểu truyền thống, học
    sinh tiếp thu kiến thức một cách bị động mà kiến thức trong chương trình Địa lí 4
    đã được đưa vào dạy học với nhiều phương pháp khác như phương pháp trực quan,
    phương pháp dùng lời… Là một giáo viên đã nhiều năm giảng dạy lớp 4, tôi nhận
    4
    thấy, phần đông giáo viên chưa chú trọng đổi mới phương pháp dạy học môn Địa
    lí. Hơn nữa, một phần tư tưởng của phụ huynh vẫn chưa nhận thức được vai trò
    quan trọng của môn học này nên không quan tâm đôn đốc, nhắc nhở, không giúp
    con trong việc tìm hiểu kiến thức ở nhà. Trong những năm học vừa qua, nhằm
    tiếp cận với chương trình GDPT 2018 mà Bộ GD&ĐT đã ban hành, tôi đã tìm
    hiểu, nghiên cứu sâu hơn về môn Địa lí để tìm ra phương pháp dạy học phù hợp
    nhất đối với học sinh. Làm thế nào để lôi cuốn các em vào tiết học Địa lí? Dạy
    học thế nào để khơi dậy và nuôi dưỡng trí tò mò, sự ham hiểu biết khám phá của
    học sinh đối với thiên nhiên và đời sống xã hội, từ đó hình thành năng lực tự
    học và khả năng vận dụng tri thức địa lý vào thực tiễn? Phải đưa ra phương
    pháp học như thế nào để phụ huynh có thể tham gia vào việc dạy con học môn
    học này? … ..
    Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã tập trung nghiên cứu “Một số biện
    pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt môn Địa lí”
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Thực trạng công tác dạy và học môn Địa lí
    1.1.Ƣu điểm
    *Học sinh: Học sinh đang ở lứa tuổi tiểu học nên rất ham thích, tò mò,
    muốn khám phá những điều mới lạ. Nhiều học sinh tích cực học tập, tham gia nhiệt
    tình vào các hoạt động trong tiết học.
    *Giáo viên: Giáo viên say mê, nhiệt tình trong công tác giảng dạy, luôn tìm
    tòi, nghiên cứu và tích cực đổi mới phương pháp dạy học.
    Thực hiện đúng chương trình thời khóa biểu nhà trường xây dựng, đánh giá
    học sinh theo quy định.
    Giáo viên kết hợp cùng tổ chuyên môn tích cực làm đồ dùng dạy học để
    phục vụ cho tiết dạy.
    * Nhà trường: Tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên tích cực sinh hoạt chuyên
    môn, học tập nâng cao trình độ đào tạo.
    Nhà trường kết cùng phụ huynh học sinh đầu tư mua sắm trang thiết bị cần
    thiết cho việc dạy học các môn như: Tivi, máy chiếu, máy tính, máy in,….
    1.2. Hạn chế:
    *Học sinh: Ở lớp 4, học sinh mới được tiếp cận môn Địa lí nên các em
    chưa có nhiều hiểu biết, chưa có kiến thức về địa lí đất nước. Trong quá trình
    5
    học tập, một số học sinh còn gặp khó khăn trong việc sử dụng bản đồ, tìm kiếm
    thông tin liên quan đến kiến thức môn học,…..Khả năng tự học của các em còn
    hạn chế, việc tìm hiểu khám phá kiến thức còn ít nên việc lĩnh hội kiến thức đạt
    kết quả chưa cao.
    Vì đây là một trong những môn học mới đối với học sinh nên học sinh chưa
    biết cách nắm bắt kiến thức trọng tâm của bài học, học sinh học nhanh, nhớ nhanh
    nhưng cũng nhanh quên.
    *Giáo viên: Hình thức và phương pháp dạy học của giáo viên chưa thật sự
    phong phú. Phần lớn là giáo viên chỉ vận dụng giảng dạy đúng như sách hướng dẫn
    học (chủ yếu giảng dạy bằng lời theo phương pháp truyền thống) chưa có sự sáng
    tạo, mở rộng thêm kiến thức cuộc sống nên tiết học có sự nhàm chán.
    Việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên còn hạn chế. Đôi khi
    giáo viên chỉ sử dụng nững đồ dùng có sẵn một cách qua loa, dẫn đến học sinh
    tiếp nhận kiến thức một cách thụ động. Vì thời lượng của môn Địa lí rất ít (1
    tiết/ tuần) nên giáo viên ngại đầu tư đồ dùng cho tiết dạy, dẫn đến hiệu quả môn
    học không cao.
    * Phụ huynh: Phụ huynh quan tâm nhiều hơn đến các môn học chính là
    Toán, Tiếng Việt, Ngọai ngữ. Rất ít các bậc phụ huynh tham gia, quan tâm đến
    việc giúp con em mình tìm hiểu, khám phá nguồn kiến thức ở nhà, mà phần lớn chỉ
    là đôn đốc các con học thuộc phần ghi nhớ trong sách. Chính vì thế, bản thân học
    sinh không có sự sáng tạo mà chỉ tiếp nhận kiến thức một cách thụ động.
    * Về điều kiện ngoại cảnh: Do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 diễn
    biến phức tạp nên một số hoạt động trải nghiệm của học sinh không được diễn ra.
    2. Biện pháp nâng cao chất lƣợng giảng dạy môn Địa lí
    Để đạt được mục tiêu dạy học Địa lí ở tiểu học, cần có cách thức dạy học
    thích hợp nhằm làm cho học sinh không những nắm vững kiến thức Địa lí, mà còn
    phải rèn luyện cho các em kỹ năng, năng lực tự học địa lí đáp ứng yêu cầu ngày
    càng cao của đất nước, phù hợp xu thế thời đại “Học để biết, học để làm, học để tự
    khẳng định mình, học để cùng chung sống” (UNESCO). Vì vậy mọi hoạt động dạy
    và học đều hướng tập trung vào học sinh, hướng vào việc tổ chức phương pháp dạy
    học mang tính tích cực, chủ động, sáng tạo và triệt để khai thác mọi tiềm năng trí
    tuệ của học sinh. Trước những thực trạng như trên, ngay từ đầu năm học 2020 –
    2021, khi nhận lớp, tôi đã chú trọng không dạy lệch mà thực hiện theo đúng
    chương trình và thời khóa biểu của nhà trường đối với các môn học nói chung và
    môn Địa lí nói riêng. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã thực hiện một số biện pháp
    như sau:
    6
    Biện pháp 1: Giúp học sinh học tốt bằng sự chuẩn bị của giáo viên và
    học sinh
    Để tổ chức tốt quá trình dạy và học trên lớp thì một trong những yếu tố quan
    trọng của quá trình dạy học là khâu chuẩn bị bài dạy. Nếu giáo viên và học sinh
    chuẩn bị bài tốt trước khi lên lớp thì sẽ mở đường cho quá trình dạy và học đạt chất
    lượng cao và đặc biệt tạo tâm thế tự tin, chủ động ở mỗi người giáo viên trong mọi
    tình huống phát sinh. Cụ thể:
    *Về phía giáo viên:
    Giáo viên cần có nhận thức đúng đắn về ý nghĩa tầm quan trọng của công
    tác chuẩn bị bài dạy trước khi lên lớp; coi đây là một khâu không thể thiếu được để
    có một giờ dạy hiệu quả, biến thế bị động thành thế chủ động, làm chủ được mọi
    tình huống phát sinh.
    Giáo viên phải tìm hiểu kĩ về đặc trưng môn Địa lí, mục tiêu, nội dung
    chương trình môn Địa lí. Trước mỗi bài dạy, tôi thường nghiên cứu kĩ mục tiêu,
    nội dung trọng tâm của bài, lựa chọn đồ dùng, phương pháp dạy cho hiệu quả, hình
    thức tổ chức dạy học với từng bài, từng đối tượng học sinh.
    Ngoài kiến thức cơ bản trong Tài liệu hướng dẫn học, tôi thường xuyên đọc
    sách báo, tìm hiểu trên mạng Internet, sưu tầm thêm các tư liệu dạy học như tranh
    ảnh, video….để có thêm vốn kiến thức sâu rộng khi giảng dạy cho học sinh.
    Những kiến thức mới mang tính thời sự, sinh động sẽ thu hút được sự tập trung,
    chú ý, kích thích trí tò mò ở học sinh. Tôi cũng thường xuyên trao đổi kiến thức
    từng bài trong tổ chuyên môn để học hỏi kinh nghiệm từ những đồng nghiệp đã có
    nhiều kinh nghiệm trong dạy học.
    Việc học tập theo nhóm giúp học sinh phát huy tính tích cực trong học
    tập, tạo cho các em thói quen làm việc nhóm, hợp tác, thảo luận một vấn đề.
    Chính vậy, từ những tiết học đầu tiên, tôi đã hướng dẫn học sinh phương pháp
    học tập làm việc theo nhóm, tập huấn kĩ cho nhóm trưởng, thư kí và có sự thay
    đổi luân phiên trong các tuần học, đảm bảo sao cho tất cả học sinh trong lớp đều
    có thể tham gia vào tiết học.
    *Về phía học sinh:
    Để một tiết học thành công, hiệu quả thì sự chuẩn bị của học sinh giữ một
    vai trò hết sức quan trọng. Xác định được điều này nên ngay từ đầu năm học, trong
    cuộc họp phụ huynh học sinh, tôi cũng đưa ra một số yêu cầu, quy định mỗi học
    sinh phải có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập. Các bậc phụ huynh cần hướng cho
    cho con tìm đọc sách truyện về địa lí, địa danh Việt Nam. Học sinh phải có sự
    chuẩn bị bài trước ở nhà, sưu tầm tranh ảnh, tư liệu có liên quan đến bài học.
    7
    Trong quá trình học tập trên lớp, mỗi cá nhân học sinh cần tham gia tích cực
    vào tiết học dưới sự hướng dẫn của cô giáo, sự điều hành của nhóm trưởng khi
    tham gia các hoạt động nhóm.
    Biện pháp 2: Tạo cho học sinh hứng thú học tập, tính tò mò, khám phá,
    hào hứng trước khi bắt đầu tiết học
    Học tập cũng như làm việc muốn có hiệu quả thì phải có sự hứng thú, say
    mê. Kinh nghiệm thực tế cho thấy bất kì học sinh nào, từ học sinh có lực học trung
    bình đến học sinh khá, giỏi, muốn học tốt môn Địa lí thì trước hết phải ham thích,
    say mê Địa lí. Có hứng thú, say mê với môn học thì mới có tiền đề để học giỏi
    phân môn Địa lí, đồng thời, các em sẽ tự tin, mạnh dạn hơn. Chính vì vậy, tôi rất
    quan tâm đến việc nuôi dưỡng hứng thú học tập của học sinh.
    Bước vào đầu mỗi tiết học Địa lí, tùy từng nội dung bài, tôi thường kết hợp
    cùng Ban học tập áp dụng những hình thức dẫn dắt vào nội dung bài như: Sử dụng
    những câu hỏi mở, khơi gợi vấn đề; Đặt câu đố hay, thú vị để học sinh đoán ra tên
    bài học; Hay khởi động bằng một bài hát liên quan đến bài học; Sử dụng các trò
    chơi khởi động….
    2.1. Khởi động tiết học dưới dạng các trò chơi
    Để mở đầu tiết học Địa lí, tạo cho học sinh hứng thú khi bắt đầu tiết học, tôi
    thường tổ chức các trò chơi nhanh như: Đuổi hình bắt chữ, Giải ô chữ, Ong tìm
    mật, Vòng quay kì diệu,…. Các trò chơi này giúp cho tiết học trở nên sôi nổi, cuôn
    hút, giúp học sinh rèn luyện sự mạnh dạn, tự tin, khả năng phản xạ nhanh, sự sáng
    tạo, nâng cao tinh thần đoàn kết và sự tương tác giữ học sinh với học sinh, học ính
    với giáo viên,… Mở đầu tiết học Địa lí, các trò chơi thường được tôi tổ chức liên
    quan đến kiến thức của các tiết học trước như học sinh sẽ được tái hiện kiến thức
    về các vùng miền đã học hay tìm ra từ khóa liên quan đến nội dung bài học mới,
    làm tiền đề để giáo viên dẫn vào bài học một cách hấp dẫn.
    2.2. Khởi động tiết học bằng các câu hỏi gợi mở, khơi gợi vấn đề
    Các câu hỏi trong phần khởi động có thể là những câu hỏi gợi mợ, liên quan
    đến nội dung bài mới để cho học sinh phát hiện hay huy động vốn hiểu biết của
    mình để trả lời các câu hỏi ấy.. Các vấn đề hay câu hỏi được đưa ra sẽ giúp học
    sinh phát triển tư duy, xâu chuỗi vấn đề một cách mạch lạc đồng thời tạo hứng thú
    cho học sinh vào tiết học mới để khám phá vấn đề vừa được gợi mở.
    Ví dụ 1: Khi dạy bài Dãy Hoàng Liên Sơn (Hướng dẫn học Lịch sử và Địa
    lí lớp 4, tập 1)
    Để dẫn dắt vào nội dung bài học, tôi đặt ra câu hỏi cho học sinh: Em hãy nói
    về một dãy núi mà em biết? Đó là dãy núi nào? Dãy núi đó ở đâu? Học sinh sẽ trả
    8
    lời các câu hỏi theo hiểu biết của mình. Từ đó, tôi sẽ liên kết với nội dung bài học
    của ngày hôm đó là tìm hiểu về dãy núi Hoàng Liên Sơn.
    2.3. Khởi động bằng một bài hát hay một câu đố
    Khi khởi động tiết học bằng một bài hát hay một câu đố giúp cho tiết học trở
    nên vui vẻ. Qua việc múa hát hay giải câu đố, học sinh sẽ có tinh thần thoải mái hơn
    khi vào tiết học, phát huy óc sáng tạo nghệ thuật và tư duy khi giải câu đố.
    Ví dụ : Khi dạy bài Thủ đô Hà Nội (Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí lớp 4,
    tập 2)
    Trước khi bắt đầu vào tiết học, tôi kết hợp cùng Ban văn nghệ của lớp tổ chức
    cho cả lớp hát bài “Em yêu Hà Nội” để tạo không khí vui tươi, sôi nổi và nối kết vào
    bài học ngày hôm đó.
    Ví dụ 3: Để dẫn dắt vào bài Đồng bằng Nam Bộ (Hướng dẫn học Lịch sử
    và Địa lí lớp 4, tập 2)
    Tôi đưa ra câu đố cho học sinh:
    Sông nào chảy xuống Nam phần
    Đổ ra chín nhánh cửa sông như rồng
    Phun nước vào đến biển Đông
    Phù sa bồi đắp cho đồng lúa xanh?
    (Sông Cửu Long)
    Sau đó tôi dẫn dắt vào bài học: Sông Cửu Long là một con sông lớn thuộc
    Đồng bằng Nam Bộ của đất nước ta. Vì sao sông lại có tên là Cửu Long? Và con
    sông này có vai trò quan trọng gì đối với đời sống sinh hoạt và sản xuất của người
    dân Nam Bộ. Hôm nay, cô trò mình sẽ cùng tìm hiểu điều đó trong bài “Đồng bằng
    Nam Bộ”.
    9
    Biện pháp 3: Xây dựng bài giảng sinh động, sáng tạo
    Giáo viên là yếu tố quan trọng để có thể khơi gợi niềm yêu thích môn học
    đối với học sinh Tiểu học. Một bài giảng không có điểm nhấn hay sáng tạo thì khả
    năng tiếp thu của học sinh bị ảnh hưởng rất nhiều. Chính vì thế, tôi luôn tìm tòi,
    đổi mới trong từng tiết giảng. Cụ thể:
    3.1.Sử dụng các hình ảnh, video có liên quan đến nội dung bài học
    Đối với học sinh tiểu học, các em luôn bị lôi cuốn, hấp dẫn với những hình
    ảnh sinh động, màu sắc. Với phân môn Địa lí thì kiến thức thực tế là rất cần thiết
    với các em. Vì qua thực tế, qua những hình ảnh trực quan các em dễ dàng hình
    dung và hiểu được các nội dung trong sách. Chính vì thế, để tiết học thêm sinh
    động, tôi thường tìm hiểu và chọn lọc những hình ảnh, những đoạn video đan xen
    vào các bài giảng Địa lí của mình.
    Với kho tư liệu phong phú có sẵn trên mạng internet, mỗi giáo viên đều dễ
    dàng tìm cho mình nhiều hình ảnh đa dạng, đặc sắc minh họa cho bài học, như:
    hình ảnh các dãy núi, vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng Trung du Bắc Bộ , Tây
    Nguyên hay các hoạt động của các vùng miền….. sinh động hơn nữa là các đoạn
    video mô tả, như: video mô tả hoạt động của người dân Tây Nguyên, video về thủ
    đô Hà Nội, video về các làng nghề của địa phương…… Để thực hiện tốt biện pháp
    này, người giáo viên cần học hỏi các kĩ năng soạn bài trên các phần mềm: MS
    PowerPoint, Word, MindMaps,… Khi dạy học cần có các phương tiện: máy tính,
    maý chiếu, tivi, loa,…. Các hình ảnh rõ nét, đẹp, sinh động còn có thể thay thế bản
    đồ, lược đồ trong sách. Sử dụng những phương tiện này sẽ gây được sự hứng thú
    và tập trung chú ý của học sinh.
    Ví dụ: Khi dạy bài Tây Nguyên (Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí lớp 4,
    tập 21
    Khi nhắc tới các dân tộc, hoạt động sản xuất của người dân ở Tây Nguyên,
    sách Hướng dẫn học đưa ra ít các tranh ảnh về Tây Nguyên. Nên tôi tìm kiếm thêm
    hình ảnh về các dân tộc ở Tây Nguyên, hình ảnh thành phố Đà Lạt, video về các
    hoạt động sản xuất của người dân Tây Nguyên,…Qua quan sát các hình ảnh về các
    dân tộc ở Tây Nguyên, hoạt động sản xuất ở Tây Nguyên học sinh rất thích thú,
    nhiều học sinh thấy lạ, tò mò và muốn hiểu rõ hơn về đời sống của người dân ở
    Tây Nguyên.
    10
    Ví dụ: Khi dạy Bài Đồng bằng Bắc Bộ (Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí
    lớp 4, tập 1)
    Khi nhắc tới các làng nghề thủ công truyền thống ở đồng bằng Bắc Bộ, để
    các em hiểu rõ hơn về làng gốm Bát Tràng – một làng nghề nổi tiếng ở Hà Nội , tôi
    tổ chức cho học sinh xem video, để tìm hiểu kĩ hơn về làng nghề thủ công này với
    các công đoạn : Nhào đất và tạo dáng gốm, phơi gốm, vẽ hoa văn, tráng men, nung
    gốm, các sản phẩm gốm. Các công đoạn để tạo ra một sản phẩm gốm đẹp mắt, học
    sinh chưa bao giờ được chứng kiến tận mắt. Khi được trực quan bằng video, học
    sinh sẽ hiểu rõ hơn về nghề thủ công truyền thống này. Học sinh nắm được các
    bước tạo ra sản phẩm gốm. Học sinh cũng có thể nhận biết được các sản phẩm
    bằng gốm có xung quanh mình. Qua đó, biết trân trọng, giữ gìn những thành quả
    mà những nghệ nhân gốm đã dày công tạo ra.
    11
    3.2.Tổ chức các trò chơi học tập để khám phá, củng cố kiến thức trong
    tiết học
    Trò chơi học tập bên cạnh chức năng giải trí còn giúp học sinh tự củng cố
    kiến thức, kĩ thuật, thói quen học tập một cách hứng thú, thói quen làm việc theo
    nhiều quy mô (cá nhân, nhóm, lớp). Các tiết học có trò chơi sẽ thu hút mức
    độ tập trung của học sinh mà không một phương pháp nào sánh được.
    Những kiến thức khô khan và cứng nhắc sẽ sinh động, hấp dẫn nếu được tổ
    chức dưới hình thức trò chơi và nhờ đó kết quả học tập của học sinh sẽ tăng lên.
    Như vậy, việc sử dụng trò chơi học tập trong dạy học nói chung và trong dạy học
    môn Địa lí nói riêng là một trong những biện pháp tăng cường tích cực hoá hoạt
    đọng học tập của học sinh. Hơn thế nữa, mối quan tâm và hoạt động của học sinh
    thể hiện qua các tiết học có trò chơi làm tăng thêm cảm tình của các em đối với
    môn học và thầy cô giáo. Trò chơi là chiếc cầu nối môn Địa lí với thực tiễn, bởi vì
    thông qua trò chơi các em thấy ứng dụng quan trọng của môn Địa lí trong thực
    tiễn. Và như vậy là đã phát huy được tính tích cực nhận thức của các em. Thông
    qua các trò chơi, học sinh ghi nhớ kiến thức rất nhanh. Chính vì thế, để tổ chức
    các trò chơi học tập củng cố kiến thức, tôi đã thực hiện các bước như sau:
    Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên, mục đích của trò chơi.
    Bước 2: Hướng dẫn chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau:
    – Tổ chức người tham gia trò chơi: Có thể tổ chức chơi cả lớp hoặc chơi theo
    nhóm, số người tham gia, số đội tham gia (mấy đội chơi), quản trò, trọng tài.
    – Các dụng cụ dùng để chơi (giấy khổ to, thẻ từ, thẻ a,b,c,d, Đ,S, cờ…)
    – Giáo viên công bố luật chơi: Từng việc làm cụ thể của người chơi hoặc đội
    chơi, thời gian chơi, những điều người chơi không được làm…
    – Cách xác nhận kết quả và cách tính điểm chơi, cách giải của cuộc chơi.
    (nếu có)
    Bước 3: Tổ chức trò chơi
    Bước 4: Nhận xét sau cuộc chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau:
    – Giáo viên hoặc trọng tài là HS nhận xét về thái độ tham gia trò chơi của
    từng đội, những việc làm chưa tốt của các đội để rút kinh nghiệm.
    + Trọng tài công bố kết quả chơi của từng đội, cá nhân và trao phần thưởng
    cho đội đoạt giải.
    + Một số học sinh nêu kiến thức, kỹ năng trong bài học mà trò chơi đã thể
    hiện.
    Dưới đây là một số trò chơi tôi đã lựa chọn và tổ chức cho học sinh chơi:
    12
    a.Trò chơi: Ai nhanh, ai đúng
    Ví dụ: Khi dạy Hoạt động thực hành 4 bài Dãy Hoàng Liên Sơn, tôi sẽ chia
    học sinh trong lớp thành các nhóm, mỗi nhóm 6 học sinh.
    – Dụng cụ: Giáo viên và học sinh chuẩn bị bộ thẻ chữ ghi 4 cụm từ: Khai
    thác quặng a-pa-tít; Làm giàu quặng; Sản xuất phân lân; Phân lân
    – Cách chơi: Đại diện các nhóm lấy bộ thẻ chữ về cho nhóm mình. Khi giáo
    viên hô “Bắt đầu” các nhóm sẽ xếp thẻ vào đúng sơ đồ theo quy trình sản xuất.
    Nhóm nào xếp nhanh nhất sẽ giành chiến thắng.
    b.Trò chơi: Rung chuông vàng
    Đây là một trò chơi rất phổ biến và được sử dụng nhiều ở các tiết ôn tập hay
    để củng cố bài học. Hầu hết các bài Địa lí đều có thể sử dụng trò chơi này.
    Ví dụ: Khi học xong bài Trung du Bắc Bộ, tôi sẽ cho các nhóm cử ra một
    đại diện nhóm để tham gia chơi.
    – Hình thức: Đại diện các nhóm.
    – Dụng cụ: Thẻ hoa có các đáp án a, b, c, d, Đ, S. Màn hình tivi.
    – Cách chơi: Ban học tập đọc các câu hỏi và các đáp án. Sau thời gian 5s,
    đại diện các nhóm giơ thẻ chọn đáp án đúng. Mỗi câu trả lời đúng được 10 điểm.
    Ai trả lời sai, sẽ không được tham gia trả lời các câu hỏi nữa. Các câu hỏi bao gồm:
    Câu 1. Đặc điểm của vùng đồi ở trung du Bắc Bộ là:
    A. Đỉnh nhọn, sườn dốc
    B.Đỉnh tròn, sườn thoải
    C. Đỉnh cao, sắc nhọn
    Câu 2. Trung du Bắc Bộ nằm ở đâu?
    A.Nằm ở vùng núi
    B. Nằm ở đồng bằng
    C. Nằm giữa miền núi và đồng bằng
    Câu 3: Các tỉnh có vùng trung du là:
    A.Hà Nội, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Hà Nam
    B.Nam Định, Ninh Bình, Phú Thọ, Bắc Giang
    C.Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang
    Câu 4: Để phủ xanh đất trống, đồi trọc, người dân ở đây đã làm gì?
    A. Di dân tự do
    13
    B. Khai thác rừng
    C. Trồng rừng
    Câu 5: Trong các loại cây sau đây, cây nào không trồng được ở trung du Bắc Bộ?
    A.Cây ăn quả
    B. Rau xứ lạnh
    C. Cây công nghiệp
    Câu 6: Loại cây nào được coi là biểu tượng của trung du Bắc Bộ?
    A. Rừng cọ đồi chè
    B. Cây thông
    C. Câu ăn quả
    Câu 7: Cây trồng nổi tiếng ở Thái Nguyên là:
    A.Vải thiều
    B. Chè
    C. Nhãn lồng
    c. Trò chơi Chiếc hộp bí mật
    Trò chơi này huy động được cả lớp cùng tham gia chơi, mục đích cũng là
    củng cố kiến thức đã học, giúp học sinh thêm mạnh dạn, tự tin khi trả lời câu hỏi.
    Ví dụ: Khi dạy bài Tây Nguyên, tôi tổ chức cho cả lớp tham gia chơi
    14
    – Dụng cụ: Chiếc hộp được trang trí đẹp, trong đó có chứa các câu hỏi liên
    quan đến nội dung bài
    – Cách chơi: Học sinh sẽ đứng thành vòng tròn, quản trò sẽ bắt nhịp một bài
    hát vui nhộn, học sinh vừa hát vừa truyền cho nhau chiếc hộp. Khi quản trò hô
    “Dừng”, chiếc hộp đang trên tay ai, người đó sẽ bốc một câu hỏi có trong hộp và
    trả lời. Nếu Học sinh trả lời sai thì các bạn khác được xung phong trả lời lại.
    d. Trò chơi Tập làm hƣớng dẫn viên du lịch
    Trò chơi này có thể dử dụng trong các bài liên qua đến địa danh như khi dạy
    bài Tây Nguyên (Học sinh tìm hiểu và giới thiệu về đặc điểm về các cao nguyên ở
    Tây Nguyên); Bài Thủ đô Hà Nội (học sinh giới thiệu về các địa điểm tham quan du
    lịch tại Hà Nội) ….Nhưng để tổ chức được trò chơi này, đòi hỏi học sinh phải có sự
    chuẩn bị trước ở nhà, chính vì thế, khi muốn tổ chức trò chơi này, tôi thường giao việc
    trước cho học sinh 1 tuần, đồng thời qua nhóm Zalo của lớp, tôi cũng thông tin cho
    phụ huynh và yêu cầu phụ huynh hỗ trợ con em mình trong việc chuẩn bị.
    Học sinh tập làm Hướng dẫn viên du lịch
    15
    e. Trò chơi Mảnh ghép bí ẩn
    Thông qua việc tìm thông tin và ghép những mảnh ghép lại với nhau, học
    sinh sẽ biết được nội dung kiến thức mà giáo viên muốn truyền tải.
    Ví dụ : Khi dạy bài “Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ”
    Sau khi học sinh đã tìm hiểu và nắm được các kiến về hai thành phố Hồ chí
    Minh và thành phố Cần Thơ, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi này để nhằm
    củng cố kiến thức cảu bài cho học sinh.
    Chuẩn bị: 12 thẻ, mỗi thẻ có một mặt hình và một mặt chữ. Mặt hình của
    mỗi thẻ là một phần của lược đồ, còn mặt chữ là thông tin về một trong hai thành
    phố: Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ.
    Cách chơi như sau: Nhóm trưởng sẽ lên lấy một bộ gồm 12 thẻ. Sau đó úp
    mặt hình của các thẻ xuống mặt bàn. Học sinh sẽ đọc thông tin ở mặt chữ rồi chia
    các tấm thẻ thành hai nhóm theo đặc điểm của Thành phố Hồ Chí Minh và Thành
    phố Cần Thơ. Sau đó lật mặt hính lên và xếp các thẻ trong mỗi nhóm thành một
    lược đồ lớn. Nhóm nào xếp được thành hia lược đồ hoàn chỉnh cảu hai thành phố
    là nhóm thắng cuộc.
    g. Các trò chơi khác
    Ngoài những trò chơi trên, tôi còn hay sử dụng các trò chơi như: Tiếp sức, Ô
    chữ bí mật, hay Chỉ nhanh chỉ đúng, Hái hoa dân chủ… Mỗi trò chơi có một đặc
    điểm khác nhau, nhưng đều có mục đích chung là nhằm giúp học sinh khám phá,
    củng cố kiến thức. Thông qua hoạt động trò chơi, học sinh sinh thêm mạnh dạn, tự
    tin hơn đồng thời tạo không khí lớp thêm sôi nôi hơn, tiết học diễn ra thoải mái,
    nhẹ nhàng, vui vẻ.
    Trò chơi Hái hoa dân chủ
    16
    Thông qua tổ chức trò chơi cho học sinh, tôi nhận thấy:
    – Trò chơi học tập là một hình thức học tập bằng hoạt động, hấp dẫn HS do
    đó duy trì tốt hơn sự chú ý của các em với bài học.
    – Trò chơi làm thay đổi hình thức học tập chỉ bằng hoạt động trí tuệ, đo đó
    giảm tính chất căng thẳng của giờ học, nhất là các giờ học kiến thức lý thuyết mới.
    – Trò chơi có nhiều học sinh tham gia sẽ tạo cơ hội rèn luyện kỹ năng học
    tập hợp tác cho HS.
    Tuy nhiên, khi tổ chức trò chơi học tập trong môn Địa lí , cũng có
    những tồn tại ngƣời giáo viên cần khắc phục nhƣ:
    – Học sinh dễ sa đà vào việc chơi mà ít chú ý đến tính chất học tập của các
    trò chơi. Vì vậy, giáo viên cần làm chủ các trò chơi, định hướng khéo léo giúp học
    sinh thực hiện đúng mục đích của trò chơi.
    – Đồ dùng của một số trò chơi cần chuẩn bị kĩ nên cần có sự phối kết hợp
    trong tổ chuyên môn khi chuẩn bị, như: giáo viên trong tổ cùng nhau làm đồ dùng,
    hay có thể tạo đồ dùng chung cho cả khối sử dụng để tránh lãng phí.
    3.3. Sử dụng hiệu ứng trình chiếu để khắc sâu kiến thức cho học sinh
    Khi thiết kế các tiết dạy Địa lí, tôi sử dụng hiệu ứng trình chiếu với 2 mục
    địch chính sau:
    a. Tạo hiệu ứng khi trình chiếu bản đồ, lược đồ:
    Nói tới Địa lí là nói tới bản đồ, lược đồ. Tuy nhiên, lược đồ, bản đồ là các yếu
    tố mới đối với học sinh lớp 4. Mặc dù trong chương trình lớp 4, theo Tài liệu Hướng
    dẫn học môn Lịch sử và Địa lí 4, có một bài hướng dẫn học sinh làm quen với bản đồ.
    Tuy nhiên, giáo viên thường dạy qua loa, khiến cho học sinh nắm kiến thức về lược
    đồ, bản đồ không chắc, nhiều học sinh không phân biệt được hướng Đông, Tây, Nam,
    Bắc của bản đồ hay không phân biệt được các đối tượng trên bản đồ. Vì vậy, để học
    sinh có ấn tượng sâu sắc với bản đồ, lược đồ, tôi xây dựng và cho học sinh quan sát
    trên bản đồ động. Khi học sinh được tri giác trực tiếp trên bản đồ động, học sinh sẽ
    nắm rõ hơn vị trí các đối tượng mà bản đồ đang hướng tới.
    17
    Lược đồ các cao nguyên ở Tây Nguyên
    b.Tạo hiệu ứng trình chiếu khắc sâu kiến thức cho học sinh
    Biện pháp này tôi áp dụng chủ yếu ở các bài ôn tập kiến thức cho học sinh.
    Giúp học sinh có thể khái quát kiến thức đã học, phân biệt được vị trí, đặc điểm tự
    nhiên giữa các vùng miền. Khi giáo viên thao tác kết hợp chạy hiệu ứng với kiến
    thức cần chốt cho học sinh trên giáo án điện tử sẽ vô cùng hiệu quả khi hệ thống
    kiến thức ôn tập cho học sinh. Bởi đây đều là các hình ảnh sống động, cụ thể hóa
    giúp các em ghi nhớ lâu kiến thức.
    18
    Biện pháp 4: Giúp học sinh nắm bắt, khám phá, ghi nhớ kiến thức bằng
    phương pháp sơ đồ tư duy
    Yếu tố khiến hầu hết học sinh tiểu học sợ môn Địa lí đó chính là kiến thức
    mang tính lí thuyết nhiều và khó học thuộc. Tuy nhiên chỉ cần trẻ có phương pháp
    học tập đúng thì những rắc rối đó sẽ được khắc phục hoàn toàn. Nắm bắt được tâm
    lí của học sinh tiểu học là “nhanh nhớ, nhanh quên” . Tôi thường ít cho học sinh
    học thuộc lòng, vì nhiều khi học thuộc lòng các em không nắm chắc kiến thức, học
    xong lại quên ngay nên trong mỗi tiết học. Chính vì vậy, để phát huy được tính tích
    cực trong nhận thức của học sinh, tôi dạy cho các em khám phá kiến thức, cách ghi
    nhớ bằng sơ đồ tư duy. Cụ thể:
    1.Vận dụng sơ đồ tư duy trong khám phá, hình thành kiến thức mới
    Sau khi giới thiệu xong nội dung kiến thức cần nắm trong bài học hôm nay,
    tôi tổ chức cho học sinh làm việc theo cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ, dựa vào nội
    dung trong tài liệu hướng dẫn học, bản đồ trong sách, bản đồ treo tường để hoàn
    thành bài tập. Cuối cùng, GV cùng HS hoàn thiện được một bản đồ tư duy kiến
    thức theo ý muốn của mình.Có thể tiến hành theo hai cách sau:
    Cách 1:
    Bước 1: GV hướng dẫn HS đọc nội dung trong tài liệu hướng dẫn học, đưa
    ra tình huống có vấn đề trước khi cho HS đọc.
    Bước 2: GV và HS tìm hiểu, phân tích đặt tên các chủ đề(hoặc GVchọn
    trước tên chủ đề cần nghiên cứu cho HS thiết lập BĐTD với các từ khóa đó).
    19
    Bước 3: GV hướng dẫn HS vẽ BĐTD theo các nội dung chính.
    Bước 4: Chia nhóm, giao việc khai triển các nhánh của BĐTD theo ý của
    HS. (có thể tất cả các nhóm cùng chung nội dung hoặc mỗi nhóm có nội dung khác
    nhau tùy theo mục tiêu, nội dung bài và đối tượng HS).
    Bước 5: HS báo cáo, trình bày BĐTD của nhóm mình .
    Bước 6: Nhận xét, đánh giá, bổ sung thêm cho bạn.
    Bước 7: GV chốt lại nội dung chính cần ghi nhớ, có thể đưa ra BĐTD đã
    chuẩn bị, gọi HS đọc lại.
    Tuy nhiên GV cũng có thể thiết kế sẵn BĐTD theo mục tiêu bài học nhưng
    còn thiếu nhánh, thiếu nội dung. Sau đó, GV giao việc cho HS dưới dạng phiếu
    học tập để HS vẽ hoặc viết tiếp …Từ đó, các em rút ra kiến thức khoa học cần ghi
    nhớ của bài học.
    Cách 2: Giáo viên có thể đặt câu hỏi gợi mở rồi từ từ hình thành một BĐTD.
    Ví dụ : Khi dạy bài 5 : Đồng bằng Bắc Bộ – Trang 82, Hướng dẫn học
    Lịch sử và Địa lí 4 tập 1.
    Tôi tổ chức cho học sinh lĩnh hội kiến thức mới theo sơ đồ tư duy dưới đây:
    Bước 1: Khi vào nội dung bài, giáo viên đưa ra các tình huống có vấn đề.
    Ví dụ : Giáo viên cho học sinh quan sát Lược đồ đồng bằng Bắc Bộ (Hình 1
    – Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí 4, tập 1, trang 83), sau đó gọi học sinh lên chỉ
    vị trí địa lí của đồng bằng Bắc Bộ trên lược đồ
    – Giáo viên phát phiếu giao việc cho từng nhóm trong đó có các câu hỏi gợi
    mở: Từ vị trí địa lí đó, các em hãy tìm hiểu xem, đồng bằng Bắc Bộ có những đặc
    điểm gì nổi bật ? Đồng bằng Bắc bộ nằm ở miền nào của đất nước ta ? ĐBBB do
    20
    hệ thống phù sa của con sông nào bồi đắp lên ? Đây là đồng bằng lớn thứ mấy cả
    nước ? Nêu đặc điểm nước sông ở đồng bằng Bắc Bộ vào mùa mưa ? …..
    – GV cho cả lớp đọc thầm các nội dung trong tài liệu hướng dẫn học. Sau đó
    hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích, đặt tên cho từng chủ đề.
    Ví dụ : Bài học hôm nay chúng ta tìm hiểu là bài gì? (Đồng bằng Bắc Bộ).
    Vậy tên chủ đề chính các em có thể đặt là gì? (Đồng bằng Bắc Bộ…). GV vừa hỏi
    vừa vẽ trên bảng lớp, trực tiếp trên phần mềm hoặc giấy tooky, bảng lớp…
    Giáo viên hỏi : Đồng bằng Bắc Bộ có những đặc điểm nào nổi bật? (Học
    sinh dựa vào nội dung đã chuẩn bị và kiến thức từ việc đọc thầm để trả lời từng
    câu hỏi khám phá nội dung bài.)
    Bước 2: Sau khi hướng dẫn đặt tên các chủ đề xong giáo viên yêu cầu tiếp:
    – Bây giờ cô chia lớp mình thành các nhóm 4 ( có thể là nhóm ngẫu nhiên,
    cũng có thể chia nhóm theo đối tượng tùy theo mục đích của giáo viên), các em
    đọc thầm các nội dung trong sách kết hợp vốn hiểu biết của mình làm rõ những đặc
    điểm nổi bật của đồng bằng Bắc Bộ bằng sơ đồ tư duy ứng với tên mỗi chủ đề các
    em vừa đặt. Trong thời gian 10 – 15 phút. Hết thời gian, đại diện các nhóm sẽ báo
    cáo kết quả trước lớp. (Giáo viên có thể giao việc cho mỗi nhóm một nội dung, sau
    đó các nhóm báo cáo để ghép lại thành bản đồ tư duy có nội dung hoàn chỉnh của
    cả bài.)
    – Học sinh thực hành theo nhóm. Giáo viên theo dõi, giúp đỡ nhóm còn gặp
    khó khăn.
    – Từng nhóm báo cáo kết quả trước lớp. Các nhóm khác bổ sung. Trưng bày
    sản phẩm của nhóm. Giáo viên có thể đặt câu hỏi theo nội dung bài để làm rõ và
    sâu hơn kiến thức trọng tâm hoặc để giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, kỹ năng
    sống cho các em thông qua môn học.
    Sau đó, giáo viên đưa ra sơ đồ tư duy chuẩn của mình đã thiết kế trước, đưa ra
    điều bỡ ngỡ mong muốn học sinh tìm hiểu thêm.
    2. Vận dụng sơ đồ tư duy trong củng cố kiến thức
    Để củng cố kiến thức cho học sinh, tôi thường cho học sinh lên trình bày,
    thuyết minh về kiến thức bài học thông qua một sơ đồ tư duy do tôi đã chuẩn bị
    sẵn (vẽ ở bảng phụ hoặc giấy bìa), hoặc sơ dồ tư duy mà các em vừa thiết kế và cả
    lớp đã chỉnh sửa, hoàn thiện. Tuy nhiên, giáo viên chỉ nên chỉnh sửa cho HS về
    mặt kiến thức và góp ý thêm về đường nét vẽ và hình thức nếu cần.
    21
    Phù hợp với việc củng cố kiến thức cho học sinh sau bài học thì dạng bài tập
    thích hợp là cho HS tự thiết kế cho mình một bản đồ theo ý muốn sáng tạo của
    mình với màu sắc tùy ý, có thể bản đồ thiếu nội dung kiến thức cụ thể hoặc đầy đủ
    lượng kiến thức của bài học như vừa tiếp thu trong bài học, hoạt động cá nhân hoặc
    nhóm. Tuy nhiên các thông tin còn thiếu này sẽ bao trùm nội dung toàn bài để một
    lần nữa nhằm khắc sâu kiến thức và lưu ý đến trọng tâm của bài học. Mỗi em có
    một cuốn sổ tay địa lí, trong đó là những sơ đồ do chính tay các em thiết kế. Việc
    này, không chỉ giúp các em ghi nhớ kiến thức bài học ngày hôm đó mà còn giúp
    các em có tài liệu ôn tập trong mỗi lần kiểm tra cuối kì hoặc cuối năm học.
    Hình ảnh một số sơ đồ tư duy của học sinh
    Biện pháp 5: Tổ chức tốt các Hoạt động trải nghiệm để nâng cao vốn kiến
    thức cho học sinh.
    Những năm học trước, song song với việc nâng cao chất lượng, trường tiểu
    học thị trấn Xuân Trường luôn quan tâm đến các hoạt động trải nghiệm của học
    sinh. Để cung cấp thêm vốn kiến thức thực tế cho học sinh, nhà trường đã phối
    hợp với giáo viên chủ nhiệm các lớp, phụ huynh học sinh xây dựng kế hoạch ngay
    từ đầu năm học về các chuyến trải nghiệm cho học sinh từng khối lớp. Đây là một
    22
    hoạt động rất thiết thực với học sinh tiểu học. Bới vì thông qua các hoạt động thực
    tế, các em được tham quan, tìm hiểu, khám phá những địa danh, những nét văn hóa
    của một số vùng miền trên đất nước. Học sinh đã được tham quan nhiề

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Chỉ đạo tổ chức các hoạt động đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục phẩm chất Nhân ái cho học sinh

    SKKN Chỉ đạo tổ chức các hoạt động đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục phẩm chất Nhân ái cho học sinh, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu giáo dục và đẩy lùi vấn nạn bạo lực học đường

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Ngày 27 tháng 12 năm 2018, Bộ GDĐT công bố Chương trình giáo dục phổ
    thông – Chương trình tổng thể (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TTBGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo). Chương trình
    thể hiện rõ quan điểm của Nghị quyết 29/NQ-TW ngày 04 tháng 11 năm 2013
    của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “đổi mới căn bản toàn diện giáo dục,
    đào tạo”, chú trọng giáo dục phát triển phẩm chất, năng lực người học.
    Năm học 2020 – 2021, ngành giáo dục chính thức triển khai Chương trình
    giáo dục phổ thông 2018, bắt đầu tổ chức thực hiện chương trình, sách giáo khoa
    mới đối với lớp 1. Chương trình hướng tới dạy học phát triển toàn diện phẩm
    chất, năng lực người học, đặt nền móng cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục con
    người có đầy đủ các phẩm chất, năng lực cần thiết đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
    mới, thời kỳ phát triển mạnh mẽ về công nghệ và hội nhập quốc tế.
    Với truyền thống “Tiên học lễ, hậu học văn”, giáo dục phẩm chất vẫn được
    đề cao, thể hiện rõ từ quan điểm xây dựng chương trình đến mục tiêu giáo dục và
    các yêu cầu cần đạt cụ thể về giáo dục phẩm chất. Đó là phẩm chất yêu nước,
    nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.
    (5 phẩm chất cốt lõi của Chương trình giáo dục phổ thông 2018)
    4
    Mỗi một phẩm chất là một thành phần vô cùng quan trọng góp phần hình
    thành nên nhân cách con người mới. Trong đó, phẩm chất “Nhân ái” được các
    nhà giáo dục coi như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối ảnh hưởng đến mọi
    hành vi của mỗi con người. Những hành vi xuất phát từ phẩm chất nhân ái hầu
    hết là những hành vi đẹp và đúng đắn. Nhất là trong bối cảnh cuộc sống của con
    người luôn phải đối mặt với nhiều thách thức lớn: thiên tai, dịch bệnh, đói nghèo,
    thất nghiệp… thì mỗi chúng ta càng cần phải có phẩm chất nhân ái, tinh thần
    đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn, cải tạo cuộc sống, hướng
    tới tương lai.
    Chỉ có tình yêu thương, đoàn kết đồng lòng chúng ta mới cùng nhau vượt
    qua khó khăn. Điều đó đã được chứng minh trong suốt chiều dài lịch sử phát triển
    của dân tộc: chiến thắng các đế quốc hùng cường, vượt qua thiên tai, dịch bệnh,
    đói nghèo… chính là nhờ phẩm chất nhân ái, sẻ chia giữa con người với con
    người. Và “nhân ái” đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
    Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do sự phát triển mạnh mẽ của công
    nghệ thông tin, xu thế hội nhập quốc tế và áp lực cuộc sống gia tăng đã ảnh
    hưởng lớn đến việc giáo dục, hình thành phẩm chất, nhân cách của thế hệ trẻ.
    Chúng ta ngày càng chứng kiến những hành vi thể hiện sự suy thoái về đạo đức,
    thế hệ trẻ có xu hướng sống ích kỉ, vô cảm, thiếu tình yêu thương, trách nhiệm
    với gia đình và cộng đồng.
    Vì vậy, hơn bao giờ hết, giáo dục phẩm chất đạo đức cho học sinh là một
    nhiệm vụ cấp thiết của ngành giáo dục và của toàn xã hội.Tiểu học được coi là
    bậc học nền tảng, có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành nhân cách của một con
    người. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để việc giáo dục đạo đức nói chung và giáo
    dục phẩm chất nhân ái cho học sinh ở bậc tiểu học nói riêng đạt hiệu quả tốt nhất,
    đảm bảo các yêu cầu đề ra của chương trình giáo dục mới là một trăn trở của cá
    nhân tôi.
    Vì thế tôi nghiên cứu và ứng dụng đề tài: Chỉ đạo tổ chức các hoạt động
    giáo dục đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục phẩm chất “Nhân ái”
    cho học sinh tiểu học theo yêu cầu cần đạt của Chương trình giáo dục phổ
    thông 2018.
    5
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến.
    1.1. Khái niệm về phẩm chất “Nhân ái”
    Theo nghĩa Hán Việt, “nhân” là người, “ái” là tình yêu. “Nhân ái” chính là
    tình yêu của con người đối với con người, là tinh thần đoàn kết, yêu thương, sẻ
    chia, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống hàng ngày.
    1.2. Những yêu cầu cần đạt của phẩm chất Nhân ái trong chương trình
    giáo dục phổ thông 2018 bậc tiểu học
    Theo chương trình giáo dục phổ thông, Chương trình tổng thể ban hành kèm
    theo Thông tư số 32?2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ Giáo
    dục và Đào tạo đã chỉ rõ những yêu cầu cần đạt về phẩm chất Nhân ái của học
    sinh tiểu học. Đó là:
    – Yêu thương, quan tâm chăm sóc người thân trong gia đình.
    – Yêu quý bạn bè, thầy cô; quan tâm, động viên, khích lệ bạn bè.
    – Tôn trọng người lớn tuổi; giúp đỡ người già, người ốm yếu, người khuyết
    tật; nhường nhịn và giúp đỡ em nhỏ.
    – Biết chia sẻ với những bạn có hoàn cảnh khó khăn, những bạn ở vùng sâu,
    vùng xa, người khuyết tật và đồng bào bị ảnh hưởng của thiên tai.
    1.3. Khảo sát, điều tra thực trạng phẩm chất Nhân ái trong học sinh theo
    những yêu cầu cần đạt của chương trình GDPT 2018
    Để tìm hiểu cách ứng xử của học sinh trong các mối quan hệ, từ đó đánh giá
    được sự hình thành và phát triển phẩm chất nhân ái trong học sinh, nắm được
    thực trạng việc giáo dục phẩm chất nhân ái cho học sinh trong gia đình và nhà
    trường , chúng tôi tiến hành các phương pháp sau: phát phiểu hỏi, phỏng vấn học
    sinh, phỏng vấn cha mẹ học sinh, giáo viên, quan sát học sinh trong các hoạt động
    học tập, vui chơi.
    1.3.1. Điều tra thực trạng việc hình thành phẩm chất nhân ái trong học sinh
    * Phát phiếu hỏi cho học sinh
    – 100 học sinh khối 3, 4, 5 tham gia trả lời phiếu hỏi và kết quả thu được
    như sau:
    6
    PHIẾU HỎI DÀNH CHO HỌC SINH
    Câu 1: Em đánh dấu X vào cột tương ứng với mỗi dòng trong bảng sau:

    TTNhững việc em đã làmSố HS thực hiện
    Thườn
    g xuyên
    Thỉnh
    thoảng
    Ngại
    không
    muốn
    làm
    1Quan tâm, hỏi thăm, chăm sóc khi người thân bị
    ốm
    56368
    2Giúp đỡ bố mẹ, ông bà những công việc trong
    gia đình
    42526
    3Tham gia lao động vệ sinh cùng với các bạn ở
    lớp, ở trường
    937
    4Sẵn sàng cho bạn mượn đồ dùng, sách vở khi
    bạn cần
    57367
    5Nói lời chúc mừng bạn khi bạn có niềm vui355213
    6Động viên, an ủi khi bạn có chuyện buồn, ốm
    đau
    275914
    7Lễ phép, chào hỏi người lớn khi gặp mặt và nói
    chuyện
    48502
    8Sẵn sàng giúp đỡ người già, em nhỏ, người tàn
    tật
    424711
    9Tham gia các hoạt động giúp đỡ người khó khăn:
    ủng hộ các bạn vùng cao, vùng lũ lụt, vùng dịch
    bệnh…
    484210
    10Phản đối, không đồng tình với những việc làm
    xấu của người khác
    324622

    Câu 2: Em có muốn được mọi người yêu thương, giúp đỡ mình không? Em
    sẽ cảm thấy thế nào khi được mọi người quan tâm, giúp đỡ?
    – Trả lời: Em sẽ rất vui và hạnh phúc khi được mọi người yêu thương.
    * Phát phiếu điều tra dành cho phụ huynh
    – 100 phụ huynh tham gia trả lời phiếu, kết quả thu được:
    PHIẾU HỎI DÀNH CHO PHỤ HUYNH
    Câu 1: Xin hãy đánh dấu X vào cột tương ứng với mỗi dòng trong bảng sau:

    T TNhững việc làm biểu hiện phẩm chất nhân ái
    của học sinh
    Mức độ thực hiện
    Thườn
    g xuyên
    Thỉnh
    thoảng
    Không
    quan
    tâm
    1Nói lời cảm ơn, lời yêu thương với người thân124642
    2Giúp đỡ cha mẹ, ông bà những công việc nhà phù404713

    7

    hợp
    3Biết hỏi han, quan tâm, chăm sóc khi cha mẹ,
    người thân ốm đau, mệt mỏi
    46495
    4Lễ phép với người lớn và mọi người xung quanh67303
    5Sẵn sàng giúp đỡ người khác khi cần484210
    6Thích làm việc thiện: ủng hộ các bạn vùng cao,
    vùng lũ lụt, vùng dịch bệnh…
    364717
    7Tỏ thái độ đồng tình. Khen ngợi khi ai đó làm việc
    tốt
    256312
    8Phản đối, không đồng tình với những việc làm xấu
    của người khác
    354718
    9Biết tỏ ra thương cảm, giúp đỡ những người tàn
    tật, đói rách, khác biệt,..
    37549
    10Kêu gọi người thân, bạn bè giúp đỡ những hoàn
    cảnh khó khăn
    183844

    * Quan sát học sinh
    Chúng tôi tiến hành quan sát học sinh trong những giờ vui chơi, trong các
    giờ học và thu được kết quả theo mục đích quan sát như sau:
    – Ưu điểm:
    + Đa số các em đều có hành vi ứng xử thân thiện, đoàn kết, sẵn sàng giúp đỡ
    nhau trong sinh hoạt, học tập; chào hỏi lễ phép thầy cô và người lớn; nhiều học
    sinh biết giúp đỡ em nhỏ trong sinh hoạt, vui chơi; rất thích tham gia các hoạt
    động thiện nguyện,…
    – Tồn tại: Một bộ phận học sinh chưa hòa đồng, thân thiện với bạn bè, còn có
    những biểu hiện chưa nhân ái:
    + Nhiều em còn dùng lời lẽ chê bai bạn bằng những lời nói tổn thương: học
    dốt, xấu, lười, bẩn, ngu,…(Đây là nguyên nhân chính dẫn đến những mâu thuẫn
    trong học sinh.)
    + Một bộ phận nhỏ các em học sinh khối 4, 5 có biểu hiện chia rẽ, phân bè
    phái, làm mất đoàn kết trong tập thể.
    + Có những anh chị lớp lớn hay dọa nạt, lấy đồ của các em học sinh lớp nhỏ,
    Một số học sinh lớp 1,2,3 hay tranh giành đồ chơi, truyện, đồ ăn dẫn đến mâu
    thuẫn, thậm chí đánh nhau.
    8
    + Một bộ phận nhỏ học sinh hay lấy đồ của bạn; phá đồ chơi, quấy rối, trêu
    chọc bạn dẫn đến xung đột.
    + Chưa hứng thú tham gia các hoạt động thiện nguyện do lớp và trường tổ
    chức.
    1.3.2. Tìm hiểu môi trường hình thành và phát triển phẩm chất nhân ái của
    học sinh trong gia đình
    Chúng tôi phát phiếu hỏi cho 100 phụ huynh và phỏng vấn phụ huynh trong
    dịp họp phụ huynh đầu năm học và thu được kết quả sau:
    PHIẾU HỎI DÀNH CHO CHA MẸ HỌC SINH
    (Đánh dấu X vào cột tương ứng với mỗi dòng sau)

    STTCách cha mẹ ứng xử với con cáiCoi
    trọng
    Không
    coi
    trọng
    Không
    quan
    tâm
    1Ứng xử với con cái bằng lời nói, cử chỉ yêu thương602812
    2Luôn đối xử công bằng với các con583012
    3Giải quyết mâu thuẫn, xung đột giữa các con theo
    cách phân tích để con hiểu
    404515
    4Luôn tạo cơ hội, khích lệ con được làm những việc
    thể hiện sự quan tâm, yêu thương, giúp đỡ những
    người trong gia đình
    284230
    5Khuyến khích con tham gia các hoạt động giúp đỡ,
    ủng hộ các hoàn cảnh khó khăn
    214732
    6Nêu gương bằng cách ứng xử nhân ái với những
    người xung quanh nhất là những người có hoàn
    cảnh khó khăn
    214732

    1.3.3. Thực trạng các biện pháp nhằm hình thành và phát triển phẩm chất
    nhân ái cho học sinh của giáo viên
    9
    Chúng tôi xây dựng và phát phiếu cho 50 giáo viên chủ nhiệm, đồng thời
    phỏng vấn, trao đổi thêm để tìm hiểu về những vấn đề liên quan. Kết quả thu
    được như sau:
    PHIẾU ĐIỀU TRA DÀNH CHO GIÁO VIÊN
    Câu 1: Đánh dấu X vào cột tương ứng với mỗi dòng sau:

    STTBiện pháp giáo dục giúp HS hình
    thành và phát triển phẩm chất nhân ái
    Thường
    xuyên
    Không
    thường
    xuyên
    Không
    quan
    tâm
    SLTLSLTLSLTL
    1Lồng ghép trong các tiết dạy trên lớp3264%1836%
    2Giáo dục trong các tiết học đạo đức50100
    %
    3Chú trọng giải quyết những mâu thuẫn
    giữa học sinh
    1734%2866%
    4Đối xử công bằng giữa các học sinh,
    không thiên vị
    4692%48%
    5Tổ chức các hoạt động thiện nguyện
    ngoài giờ chính khóa
    4692%48%
    6Nêu gương về phẩm chất nhân ái1428%2652%1020 %
    7Luôn chú trọng khuyến khích, tạo cơ hội
    để HS được thể hiện sự quan tâm, giúp
    đỡ bạn bè, em nhỏ,..
    3162%1224%714
    %
    8Sử dụng từ ngữ, hành vi mang tính bạo
    lực
    1224 %3876 %

    Câu 2: Những cách giáo dục khác mà đồng chí đã sử dụng?
    TL: Phối hợp với phụ huynh trong việc giáo dục đạo đức cho HS.
    1.4. Đánh giá chung thực trạng việc giáo dục, bồi dưỡng và hình thành
    phẩm chất nhân ái của học sinh
    1.4.1. Ưu điểm
    – Đa số giáo viên chú trọng việc hình thành phẩm chất nhân ái cho học sinh
    thông qua các tiết học có liên quan, các giờ đạo đức; giáo viên quan tâm đối xử
    công bằng và nêu gương cho học sinh về những biểu hiện của phẩm chất nhân ái.
    – Phần lớn phụ huynh đã chú ý giáo dục phẩm chất nhân ái cho con thông
    qua việc hướng con vào các hoạt động thiện nguyện, đối xử công bằng, yêu
    thương.
    10
    – Hầu hết các em HS biết kính yêu, giúp đỡ người thân trong gia đình, lễ
    phép với người lớn. Các em biết tôn trọng và ứng xử với bạn bạn một cách thân
    thiện, đoàn kết, giúp đỡ nhau trong học tập và vui chơi, thích tham gia các hoạt
    động thiện nguyện.
    1.4.2. Tồn tại
    – Về nhận thức: Một bộ phận cha mẹ học sinh và giáo viên chưa nhận thức
    được giá trị của phẩm chất nhân ái đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ
    cũng như ảnh hưởng của nó đến sự thành công của trẻ trong cuộc đời; chưa quan
    tâm đến việc giáo dục phẩm chất nhân ái cho học sinh và không hiểu được những
    hành vi đối xử không công bằng, thờ ơ, không nêu gương sáng về lòng nhân ái,…
    có tác động xấu đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
    – Về biện pháp giáo dục:
    + Đa số giáo viên chỉ dừng lại ở việc sử dụng biện pháp giáo dục phẩm chất
    nhân ái thông qua các giờ học đạo đức và những bài học có liên quan. Các biện
    pháp giáo dục phẩm chất nhân ái cho học sinh mà giáo viên sử dụng cũng chưa
    thể hiện sự quan tâm, đầu tư đúng mức trong việc tìm kiếm những biện pháp giáo
    dục hiệu quả, mang tính toàn diện hơn. Nhiều thầy cô chưa chú ý đến cảm nhận
    của HS cũng như các yếu tố tác động tiêu cực, ảnh hưởng đến việc hình thành và
    phát triển phẩm chất nhân ái cho học sinh. Các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
    lớp chưa chú trọng lồng ghép giáo dục phẩm chất nhân ái cho trẻ.
    + Nhiều bậc cha mẹ hầu như không để ý đến việc bồi dưỡng phẩm chất nhân
    ái cho con, vì thế dẫn đến việc ứng xử theo cảm xúc; nhiều khi áp đặt con cái theo
    ý mình do chưa biết lắng nghe và hiểu cảm xúc, suy nghĩ của con; không quan
    tâm đến việc khuyến khích, động viên con tham gia các hoạt động thiện nguyện
    và việc làm gương; chưa tạo điều kiện để con em mình được thực hành, thể hiện
    sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ người thân trong gia đình và những người xung
    quanh.
    + Nhiều em học sinh có những biểu hiện lối sống vô tâm, ích kỷ chưa biết
    nghĩ đến cảm xúc của người khác; chưa có ý thức và những việc làm giúp đỡ
    11
    người thân trong gia đình và những người khó khăn. Các em sử dụng những hành
    vi chưa đúng, mang tính bạo lực như chê bai, chế giễu, cười nhạo những cái xấu,
    cái thua thiệt của bạn; các em sẵn sàng nổi giận, cáu gắt, chửi bới, thậm chí dùng
    vũ lực với bạn khi bị người khác không làm mình hài lòng; một bộ phận học sinh
    còn có tư tưởng bè phái, chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ… Nó thể hiện một nhân
    cách chưa hoàn thiện, phẩm chất nhân ái chưa được bồi dưỡng dẫn đến các biểu
    hiện hành vi lệch chuẩn.
    1.5. Nguyên nhân của tồn tại
    – Cha mẹ và giáo viên do thiếu thông tin, chưa nhận thức được vai trò và ý
    nghĩa to lớn của phẩm chất nhân ái trong việc xây dựng thành công các mối quan
    hệ cũng như thành công trong cuộc sống nên không để ý đến việc tìm ra các
    phương pháp giáo dục tốt cho con.
    – Giáo viên còn chịu nhiều áp lực về kết quả dạy học các môn học bắt buộc
    được đánh giá qua các bài kiểm tra dẫn đến không còn tâm trí dành cho việc tổ
    chức các hoạt động giáo dục phẩm chất nhân ái cho học sinh.
    – Các em vẫn còn bị đối xử bằng những hành vi mang tính bạo lực ở những
    cấp độ khác nhau. Môi trường sống của các em chưa tạo điều kiện để các em hình
    thành và phát triển phẩm chất nhân ái.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    Để đạt được mục tiêu giáo dục về hình thành và bồi dưỡng phẩm chất nhân
    ái cho học sinh theo các yêu cầu cần đạt của chương trình GDPT 2018 đối với bậc
    tiểu học, tôi cho rằng cần thiết phải đưa ra nhiều biện pháp được thực hiện một
    cách đồng bộ ở nhà trường và gia đình, cần sự chung tay của cả giáo viên và cha
    mẹ học sinh. Trong hai năm học, 2019-2020, 2020-2021, tôi đã nghiên cứu và chỉ
    đạo thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục sau:
    2.1. Nâng cao nhận thức của giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục,
    bồi dưỡng phẩm chất nhân ái cho học sinh
    Chúng ta đều biết rằng, nhận thức là khởi nguồn của hành vi. Khi cha mẹ và
    thầy cô chưa coi trọng vấn đề giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất nhân ái cho các em
    12
    thì không bao giờ để tâm, suy nghĩ phải làm thế nào để giúp con em mình hình
    thành và phát triển phẩm chất nhân ái và cũng không quan tâm đến hành vi của
    mình có ảnh hưởng như thế nào đến việc hình thành nhân cách của trẻ. Những
    biểu hiện chưa đúng của trẻ không được cha mẹ, thầy cô quan tâm, uốn nắn sẽ
    dần trở thành thói quen xấu, hình thành lối sống ích kỷ, lệch lạc.
    Chính vì vậy, việc giúp cho cha mẹ, thầy cô, những người gần gũi và có ảnh
    hưởng trực tiếp đến trẻ, nhận thức được tầm quan trọng của phẩm chất nhân ái
    đối với sự thành công của trẻ trong cuộc sống sau này.
    Làm thế nào để tiếp cận, tác động và thay đổi nhận thức của cha mẹ, nâng
    cao hơn nữa nhận thức của thầy cô về vấn đề giáo dục phẩm chất nhân ái của trẻ?
    Đây là câu hỏi mà chúng tôi trăn trở.
    2.1.1. Nâng cao nhận thức của giáo viên
    – Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, chúng tôi cùng giáo viên nghiên cứu
    kỹ về mục tiêu giáo dục, những yêu cầu cần đạt cụ thể của từng phẩm chất, năng
    lực. Trong đó, tôi trao đổi, phân tích kĩ về vai trò, ý nghĩa và những yêu cầu cần
    đạt của phẩm chất nhân ái.
    – Trong dịp nghỉ hè, chúng tôi giới thiệu và định hướng cho giáo viên xem
    chương trình “Thầy cô đã thay đổi” và nói chuyện, trao đổi, bàn luận một cách rất
    tự nhiên với nhau về những vấn đề liên quan trong chương trình.
    – Đầu năm học, chúng tôi gửi đến học sinh các lớp khối 3, 4, 5 một yêu cầu:
    “Em mong muốn điều gì ở thầy cô giáo mới để em vui thích hơn trong trong các
    buổi học? Hãy viết thư, lời nhắn gửi cô /thầy để nói lên mong muốn của em?”.
    – Với học sinh lớp 1, 2 chúng tôi phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi:
    + Em có yêu quý cô giáo và các bạn của mình không?
    + Em có cảm thấy vui khi được học cùng với cô giáo và các bạn không?
    + Em thích nhất cô giáo tổ chức hoạt động gì?
    + Em muốn cô giáo làm gì để mình vui hơn, thích học hơn?
    Qua các lá thư, lời nhắn gửi và câu trả lời hết sức hồn nhiên của trẻ, hầu như
    các em đều bày tỏ lòng biết ơn với cô giáo và mong muốn cô luôn tươi cười, vui
    13
    vẻ, mặc đẹp…Các em mong cô không cáu gắt, mong cô lắng nghe chúng em và
    tổ chức cho các em nhiều hoạt động ngoại khóa, hoạt động vui chơi nhiều hơn,…
    Với những cách đó, chúng tôi muốn giáo viên tự liên hệ, cảm nhận, suy nghĩ
    về những điều mình đã làm tổn thương học sinh trong cách ứng xử không chủ ý
    của mình hàng ngày có tác động tiêu cực như thế nào đến việc hình thành và phát
    triển nhân cách của trẻ. Điều đó sẽ giúp lay động cảm xúc, thức tỉnh nhận thức
    bản thân và định hướng thay đổi phương pháp, cách ứng xử của mình với học
    sinh một cách tự nhiên.
    – Trong những buổi họp hội đồng, chúng tôi đề cập đến vấn đề cần thiết phải
    chú ý giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất nhân ái cho học sinh để dần nâng cao nhận
    thức cho giáo viên về vấn đề này.
    2.1.2. Nâng cao nhận thức của cha mẹ học sinh
    Chúng tôi yêu cầu GV dành một phần thời gian trong buổi họp phụ huynh
    đầu năm để cùng nhau chia sẻ vấn đề này.
    Cách tiếp cận:
    – GV nêu mục tiêu, yêu cầu giáo dục toàn diện về phẩm chất, năng lực với
    phụ huynh. Giúp phụ huynh hiểu rõ bên cạnh việc phối kết hợp giáo dục kiến
    thức, năng lực thì việc phối kết hợp giáo dục phẩm chất cho học sinh là một
    nhiệm vụ rất quan trọng. Theo đó, GV nhấn mạnh vai trò của phẩm chất nhân ái
    14
    đối với sự thành công của trẻ trong các mối quan hệ và giúp trẻ có những hành vi
    đúng với mọi người và thế giới xung quanh trong các hoàn cảnh đời sống.
    – Phát phiếu đánh giá mức độ hình thành phẩm chất nhân ái của HS cho phu
    huynh. (như đã trình bày trong mục 1.3)
    – Đọc thư của con gửi cho cha mẹ. (Ngày hôm trước, chúng tôi cho các em
    học sinh lớp 3,4, 5 viết thư gửi bố mẹ với đề bài: “Em mong muốn điều gì ở bố
    mẹ để em vui vẻ, học tập tốt trong năm học này? Hãy viết một lá thư (lời nhắn)
    gửi bố mẹ để nói lên điều đó nhân dịp đầu năm học mới”. Những lá thư được đặt
    dưới ngăn bàn tại vị trí cha mẹ ngồi họp.)
    Qua nhiều năm kinh nghiệm làm giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn cho các em
    viết thư giãi bày tâm sự với thầy cô, cha mẹ vào đầu mỗi năm học. Những lá thư
    của các em rất chân thật, lột tả được thực trạng điều mà chúng tôi muốn biết.
    (Lá thư của em học sinh lớp 4 gửi cho bố mẹ)
    15
    Trong những lá thư các em viết, các em mong bố mẹ ít xem điện thoại, ti vi,
    bớt làm việc… để có thời gian chơi với con; mong bố mẹ đừng chửi con là đồ “bỏ
    đi”, đồ “vô tích sự”,… khi con không được điểm cao; mong bố mẹ không đối xử
    thiên vị giữa các anh chị em trong gia đình; mong bố mẹ đừng quát mắng chúng
    con mà hãy lắng nghe để hiểu con hơn, đừng ép các con học thêm quá sức vì con
    rất mệt mỏi…
    – Khi phụ huynh đọc lá thư xong, bên cạnh việc nói về những điều tốt đẹp
    trong thư như lòng biết ơn, lời hứa… giáo viên sẽ tiếp cận vấn đề giáo dục năng
    lực, phẩm chất cho con. Kể những câu chuyện để thấy được hậu quả của việc đối
    xử không công bằng trong gia đình, của việc sử dụng bạo lực trong giáo dục trẻ
    có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành tính cách của con trẻ.Giáo viên nói về tình
    trạng bạo lực học đường, lối sống ích kỷ của học sinh… và lối sống đó gây hại
    cho trẻ như thế nào trong cuộc sống của mình: Bị bạn bè ghét bỏ, không vui,
    không cảm thấy hạnh phúc, khó khăn trong việc hoà nhập với tập thể, cộng đồng,
    đôi khi dẫn đến sự cô lập, tự kỉ …
    Nhiều phụ huynh chia sẻ sau khi đọc những lá thư, những lời nhắn gửi của
    con: “Rất xúc động khi đọc thư của con và cảm thấy có lỗi với con.”
    “Chúng tôi chỉ chú trọng đến việc con học kiến thức mà coi nhẹ vấn đề giáo
    dục đạo đức cho con.”
    “Chúng tôi không nghĩ được xa hơn là các con sẽ bị ảnh hưởng như thế nào
    khi sống trong một tập thể mà không biết sẻ chia, không có tinh thần đoàn kết,
    tương trợ”,…
    Giáo viên giới thiệu, khuyến khích cho phụ huynh xem chương trình “Cha
    mẹ đã thay đổi” để cha mẹ rút ra được những bài học trong việc giáo dục con cái.
    16
    (Buổi họp phụ huynh đầu năm của lớp 5C)
    * Kết quả:
    Với cách tiếp cận này, phụ huynh và cả giáo viên đều được tác động 1 cách
    tự nhiên, giúp họ nâng cao nhận thức của mình về việc cần thiết phải giáo dục
    đạo đức, giáo dục phẩm chất nhân ái cho con; sự cần thiết phải đối xử công bằng
    giữa các con trong gia đình, giữa học sinh trong lớp; phải biết lắng nghe và giải
    quyết thỏa đáng những vấn đề bế tắc, bức xúc cho trẻ, khuyến khích, tạo nhiều cơ
    hội để con được tham gia vào công việc gia đình, thể hiện tình yêu thương, quan
    tâm, chăm sóc người thân, những người có hoàn cảnh khó khăn và chú ý đến việc
    nêu gương để con nhìn theo mà sống tốt hơn.
    2.2. Tăng cường hoạt động giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau, chú trọng công tác
    biểu dương khen ngợi.
    Bồi dưỡng phẩm chất nhân ái, tinh thần đoàn kết cho trẻ sẽ không hiệu quả
    nếu như chúng ta chỉ dừng lại ở các bài giảng đạo đức hay thông qua các tiết học
    có nội dung liên quan. Bởi đó là cách giáo dục nặng về lý thuyết, giáo điều không
    phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh tiểu học.
    Phẩm chất nhân ái phải được hình thành 1 cách rất tự nhiên thông qua những
    hoạt động, những hành vi ứng xử nhân văn hàng ngày.Với học sinh thì thông qua
    các hoạt động giúp đỡ nhau trong sinh hoạt hàng ngày trên lớp, trong lao động,
    học tập, vui chơi,… Giáo viên cần có sự phân công một cách có dụng ý để vừa đạt
    17
    được hiệu quả công việc, vừa kết hợp giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất cho học
    sinh.
    2.2.1. Tăng cường giáo dục phẩm chất nhân ái cho học sinh thông qua
    các hoạt dộng học tập.
    – Trong các phong trào “Đôi bạn cùng tiến”,“Cùng giúp bạn tiến bộ”…, giáo
    viên nên tổ chức cho học sinh tự nguyện xung phong nhận giúp đỡ các bạn chậm
    tiến học thuộc các bảng cửu chương, luyện kỹ năng đọc, luyện viết, làm
    tính,…trong các giờ truy bài đầu giờ, các hoạt động học trên lớp,…
    Hàng ngày, hằng tuần, giáo viên chú ý đánh giá biểu dương sự tiến bộ của
    các bạn được giúp đỡ, khen ngợi các bạn có tinh thần đoàn kết hỗ trợ, ghi công,
    tặng cờ để khích lệ phong trào và cũng để học sinh cả lớp nhận thức được ý nghĩa
    của việc làm tốt và khi làm việc tốt sẽ luôn được mọi người yêu quý, khen ngợi.
    18
    (Tăng cường hỗ trợ các bạn trong mỗi hoạt động học)
    2.2.2. Giáo dục phẩm chất nhân ái thông qua các hoạt động lao động và
    sinh hoạt chung
    – Trong lao động, vệ sinh: Giáo viên cùng hội đồng tự quản phân chia công
    tác lao động vệ sinh thành những phần việc nhỏ. Tổ chức cho học sinh tự nguyện,
    xung phong đảm nhận phần việc phù hợp với khả năng, sức khỏe của mình,
    khuyến khích sự hỗ trợ, giúp đỡ những bạn yếu hơn hoàn thành nhiệm vụ.
    – Sau mỗi buổi lao động, giáo viên đều chú trọng vào việc biểu dương, khen
    ngợi tinh thần đoàn kết, giúp đỡ của học sinh để các em thấy được ý nghĩa của
    việc mình đã làm mà thêm hứng khởi, tích cực tham gia vào các hoạt động tương
    trợ lẫn nhau.
    19
    (Hỗ trợ nhau trong lao động)
    – Trong các hoạt động khác, giáo viên cần chú trọng vào việc kêu gọi tinh
    thần đoàn kết, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong mọi hoạt động có thể dù là nhỏ nhất.
    Đặc biệt luôn đề cao công tác biểu dương, khen ngợi những hành vi đẹp thường
    diễn ra trong lớp học như: cho bạn mượn bút, thước kẻ, bút chì, cho bạn học
    chung sách, che chung ô, chung áo mưa, động viên an ủi khi bạn buồn, chúc
    mừng chia vui với bạn khi bạn có chuyện vui, chăm sóc bạn khi ốm đau ở lớp,…
    Đó chính là cách bồi dưỡng phẩm chất nhân ái đơn giản mà rất hiệu quả giúp
    hoàn thiện nhân cách học sinh mỗi ngày.
    (Cùng chúc mừng sinh nhật bên nhau)
    20
    (Cắm hoa chúc mừng các bạn nữ và cô giáo nhân ngày 8-3)
    – Cần giúp các em hiểu để tránh thể hiện các hành vi kì thị, chế giễu, thiếu
    sự đồng đcảm gây tổn thương tinh thần cho các bạn có hoàn cảnh đặc biệt, khó
    khăn, những bạn học hòa nhập trong lớp. GV chú ý tạo không gian thoải mái, tự
    nhiên để giáo dục các em biết cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ bạn tham gia các hoạt
    động chung của tập thể.
    21
    2.3. Tư vấn, giải quyết thỏa đáng những mâu thuẫn trong học sinh
    Trong mối quan hệ bạn bè, các em học sinh vẫn còn sử dụng từ ngữ, hành vi
    mang tính bạo lực tạo ra tâm lí ức chế, tức tối cho nhau. Những xích mích nhỏ,
    âm thầm lại là mầm mống làm nảy sinh những mâu thuẫn, xung đột lớn hơn hoặc
    tạo ra sự chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ. Nghiêm trọng hơn, nó dần hình thành
    những tính xấu như lòng sân hận, sự ganh ghét, đố kị, ảnh hưởng lớn đến sự hình
    thành phẩm chất nhân ái của trẻ.
    Vì vậy, giáo viên cần chú ý vào việc tư vấn, giải quyết thoả đáng những mâu
    thuẫn dù nhỏ, uốn nắn cách cư xử chưa đúng, chưa phù hợp của học sinh trong
    lớp một cách tự nhiên và có chủ đích nhằm bồi dưỡng phẩm chất nhân ái, tinh
    thần đoàn kết, yêu thương cho các em.
    Ví dụ:
    – Với việc dùng từ ngữ làm tổn thương bạn như: “Bạn ấy dốt nhất lớp đấy
    ạ!”, “Bạn ấy viết xấu, bẩn nhất lớp ạ!”, “Bạn ấy hay ăn cắp lắm ạ!”, “Nhà bạn
    ấy nghèo lắm ạ!”,…, giáo viên cần đưa ra những tình huống để học sinh đặt vị trí
    của mình vào vai của người bạn bị chê bai, nói xấu để các em có thể cảm nhận
    được cảm xúc của bạn ấy khi bị người khác nói về mình như thế. Từ đó, học sinh
    22
    sẽ rút kinh nghiệm và không sử dụng những lời nói mang tính bạo lực làm tổn
    thương người khác như thế nữa. Sau đó, giáo viên cùng học sinh tìm ra cách ứng
    xử, cách giải quyết giúp đỡ bạn tiến bộ, khắc phục những hạn chế thay vì chê bai,
    xa lánh và làm bạn tổn thương.
    (Bạo lực bằng lời dè bỉu, chê bai là hành vi lệch chuẩn của phẩm chất nhân
    ái)
    23
    – Với những hành vi bạo lực lớn hơn: cãi nhau, đánh bạn, vẩy mực, xé vứt
    đồ của bạn…, giáo viên cũng cần lắng nghe các em trình bày nguyên nhân, đồng
    cảm và chia sẻ cảm xúc với mỗi em. Từ đó, giáo viên phân tích để các em hiểu cái
    sai của mỗi người, giúp các em và nhận lỗi, hòa giải với bạn, bỏ qua và chơi với
    nhau một cách thoải mái nhất. Việc phân tích để giúp các em nhìn nhận cái sai
    một cách thỏa đáng sẽ giúp các em giải tỏa được những bức xúc, ấm ức trong
    lòng mà vui vẻ hòa giải và định hướng cho các em cách giải quyết vấn đề gây
    mâu thuẫn trong những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống.
    (GV giúp HS hóa giải mâu thuẫn bằng cách nhìn nhận cái sai và làm hòa)
    24
    2.4. Tổ chức các hoạt động gây quỹ ủng hộ các bạn có hoàn cảnh khó
    khăn.
    Mỗi năm nhận học sinh, chúng tôi đều yêu cầu giáo viên tìm hiểu hoàn cảnh
    gia đình của từng em, phát hiện học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn cần sự
    quan tâm giúp đỡ về vật chất hay tinh thần. Từ đó, cùng giáo viên xây dựng kế
    hoạch tổ chức các hoạt động thiết thực vừa giúp đỡ được các em, vừa giáo dục,
    bồi dưỡng phẩm chất nhân ái cho học sinh của lớp ngay từ đầu năm học.
    25
    2.5 . Nêu gương sáng về phẩm chất nhân ái
    Trong các hoạt động thiện nguyện, hay trong các cách ứng xử hàng ngày với
    mọi người, giáo viên phải luôn có ý thức nêu gương về lòng nhân ái. Bởi học sinh
    tiểu học có đặc điểm tâm lý rất thiên về cảm xúc. Các em sẽ cảm thấy ngưỡng
    mộ, tự hào về cô giáo của mình và thích học tập làm theo. Ngược lại, các em sẽ
    vô cùng thất vọng, mất lòng tin và không nghe theo nếu thầy cô làm ngược với lời
    thầy cô nói. Nghiêm trọng hơn, các em cũng sẽ bắt chước và làm theo cách ứng
    xử của cô. Vì vậy nêu gương là một trong những biện pháp vô cùng hiệu quả
    trong việc giáo dục học sinh nói chung và giáo dục lòng nhân ái nói riêng.
    26
    (Thầy cô giáo mua mặt nạ, ủng hộ quỹ “Giúp bạn đến trường” của các bạn HS)
    2.6. Bồi dưỡng phẩm chất nhân ái thông qua các hoạt động giáo dục
    ngoài giờ lên lớp của liên đội
    Nhiệm vụ của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong mỗi cơ sở giáo dục
    là giáo dục phẩm chất, bồi dưỡng nhân cách, kĩ năng sống… cho học sinh thông
    qua các hoạt động sinh hoạt tập thể và một trong những mục tiêu chính của hoạt
    động giáo dục ngoài giờ lên lớp là bồi dưỡng phẩm chất nhân ái cho học sinh.
    Vì vậy, nhiệm vụ của ban hoạt động ngoài giờ lên lớp là lồn

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc giáo dục phẩm chất nhân ái cho học sinh lớp 3

    SKKN Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc giáo dục phẩm chất nhân ái cho học sinh lớp 3

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, anh
    hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Tuy đã đi xa nhưng
    Người đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần to lớn, những tư tưởng vô
    giá, đặc biệt là tư tưởng đạo đức cách mạng. Cả cuộc đời và sự nghiệp của
    Người là tấm gương sáng ngời về đạo đức cho toàn Đảng, toàn dân ta suốt đời
    phấn đấu học tập và noi theo. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương
    của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, đồng thời cũng là tấm gương
    đạo đức của một người bình thường, ai cũng có thể học theo, làm theo để trở
    thành một người cách mạng, người công dân tốt của xã hội. Trong nhiều nội
    dung tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh lòng nhân ái, vị tha, khoan dung,
    nhân hậu, hết mực vì con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho
    chúng ta sự kính trọng, ngưỡng mộ và cố gắng phấn đấu noi theo.
    Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục đã chỉ rõ: “Giáo dục
    thế hệ trẻ yêu quê hương, Tổ quốc XHCN và tinh thần quốc tế vô sản, ý thức
    làm chủ tập thể, tinh thần đoàn kết, thân ái, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu
    khoa học, có ý thức kỷ luật, tôn trọng và bảo vệ của công, đức tính thật thà,
    khiêm tốn, dũng cảm,…”.
    Theo Chương trình giáo dục phổ thông – Chương trình tổng thể chính
    thức được Bộ giáo dục và Đào tạo công bố vào ngày 27 tháng 12 năm 2018,
    phẩm chất “nhân ái” là một trong năm phẩm chất cốt lõi: Yêu nước, nhân ái,
    chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.
    4
    Hình 1. Phẩm chất và năng lực cốt lõi của HS trong CT giáo dục tổng thể
    Phẩm chất: là những tính tốt thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử của con
    người; cùng với năng lực tạo nên nhân cách con người. Phẩm chất nhân ái là
    một nhóm trong những phẩm chất cốt lõi cần được hình thành và phát triển
    cho học sinh. Phẩm chất “Nhân ái” bao hàm các biểu hiện sau:

    Nhân áiCấp Tiểu họcCấp THCSCấp THPT
    Yêu quý
    mọi
    người
    – Yêu thương, quan
    tâm, chăm sóc người
    thân trong gia đình.
    – Yêu quý bạn bè,
    – Trân trọng danh dự,
    sức khoẻ và cuộc
    sống riêng tư của
    người khác.
    – Quan tâm đến mối
    quan hệ hài hoà với
    những người khác.
    – Tôn trọng quyền và

    5

    thầy cô; quan tâm,
    động viên, khích lệ
    bạn bè.
    – Tôn trọng người lớn
    tuổi; giúp đỡ người
    già, người ốm yếu,
    người khuyết tật;
    nhường nhịn và giúp
    đỡ em nhỏ.
    – Biết chia sẻ với
    những bạn có hoàn
    cảnh khó khăn, các
    bạn ở vùng sâu, vùng
    xa, người khuyết tật
    và đồng bào bị ảnh
    hưởng của thiên tai.
    – Không đồng tình
    với cái ác, cái xấu;
    không cổ xuý, không
    tham gia các hành vi
    bạo lực; sẵn sàng
    bênh vực người yếu
    thế, thiệt thòi,…
    – Tích cực, chủ động
    tham gia các hoạt
    động từ thiện và hoạt
    động phục vụ cộng
    đồng.
    lợi ích hợp pháp của
    mọi người; đấu tranh
    với những hành vi
    xâm phạm quyền và
    lợi ích hợp pháp của
    tổ chức, cá nhân.
    – Chủ động, tích cực
    vận động người khác
    tham gia các hoạt
    động từ thiện và hoạt
    động phục vụ cộng
    đồng.
    – Tôn trọng sự khác
    biệt của bạn bè trong
    lớp về cách ăn mặc,
    tính nết và hoàn cảnh
    gia đình.
    – Không phân biệt đối
    xử, chia rẽ các bạn.
    – Sẵn sàng tha thứ
    cho những hành vi có
    lỗi của bạn.
    – Tôn trọng sự khác
    biệt về nhận thức,
    phong cách cá nhân
    của những người
    khác.
    – Tôn trọng sự đa
    dạng về văn hoá của
    các dân tộc trong
    cộng đồng dân tộc
    Việt Nam và các dân
    tộc khác.
    – Cảm thông và sẵn
    – Tôn trọng sự khác
    biệt về lựa chọn nghề
    nghiệp, hoàn cảnh
    sống, sự đa dạng văn
    hoá cá nhân.
    – Có ý thức học hỏi
    các nền văn hoá trên
    thế giới.
    – Cảm thông, độ
    lượng với những
    hành vi, thái độ có lỗi
    của người khác.
    Tôn
    trọng sự
    khác biệt
    giữa mọi
    người

    6

    sàng giúp đỡ mọi
    người.

    Từ ngàn xưa, cha ông ta đã từng răn dạy: “Thương người như thể thương
    thân”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy
    rằng khác giống nhưng chung một giàn”… Đúng vậy, yêu thương con người
    là một truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam mà mỗi chúng ta
    ngày nay phải có trách nhiệm kế thừa và phát huy nó lên một tầm cao mới.
    Giáo dục phẩm chất nhân ái hay còn gọi là “Giáo dục chủ nghĩa nhân đạo”
    là mục đích xuyên suốt quá trình dạy học trong nhà trường phổ thông.
    Xuất phát từ mục đích, yêu cầu và tầm quan trọng trọng vấn đề giáo dục
    học sinh có phẩm chất nhân ái, biết quan tâm- chia sẻ yêu thương với gia
    đình và những người xung quanh, từng bước đáp ứng những nhu cầu cấp
    thiết của xã hội hiện đại, góp phần nuôi dưỡng những thế hệ chủ nhân tương
    lai của đất nước có nhân cách phát triển toàn diện – những “công dân toàn
    cầu”, tôi đã mạnh dạn đưa ra sáng kiến: “Một số giải pháp nâng cao hiệu
    quả việc giáo dục phẩm chất nhân ái cho học sinh lớp 3 ”.
    7
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi có sáng kiến
    1.1. Về phía giáo viên
    Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy 100% giáo viên đều nhận thức
    được mức độ cần thiết phải giáo dục phẩm chất nhân ái cho học sinh. Tất cả
    giáo viên đều cho rằng nhờ có phẩm chất nhân ái thì mới là người tốt, người
    có ích cho xã hội, học sinh biết đồng cảm và chia sẻ với mọi người, quan tâm
    đến mọi người sẽ giúp các em hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức sau
    này.
    Tuy nhiên qua trao đổi và quan sát hoạt động của giáo viên trên lớp, tôi
    nhận thấy giáo viên thường sử dụng những phương pháp mang tính truyền
    thống như phương pháp đàm thoại, trò chơi, thực hành, luyện tập. Những
    phương pháp GV ít sử dụng những phương pháp đòi hỏi sự sáng tạo và mất
    nhiều thời gian, khó khăn khi tổ chức và đánh giá như phương pháp động não,
    thảo luận nhóm, dự án. GV cũng chưa để ý nhiều đến việc lồng ghép giáo dục
    phẩm chất nhân ái cho HS trong các tiết học chính khóa.
    Trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp việc giáo dục lòng nhân ái cho
    HS cũng chưa được chú trọng nhiều. Ví dụ: Khi yêu cầu HS khuyên góp ủng
    hộ một số GV chưa giúp HS hiểu sâu sắc ý nghĩa của các việc từ thiện.
    GV ít tạo cơ hội giáo dục lòng nhân ái qua những câu chuyện kể, qua
    đoạn video, chương trình truyền hình hay phát động đọc sách,…
    Một số GV không tôn trọng sự khác biệt, ít cảm thông còn nôn
    nóng đòi hỏi người khác phải làm theo ý nghĩ của mình còn hay chê bai
    dè bỉu nên chưa phát huy hết được khả năng vốn có của HS. Chưa kể đến
    một số GV chưa có bao dung, hay tha thứ cho học trò của mình.
    1.2. Về phía học sinh
    Khi được hỏi về lòng nhân ái đa phần các em đều hiểu được một phần ý
    nghĩa của phẩm chất nhân ái. Các em mới chỉ hiểu: “Nhân ái là yêu thương
    con người”. Như vậy, mỗi học sinh đều ý thức được khái niệm của nhân ái
    nhưng biểu hiện cụ thể của nó thì các em chưa được trang bị kĩ càng.
    8
    Việc thể hiện cảm xúc và thái độ nhân ái của các em đối với mọi người
    xung quanh còn nhiều hạn chế. Các em ít thể hiện được cảm xúc tích cực sau
    khi thực hiện hành vi nhân ái hoặc có biểu hiện về phẩm chất nhân ái nhưng
    chưa thể hiện rõ nét. Chỉ khi có tình huống đặc biệt như bạn bị ngã, bạn bị đau
    thì một số học sinh mới có biểu hiện rõ.
    Việc biểu hiện phẩm chất nhân ái của học sinh không đồng đều. Bên
    cạnh một số ít học sinh thường xuyên có biểu hiện nhân ái trong quan hệ với
    cô giáo, bạn bè ở lớp và hiểu được ý nghĩa xã hội của hành vi thì đa số học
    sinh ít thể hiện hoặc không biết cách thể hiện phẩm chất nhân ái với mọi
    người.
    Cá biệt một số học sinh ứng phó và giải quyết các tình huống xảy ra
    hàng ngày thiếu kiềm chế bản thân: những chuyện nhỏ nhặt thường ngày mà
    các em ứng xử thiếu lòng nhân ái, trái với chuẩn mực đạo đức, có em vô cảm
    trước những hành vi bạo lực: chứng kiến bạo lực mà không hề có biểu hiện
    can ngăn.
    1.3. Về phía phụ huynh học sinh
    Hiện nay quan điểm của phụ huynh đã có nhiều thay đổi: Có nhiều phụ
    huynh có quan điểm mong muốn được dạy đạo đức làm người song song học
    với việc học kiến thức. Tuy nhiên cũng còn một số phụ huynh do mải công
    việc nên mới chỉ biết lo cung ứng về mặt vật chất nhưng thiếu sự gắn kết, gần
    gũi vì không hiểu tâm tư nguyện vọng của con cái. Có phụ huynh chưa là tấm
    gương về lòng nhân ái cho con noi theo. Cá biệt có số ít phụ huynh dạy con
    tính ích kỉ, hiếu thắng, không bao dung với người khác.
    1.4. Về phía xã hội
    Trong xã hội có rất nhiều tấm lòng nhân ái sẵn sàng hi sinh bản thân
    mình để cứu giúp mọi người: Trong thời gian đất nước chống dịch COVID-
    19, các cụ già 70, 80 thậm chí 90 tuổi sẵn sàng ủng hộ 1-2 triệu đồng từ số
    tiền tiết kiệm, dành dụm đã tạo nên những hiệu ứng tích cực, tạo sự lan tỏa
    trong toàn xã hội. Chàng thanh niên Đặng Minh Trí 24 tuổi, quê Quảng
    9
    Bình đã đến TP Bắc Giang sau khi vượt hơn 500km từ TP Đồng Hới, tỉnh
    Quảng Bình để tình nguyện tham gia lực lượng y tế Bắc Giang chống dịch.
    Những bạn sinh viên tích cực hiến máu tình nguyện cứu người bệnh.
    Thậm chí có những thiếu niên như em Trần Đức Đông SN 2007, ở Bình
    Phước đã kiệt sức tử vong sau khi cứu được 4 bạn bị đuối nước…. Đó là
    những tấm gương, những hình ảnh về lòng nhân ái mà chúng ta phải
    ngưỡng mộ.
    Bên cạnh đó lại có khá nhiều người chỉ biết nhận mà không biết cho đi,
    sống bàng quang và vô cảm với mọi người xung quanh. Trong họ đầy sự đố
    kị, sự vô cảm, sự thù hận ích kỉ mang tính cá nhân, thiếu sự bao dung, độ
    lượng. Họ không còn xúc cảm đối với cuộc sống đang diễn ra xung quanh
    mình. Nhìn thấy một cảnh đau lòng mà không hề rung động, lạnh nhạt bước
    đi mà không thương xót. Hay nhìn người gặp nạn không cứu giúp mà chụp
    ảnh câu like. Có những kẻ danh nghĩa nhà hảo tâm, tìm đến những mảnh đời
    khó khăn, thiếu thốn để kêu gọi gây quỹ từ thiện, nhưng khi có tiền từ thiện,
    họ lại trích một phần bỏ vào túi riêng.
    Cá biệt có những kẻ không có lòng nhân ái đã làm trỗi dậy bản năng
    thú tính của những kẻ giết người vì tiền. Nếu trong con người có tính hướng
    thiện thì dù khó khăn đến đâu cũng vẫn vượt qua, họ sẽ kiếm sống một cách
    lương thiện mà không gây tội ác.
    Nguyên nhân:
    GV chưa nắm vững nội dung và phương pháp giáo dục phẩm chất nhân
    ái. Việc giáo dục của giáo viên còn mang nặng tính hình thức, tính lý thuyết
    giảng giải, học sinh chưa có nhiều cơ hội để trải nghiệm và thể hiện phẩm chất
    nhân ái. Giáo viên thiếu những biện pháp cụ thể, thiết thực, phù hợp đi sâu vào
    việc dục phẩm chất nhân ái cho học sinh. Nội dung của các hoạt động giáo dục
    phẩm chất nhân ái còn chưa thực sự phong phú, nhiều hoạt động mang tính dập
    khuôn, không hứng thú với học sinh. Hoạt động trải nghiệm là một hoạt động
    không mới, tuy nhiên trên thực tế giáo viên tổ chức các hoạt động này còn đơn
    điệu, đóng kín không có sự mở rộng, tiếp nối ở những hoạt động tiếp theo.
    10
    Do nhận thức hạn chế, có học sinh thường coi mình là trung tâm, đôi
    khi hành động theo suy nghĩ cá nhân, chưa có ý thức về những việc mình làm.
    Hành vi của các em chưa bền vững, chưa có tính chủ động, hay bắt
    chước vô thức, thích bắt chước những người trẻ yêu mến cô giáo, bạn, bố, mẹ
    Đa số cha mẹ trẻ chưa hiểu đầy đủ những nội dung giáo dục phẩm chất
    nhân ái cho con. Đồng thời cha mẹ trẻ chưa nắm rõ các biện pháp phù hợp để
    giáo dục phẩm chất nhân ái cho con mà chỉ giáo dục theo kinh nghiệm cá
    nhân.
    Một số gia đình cha mẹ còn thiếu ý thức và chưa chú trọng giáo dục
    phẩm chất nhân ái cho con. Sự phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường chưa
    chặt chẽ, cha mẹ chưa chủ động tìm hiểu nội dung cũng như các phương pháp
    giáo dục con, trong khi đó giáo viên cũng chưa quan tâm hướng dẫn và phối
    hợp với phụ huynh trong hoạt động giáo dục phẩm chất nhân ái.
    Như vậy có thể thấy việc giáo dục phẩm chất nhân ái chưa đạt những
    hiệu quả như mong muốn, do đó cần thiết phải xây dựng các hoạt động giáo
    dục phẩm chất nhân ái cho học sinh Tiểu học.
    Kết luận: Việc giáo dục lòng nhân ái ngay từ học sinh Tiểu học là điều vô
    cùng cần thiết, cấp bách, để đáp ứng với chương trình giáo dục phổ thông
    và giảm hành vi vi phạm pháp luật hay bạo lực học đường.
    11
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    Với quan điểm: “Giáo dục bằng uy quyền sẽ tạo ra sự đối kháng, giáo
    dục bằng tình yêu thương sẽ tạo ra những trái tim biết yêu thương, nhân ái”.
    Để giúp học sinh có trái tim biết nhân ái, yêu thương, tôi đã sử dụng các giải
    pháp sau:
    2.1. Giải pháp 1: Giáo viên và học sinh nhận thức sâu sắc phẩm
    chất nhân ái
    2.1.1. Thế nào là phẩm chất nhân ái?
    “Nhân” có nghĩa là người. “Ái” có nghĩa là tình thương yêu. Phẩm chất
    nhân ái được hiểu là tình yêu thương, giúp đỡ giữa những con người với nhau.
    Đó là thứ tình cảm chân thành, xuất phát từ chính trái tim dành cho nhau.
    Phẩm chất nhân ái không bắt nguồn từ sự vị kỉ, hẹp hòi mà nó xuất
    phát từ lòng bao dung, nhân ái. Nhân ái bắt nguồn từ những hành động, những
    cử chỉ hay lời nói của ta mỗi ngày. Lòng nhân ái đâu phải là những việc làm
    đao to bua lớn như ủng hộ cả chục triệu, trăm triệu cho người khó khăn. Nó
    đôi khi đơn giản chỉ là một manh áo cũ, một cuốn vở cũ hay thậm chí là một
    chút tiền tiết kiệm được gửi tới những người khó khăn và lòng chân thành.
    Lòng nhân ái đôi khi là cách bạn giúp đỡ một cụ già qua đường, giúp đỡ một
    em nhỏ đi lạc, một con vật bị thương…
    Lòng nhân ái giúp cho con người xích lại gần nhau hơn, gắn kết bền
    chặt với nhau hơn. Nó tạo nên một khối đoàn kết mạnh mẽ khó có thể tách
    rời, tạo nên sức mạnh của tập thể. Lòng nhân ái trong mỗi con người sẽ xoá
    tan sự đố kị, sự với cảm, sự thù hận. Lòng nhân ái được lan rộng ra khắp thế
    giới thì cuộc sống của con người sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều.
    2.1.2. Các yếu tố cấu thành phẩm chất nhân ái
    Phẩm chất nhân ái là một trong những giá trị nhân cách quan trọng của
    con người nói chung, của người Việt Nam nói riêng bao gồm nhận thức, tình
    cảm và hành vi.
    * Yếu tố nhận thức: Là hiểu biết của con người về phẩm chất nhân ái,
    12
    biết được nhân ái là phải quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ, tha thứ và bảo vệ bản
    thân, mọi người, sự vật xung quanh; nhận biết được các hành vi/xúc cảm nhân
    ái- nhận xét các biểu hiện nhân ái/; Nhận thức các tình huống/hoàn cảnh cần
    đồng cảm.
    * Yếu tố tình cảm: Là sự hứng thú, vui thích khi thể hiện phẩm chất nhân ái
    với bản thân và mọi người xung quanh. Từ đó biết thể hiện xúc cảm, tình cảm
    ra bên ngoài qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ phù hợp với tình huống và hoàn
    cảnh.
    * Yếu tố hành vi: Là những hành động nhân ái ra bên ngoài bằng ngôn ngữ
    và những hành vi phi ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ, nét mặt,… trong mối quan hệ
    với bản thân và mọi người, với sự vật xung quanh. Đó là những hành động thể
    hiện sự đồng cảm, quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ, bảo vệ và khoan dung. Hành vi
    nhân ái của con người đối với bản thân, mọi người và sự vật xung quanh được
    thể hiện bằng hành động cụ thể dựa trên thống nhất giữa nhận thức đúng đắn
    và tình cảm tích cực của con người trong các tình huống cụ thể của cuộc sống
    Các yếu tố cấu thành phẩm chất nhân ái có liên quan mật thiết với
    nhau: Yếu tố TÌNH CẢM đóng vai trò chủ đạo, Yếu tố NHẬN THỨC đảm
    bảo nội dung, Yếu tố. HÀNH VI giữ vai trò điều chỉnh và kiểm tra. Trong
    thực tế cuộc sống, các yếu tố cấu thành phẩm chất nhân ái không tồn tại riêng
    biệt, rời rạc mà gắn kết, thống nhất với nhau, tạo thành một kết cấu vững
    chắc, thể hiện năng lực thực sự của con người trong ứng xử với bản thân, mọi
    người và sự vật xung quanh.
    2.1.3. Các tiêu chí và biểu hiện phẩm chất “Nhân ái” với HS Tiểu học
    * Yêu quý mọi người
    – Yêu thương, quan tâm, chăm sóc người thân trong gia đình;
    – Yêu quý bạn bè, thầy cô, quan tâm, động viên, khích lệ bạn bè;
    – Tôn trọng người lớn tuổi, giúp đỡ người già, người ốm yếu, người khuyết
    tật, nhường nhịn và giúp đỡ em nhỏ;
    13
    – Biết chia sẻ với những bạn có hoàn cảnh khó khăn, các bạn ở vùng sâu,
    vùng xa, người khuyết tật và đồng bào bị ảnh hưởng của thiên tai.
    * Tôn trọng sự khác biệt giữa mọi người
    – Tôn trọng sự khác biệt của bạn bè trong lớp về cách ăn mặc, tính nết và hoàn
    cảnh gia đình.
    – Không phân biệt đối xử, chia rẽ các bạn.
    – Sẵn sàng tha thứ cho những hành vi có lỗi của bạn.
    2.1.4. Để giáo dục học sinh có lòng nhân ái, trước hết giáo viên là
    tấm gương sáng về lòng nhân ái trong mọi việc làm, hành vi.
    2.1.4.1. Tác phong
    Giáo viên phải biết ăn mặc lịch sự, kín đáo.
    Tác phong đi lại của thầy cô cũng là hình ảnh trực quan cuả học sinh.
    Lời nói là phương tiện giao tiếp trực tiếp hàng ngày của thầy trò nên
    chúng ta cũng cần thận trọng hơn khi giao tiếp với học sinh. Giáo viên tránh
    xúc phạm, miệt thị, tránh thứ ngôn ngữ “chợ búa” làm các em tổn thương
    hoặc không nể phục. Nếu trong lúc nóng giận, giáo viên có nặng lời với các
    em thì đừng ngại nói lời xin lỗi.
    Nét mặt, ánh mắt của giáo viên biểu lộ trực tiếp thái độ với các em học
    sinh
    Giáo viên không được ngang nhiên cho mình quyền xâm phạm đời tư
    cá nhân của học sinh. Điều này không chỉ cho thấy thầy cô đã vi phạm pháp
    luật mà còn thể hiện sự yếu kém trong xử lý tình huống sư phạm và công tác
    chuyên môn. Như đương nhiên, việc tịch thu tài sản của học sinh chỉ là một
    cách giải quyết mang tính trấn áp và cưỡng chế tạm thời bằng uy quyền. Tức
    là chỉ ngăn cấm nhu cầu của đối tượng giáo dục chứ không giải quyết triệt để
    vấn đề bằng góc độ nhân văn của giáo dục là khơi dậy niềm yêu thích và say
    mê với môn học.
    Việc phạt đánh mắng, đuổi ra khỏi lớp, ném sách vở cho thấy rõ giáo
    viên không chỉ yếu kém về công tác quản lý giáo dục vì không nắm rõ văn
    14
    bản luật giáo dục mà còn thiếu tình yêu thương và lòng bao dung cảm hóa học
    trò. Giáo viên cần biết cách chèo lái một cách khéo léo, cần gần gũi với các
    em hơn, lắng nghe những tâm tư, chia sẻ của các em hơn, giáo dục bằng tình
    yêu thương sẽ tạo ra những trái tim biết yêu thương, nhân ái và giàu lòng trắc
    ẩn.
    2.1.4.2. Phẩm chất, nhân cách
    Đây là yếu tố quan trọng giúp chúng ta tự tin để dạy học trò. Những gì
    thuộc về đạo đức, giáo viên cần phải giữ gìn, cần hoàn thiện. Nếu chúng ta
    dạy học sinh biết tha thứ mà bản thân chúng ta lại không tha thứ cho ai, dạy
    các em biết cảm thông mà chúng ta lại miệt thị người khác, dạy các em biết
    bỏ đi thói ghen tị mà chúng ta lại ghen tị hẹp hòi hoặc nói với các em là phải
    đối xử công bằng mà bản thân chúng ta đối xử với các em không công bằng…
    thì chúng ta không thể thuyết phục được học sinh.
    Giáo viên cần gần gũi tâm sự với học sinh, đặt mình vào hoàn cảnh học
    sinh. Tâm sự bằng tình cảm chân thành của người thầy, người anh, người
    chị,… có như thế học sinh mới thấy mình được giáo viên tin cậy, đồng cảm
    nên sẽ sẵn sàng tâm sự với giáo viên. Qua đó giáo viên mới có biện pháp giáo
    dục phù hợp.
    Khi tiếp xúc với học sinh, giáo viên cần sẵn sàng lắng nghe theo sự
    phản ánh của học sinh. Ánh mắt hướng về các em, lắng nghe bằng cả sự nhiệt
    tình.
    Giáo viên cần tận dụng mọi cơ hội, mọi thời gian thích hợp để lắng
    nghe học sinh. Giáo viên cần tránh lối hành xử áp đặt, biết chấp nhận sự khác
    biệt của mỗi học sinh. Lắng nghe phụ huynh, nghe để hiểu, để cảm nhận, nghe
    để biết, nghe để ngẫm, để trả lời các em, để tìm ra những phương pháp giáo
    dục phù hợp. Lắng nghe đồng nghiệp để tiếp nhận các thông tin biểu hiện của
    các em trong giờ học để có cái nhìn và đánh giá xác thực hơn.
    Mọi điều tốt đẹp nhất bắt đầu từ những lời cảm ơn hoặc xin lỗi, ngay
    trong nhà trường. Biết xin lỗi mới nhận được lời cảm ơn. Giáo viên cần làm
    15
    gương cho học sinh, sẵn sàng nói lời xin lỗi, cảm ơn học sinh khi thật cần
    thiết. Các em sẽ cảm thấy được tôm trọng, được ghi nhận.
    Học cách lắng nghe sẽ giúp chúng ta xây dựng được các mối quan hệ
    sâu sắc và để có thể hỗ trợ đến từng cá nhân học sinh. Nếu chúng ta biết lắng
    nghe các em nói, các em sẽ cho chúng ta biết các em thích gì, không thích gì,
    các em hiểu hay chưa hiểu điều chúng ta nói. Khơi gợi, truyền lửa cho sự đam
    mê, sáng tạo của học trò đó chính là thành công của người thầy.
    Kết luận:
    Phẩm chất nhân ái là giá trị nhân văn, thể hiện sự thương yêu của
    con người qua nhận thức, tình cảm, thái độ và hành vi tích cực đối với mọi
    người và sự vật xung quanh. Phẩm chất nhân ái được thể hiện ở những
    nội dung cơ bản: sự cảm thông, chia sẻ, quan tâm, giúp đỡ, nhƣờng nhịn,
    sẵn sàng tha thứ, mong muốn những điều tốt đẹp cho mọi người và sự vật
    xung quanh. Phẩm chất nhân ái gồm 3 yếu tố: nhận thức; tình cảm, thái độ
    và hành vi.
    Giáo dục phẩm chất nhân ái đạt hiệu quả cần tuân theo một số
    nguyên tắc: Giáo dục cần tác động đến học sinh bằng tình cảm, Giáo dục
    phẩm chất nhân ái, Giáo dục thông qua môi trường giàu tính nhân văn.
    Giáo dục bằng sự gương mẫu của người lớn xung quanh, tạo ấn tượng
    mạnh cho trẻ trong quá trình dạy học, Tôi rất tâm đắc với các quan
    điểm: “Cách giáo dục tốt nhất là giáo dục bằng chính nhân cách nhà giáo
    dục” “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn
    tuyên truyền”. “Mỗi thầy giáo, cô giáo, là tấm gương về lòng nhân ái…;
    mỗi bậc phụ huynh, mỗi cán bộ, đảng viên là tấm gương về lòng nhân ái
    thì sẽ lan tỏa, thẩm thấu vào trẻ thơ những giá trị yêu thương cao cả của
    con người.”
    16
    2.2. Giải pháp 2: Lồng ghép giáo dục phầm chất nhân ái cho HS trong
    các tiết học chính khóa.
    2.2.1. Mục tiêu của việc lồng ghép giáo dục phẩm chất nhân ái trong
    chương trình lớp 3 là
    Trong trường học, ngoài việc học kiến thức ra giáo viên còn phải giáo
    dục cho học sinh có đạo đức, một trong những phẩm chất đạo đức của học
    sinh cần đạt được đó là phẩm chất nhân ái. Phẩm chất nhân ái là một trong
    những yếu tố hình thành bản chất con người nên giáo viên cần dạy cho học
    sinh biết đồng cảm, khoan dung, quan tâm, chia sẻ, bảo vệ, giúp đỡ những
    người xung quanh. Từ đó hình thành nhân cách cho học sinh phù hợp với xu
    hướng giáo dục hiện nay.
    2.2.2. Nội dung và cách thực hiện lồng ghép
    2.2.2.1. Lồng ghép giáo dục phẩm chất nhân ái thông qua một số
    bài học cụ thể
    Căn cứ vào nội dung từng bài để giáo viên thực hiện lồng ghép vào một
    số bài cụ thể như sau:

    MônTuầnTên bàiNội dung tích hợp
    Tập
    đọc
    2Ai có lỗi?Biểu hiện phẩm chất “Nhân ái” được thể
    hiện trong bài : Sẵn sàng tha thứ cho những
    hành vi có lỗi của bạn.
    Qua bài đọc GV giúp HS hiểu làm việc gì
    chúng ta cũng cần suy xét cho kĩ, đừng vì
    hiểu lầm, đừng vì tức giận mà làm sứt mẻ
    tình cảm bạn bè. Hãy luôn biết bao dung,
    tha thứ, nhường nhịn, luôn nghĩ tốt về nhau
    không nên chấp nhặt mà trả thù bạn. Nếu
    có lỗi, hãy can đảm nhận lỗi.

    17

    Tập
    đọc
    8Các em nhỏ và cụ
    già
    Biểu hiện phẩm chất “ Nhân ái” được thể
    hiện trong bài : Tôn trọng người lớn tuổi;
    giúp đỡ người già, người ốm yếu khi họ
    gặp khó khăn.
    Qua bài đọc GV giúp HS rút ra được bài
    học: Cần thể hiện sự quan tâm, yêu thương
    với những người sống trong cộng đồng.
    Giúp đỡ không phải lúc nào cũng là của cải
    vật chất, đôi khi chỉ là một lời hỏi thăm,
    động viên chia sẻ cũng giúp cho họ vơi đi
    những nỗi buồn.
    Tập
    đọc
    8Tiếng ruBiểu hiện phẩm chất “Nhân ái” được thể
    hiện trong bài: Yêu thương, quan tâm,
    đoàn kết với bạn bè, yêu quý những người
    sống quanh ta.
    Qua đó khuyên học sinh phải lòng yêu
    thương, vị tha, khiêm nhường, cần tránh
    những thói quen nhỏ nhen, ích kỉ. Hãy luôn
    cảm thông, sống đoàn kết giữa những
    người sống trong cộng đồng.
    Tập
    đọc
    16Đôi bạnBiểu hiện phẩm chất “Nhân ái” được thể
    hiện trong bài: Sống chan hòa, yêu thương,
    luôn quan tâm giúp đỡ bạn bè.
    Qua đó giúp HS hiểu bạn Mến dũng cảm,
    sẵn sàng cứu giúp người khác, không sợ
    nguy hiểm đến tính mạng.
    Tập
    đọc
    17Mồ Côi xử kiệnBiểu hiện phẩm chất “Nhân ái” được thể
    hiện trong bài: Yêu thương, quan tâm giúp
    đỡ những người trong xã hội, luôn coi

    18

    trọng lẽ công bằng.
    Qua bài HS cần học tập chàng Mồ Côi đức
    tính thật thà, tốt bụng, sẵn sàng giúp người,
    cứu người, tất cả vì lẽ công bằng.
    Tập
    đọc
    19Bộ đội về làngBiểu hiện phẩm chất “Nhân ái” được thể
    hiện trong bài: Tình cảm quân dân như cá
    với nước.
    Qua đó giúp HS hiểu: Khi các chú bộ đội
    về làng, mọi người dân từ em bé đến cụ già
    yêu quý, trân trọng, đón tiếp niềm nở.
    Khách và chủ hòa niềm vui vào nhau, thân
    thiết như người một nhà. Tình cảm yêu
    thương trân trọng góp phần giúp chúng ta
    giành được thắng lợi huy hoàng.
    Tập
    đọc
    31Bác sỹ Y-éc-xanhBiểu hiện phẩm chất “Nhân ái” được thể
    hiện trong bài: Luôn yêu thương, quan tâm
    và sống có trách nhiệm với mọi người trên
    trái đất.
    Qua đó giúp HS hiểu: Bác sĩ Y-éc-xanh
    tấm gương đạo đức về phẩm chất nhân ái.
    Ông luôn khiêm nhường, gần gũi với mọi
    người. Ông không thể cảm thấy tâm hồn
    bình yên khi không cứu giúp được nhân
    loại trên trái đất.
    LTVC8MRVT: Cộng
    đồng
    Biểu hiện phẩm chất “Nhân ái” thể hiện
    trong bài: yêu thương, quan tâm và sống
    có trách nhiệm với những người sống trong
    cộng đồng.
    Qua đó giúp HS tìm thêm những câu thành

    19

    ngữ, tục ngữ ca dao nói về tình cảm, sự gắn
    bó trong cộng đồng.
    LTVC14Ôn về từ chỉ đặc
    điểm, ôn kiểu câu
    Ai thế nào?
    Biểu hiện phẩm chất “Nhân ái” thể hiện
    trong bài: yêu thương, quan tâm và sống
    có trách nhiệm với những người sống trong
    cộng đồng.
    Qua đó giúp HS tìm những từ chỉ về lòng
    nhân ái. Đặt câu nói về lòng nhân ái của
    những người sống trong cộng đồng.
    TLV8Kể về người hàng
    xóm
    Biểu hiện phẩm chất “Nhân ái” được thể
    hiện trong bài: yêu thương, quan tâm và
    sống có trách nhiệm với những người sống
    trong cộng đồng.
    Qua đó giúp HS tìm Chú ý học sinh kể
    lòng nhân ái của người hàng xóm với
    những người sống trong cộng đồng.
    TLV9Kể về tình cảm
    người thân dành
    cho em.
    Biểu hiện phẩm chất “Nhân ái” được thể
    hiện trong bài: yêu thương, quan tâm và
    sống có trách nhiệm với những người thân.
    Từ việc kể tình cảm của người thân dành
    cho em, giáo viên gợi ý cho học sinh kể
    tình cảm yêu thương của em dành cho
    người thân hay tình cảm của em dành cho
    bạn bè, cho những người hàng xóm, những
    người sống trong cộng đồng.
    TLV8Nghe kể: Không
    nỡ nhìn.
    Biểu hiện phẩm chất “Nhân ái” thể hiện
    trong bài: yêu thương, quan tâm và sống
    có trách nhiệm với những người sống trong

    20

    cộng đồng.
    Qua đó HS cần quan tâm đến người già,
    phụ nữ và em nhỏ trong cộng đồng.
    TLV13Viết thưBiểu hiện phẩm chất “Nhân ái” được thể
    hiện trong bài: Biết chia sẻ với những bạn
    có hoàn cảnh khó khăn, các bạn ở vùng
    sâu, vùng xa, người khuyết tật và đồng bào
    bị ảnh hưởng của thiên tai.
    Qua đó hướng dẫn HS viết thư thể hiện sự
    quan tâm chia sẻ với những bạn có hoàn
    cảnh khó khăn ở 3 miền Bắc Trung Nam.
    Viết thư gửi các bác sĩ nơi tuyến đầu chống
    dịch bệnh Covid- 19,…
    TLV30Viết thưBiểu hiện phẩm chất “Nhân ái” được thể
    hiện trong bài: Biết chia sẻ với những bạn
    có hoàn cảnh khó khăn, người khuyết tật
    và đồng bào bị ảnh hưởng của thiên tai
    trong mái nhà chung: “Trái đất”.
    Qua đó hướng dẫn HS viết thư thể hiện sự
    quan tâm chia sẻ với những bạn có hoàn
    cảnh khó khăn ở các nước đang có chiến
    tranh, đang gặp dịch bệnh, đang chịu thiên
    tai,…
    Đạo
    đức
    9.
    10
    Chia sẻ vui buồn
    cùng bạn.
    Biểu hiện phẩm chất “Nhân ái” thể hiện
    trong bài: yêu thương, quan tâm và sống
    có trách nhiệm với bạn bè
    Qua đó giúp HS có những việc làm thể
    hiện sự yêu thương, quan tâm, có trách
    nhiệm

    21

    Đạo đức14.
    15
    Quan tâm giúp
    đỡ hàng xóm
    láng giềng
    Biểu hiện phẩm chất “Nhân ái” thể hiện
    trong bài: yêu thương, quan tâm và sống
    có trách nhiệm với những người sống
    trong cộng đồng.
    Qua đó giúp HS có những việc làm thể
    hiện tình làng nghĩa xóm.
    Đạo
    đức
    20,
    21
    Đoàn kết với
    thiếu nhi quốc tế.
    Biểu hiện phẩm chất “Nhân ái” được
    thể hiện trong bài: Biết chia sẻ với
    những bạn có hoàn cảnh khó khăn, các
    bạn ở vùng ảnh hưởng của thiên tai,
    bệnh dịch.
    Qua đó khuyến khích học sinh viết thư,
    thăm hỏi, động viên, an ủi những bạn ở
    các nước đang gặp thiên tai, dịch bệnh,
    chiến tranh.

    Ví dụ: Lồng ghép giáo dục phẩm chất nhân ái thông qua tiết dạy đạo đức
    chính khóa.
    KẾ HOẠCH BÀI DẠY MÔN ĐẠO ĐỨC – LỚP 3.
    CHIA SẺ VUI BUỒN CÙNG BẠN (Tiết 1)
    I. YÊU CẦU CẦN ĐẠT:
    – HS biết được bạn bè cần phải chia sẻ với nhau khi có chuyện vui, buồn.
    – Nêu được một vài việc làm cụ thể chia sẻ vui buồn cùng bạn.
    – Biết chia sẻ vui buồn cùng bạn trong cuộc sống hằng ngày.
    – Hiểu được ý nghĩa của việc chia sẻ vui buồn cùng bạn .
    – Giáo dục cho HS biết giúp đỡ, chia sẻ vui buồn cùng bạn khi bạn gặp khó
    khăn.
    – Bài học góp phần hình thành và phát triển ở HS các phẩm chất và năng
    lực cốt lõi:
    + Phẩm chất nhân ái: yêu thương, quan tâm và sống có trách nhiệm với
    22
    bạn bè và những người trong cộng đồng.
    + Phát huy năng lực điều chỉnh hành vi của bản thân .
    + Năng lực tự chủ và tự học (thông qua làm việc cá nhân để thực hiện các
    nhiệm vụ học tập)
    + Năng lực giao tiếp và hợp tác (thông qua làm việc nhóm và trình bày kết quả)
    II. ĐỒ DÙNG DẠY- HỌC.
    Chuẩn bị của giáo viên :
    Vở bài tập đạo đức.
    Máy chiếu, thiết bị loa đài.
    Văn phòng phẩm: Bút màu, kéo, hồ dán, giấy màu, dây treo.
    Trò chơi cho hoạt động khởi động: 5 người 4 chân.
    Cách chơi: GV chia lớp thành các nhóm nhỏ, 5 người / nhóm, dùng phấn để
    vạch điểm xuất phát và đích.
    – Yêu cầu nhiệm vụ của các nhóm là phải cùng nhau vượt qua một chặng
    đường với chỉ có 4 chân chạm đất. Đội nào trong quá trình di chuyển chạm
    đất với hơn 4 chân sẽ bị loại. Đội chiến thắng là đội về đích trước.
    – Phiếu nhiệm vụ số 1A, 1B ( dành cho hoạt động khám phá vấn đề)

    Phiếu nhiệm vụ số 1APhiếu nhiệm vụ số 1B
    Em hãy đọc tình huống và trả lời câu
    hỏi:
    Đã hai ngày nay, các bạn học sinh
    lớp 3B không thấy bạn Ân đến lớp.
    Đến giờ sinh hoạt của lớp, cô giáo
    buồn rầu báo tin:
    Như các em đã biết, mẹ bạn Ân
    lớp ta ốm đã lâu, nay bố bạn lại mới
    bị tai nạn giao thông. Hoàn cảnh gia
    đình bạn đang rất khó khăn.
    Chúng ta cần phải làm gì để
    Em hãy đọc tình huống và trả lời câu
    hỏi:
    Gần vào năm học mới rồi mà
    sách vở của Liên còn thiếu nhiều
    lắm. Hoàn cảnh gia đình đã khó
    khăn, ba chị em đều đi học nên càng
    túng bấn.
    Hôm đến trường tập trung, nghe
    các bạn kể về chuyện chuẩn bị sách
    vở bút giây cho năm học mới, Liên
    buồn lắm, lặng lẽ ra đứng một mình

    23

    giúp bạn Ân vượt qua khó khăn này?
    Nếu em là bạn cùng lớp với bạn An,
    em sẽ làm gì để an ủi, giúp đỡ bạn?
    Vì sao?
    ở góc lớp.
    Hiền là lớp phó, tuy không là bạn thân
    với Liên nhưng lại để ý đến thái độ của
    bạn. Hiền đến gần Liên, hỏi:
    – Có chuyện gì vậy, Liên ? Sao bạn
    buồn thế?
    Nghe bạn kể, Hiền nắm chặt tay Liên
    an ủi:
    – Đừng buồn nữa, Liên ạ. Từ nay đến
    ngày khai giảng còn một tuần nữa kia
    mà. Mình tin là bạn sẽ có đầy đủ sách
    vở.
    Nếu em là bạn cùng lớp với bạn
    Liên, em sẽ làm gì để an ủi, giúp đỡ
    bạn? Vì sao?

    – Phiếu bài tập: (Dành cho HS thực hiện nhiệm vụ cá nhân trên lớp)

    PHIẾU BÀI TẬP 1: Hãy đánh dấu (+) vào ô trống trước những ý mà em tán
    thành:
    a. Chia sẻ vui buồn cùng bạn làm cho tình bạn thêm thân thiết, gắn
    bó.
    b. Niềm vui, nỗi buồn của riêng mỗi người, không nên chia sẻ với
    ai.
    c. Niềm vui sẽ được nhân đôi, nỗi buồn sẽ được vơi đi nếu được
    cảm thông, chia sẻ.
    d. Người không quan tâm đến niềm vui, nỗi buồn của bạn bè thì
    không phải là người tốt.
    đ. Trẻ em có quyền được hỗ trợ, giúp đỡ khi gặp khó khăn
    e. Phân biệt đối xử với các bnaj nghèo, bạn có hoàn cảnh khó khăn

    24

    là vi phạm quyền trẻ em.
    PHIẾU BÀI TẬP 2: Hãy khoanh tròn vào đáp án mà em cho là đúng:
    Chia sẻ vui buồn cùng bạn là:
    a. Chúc mừng bạn nhân ngày sinh nhật.
    b. Động viên, an ủi bạn khi bạn gặp chuyện buồn.
    c. Hỏi thăm giảng bài giúp bạn khi bạn bị ốm.
    d. Mặc kệ bạn khi bạn gặp chuyện buồn.

    + Bộ thẻ Xanh (Sai) và Đỏ (Đúng).
    In 2 tình huống dưới đây trên 2 tờ giấy màu:

    Tình huống 1: Chung vui với
    bạn khi bạn được điểm tốt, khi
    bạn làm được một việc tốt, khi
    sinh nhật bạn…
    Tình huống 2: Chia sẻ với bạn khi bạn
    gặp khó khăn trong học tập, khi bạn bị ngã
    đau, bị ốm mệt, khi nhà bạn nghèo không
    có tiền mua sách vở.

    – Bài hát : “Lớp chúng mình đoàn kết” Nhạc và lời: Nguyễn Văn Chung.
    2. Chuẩn bị của HS:
    – Mang đến lớp truyện, sách, báo mà HS không sử dụng để tham gia hoạt
    động thiện nguyện của lớp.
    III. CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU:

    Các hoạt động
    và thời gian
    Hoạt động của giáo viênHoạt động của HS
    1. Hoạt
    động mở đầu
    (3- 4 phút)
    Mục đích: Tạo tâm thế tích cực
    cho HS và dẫn dắt vào bài học.
    + Lớp hát : “Lớp chúng mình
    đoàn kết” Nhạc và lời Mộng Lân.
    + Khởi động bằng trò chơi:
    – Tổ chức và hướng dẫn cho HS
    chơi trò chơi 5 người 4 chân.
    Cách chơi: GV chia lớp thành các
    nhóm nhỏ, 5 người / nhóm, dùng
    – HS hát
    – Nghe GV hướng
    dẫn.
    – Chơi thử
    – Thực hiện trò chơi
    Dự kiến câu trả lời:

    25

    2. Hoạt
    động hình
    thành kiến
    thức mới.
    ( 10- 15 phút)
    phấn để vạch điểm xuất phát và
    đích.
    – Yêu cầu nhiệm vụ của các nhóm
    là phải cùng nhau vượt qua một
    chặng đường với chỉ có 4 chân
    chạm đất.
    Đội nào trong quá trình di chuyển
    chạm đất với hơn 4 chân sẽ bị loại.
    Đội chiến thắng là đội về đích
    trước.
    a. Giới thiệu bài:
    Chúng ta cùng tìm hiểu bài:
    Chia sẻ vui buồn cùng bạn.
    – GV ghi bảng
    b. Thảo luận phân tích tình
    huống:
    Mục tiêu: HS nhận biết biểu hiện
    của sự yêu quý bạn bè và sự cần
    thiết phải chia sẻ vui buồn cùng
    bạn trong cuộc sống hằng ngày
    Cách tiến hành:
    Chia lớp thành các nhóm 4, tổ
    chức cho HS đọc tình huống
    Yêu cầu nhóm trưởng lên bắt thăm
    phiếu nhiệm vụ, thứ tự trình bày (
    Xem phần trình bày của giáo viên)
    Quan sát các nhóm làm việc, giúp
    đỡ nếu cần.
    Để 5 người có thể cùng
    di chuyển với 4 chân, 4
    người phải co một chân
    lên, chỉ đi
    bằng 1 chân và cõng/
    khiêng một bạn mới có
    thể di chuyển được.
    + Qua trò chơi học được
    tính đoàn kết chia sẻ,
    giúp đỡ bạn bè trong
    nhóm.
    – HS lắng nghe
    2-3 HS nhắc lại tên bài
    Các nhóm phân công
    nhóm trưởng. Nhóm
    trưởng bắt thăm nhiệm
    vụ, phân công nhiệm vụ
    cho từng thành viên
    nhóm.
    – Các nhóm thi đọc tình

    26

    3. Hoạt động
    luyện tập, thực
    hành.
    ( 10- 15 phút)
    Yêu cầu các nhóm thi đọc tình
    huống và trả lời câu hỏi.
    Hướng dẫn HS nhận xét, bổ sung
    câu trả lời của các nhóm.
    Nhận xét hoặc tặng thưởng
    Dựa vào câu trả lời của HS, GV
    kết luận biểu hiện của sự chia sẻ,
    quan tâm đến bạn bè.
    Giáo viên kết luận: Khi bạn có
    chuyện buồn, em cần động viên,
    an ủi bạn hoặc giúp đỡ bạn bằng
    những việc làm phù hợp với khả
    năng như giúp bạn chép bài, giảng
    lại bài cho bạn nếu bạn phải nghỉ
    học, giúp bạn làm một số việc
    nhà… để bạn có thêm sức mạnh
    vượt qua khó khăn.
    a. Đóng vai:
    Mục đích: HS đưa ra được cách
    ứng xử phù hợp trong một số tình
    huống cụ thể chia sẻ vui buồn
    cùng bạn. Đưa ra được lời giải
    thích phù hợp cho cách ứng xử.
    Cách tiến hành:
    Giáo viên chia nhóm đôi, yêu cầu
    mỗi nhóm xây dựng kịch bản và
    đóng vai một tình huống.
    Giáo viên cho các nhóm thảo luận,
    xây dựng kịch bản và chuẩn bị
    sắm vai.
    Cho các nhóm lên sắm vai
    huống và trả lời câu hỏi.
    – Đại diện các nhóm
    lần lượt lên trình bày.
    – Các nhóm còn lại
    lắng nghe, góp ý, nhận
    xét, bổ sung.
    Dự kiến câu trả lời
    của HS :
    – TH1: Động viên,
    an ủi, phân công nhau
    giúp đỡ gia đình Ân,
    quyên góp ủng hộ.
    – TH2: Động viên,
    an ủi, quyên góp ủng
    hộ.
    – Các nhóm lên bốc
    thăm tình huống.
    – Học sinh thảo luận
    nhóm đôi đưa ra cách
    ứng xử trong mỗi tình
    huống.
    Đóng vai xử lí tình

    27

    Giáo viên cho cả lớp thảo luận về
    cách ứng xử trong mỗi tình huống
    và cảm xúc của mỗi nhân vật khi
    ứng xử hoặc nhận được cách ứng
    xử đó.
    Giáo viên kết luận:
    Tình huống 1: Khi bạn có chuyện
    vui, cần chúc mừng, chung vui với
    bạn.
    Tình huống 2: Khi bạn có chuyện
    buồn, cần an ủi, động viên và giúp
    bạn bằng những việc làm phù hợp
    với khả năng.
    b. Bày tỏ thái độ:
    Mục tiêu: Học sinh biết bày tỏ
    thái độ trước các ý kiến có liên
    quan đến nội dung bài học.
    Cách tiến hành:
    GV cho HS làm việc cá nhân sau
    đó cùng bày tỏ ý kiến.
    Giáo viên lần lượt đưa ra từng ý
    kiến
    ( Xem phần chuẩn bị của GV)
    Cho học sinh suy nghĩ và bày tỏ
    thái độ tán thành, không tán thành
    hoặc lưỡng lự bằng cách giơ các
    tấm bìa
    Giáo viên cho học sinh thảo luận
    huống và giải thích vì
    sao mình làm như vậy?
    Nhận xét, trao đổi về
    cách ứng xử của các
    nhóm
    *Chia sẻ ý kiến và đưa
    ra cách ứng xử, giải
    thích cho ý kiến của
    mình.
    Cả lớp thảo luận, nhận
    xét và đặt câu hỏi cho
    nhóm bạn.
    – Học sinh làm việc
    cá nhân.
    – Học sinh lắng nghe
    – Học sinh suy nghĩ
    và bày tỏ thái độ
    bằng cách giơ các
    tấm bìa

    28

    4. Hoạt động
    vận dung và
    trải nghiệm
    về lí do học sinh có thái độ tán
    thành và không tán thành hoặc
    lưỡng lự
    Giáo viên gọi đại diện các nhóm
    trình bày kết quả thảo luận.
    Giáo viên cho lớp nhận xét.
    Giáo viên nhận xét câu trả lời của
    các nhóm
    Giáo viên kết luận:
    Các ý kiến a, c, d, đ, e là đúng
    Ý kiến b là sai
    Mục tiêu: Giúp HS luyện tập cách
    quan tâm, giúp đỡ bạn bè.
    a. Hướng dẫn tổ chức tháng
    tình bạn
    – Yêu cầu HS tổ chức tháng tình
    bạn.
    Thống kê lại ngày sinh nhật của
    các bạn trong lớp theo tháng.
    Lên kế hoạch tổ chức mừng sinh
    nhật theo tháng cho các bạn.
    b. Hướng dẫn HS lập tủ sách
    yêu thương.
    – Hướng dẫn phân loại, sắp xếp,
    bọc lại sách, truyện, báo để gửi
    tặng các bạn vùng sâu, vùng xa,
    vùng khó khăn, vùng bị thiên tai.
    Các nhóm thảo luận
    Đại diện các nhóm trình
    bày kết quả thảo luận.
    Cả lớp nhận xét và đặt
    câu hỏi cho nhóm bạn.
    – Thực hiện yêu cầu của
    GV về tổ chức tháng
    tình bạn.
    – Hỏi và ghi lại ngày
    sinh nhật của các bạn
    trong lớp.
    – Liệt kê các công việc
    cần làm để chuẩn bị
    thực hiện tổ chức sinh
    nhật cho các bạn trong
    tháng.
    – Phân loại sắp xếp
    những quyển sách,
    truyện, báo theo hướng
    dẫn của giáo viên.
    – Đóng gói gửi tặng
    các bạn vùng sâu, vùng
    xa.

    29

    5. Nhận xét –
    Tổng kết tiết
    học:
    Chia sẻ
    – GV các em đã từng chia sẻ vui,
    buồn cùng bạn chưa, khi được
    giúp đỡ bạn em cảm thấy như thế
    nào?
    – Điều thú vị nhất mà em có được
    sau buổi học là gì?
    – Nhận xét tiết học.
    – Chuẩn bị bài: Chia sẻ vui buồn
    cùng bạn (tiết 2)
    – GV chiếu hình ảnh về những
    hoạt động của HS trong lớp đã
    tham gia cùng nhau trong năm học
    và cùng nhau hát bài: “Lớp chúng
    mình đoàn kết” nhạc và lời
    Nguyễn Văn Chung.
    – Từ 5-7 học sinh trả
    lời câu hỏi về điều thú
    vị, ấn tượng nhất mà em
    có được sau buổi học.
    – Hát, nhảy, vỗ tay theo
    bài hát.

    2.2.2.2. Lồng ghép thông qua các bài đọc hiểu
    Bài 1: Đọc bài: ” Chú vẹt dập lửa” và thực hiện các yêu cầu sau:
    Chú vẹt dập lửa
    Trong cánh rừng kia, các con vật sống cùng nhau thân thiết như một
    gia đình. Một ngày nọ, cánh rừng bỗng dưng bốc cháy ngùn ngụt. Có rất
    nhiều tiếng kêu cứu của muông thú vọng lên thảm thiết.
    Hôm đó, Vẹt bay qua suối uống nước, lúc quay về nó thấy cánh rừng
    như một chảo lửa. Vẹt buồn bã vô cùng, không một chút đắn đo, Vẹt quay
    trở lại con suối, làm ướt bộ lông của mình rồi bay vội về phía cánh rừng
    đang bốc cháy, giũ những hạt nước trên đôi cánh của mình xuống sau đó
    bay trở lại khu rừng, rũ nước ở đôi cánh xuống để hòng dập tắt ngọn lửa.
    Nó bay đi bay lại như vậy không biết bao nhiêu lần. Vẹt muốn mang những
    hạt nước này dập tắt đám cháy trong rừng.
    Vẹt cứ bay đi bay lại không biết bao nhiêu lầ

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Biện pháp sử dụng kĩ thuật dạy học sơ đồ tư duy để nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn luyện từ và câu lớp 4

    SKKN Biện pháp sử dụng kĩ thuật dạy học sơ đồ tư duy để nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn luyện từ và câu lớp 4

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Năm học 2020-2021 là một năm đặc biệt quan trọng của Giáo dục Tiểu học. Là
    năm đầu tiên áp dụng Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với lớp 1 và chuẩn bị
    triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với lớp 2 từ năm học 2021-2022.
    Việc đổi mới Chương trình giáo dục phổ thông đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ từ
    mục tiêu, phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học, tổ chức hoạt động, đánh giá xếp loại
    học sinh…
    Để nâng cao chất lượng giáo dục cần phải đổi mới phương pháp dạy học, phát
    huy tính tích cực, sáng tạo của người học, khắc phục lối truyền thụ một chiều.
    Đồng thời với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, giáo viên đã chuyển dần từ dạy học
    truyền thụ kiến thức sang dạy học phát triển năng lực phẩm chất học sinh, từ đó học
    sinh biết vận dụng các kiến thức vào thực tế xung quanh. Và một trong những phương
    pháp dạy học tích cực có hiệu quả đó là kĩ thuật dạy học bằng sơ đồ tư duy.
    Môn Tiếng Việt trong chương trình tiểu học là môn học có nhiều phân môn. Trong
    đó, phân môn Luyện từ và câu có vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần trang bị cho học
    sinh các kiến thức sơ giản về cách dùng từ, đặt câu, phát triển vốn từ cho học sinh, từ
    đó bồi dưỡng ở các em tình yêu cái đẹp, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
    Tuy nhiên, việc dạy Luyện từ và câu ở Tiều học nói chung và Luyện từ và câu ở
    lớp 4 nói riêng còn gặp nhiều khó khăn. Lượng kiến thức của một tiết học Luyện từ
    và câu lớp 4 tương đối nhiều, đòi hỏi giáo viên và học sinh phải có sự chuẩn bị chu
    đáo, tập trung.
    Trong giai đoạn cả thế giới nói chung và nước Việt Nam nói riêng đang gồng
    mình phòng và chống đại dịch COVID-19, việc dạy và học của cô và trò trên khắp cả
    nước cũng gặp không ít khó khăn. Rất nhiều địa phương phải cho trẻ nghỉ ở nhà để học
    trực tuyến. Năm học 2019-2020, vào tháng 2, tháng 3, tháng 4 theo sự chỉ đạo Bộ
    trưởng Bộ Giáo dục là “tạm dừng đến trường nhưng không dừng học”, trường tôi cũng
    đã thực hiện nghiêm chỉnh việc dạy và học trực tuyến. Qua quá trình dạy học trực
    tuyến tôi nhận thấy việc sử dụng sơ đồ tư duy là cần thiết và đạt hiệu quả tích cực. Khi
    tôi áp dụng sơ đồ tư duy vào việc ôn tập và hệ thống kiến thức Luyện từ và câu, học
    sinh rất chăm chú và hào hứng, cô cùng trò cùng nhau ôn lại bài một cách hiệu quả. Vì
    vậy tôi thấy việc sử dụng sơ đồ tư duy đề nâng cao chất lượng giảng dạy là hiệu quả và
    cần thiết nhất là trong giai đoạn hiện nay.
    Sơ đồ tư duy đã được áp dụng trong nhiều môn học khác nhau với từng bài
    học cụ thể, cho thấy hiệu quả tích cực mà công cụ này đem lại. Sử dụng sơ đồ tư duy
    tương đối đơn giản và có tính khả thi cao. Chỉ với các dụng cụ như bút màu, giấy,
    bìa, bảng….chúng ta đã có thể xây dụng nên các sơ đồ tư duy hoặc cũng có thể sử
    dụng các phần mềm thiết kế sơ tư đồ duy. Hơn thế, phương pháp sơ đồ tư duy có nhiều
    ưu điểm phù hợp với điều kiện kinh tế và cơ sở vật chất của nền giáo dục Việt Nam.
    Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Luyện từ và câu lớp 4 nhằm giúp học sinh
    nắm vững, ghi nhớ một cách hiệu quả các kiến thức về Luyện từ và câu như cấu tạo
    từ, nghĩa của từ, đặc điểm từ loại của từ, các kiểu câu,…ngoài ra biện pháp này còn
    giúp các em bộc lộ khả năng tư duy, logic, sáng tạo, giúp các em ghi nhớ bài nhanh và
    hệ thống kiến thức một cách hiệu quả, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
    trong học tập, đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy và học, góp phần nâng cao chất lượng giáo
    dục.
    Là giáo viên đã và đang giảng dạy lớp 4, tôi luôn trăn trở làm thế nào để các em
    học sinh hứng thú với môn học và tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả. Chính vì điều
    đó tôi đã đưa ra báo cáo sáng kiến : “Biện pháp sử dụng kĩ thuật dạy học sơ đồ tư duy
    để nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4”.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay tại trường Tiểu học Hải Nam nơi
    tôi đang công tác cũng đã và đang tích cực tổ chức các hoạt động học, hoạt động trải
    nghiệm, giáo dục kĩ năng sống…theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất của
    học sinh.
    Phòng Giáo dục, Ban Giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện để tôi tham gia tập
    huấn về đổi mới phương pháp dạy học, tích cực tự học, tự bồi dưỡng, góp phần nâng
    cao chất lượng dạy học và hoạt động giáo dục. Bởi vậy giáo viên hoàn toàn chủ động
    trong giờ giảng của mình, không gặp khó khăn trở ngại đối với những vấn đề có thể
    nảy sinh trên lớp.
    Đối với phương pháp dạy học cũ, giáo viên chính là tâm điểm còn học sinh là
    khách thể, là quỹ đạo xung quanh. Giáo viên sẽ là người thuyết trình, diễn giải kho tàng
    tri thức còn học sinh sẽ lắng nghe, ghi chép và học thuộc. Giáo án chương trình cũng
    được thiết kế theo một đường thẳng từ trên xuống. Nội dung giảng dạy mang đặc điểm
    về sự logic cao. Bên cạnh đó cách dạy học truyền thống cũng dễ khiến học sinh tiếp thu
    kiến thức một cách thụ động, giờ học buồn tẻ và kiến thức chủ yếu thiên về lý thuyết.
    Phân môn Luyện từ và câu lớp 4 nhìn chung ngắn gọn, cụ thể, có hai dạng bài là
    Bài lý thuyết và Bài tập thực hành với định hướng rõ ràng. Học sinh đã được làm quen
    hình thức tổ chức dạy học theo yêu cầu đổi mới từ lớp 1, 2, 3 nên các em đã biết cách
    lĩnh hội và luyện tập thực hành dưới sự hướng dẫn tổ chức của giáo viên.
    Phân môn Luyện từ và câu là một môn học khô khan, khó truyền đạt được hết ý
    trong bài học, do đặc thù của môn học nhất là trong cách tìm từ, giải nghĩa từ hay
    dùng từ đặt câu,…khiến cho học sinh cũng phải tiếp thu bài một cách thụ động.
    Trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt nói chung và dạy học phân môn Luyện từ
    và câu nói riêng, giáo viên vẫn còn sử dụng các phương pháp cũ nên chưa tạo được
    hứng thú cho học sinh. Hình thức dạy trong giờ Luyện từ và câu còn đơn điệu, phương
    pháp truyền thụ lệ thuộc một cách máy móc vào sách giáo viên, chưa thực sự sinh
    động, cuốn hút học sinh.
    Khi tiếp cận với các kĩ thuật dạy học mới, học sinh còn chưa quen. Việc này dẫn
    đến các em lúng túng, mất trật tự trong khi học.
    Trong giờ học Luyện từ và câu học sinh chưa tích cực hoạt động, không có sự tư
    duy và sáng tạo. Một số em còn có thói quen chờ thầy cô làm rồi chép bài, khả năng
    nhớ, hiểu và vận dụng kiến thức trong quá trình học tập còn yếu. Học sinh còn học vẹt,
    nhớ máy móc khi học phân môn này.
    Sau đây là bảng khảo sát mức độ tích cực tham gia các hoạt động học của học
    sinh trước khi áp dụng sơ đồ tư duy trong dạy học:

    Tích cực hoạt độngChưa tích cực
    Lớp 4ASL%SL%
    TS: 34 HS12/3435,322/3464,7

    Từ khảo sát trên, nhận thấy tỉ lệ học sinh không tích cực tham gia hoạt động học
    còn chiếm tỉ lệ cao, tôi thấy cần đổi mới cách dạy học Luyện từ và câu, tôi xin đề xuất:
    “ Biện pháp sử dụng kĩ thuật dạy học sơ đồ tư duy để nâng cao chất lượng giảng dạy
    Luyện từ và câu lớp 4”.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Luyện từ và câu lớp 4 nhằm giúp học sinh
    nắm vững, ghi nhớ một cách hiệu quả các kiến thức về Luyện từ và câu như cấu tạo
    từ, nghĩa của từ, đặc điểm từ loại của từ, các kiểu câu,…ngoài ra biện pháp này còn
    giúp các em bộc lộ khả năng tư duy, logic, sáng tạo, giúp các em ghi nhớ bài nhanh và
    hệ thống kiến thức một cách hiệu quả, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
    trong học tập, đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy và học, góp phần nâng cao chất lượng giáo
    dục.
    Để nâng cao chất lượng giáo dục cần phải đổi mới phương pháp dạy học, phát
    huy tính tích cực, sáng tạo của người học, khắc phục lối truyền thụ một chiều.
    Đồng thời với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, giáo viên đã chuyển dần từ dạy học
    truyền thụ kiến thức sang dạy học phát triển năng lực phẩm chất học sinh, từ đó học
    sinh biết vận dụng các kiến thức vào thực tế xung quanh. Và một trong những phương
    pháp dạy học tích cực có hiệu quả đó là kĩ thuật dạy học bằng sơ đồ tư duy.Trong quá
    trình giảng dạy, qua những lần thành công và khắc phục tôi đã rút ra kinh nghiệm và
    đưa ra một số biện pháp sau:
    a) Vận dụng sơ đồ tư duy để dạy các bài về tiếng
    Những kiến thức về tiếng trong chương trình Luyện từ và câu lớp 4 được chia
    thành hai bài học cụ thể, đó là: Cấu tạo của tiếng; Luyện tập về cấu tạo của tiếng.
    Sơ đồ tư duy không chỉ được sử dụng trong bài hình thành kiến thức mới mà còn
    có hiệu quả cao trong các bài luyện tập dạng bài về tiếng.
    Hoạt động hình thành kiến thức mới là hoạt động không thể thiếu đối với mỗi bài
    học. Có nhiều phương pháp khác nhau để hình thành kiến thức mới cho học sinh,
    trong đó sơ đồ tư duy là một công cụ dạy học có hiệu quả góp phần phát huy tính tích
    cực của học sinh trong giờ học, khiến cho giờ học trở nên sôi nổi hơn.
    Ví dụ khi dạy bài Cấu tạo của tiếng (Sách giáo khoa Tiếng việt 4, tập 1, trang
    6,7) Ở hoạt động hình thành kiến thức mới giáo viên cần giúp học sinh nắm được cấu
    tạo 3 phần của tiếng: Âm đầu, vần, thanh; lưu ý với học sinh tiếng nào cũng phải có
    vần, thanh. Tuy nhiên có tiếng có thể không có âm đầu. Với những kiến thức này,
    thay vì cho học sinh đọc nội dung phần ghi nhớ trong sách giáo khoa sau khi đã hướng
    dẫn học sinh làm bài tập phần nhận xét để rút ra kết luận, giáo viên có thể đưa ra
    một sơ đồ tư duy đã vẽ sẵn với chủ đề trung tâm là Cấu tạo tiếng để hình thành
    kiến thức mới.
    Ví dụ : Bài “Cấu tạo của tiếng” (Sách giáo khoa Tiếng việt 4, tập 1, trang 6,7)
    Sau khi học sinh vẽ xong, giáo viên có thể tổ chức cho các cá nhân hoặc các nhóm
    thuyết trình về sơ đồ tư duy của mình để tạo không khí thi đua và giúp các em hình
    thành sự tự tin khi đứng trước đám đông.
    Với bài Luyện tập về cấu tạo tiếng (SGK Tiếng Việt 4, tập 1, trang 12) giáo
    viên có thể sử dụng sơ đồ tư duy để hướng dẫn học sinh thực hành – luyện tập. Ví
    dụ, bài tập 1 của bài yêu cầu phân tích cấu tạo của các tiếng trong câu tục ngữ sau và
    điền vào bảng:
    Khôn ngoan đối đáp người ngoài
    Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
    Mẫu:

    TiếngÂm đầuVầnThanh
    HoàiHoaihuyền

    Với bài tập này, thay vì cho học sinh phân tích cấu tạo tiếng theo bảng mẫu, giáo
    viên có thể sử dụng sơ đồ tư duy với tiêu đề trung tâm là “Cấu tạo các tiếng trong câu
    tục ngữ” và hướng dẫn, gợi ý để học sinh phân tích cấu tạo các tiếng trong câu tục ngữ,
    vẽ tiếp sơ đồ tư duy chưa hoàn chỉnh. Việc cho học sinh vẽ sơ đồ tư duy phân tích cấu
    tạo các tiếng trong câu tục ngữ bằng cách sử dụng bút màu, giấy,… sẽ giúp các em hào
    hứng làm bài tập, phát triển tư duy và tài năng nghệ thuật của các em.
    Sau khi học sinh vẽ xong, giáo viên có thể tổ chức cho các cá nhân thuyết
    trình về sơ đồ tư duy của mình để tạo không khí thi đua và giúp các em hình thành
    sự tự tin khi đứng trước đám đông. (Phụ lục 1)
    b) Vận dụng sơ đồ tư duy để dạy học từ và cấu tạo từ
    Các kiến thức về từ và cấu tạo từ trong sách giáo khoa Tiếng Việt 4 gồm 3 bài:
    Từ đơn và từ phức, Từ ghép và từ láy, Luyện tập về từ ghép và từ láy. Đây đều là
    những kiến thức tương đối khó với học sinh. Các em khó phân biệt đựợc thế nào là từ
    phức, thế nào là từ ghép, từ láy? Và sơ đồ tư duy là một công cụ dạy học đắc lực hỗ trợ
    tư duy cho các em.
    Khi dạy các bài về cấu tạo từ, giáo viên cũng có thể sử dụng sơ đồ tư duy
    trong hoạt động hình thành kiến thức mới. Ví dụ khi dạy bài “Từ ghép và từ láy” (Sách
    giáo khoa Tiếng Việt 4, tập 1, trang 38), yêu cầu về kiến thức với bài này đó là:
    + Học sinh nắm được hai cách chính để tạo từ phức là phương thức ghép (Từ
    ghép) và phương thức láy (Từ láy).
    + Nhận biết được từ ghép và từ láy trong văn bản viết.
    Ở hoạt động hình thành kiến thức mới của bài này giáo viên có thể đưa ra sơ
    đồ tư duy với tiêu đề trung tâm là Từ phức (chưa được vẽ hoàn chỉnh) nhằm nhắc lại
    kiến thức ở bài cũ cho học sinh. Đồng thời, hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài để vẽ tiếp
    vào sơ đồ chưa hoàn chỉnh này. Việc sử dụng sơ đồ tư duy trong hoạt động này sẽ giúp
    các em tích cực học tập để tự phát hiện ra kiến thức mới cúa bài học. ( Phụ lục 2)
    Cũng với bài Từ ghép và từ láy, khi luyện tập thực hành giáo viên cũng có thể
    hướng dẫn các em làm bài tập dưới dạng các sơ đồ tư duy theo nhóm hoặc cá nhân.
    Khi đó tư duy và trí tưởng tượng sáng tạo của các em sẽ được phát huy để thực hiện nội
    dung bài tập. Khi làm bài tập các em có thể sử dụng từ, cụm từ, hình ảnh, màu
    sắc,… khiến cho sơ đồ tư duy sinh động và thể hiện được phong cách ghi chép riêng
    của mỗi em, đồng thời giúp các em hứng thú khi làm bài và ghi nhớ bài lâu hơn. (Phụ
    lục 3)
    c) Vận dụng sơ đồ tư duy hỗ trợ dạy – học nhóm bài về từ loại
    Yêu cầu đối với việc dạy học nhóm bài về từ loại trong phân môn Luyện từ và
    câu lớp 4 là học sinh nắm được khái niệm về danh từ, động từ, tính từ; cách phân
    loại của các từ loại này; cách thể hiện ý nghĩa, mức độ, đặc điểm của các từ loại ấy.Và
    học sinh có thể nhân diện, phân biệt được danh từ, động từ, tính từ trong văn bản Tiếng
    Việt.
    Có nhiều phương pháp dạy học khác nhau giúp học sinh học tốt nhóm bài về từ
    loại. Trong đó, sơ đồ tư duy là một phương pháp dạy học hiệu quả. Khi dạy học từ
    loại, giáo viên có thể sử dụng sơ đồ tư duy trong nhiều bước khác nhau của tiến trình
    bài dạy.
    Ví dụ, khi dạy bài Tính từ (Sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tập 1, trang 50) ở bước
    kiểm tra bài cũ giáo viên có thể sử dụng một sơ đồ tư duy còn khuyết với từ khóa
    trung tâm là “Tìm từ thích hợp xếp vào các nhóm” để kiểm tra kiến thức liên quan
    đến tính từ mà học sinh đã học ở lớp 2,3. Sau khi học sinh hoàn thành sơ đồ tư duy còn
    khuyết giáo viên nhận xét kết hợp với việc sử dụng lời nói nhẹ nhàng, khéo léo dẫn dắt
    học sinh vào bài học mới.
    Sơ đồ 2.10
    Nội dung phần kiểm tra bài cũ của bài Tính từ có liên quan đến nội dung bài
    học, vì vậy việc sử dụng sơ đồ tư duy vừa giúp học sinh củng cố kiến thức vừa tạo ra
    sự tò mò, tâm lí tìm tòi để phát hiện ra kiến thức mới dẫn dắt các em vào bài học mới
    sẽ giúp cho lớp học sôi nổi hơn.
    Hay với bài Danh Từ (Sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tập 1, trang 52) giáo viên
    có thể sử dụng sơ đồ tư duy để dạy học phần nhận xét của bài. Phần nhận xét gốm hai
    yêu cầu:
    -Thứ nhất, yêu cầu học sinh tìm các từ chỉ sự vật trong đoạn thơ
    -Thứ hai, yêu cầu học sinh xếp các từ vào nhóm thích hợp.
    Với nội dung này, giáo viên có thể yêu cầu học sinh tìm các từ chỉ sự vật trong
    đoạn thơ và sắp xếp vào các nhánh của sơ đồ tư duy chưa hoàn chỉnh mà giáo viên đã
    chuẩn bị trước. Ở phần này, học sinh có thể vận dụng kiến thức có liên quan đã học ở
    các lớp dưới để tìm từ và hoàn thành sơ đồ tư duy. (Phụ lục 4)
    Ngoài ra, khi dạy nhóm bài về từ loại giáo viên còn có thể sử dụng sơ đồ tư duy
    để tổng kết kiến thức về một từ loại sau khi đã học xong các bài về từ loại ấy. Việc sử
    dụng sơ đồ tư duy để tổng kết kiến thức về một từ loại sau khi đã học sẽ giúp học
    sinh bao quát được các kiến thức có liên quan đến từ loại đó và ghi nhớ kiến thức lâu
    hơn, tái hiện nhanh hơn.
    Ví dụ, sau khi học xong các bài về từ loại Danh từ như: Danh từ; Danh từ
    chung và danh từ riêng; Cách viết tên người, tên địa lí Việt Nam; Cách viết tên
    người, tên địa lí nước ngoài; giáo viên có thể sử dụng một sơ đồ tư duy để tổng kết
    những kiến thức có liên quan đến từ loại này.
    Sơ đồ tư duy này thường được sử dụng trong các tiết ôn tập hoặc tổng kết kiến
    thức. Khi học sinh hoàn thiện sơ đồ tư duy chưa hoàn chỉnh tổng hợp về các từ loại đã
    học các em sẽ phải tái hiện những kiến thức có liên quan đến những từ loại đã học. Sự tái
    hiện kiến thức kết hợp với tư duy sáng tạo, màu sắc, từ ngữ sẽ giúp các em tạo nên một
    sơ đồ tư duy hoàn chỉnh về từ loại trong chương trình lớp 4. Đồng thời giúp các em ghi
    nhớ kiến thức lâu hơn, hứng thú với việc học Tiếng Việt hơn.
    d) Vận dụng sơ đồ tư duy dạy – học bài: Mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ
    Mở rộng và phát triển vốn từ cho các em có vai trò quan trọng đối với học sinh
    lớp 4 nói riêng, học sinh Tiểu học nói chung. Trong phân môn LTVC, kiểu bài Mở
    rộng và phát triển vốn từ giúp các em mở rộng, phát triển, tích cực hóa vốn từ, từ đó
    giúp các em thuận lợi hơn trong giao tiếp.
    Chương trình phân môn Luyện từ và câu lớp 4 cung cấp và mở rộng vốn từ cho
    học sinh theo hệ thống các chủ điểm học tập. Việc mở rộng và phát triển vốn từ theo
    chủ điểm học tập gắn với các trường từ vựng giúp các em tiếp thu một cách dễ dàng.
    Hơn thế, hệ thống các chủ điểm thường có các bài tập gắn với ngữ cảnh và có tính hệ
    thống từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, các bài tập tìm từ, giải nghĩa từ giúp cho
    học sinh tích lũy và nắm được nghĩa của từ, cụm từ, thành ngữ, tực ngữ từ đó các em dễ
    dàng vận dụng vào trong giao tiếp.
    Sơ đồ tư duy đối với nhóm bài này sẽ giúp khai thác vốn từ sẵn có của học sinh và
    kích thích tư duy, sự tìm tòi hiểu biết ở các em để làm phong phú vốn từ, phát triển các
    lớp từ vựng của học sinh theo chủ điểm. VD: Bài tập 3 – MRVT: “Trung thực – Tự
    trọng” (SGK – TV 4 – tập 1. tr.62) học sinh có thể xây dựng được một bản đồ tư duy
    đầy đủ màu sắc mà vẫn đảm bảo kiến thức. ( Phụ lục 5)
    Dạng bài mở rộng và phát triển vốn từ ở chương trình Luyện từ và câu lớp 4
    hình thành và phát triển vốn từ cho học sinh theo các trường nghĩa gắn với các chủ
    điểm học tập. Vì vậy việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học giúp các em ghi nhớ
    lâu hơn các trường nghĩa được học để áp dụng trong giao tiếp.
    Không chỉ sử dụng sơ đồ tư duy khi giới thiệu bài mới, hình thành kiến thức
    giáo viên còn có thể sử dụng phương tiện dạy học này khi củng cố nội dung bài học.
    Cuối giờ học giáo viên cũng có thể ứng dụng sơ đồ tư duy để củng cố bài học và
    giúp các em phát huy vốn hiểu biết sẵn có cũng như liên hệ thực tế và giáo dục đạo
    đức cho các em thông qua các bài mở rộng vốn từ. Ví dụ, khi tiến hành hoạt động
    củng cố- dặn dò của bài Mở rộng vống từ: Dũng cảm giáo viên có thể đưa ra một sơ đồ
    với chủ để trung tâm là dũng cảm và 6 nhánh chính. Trong đó, 4 nhánh: Khái niệm,
    biểu hiện, từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa đã được hoàn thành để củng cố cho các em
    những kiến thức đã học, hai nhánh còn lại là: Làm thế nào để trở thành người dũng
    cảm và Các tấm gương về lòng dũng cảm sẽ để trống và khuyến khích học sinh thể
    hiện hiểu biết, tài năng để hoàn thành nhánh còn lại ấy. Đồng thời, thông qua việc học
    sinh phát huy hiểu biết để hoàn thành hai nhánh chưa hoàn thiện này giáo viên có thể
    giáo dục đạo đức cho các em, hướng các em học tập theo rèn luyện theo những tấm
    gương đạo đức, theo các biểu hiện của lòng dũng cảm.
    Sơ đồ 2.9
    Đối với học sinh lớp 4, tư duy trừu tượng của các em đã phát triển các em có
    khả năng tư duy, sáng tạo. Vì vậy khi dạy nhóm bài mở rộng vốn từ theo các chủ
    điểm giáo viên có thể đưa ra các bản đồ tư duy cho sẵn chủ đề trung tâm và gợi ý để
    các em tự hoàn thiện, như vậy các em sẽ bộc lộ được tài năng, sự sáng tạo, tư duy
    và ghi nhớ bài học lâu hơn. Sơ đồ tư duy là phương tiện dạy học hiệu quả khi dạy
    học nhóm bài Mở rộng và phát triển vốn từ.
    e) Vận dụng sơ đồ tư duy để dạy học các bài về thành phần trạng ngữ trong
    câu.
    Trạng ngữ là thành phần phụ của câu xác định thời gian, nơi chốn, nguyên nhân,
    mục đích,… của sự việc trong câu nêu trong câu. Khi dạy các bài về trạng ngữ giáo
    viên cần giúp học sinh biết được, ngoài hai thành phần chính của câu là chủ ngữ và
    vị ngữ, trong câu còn có thành phần phụ là trạng ngữ; các loại trạng ngữ trong câu và
    cách thêm trạng ngữ cho câu.
    Các kiến thức về thành phần trạng ngữ trong chương trình sách giáo khoa
    Tiếng Việt lớp 4 bao gồm 6 bài học, cụ thể:
    + Thêm trạng ngữ cho câu
    + Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu
    + Thêm trạng ngữ chỉ thời gian cho câu
    + Thêm trạng ngữ chỉ nguyên nhân cho câu
    +Thêm trạng ngữ chỉ mục đích cho câu
    + Thêm trạng ngữ chỉ phương tiện cho câu
    Nội dung kiến thức của các bài này có liên quan đến nhau. Vì vậy, khi dạy học
    nhóm bài này, từ bài đầu tiên của nhóm bài trạng ngữ giáo viên có thể đưa ra một sơ đồ
    tư duy với tiêu đề trung tâm là TRẠNG NGỮ và giúp các em phát triển dần các nhánh
    qua từng bài học cho đến khi hoàn thiện.
    Ở bài Thêm trạng ngữ cho câu (Sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tập 2, trang
    126), học sinh có thể vẽ thêm nhánh Khái niệm và Vai trò sau khi tìm hiểu xong
    nội dung kiến thức của bài
    Tiếp theo, khi dạy bài Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu (Sách giáo khoa
    Tiếng Việt 4, tập 2, trang 129) giáo viên có thể tố chức cho học sinh làm việc theo
    các nhóm nhỏ, tìm hiểu bài và phát triển tiếp sơ đồ tư duy chưa hoàn thiện. Khi làm
    việc nhóm các em có thể đặt các câu hỏi để huy động sư hiểu biết của bản thân,
    cũng như bạn cùng nhóm như: Trạng ngữ chỉ nơi chốn dùng để làm gì?; Trạng ngữ
    chỉ nơi chốn trả lời cho câu hỏi nào?
    Trong quá trình thảo luận nhóm dưới sự hỗ trợ của giáo viên, học sinh sẽ tìm
    được câu trả lời cho các câu hỏi đòng thời phát triển tiếp các nhánh, các ý nhỏ của
    sơ đồ tư duy chưa hoàn thiện.
    Sơ đồ tư duy tiếp tục phát triển như vậy qua các bài cho đến khi hoàn
    thiện.Việc sử dụng sơ đồ tư duy để học sinh phát triển các nhánh qua từng bài học về
    trạng ngữ sẽ giúp các em vừa ôn tập lại những kiến thức đã học, đồng thời tiếp giúp
    các em phát triển tư duy, tài năng nghệ thuật và tiếp thu kiến thức một cách chủ
    động, hứng thú. Hơn thế, sau khi học xong các bài này, các em sẽ có một sơ đồ tư duy
    để ôn tập lại các kiến thức khi cần.
    Qua đây, thấy được trong phân môn luyện từ và câu lớp 4 có nhiều nhóm bài có
    thể sử dụng sơ đồ tư duy hỗ trợ cho quá trình dạy – học. Tùy vào tiết học, sơ đồ tư duy
    có thể vận dụng linh hoạt trong các hoạt động khác nhau sao cho phù hợp với đối tượng
    học sinh và với tiến trình lên lớp.
    III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI
    1. Hiệu quả kinh tế
    Sáng kiến kinh nghiệm của tôi không gây tốn kém gì về kinh phí của giáo viên
    giảng dạy và của nhà trường. Bản thân tôi chỉ cần có sự hăng say, nhiệt huyết, tranh thủ
    thời gian đầu tư nghiên cứu cho tiết dạy, chuẩn bị đồ dùng dạy học cần thiết , dự giờ
    đồng nghiệp, trải nghiệm thực tế, từ đó rút ra kinh nghiệm và viết sáng kiến.
    Chỉ với những đồ dùng học tập sẵn có của các em như: bút, giấy, thước kẻ, bút
    màu, giấy thủ công…các em có thể tạo cho mình một sơ đồ tư duy đầy tính sáng tạo,
    mang lại hiệu quả tích cực cho bài học.
    Với những tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các phần mềm vẽ
    sơ đồ tư duy trên máy tính, giáo viên hoàn toàn không tốn chi phí chuẩn bị gì, học sinh
    hăng hái tiếp cận với các phần mềm trên máy tính để vẽ sơ đồ tư duy, giúp tích hợp nội
    dung các môn học, nâng cao chất lượng tiết dạy.
    2. Hiệu quả về mặt xã hội
    Cuối mỗi bài dạy thực nghiệm và dạy đối chứng tôi ra đề kiểm tra với cùng một
    nội dung, yêu cầu và thời gian như nhau để đánh giá chất lượng của lớp thực nghiệm
    và lớp đối chứng. Đồng thời, sử dụng các phiếu thăm dò ý kiến của giáo viên và học
    sinh về việc ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học phân môn Luyện từ và câu lớp 4.
    (Phụ lục 6). Kết quả cho thấy:
    – Về mặt định lượng
    Dưới đây là bảng kết quả của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng (Phụ lục 7)
    Bảng kết quả điều tra của lớp thực nghiệm 4A và lớp đối chứng 4C

    Tên bàiLớpSố
    HS
    Kết quả (%)
    Điểm 9,10Điểm 7,8Điểm 5,6Điểm dưới
    5
    Danh từThực nghiệm3416/34 =47,1%15/34 = 44,1%3/34 = 8,8%0
    Đốichứng3411/34 = 32,4%16/34 = 47,1%5/34 = 14,7%2/34=5,8%

    Căn cứ vào bảng số liệu ta thấy kết quả học tập của học sinh ở các lớp thực
    nghiệm có số học sinh đạt điểm 9; 10 có tỉ lệ cao hơn so với lớp đối chứng và số học
    sinh điểm 5;6 và điểm dưới 5 ở lớp thực nghiệm chiếm tỉ lệ thấp hơn so với lớp đối
    chứng. Vậy có thể khẳng định hiệu quả của việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học
    phân môn Luyện từ và câu lớp 4.
    – Về mặt định tính:
    Một bài học Luyện từ và câu, nhất là đối với các bài lí thuyết thường khô khan và
    ít nhận được sự quan tâm, chú ý của các em vào bài học. Với khả năng đặc biệt của sơ
    đồ tư duy là kích thích khả năng làm việc của bán cầu não trái, khiến cho con người làm
    việc bằng cả hai bán cầu não góp phần phát huy hết mọi năng lực và tiềm năng vốn có
    của học sinh. Vì vậy vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Luyện từ và câu giúp cho
    bài dạy trở nên nhịp nhàng, nhẹ nhàng thu hút các em vào bài học.
    Ở các lớp dạy thực nghiệm, giáo viên sử dụng bản đồ tư duy hỗ trợ cho việc dạy
    học Luyện từ và câu, học sinh rất hào hứng tham gia các hoạt động học tập, tích cực
    trong các hoạt động xây dựng bài. Các em được chủ động trong các hoạt động học tập.
    Khi thăm dò ý kiến thông qua phiếu thăm dò ý kiến, đa số các học sinh tham gia trả lời
    phiếu thăm dò đều muốn được tiếp tục học những giờ học như vậy.
    Khi học sinh quan sát các sơ đồ tư duy đã thiết kế sẵn hoặc các em tự thiết kế
    các sơ đồ tư duy với kiến thức thuộc nội dung bài học bằng bút màu, giấy, hình ảnh,
    chữ viết, sẽ giúp các em bộc lộ được khả năng sáng tạo, sở thích, cá tính và vốn hiểu
    biết của mình. Đồng thời, giúp cho giờ học không khô khan, khuôn mẫu lặp đi lặp
    lại các hoạt động.
    Sơ đồ tư duy giúp cho giáo viên thực hiện đúng vai trò là người tổ chức,
    hướng dẫn và định hướng hoạt động của học sinh trong hoạt động dạy học. Học
    sinh sẽ không cảm thấy áp lực khi tiếp thu bài học, các em được trực tiếp tham gia
    vào các hoạt động, được tự mình tìm ra kiến thức mới. Các em không chỉ được bộc lộ
    khả năng của bản thân mà còn được hòa mình vào tập thể, vủa học vừa chơi. Điều
    này góp phần kích thích đối tượng học sinh lười học nhưng thông minh, kích thích ở
    các em niêm say mê sáng tạo, say mê học tâp.
    Sơ đồ tư duy là công cụ dạy học hỗ trợ đắc lực cho dạy học Luyện từ và câu
    lớp 4. Nếu giáo viên sử dụng sơ đồ tư duy một cách hợp lí, phù hợp với tiến trình
    của từng bài học, từng tiết dạy sẽ phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo và cá
    tính của học sinh, giúp các em hứng thú với giờ học, học tập có hiệu quả. Đồng thời
    góp phần nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 4.
    Qua những nghiên cứu ban đầu về việc sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học
    phân môn Luyện từ và câu lớp 4 đã cho thấy tính mới, tính sáng tạo, hiệu quả tích
    cực của biện pháp này trong dạy học một số nhóm bài Luyện từ và câu lớp 4. Giáo
    viên và học sinh không chỉ vẽ sơ đồ tư duy trên bảng, giấy, vở mà các em còn được
    ứng dụng công nghệ thông tin bằng cách sử dụng các phần mềm để vẽ sơ đồ. Kĩ thuật
    dạy học sơ đồ tư duy đã giúp các em bộc lộ khả năng tư duy, logic, sáng tạo, ghi nhớ
    bài nhanh và hệ thống kiến thức một cách hiệu quả, góp phần đổi mới phương pháp
    dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập, đáp ứng yêu cầu
    đổi mới dạy và học, nâng cao chất lượng giáo dục.
    3. Khả năng áp dụng và nhân rộng
    Cũng chính nhờ tính hữu ích của việc vận dụng sơ đồ tư duy vào trong dạy
    học đã cho thấy khả năng ứng dụng cao của phương pháp dạy học này, không chỉ giúp
    các em học tập tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 4 mà còn giúp các em học tập tốt
    những môn học khác. Vì thế theo quan điểm của tôi, tôi thấy sáng kiến này có thể áp
    dụng cho học sinh từ khối 1 đến khối 5 nói riêng và các cấp học khác nói chung . Với
    tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến, các đồng chí giáo viên trong trường tôi đã áp
    dụng và thu được hiệu quả nhất định. Tôi mong muốn sáng kiến của tôi có thể áp dụng
    và nhân rộng cho các trường trong cụm miền và các trường trong toàn huyện. Sơ đồ tư
    duy sẽ ngày càng được ứng dụng rộng rãi vào trong dạy học cũng như trong các lĩnh
    vực khác của đời sống.
    IV. CAM KẾT KHÔNG SAO CHÉP HOẶC VI PHẠM BẢN QUYỀN
    Tôi xin cam kết báo cáo sáng kiến của tôi không sao chép hoặc vi phạm bản
    quyền của bất cứ tác giả nào. Nếu vi phạm tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Trên đây
    là sáng kiến kinh nghiệm: “Biện pháp sử dụng kĩ thuật dạy học sơ đồ tư duy để nâng
    cao chất lượng giảng dạy Luyện từ và câu lớp 4” của tôi.
    Kính mong có sự quan tâm và giúp đỡ của Hội đồng đánh giá và đồng nghiệp để
    báo cáo sáng kiến của tôi được hiệu quả hơn.
    Tôi xin chân thành cảm ơn!
    TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
    ( Ký tên)
    Đoàn Thanh Nhàn
    CƠ QUAN ĐƠN VỊ
    ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
    ………………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………………
    PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN HẢI HẬU
    ( Xác nhận, đánh giá, xếp loại)
    ..……………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………………
    ……………………………………………………………………………………………
    CÁC PHỤ LỤC
    Phụ lục 1: Bài “Luyện tập về cấu tạo tiếng” (SGK Tiếng Việt 4, tập 1, trang 12).
    Phụ lục 2: Bài “Từ ghép và từ láy” (Sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tập 1, trang 38).
    Phụ lục 3: Bài tập 2 – “Từ ghép và từ láy” (SGK Tiếng Việt 4, tập 1 .tr40) Phụ lục 2.
    Phụ lục 4: Bài Danh Từ (Sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tập 1, trang 52)
    Phụ lục 5: Bài tập 3 – MRVT: “Trung thực – Tự trọng” (SGK – TV 4 – tập 1. tr.62)
    Phụ lục 6
    PHIẾU KIỂM TRA LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 4
    (Dành cho lớp thực nghiệm)
    Bài: DANH TỪ
    Câu 1. Hoàn thiện sơ đồ tư duy cho sẵn ở hình A để trả lời các câu hỏi sau:
    a. Danh từ là gì? Có những nhóm danh từ nào?
    b. Hãy đặt câu với một danh từ chỉ người và một danh từ chỉ khái niệm
    PHIỂU KIỂM TRA LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 4
    (Dành cho lớp đối chứng)
    Bài: DANH TỪ
    Câu 1.
    a.Danh từ là gì? Có những nhóm danh từ nào?
    b. Hãy đặt câu với một danh từ chỉ người và một danh từ chỉ khái niệm.
    PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN GIÁO VIÊN
    – Họ và tên: ………………………………………………………………………………………
    – Trình độ đào tạo ……………………………………………………………………………
    – Đang dạy lớp: ………………………………………………………………………………
    – Tại trường: ……………………………………………………………………………………
    Để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học, phát huy tính tích cực, tự giác của
    học sinh trong giờ học phân môn Luyện từ và câu lớp 4. Đống chí vui lòng cho biết ý
    kiến về vấn đề vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học phân môn luyện từ và câu lớp 4
    qua các câu hỏi sau:
    Đánh dấu X vào trước câu trả lời đồng chí cho là đúng:
    1. Đồng chí đã được tham gia lớp tập huấn hay các buổi trao đổi kinh nghiệm, hội
    thảo chuyên đề về vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học nói chung và phân môn Luyện từ
    và câu lớp 4 nói riêng chưa
    Đã tham gia
    Chưa tham gia
    Số lần tham gia: ……………………………………………………………………………………………..
    Đơn vị tổ chức: ………………………………………………………………………………………………
    2. Khi lên lớp một giờ luyện từ và câu có sử dụng sơ đồ tư duy đồng chí cần phải
    chuẩn bị những gì?
    Giáo án

    Xác định mục tiêu, thời gian, phương pháp
    Các phương tiện dạy học khác (Xin ghi rõ)
    ………………………………………………………………………………………………………………………
    3. Khi vận dụng sơ đồ tư duy vào giờ học Luyện từ và câu lớp 4, đồng chí có hứng
    thú với bài dạy không?
    Không

    4. Những thuận lợi và khó khăn mà đồng chí gặp phải khi vận dụng sơ đồ tư duy
    vào dạy học?
    – Thuận lợi: …………………………………………………………………………………………
    – Khó khăn: ………………………………………………………………………………………..
    5. Xin đồng chí chia sẻ những kinh nghiệm của mình khi vận dụng sơ đồ tư duy
    hỗ trợ dạy – học phân môn Luyện từ và câu lớp 4
    ……………., ngày… .tháng… ..năm… ..
    Kí tên
    PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN HỌC SINH
    Họ và tên học sinh: ……………………………………………………………………………
    Lớp: ………………………………………………………………………………………………….
    Trường: ……………………………………………………………………………………………
    Đánh dấu X vào câu trả lời em cho là đúng:
    1. Con có hứng thú với giờ học với giờ học Luyện Từ và câu sử dụng sơ đồ tư
    duy không?
    Có Không
    2. Trước khi học giờ học Luyện từ và câu có sử dụng sơ đồ tư duy con cần
    chuẩn bị những gì?
    Chuẩn bị đồ dùng học tập
    Đọc và ghi chép ý chính của bài
    Ghi lại những thắc mắc của bài cần hỏi giáo viên
    3. Theo con, việc vận dụng sơ đồ tư duy vào trong dạy học Luyện từ và câu mang
    lại lợi ích gì cho học sinh?
    Giúp học sinh tích cực, sôi nổi học tập
    Giúp học sinh học tập được phương pháp ghi chép có hiệu quả
    Có sơ đồ tư duy học sinh học nhan

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Vận dụng lý thuyết Bloom trong kiểm tra đánh giá kết quả dạy học phân môn luyện từ và câu lớp 5

    SKKN Vận dụng lý thuyết Bloom trong kiểm tra đánh giá kết quả dạy học phân môn luyện từ và câu lớp 5

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
    Kiểm tra đánh giá là một hoạt động thường xuyên, giữ vai trò quan trọng và
    quyết định chất lượng đào tạo. Đó là một khâu không thể tách rời của quá trình dạy
    học. Đây là khâu cuối cùng của quá trình dạy học nhưng nó có tác động chính, trực
    tiếp đến mục tiêu dạy học và là động lực của quá trình dạy học. “Kiểm tra – đánh
    giá như thế nào thì dạy học và học sẽ như thế”. Bên cạnh đó, kiểm tra – đánh giá
    còn giúp chúng ta điều chỉnh nội dung, phương pháp, tài liệu dạy học sao cho hợp
    lý, từ đó nâng cao chất lượng dạy học.
    Hình thức, nội dung của kiểm tra đánh giá có ảnh hưởng rất lớn đến quy trình,
    nội dung và phương pháp giảng dạy. Như vậy vấn đề đặt ra là phải tổ chức kiểm
    tra đánh giá như thế nào để quá trình dạy học đạt được hiệu quả nhất. Trong thời
    gian vừa qua, hệ thống kiểm tra, đánh giá ở nhà trường phổ thông nói chung và
    trường Tiểu học nói riêng đã góp phần nâng cao chất lượng của quá trình dạy học.
    Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều nhà khoa học và nhà giáo thì vấn đề kiểm tra
    đánh giá còn nhiều nhược điểm như kiểm tra, đánh giá vẫn chưa khoa học, nội
    dung đánh giá đôi khi chưa phù hợp với mục tiêu và nội dung dạy học. Đặc biệt là
    việc kiểm tra, đánh giá chưa chú trọng đến việc phân hoá học sinh… Do đó, vấn đề
    xây dựng đề kiểm tra có tính chất phân hoá học sinh là một yêu cầu cần thiết đối
    với giáo viên tiểu học.
    Tiếng Việt là môn học công cụ trong nhà trường tiểu học. Tuy nhiên, hiện nay
    hoạt động kiểm tra, đánh giá môn Tiếng việt còn thiếu tính toàn diện, chưa khách
    quan, công cụ đánh giá còn hạn chế nên chưa phân loại được học sinh…Nhiều khi
    đánh giá mang tính đối phó, hình thức cho có đủ điểm. Riêng phân môn Luyện từ
    và câu, một số giáo viên không được trang bị những kiến thức, kĩ năng về đánh giá
    nên chưa biết cách thiết kế đề kiểm tra đảm bảo tính khách quan, khoa học. Nội
    dung kiểm tra chủ yếu thiên về tái hiện kiến thức, không bao quát mà chỉ kiểm tra
    được một số ít kiến thức, chưa góp phần phân hóa học sinh.
    Việc xây dựng đề kiểm tra đánh giá học sinh trong phân môn luyện từ và câu
    giúp giáo viên kịp thời nắm bắt tình hình nhận thức của học sinh từ đó định hướng,
    giúp giáo viên có thể hỗ trợ học sinh kịp thời nắm bắt kiến thức góp phần nâng cao
    chất lượng dạy học phân môn luyện từ và câu nói riêng và môn tiếng việt nói
    chung.
    Ngày nay có rất nhiều phương pháp đánh giá như: Marton, Solo…Mỗi một
    phương pháp đều có một ưu thế riêng. Trong đó nổi bật hơn cả là lý thuyết Bloom.
    Lí thuyết này có ưu điểm là phân chia các mức độ nhận thức một cách rạch ròi,
    phân hóa được học sinh…
    Xuất phát từ những lí do trên tôi đã lựa chọn đề tài:
    Vận dụng lý thuyết Bloom để xây dựng đề kiểm tra – đánh giá kết quả
    dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 5”
    2
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP:
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
    Về lí luận kiểm tra, đánh giá nói chung, có rất nhiều tác giả nghiên cứu về vấn
    đề này như: đánh giá trong giáo dục tiểu học (PGS. TS Phó Đức Hòa), cơ sở lí luận
    của việc đánh giá chất lượng học tập của học sinh phổ thông (Hoàng Đức Nhuận);
    đánh giá trong giáo dục (Trần Thị Tuyết Oanh)…
    Gần đây, có một số ít các đề tài, luận văn về kiểm tra đánh giá môn Tiếng
    Việt ở tiểu học: Sử dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan trong đánh giá kết quả
    học tập môn Tiếng Việt lớp 5…
    Hiện nay, một số tài liệu về thiết kế đề kiểm tra đã được xuất bản: Đề kiểm tra
    học kì Tiếng việt – toán lớp 5 (Huỳnh Tấn Phương), đề kiểm tra các lớp bậc tiểu
    học (Bộ Giáo Dục và Đào Tạo)… Nhìn chung các tài liệu về kiểm tra đánh giá nói
    chung và thiết kế đề kiểm tra môn Tiếng Việt nói riêng tương đối phong phú.
    Ngoài ra việc phân hóa học sinh cũng như việc nắm bắt khả năng tiếp nhận tri thức
    môn học của học sinh thông qua công cụ kiểm tra đánh giá cũng rất hữu hiệu. Đó
    vừa là định hướng vừa là điều kiện giúp tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
    2.1. Khái niệm về kiểm tra, đánh giá
    2.1.1. Kiểm tra
    Trong Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý định nghĩa kiểm tra là xem xét
    thực chất, thực tế. Theo Bửu Kế, kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá,
    nhận xét. Còn theo Trần Bá Hoành, kiểm tra là cung cấp những dữ kiện, những
    thông tin làm cơ sở cho việc đánh giá.
    Như vậy, các nhà khoa học và các nhà giáo dục đều cho rằng kiểm tra với
    nghĩa là nhằm thu thập số liệu, chứng cứ, xem xét lại công việc thực tế để đánh giá
    và nhận xét.
    Trong quá trình dạy học, kiểm tra là thuật ngữ để chỉ cách thức hoặc hoạt
    động của giáo viên sử dụng để thu thập thông tin về biểu hiện kiến thức kĩ năng và
    thái độ của học sinh trong học tập. Kiểm tra là phương tiện, là công cụ để đánh giá.
    2.1.2. Đánh giá
    Hiện nay có rất nhiều quan niệm về đánh giá, mỗi quan niệm khác nhau sẽ
    dẫn đến nội dung và kĩ thuật khác nhau.
    Theo quan niệm triết học thì đánh giá là xác định những giá trị hiện tượng xã
    hội, của hoạt động hành vi của con người tương xứng với những nguyên tắc và
    chuẩn mực nhất định, từ đó bộc lộ thái độ.
    Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả công
    việc dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với những mục tiêu,
    tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng,
    điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu qủa công việc. Theo Đại từ Theo từ điển
    Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, đánh giá là nhận xét bình phẩm về giá trị. Theo từ
    3
    điển Tiếng Việt của Văn Tân thì đánh giá là nhận thức cho rõ giá trị của một người
    hoặc một vật.
    Đánh giá trong giáo dục, theo Dương Thiệu Tống là quá trình thu thập và xử
    lý kịp thời, có hệ thống thông tin về hiện trạng và hiệu quả giáo dục. Căn cứ vào
    mục tiêu dạy học, làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp và hành động trong
    giáo dục tiếp theo. Cũng có thể nói rằng đánh giá là quá trình thu thập phân tích và
    giải thích thông tin một cách hệ thống nhằm xác định mức độ đạt đến của các mục
    tiêu giáo dục về phía học sinh. Đánh giá có thể thực hiện bằng phương pháp định
    lượng hay định tính.
    Nhìn chung, có nhiều quan niệm khác nhau về đánh giá nhưng các quan điểm
    trên đều có điểm chung: đều cho rằng đánh giá trong quá trình giáo dục là quá
    trình thu thập và xử lí kịp thời những thông tin và hiện trạng, nguyên nhân của
    hành vi (chất lượng và hiệu quả giáo dục), đối chiếu với mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra
    nhằm đưa ra những quyết định thích hợp.
    Như vậy, muốn đánh giá kết quả học tập của học sinh thì việc đầu tiên là phải
    kiểm tra, soát xét lại toàn bộ công việc học tập của học sinh, sau đó tiến hành đo
    lường để thu thập những thông tin cần thiết, cuối cùng là đưa ra một quyết định.
    Do vậy kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh là hai khâu có quan hệ
    mật thiết với nhau. Kiểm tra nhằm cung cấp thông tin để đánh giá và đánh giá
    thông qua kết quả của kiểm tra. Hai khâu đó hợp thành một quá trình thống nhất là
    kiểm tra – đánh giá.
    2.2. Lí thuyết Bloom
    2.2.1. Một số vấn đề về lí thuyết Bloom
    a. Phân tích các mức độ nhận thức của lí thuyết Bloom
    Tại hội nghị của Hội tâm lí học ở Mĩ năm 1948, B.S. Bloom đã chủ trì xây
    dựng hệ thống phân loại các mục tiêu của quá trình giáo dục. Ba lĩnh vực của hoạt
    động giáo dục đã được xác định rõ, đó là: lĩnh vực nhận thức, lĩnh vực cảm xúc,
    lĩnh vực tâm vận.
    Lĩnh vực về nhận thức thể hiện ở khả năng suy nghĩ, lập luận, bao gồm việc
    thu thập các sự kiện, giải thích, lập luận theo kiểu diễn dịch, quy nạp và có sự đánh
    giá phê phán.
    Lĩnh vực hành động liên quan đến những kĩ năng đòi hỏi sự khéo léo về chân
    tay, sự phối hợp các cơ bắp từ đơn giản đến phức tạp.
    Lĩnh vực cảm xúc liên quan đến những đáp ứng về mặt tình cảm, bao gồm
    những mối quan hệ như: yêu, ghét, thái độ nhiệt tình, …
    Bloom cùng các tác giả đã đưa ra một hệ thống phân loại các mục đích dựa
    trên ba lĩnh vực kể trên. Mỗi lĩnh vực được chia thành 5 hoặc 6 mức độ sắp xếp
    theo mức độ từ đơn giản đến phức tạp.
    Các lĩnh vực nêu trên không hoàn toàn tách biệt nhau hoặc loại trừ nhau mà
    hỗ trợ cho nhau trong quá trình giáo dục.
    4
    Sau đây, tôi sẽ đi sâu phân tích lĩnh vực nhận thức mà Bloom đã phân chia
    thành 6 mức độ lĩnh hội tri thức của học sinh tiểu học. Sáu mức độ đó được sắp
    xếp theo thang với các mức độ từ thấp đến cao như sau:
    Cụ thể các mức độ như sau:
    Mức độ nhận biết
    Được định nghĩa là sự nhớ lại các dữ liệu đã được học trước đây. Điều đó có
    nghĩa là một người có thể nhắc lại một loạt các dữ liệu, từ các sự kiện đơn giản đến
    các lí thuyết phức tạp, tái hiện trong trí nhớ những thông tin cần thiết. Đây là mức
    độ thấp nhất của kết quả học tập trong lĩnh vực nhận thức.
    Đánh giá kiến thức nhận biết được coi là hiệu quả nhất thông qua các câu hỏi
    lựa chọn câu trả lời đúng, trả lời ngắn và hoàn chỉnh câu. Cách thông dụng và hiệu
    quả nhất để đánh giá kiến thức hồi nhớ là chỉ đơn giản ra một câu hỏi và yêu cầu
    học sinh trả lời theo trí nhớ.
    Đánh giá học sinh ở mức độ này là đánh giá sự nắm bắt kiến thức mà các em
    đã được học với mức độ là tái hiện lại những gì đã được học.
    Thông hiểu
    Bao gồm cả sự nhận biết nhưng ở mức độ cao hơn là trí nhớ. Nó có liên quan
    đến ý nghĩa và các mối liên hệ của những kiến thức mà học sinh đã biết, đã học.
    Khi một học sinh nêu lại đúng một định nghĩa hay một quy tắc nào đó thì
    chứng tỏ học sinh ấy đã “biết” định nghĩa hoặc quy tắc đó. Nhưng để chứng tỏ sự
    “thông hiểu” thì học sinh ấy phải giải thích được ý nghĩa của những khái niệm, quy
    tắc đó, có thể minh hoạ bằng các ví dụ cụ thể. Kết quả học tập ở mức độ này cao
    hơn so với mức độ nhận biết
    * Đánh giá khả năng thông hiểu được thể hiện khi học sinh hiểu bằng ngôn từ
    của các em về ý nghĩa cơ bản của một khái niệm, nguyên tắc hoặc quy trình hoặc
    nhận biết được các yếu tố. Khi thiết kế các câu hỏi trắc nghiệm để đánh giá học
    sinh ở mức độ này, giáo viên phải đề ra những yêu cầu cao hơn so với mức độ
    “nhận biết”.
    Vận dụng
    Mức độ này yêu cầu học sinh biết áp dụng kiến thức, biết sử dụng phương
    pháp, nguyên lí hay ý tưởng để giải quyết một vấn đề nào đó. Khả năng vận dụng

    2.Thông hiểu
    1. Nhận biết
    3. Vận dụng
    4. Phân tích

    5. Tổng hợp
    6. Đánh giá
    5
    được đo lường khi một tình huống mới được đưa ra và người học phải quyết định
    nguyên lí nào cần được áp dụng và áp dụng như thế nào.
    Phân tích
    Được hiểu là sự phân chia một vấn đề thành những thành tố, bộ phận để các
    tầng bậc và mối quan hệ giữa các tư tưởng được rõ ràng. Khả năng phân tích có thể
    được hiểu là khả năng phân biệt các sự kiện từ các giả thiết, phát hiện và nhận biết
    xem thông tin có sai lệch không, nhận biết thể loại trong văn học, nghệ thuật, đánh
    giá tính thích hợp trong lập luận. Kết quả học tập thể hiện mức độ trí tuệ cao hơn
    so với mức hiểu và áp dụng vì nó đòi hỏi sự thấu hiểu cả nội dung và hình thái của
    tài liệu.
    Tổng hợp
    Được định nghĩa là khả năng sắp xếp các bộ phận riêng biệt hoặc các thành tố
    để hình thành một tổng thể mới. Khả năng tổng hợp có thể được hiểu là khả năng
    viết, khả năng tổ chức các ý tưởng và các phát biểu, khả năng diễn đạt và kết luận
    một vấn đề. Kết quả học tập trong lĩnh vực này nhấn mạnh đến các hành vi sáng
    tạo, đặc biệt tập trung chủ yếu vào việc hình thành các mô hình hoặc cấu trúc mới.
    * Đánh giá khả năng phân tích và tổng hợp.
    Với 2 mức độ phân tích và tổng hợp, việc đánh giá sẽ đòi hỏi học sinh có khả
    năng hiểu sâu và lập luận logic, có sự sáng tạo trong nội dung bài làm. Chúng ta
    không nên tách riêng mức độ phân tích và mức độ tổng hợp. Hai mức độ này có sự
    đan xen với nhau. Các bài tập ở dạng này thường ở cuối của các đề kiểm tra và chỉ
    chiếm nhiều nhất là khoảng 20% tổng số điểm của bài.
    Đánh giá
    Đánh giá là mức độ cao nhất của việc nắm vững kiến thức. Đánh giá đòi hỏi
    người học có chính kiến riêng, có cách nhìn phê phán hoặc khẳng định những kiến
    thức đã học.
    Việc đánh giá dựa trên các tiêu chí nhất định. Đó có thể là tiêu chí bên trong
    (cách tổ chức) hoặc tiêu chí bên ngoài (phù hợp với mục đích) và người đánh giá
    phải tự xác định hoặc được cung cấp các tiêu chí. Kết quả học tập trong lĩnh vực
    này là cao nhất trong các mức độ nhận thức vì nó chứa các yếu tố của mọi mức độ
    khác.
    * Đánh giá khả năng tự đánh giá của học sinh
    Với mức độ này, khi đánh giá học sinh ta quan tâm đến khả năng tự đánh giá
    của học sinh. Đó có thể là việc học sinh tự đánh giá kết quả bài làm của mình, hoặc
    của bạn dựa trên các tiêu chí mà giáo viên đã đưa ra. Do đó khi thiết kế các đề
    kiểm tra để đánh giá tri thức của học sinh bằng lí thuyết Bloom, chúng ta nên chú ý
    xây dựng hệ thống các tiêu chí sao cho rõ ràng để học sinh dễ dàng trong việc đánh
    giá kết quả bài làm. Đây là một mức độ thể hiện cho quan điểm đổi mới trong kiểm
    tra, đánh giá ở trường tiểu học. Tức là việc kiểm tra, đánh giá phải có sự kết hợp
    giữa sự đánh giá của thầy và sự tự đánh giá của trò. Theo quan niệm của
    V.P.Lepcôvich, tự đánh giá là mức độ phát triển cao của tự ý thức, nó bao gồm
    6
    không những nhận thức của bản thân mà còn có sự tự đánh giá đúng năng lực và
    khả năng của mình, thái độ phê phán đối với bản thân.
    Đối với học sinh tiểu học, sự đánh giá của giáo viên hoặc của chính bạn học
    là rất quan trọng. Đánh giá của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tự
    đánh giá của học sinh. Sự đánh giá của giáo viên và học sinh đều phải dựa trên các
    mức độ đo đã được xác định từ trước. Các mức độ đó được xây dựng dựa trên nội
    dung chương trình của môn học. Tất cả các thành phần này đều có mối quan hệ với
    nhau, phụ thuộc nhau để cùng hướng tới sự xác định phù hợp trong đánh giá.
    Các mức độ trên là các thứ bậc mà học sinh cần đạt được theo mức độ nhận
    thức. Bài kiểm tra, đánh giá cần phải phụ thuộc vào mục tiêu giáo dục của cấp học,
    đặc điểm sinh lí và năng lực trí tuệ để phù hợp với việc đánh giá, phân loại mức độ
    và khả năng của từng đối tượng cụ thể. Nhìn chung ở tiểu học, người ta đánh giá tri
    thức học sinh tiểu học chủ yếu ở các mức độ: biết, thông hiểu, vận dụng.
    Ta có thể tổng kết theo bảng sau:
    SÁU MỨC ĐỘ NHẬN THỨC THEO LÝ THUY ẾT BLOOM

    MỨC
    ĐỘ
    ĐỊNH NGHĨAĐỘNG TỪ MẪU
    BiếtGợi lại hoặc nhớ
    thông tin, nhận
    ra kiến thức
    – Định nghĩa – Ghi lại – Nhớ lại
    – Lên danh sách – Gán – Kể lại
    – Nêu tên – Sắp xếp lại – Xắp xếp thứ tự
    – Điền vào – Nhắc lại một cách máy móc
    – Nhớ
    HiểuGiải thích chứng
    minh được, lấy
    ví dụ minh họa
    cho những điều
    đã học.
    – Diễn đạt lại – Mô tả – Giải thích
    – Nhận dạng – Báo cáo – Kể (Bằng lời của
    mình)
    -Thảo luận – Nhìn nhận
    – Xắp xếp – Nhìn lại – Hợp lại với nhau
    – Diễn giải – Diễn tả
    Áp
    dụng
    Sử dụng kiến
    thức đã học để
    giải quyết vấn đề
    trong những
    hoàn cảnh mới.
    – Dịch – Áp dụng – Dùng
    – Sử dụng – Thực hành – Kịch hoá
    – Giải thích – Thể hiện – Lên kế hoạch
    – Minh hoạ – Hoạt động – Vẽ
    – Mô phỏng – Phỏng vấn – Xây dựng
    Phân
    tích
    Chia thông tin
    thành các phần
    – Phân biệt – So sánh – Tính toán
    – Thử -Tương phản – Bình phẩm
    – Tranh luận – Hỏi – Giải quyết
    – Phân tích – Đánh giá – Thử nghiệm
    – So sánh – Lập biểu đồ – Điều tra
    – Lập danh mục – Mổ xẻ – Kiểm tra

    7

    – Phân loại – Phác thảo – Viết lại
    Tổng
    hợp
    Giải quyết vấn
    đề bằng cách kết
    hợp các thông
    tin với nhau theo
    phương pháp đòi
    hỏi tư duy sáng
    tạo độc lập
    – Thiết lập – Đề xuất
    – Lập công thức
    – Thiết kế – Tạo lập
    – Lên kế hoạch
    Đánh
    giá
    Đưa ra những
    đánh giá định
    lượng và định
    tính dựa trên
    những tiêu chuẩn
    đã đặt ra
    – Nhận định – Thiết lập – Bảo vệ
    – Tính điểm – Đánh giá – Ước lượng
    – Dự đoán – Lựa chọn – Định giá
    – Đo đạc – Tranh luận – Quyết định

    2.2.2. Một số ưu điểm của lí thuyết Bloom trong kiểm tra – đánh giá
    – Các bài tập hoặc các câu hỏi đều thuộc một mức độ lĩnh hội tri thức nào đó
    của học sinh như hiểu, vận dụng… nên giáo viên rất dễ dàng trong việc lựa chọn
    các câu hỏi cho phù hợp với mức độ nhận thức của lớp mình. Đối với lớp tiếp thu
    nhanh hơn, ta có thể thiết kế những câu hỏi ở mức độ cao hơn như phân tích, tổng
    hợp. Đối với lớp chậm hơn thì sẽ có nhiều câu hỏi ở mức độ thấp hơn như nhớ,
    hiểu, vận dụng.
    – Mặt khác, đánh giá theo hình thức này giúp phân hoá rõ học sinh trong lớp
    với các mức độ khác nhau. Sự phân hoá đó đươc thể hiện giữa học sinh trung bình
    với học sinh khá, học sinh khá với học sinh giỏi hay trong chính học sinh giỏi với
    nhau. Từ đó giáo viên sẽ nắm bắt được mặt bằng chung của cả lớp, biết được học
    sinh nhận thức ở mức độ nào, còn thiếu sót những gì. Sau đó giáo viên điều chỉnh
    những thiếu sót đó cho học sinh còn đối với những học sinh nhận thức ở mức độ
    cao hơn so với mặt bằng chung của lớp thì giáo viên phải có những phương pháp
    riêng để phát huy tốt những khả năng đó.
    – Giúp giáo viên có được những định hướng nhất định trong việc thiết kế các
    đề kiểm tra, tránh tình trạng giáo viên thiết kế các đề kiểm tra nhưng không biết đã
    phù hợp với trình độ của học sinh lớp mình hay chưa, ở mức độ dễ hay khó đối với
    lớp mình. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là giáo viên không biết được những
    câu hỏi đó thuộc mức độ nhận thức nào của học sinh, đơn giản hay phức tạp.
    – Trong các định hướng đổi mới về kiểm tra, đánh giá học sinh tiểu học,
    người ta luôn nhắc tới định hướng tự đánh giá của học sinh. Ở mức độ 6 đánh giá
    sẽ thực hiện được định hướng đó. Học sinh sẽ được tự đánh giá kết quả bài làm của
    mình hoặc của bạn dựa trên các tiêu chí mà giáo viên đã đề ra. Sau đó giáo viên sẽ
    kiểm tra lại kết quả đánh giá của học sinh và thu được những thông tin cần thiết về
    khả năng tự đánh giá của học sinh.
    8
    => Với các lợi thế trên thì việc đánh giá tri thức học sinh tiểu học bằng lí
    thuyết Bloom là phương pháp phù hợp và cần thiết trong nhà trường tiểu học. Đây
    là quan điểm mà Bloom đã đưa ra từ rất lâu. Tuy nhiên, việc áp dụng 6 mức độ
    nhận thức của học sinh tiểu học trong đánh giá ở nhà trường tiểu học là còn mới và
    không phải ai cũng đồng tình với cách suy nghĩ đó nên chắc chắn không thể tránh
    khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải mạnh dạn
    áp dụng phương pháp này để rút ra những kinh nghiệm và kết luận cần thiết, giúp
    cho quá trình kiểm tra, đánh giá ở nhà trường tiểu học đạt hiệu quả cao.
    2.2.3. Các mức độ nhận thức của Bloom được thể hiện trong môn Tiếng
    Việt
    Theo quan điểm của những người biên soạn Chương trình Tiểu học Việt
    Nam, nhận thức của học sinh tiểu học mới đạt được ba cấp độ đầu trong thang
    nhận thức của B.S. Bloom. Dưới đây, tôi sẽ trình bày cách hiểu của mình về ba cấp
    độ nhận thức trong môn Tiếng Việt:

    Các mức
    độ nhận
    thức
    Định nghĩaThể hiện trong môn Tiếng Việt
    Nhận
    biết
    Nhận biết là nhận ra, nhớ lại
    hoặc tái hiện được thông tin
    đã biết (sự việc, kiến thức,
    định nghĩa,…). Đây là mức
    độ nhận thức thấp nhất vì chỉ
    đòi hỏi trí nhớ.
    Nhắc lại được định nghĩa, quy tắc.
    Nhận ra đơn vị hoặc hiện tượng ngôn
    ngữ đã học (ví dụ: từ trái nghĩa, từ
    động nghĩa, từ đồng âm, từ nhiều
    nghĩa, cách liên kết câu…). Nói lại
    được tên nhân vật, tên nhân vật, sự
    kiện đã học. Điền từ còn thiếu vào câu
    tục ngữ, ca dao đã học…Sắp xếp đúng
    thứ tự các tình tiết trong câu chuyện
    đã nghe, đã học.
    Thông
    hiểu
    Thông hiểu một điều gì đó là
    diễn đạt được điều đó bằng
    lời của mình, giải thích được
    cho người khác hiểu những
    điều mình lĩnh hội được, nêu
    được ví dụ minh họa, tóm
    tắtđược điều đã biết, chuyển
    được mô hình này sang mô
    hình khác….
    Trả lời được câu hỏi về nội dung bài
    học. Tìm được ví dụ minh họa về từ
    đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng
    âm, từ nhiều nghĩa…Tóm tắt được
    thông tin đã nghe…
    Vận
    dụng
    Vận dụng là khả năng sử
    dụng những điều đã biết để
    giải quyết vấn đề trong tình
    huống mới
    Biết dùng từ, đặt câu, viết đoạn, viết
    bài văn, sử dụng biện pháp tu từ so
    sánh, nhân hóa khi nói, viết làm cho
    sản phẩm nói, viết hấp dẫn, sinh động;
    biết chơi chữ, lựa chọn từ đắt, phù hợp
    với ngữ cảnh. Có thể trả lời các câu

    9

    hỏi, giải bài tập, …với những thông
    tin mới, dựa trên những gì đã biết.

    2.2.4. Một số ví dụ minh họa cho các mức độ nhận thức của Bloom
    Ví dụ 1: Từ đồng nghĩa

    Các mức độ nhận
    thức
    Ví dụ minh họa
    Nhận biết (nhớ lại
    định nghĩa từ đồng
    nghĩa, nhận ra từ
    đồng nghĩa, tìm được
    từ đồng nghĩa với từ
    cho trước trong tình
    huống tương tự, đơn
    giản)
    1.Viết tiếp vào chỗ trống cho hoàn chỉnh để có định
    nghĩa về từ đồng nghĩa.
    Từ đồng nghĩa là những từ…………………………………
    ……………………………………………………………..
    Từ đồng nghĩa hoàn toàn là những từ……………………
    ……………………………………………………………..
    2. Viết hai từ đồng nghĩa với từ “bố” vào dòng dưới
    đây:
    ……………………………………………………………..
    3. Trong những cặp từ sau, cặp từ nào là cặp từ đồng
    nghĩa:
    A. chăm làm – chăm sóc
    B. siêng năng – chăm chỉ
    C. bao la – hun hút
    D. dũng cảm – hèn nhát
    Thông hiểu (phân
    loại đúng từ đồng
    nghĩa, nhận diện từ
    đồng nghĩa trên ngữ
    liệu mới)
    1. Hãy xếp các từ dưới đây thành ba nhóm đồng nghĩa:
    thấp, lùn, bao la, mênh mông, bát ngát, hun hút, nông,
    thênh thang, chất ngất, vòi vọi, nông choèn.
    Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3thấp, bao la, chất ngất,…2. Gạch bỏ từ không thuộc nhóm đồng nghĩa với
    những từ còn lại trong mỗi dòng sau:
    – chăm chỉ, siêng năng, chăm, cần cù, chăm sóc.
    – yên tĩnh, yên lặng, tĩnh lặng, yên tâm, tĩnh mịch.
    Vận dụng (chọn
    được từ đồng nghĩa
    phù hợp với ngữ
    cảnh, làm cho câu
    văn them sinh động;
    1. Chọn từ trong ngoặc đơn em cho là hay nhất để điền
    vào chỗ trống trong câu văn sau, nói rõ vì sao em chọn
    từ đó:
    “Lời ru nồng nàn, tha thiết của mẹ…vào tâm hồn thơ ngây
    trong trắng của tôi biết bao yêu thương”. (rót, trút, đổ,

    10

    viết đoạn văn có sử
    dụng từ đồng nghĩa)
    dội)
    2. Viết một đoạn văn ngắn khoảng 5 câu miêu tả cảnh
    vật mà em thích trong đó có sử dụng từ đồng nghĩa chỉ
    màu sắc.
    3. Chọn từ đồng nghĩa trong ngoặc để điền vào chỗ
    trống trong các câu sau sao cho phù hợp.
    (thiệt mạng, ra đi, hi sinh, chết, mất, bỏ mạng)
    a. Các chiến sĩ đã ………… anh dũng vì độc lập tự do của
    dân tộc.
    b. Tai nạn giao thông hôm qua đã làm 20 người………
    c. Bác Hồ …………….. để lại niềm tiếc thương vô hạn
    cho toàn thể đồng bào ta.
    d. Bọn giặc đã ………………trong một trận càn quét.
    e. Mẹ Lan ………….. khi Lan con rất nhỏ.
    f. Ông muốn nói ai sinh ra trên đời này rồi cũng đến lúc
    phải……………Vì vậy mọi người phải bình tâm vì sự ra
    đi của ông.

    Ví dụ 2: Từ trái nghĩa

    Các mức độ
    nhận thức
    Ví dụ minh họa
    Nhận biết
    (nhớ lại định
    nghĩa từ trái
    nghĩa, nhận
    diện từ trái
    nghĩa)
    1.Viết tiếp vào chố trống cho hoàn chỉnh để có định nghĩa về
    từ trái nghĩa.
    Từ trái nghĩa là những từ………………………………………….
    2. Khoanh tròn vào chữ cái trước câu trả lời đúng
    Việc sử dụng các cặp từ trái nghĩa trong các thành ngữ, tục ngữ
    có tác dụng:
    A. Tránh lặp từ.
    B. Làm nổi bật những sự vật, sự việc, hoạt động, trạng thái,
    …đối lập nhau.
    C. Tạo nên những câu nói có nhiều nghĩa.
    D. Tạo nên những bất ngờ, thú vị.
    3. Tìm từ trái nghĩa với từ đẹp
    ……………………………………………………………………
    4. Gạch chân dưới cặp từ trái nghĩa trong các câu tục ngữ
    sau:
    a. Lá lành đùm lá rách.
    b. Trên kính dưới nhường.
    c. Lên thác xuống ghềnh.

    11

    5. Điền vào mỗi chỗ chấm một từ trái nghĩa với từ in đậm để
    hoàn chỉnh các thành ngữ, tục ngữ sau:
    Hẹp nhà ……….bụng.
    Xấu người…….. nết.
    Thức ………….. dậy sớm.
    Thông hiểu
    (nhận biết từ
    trái nghĩa trên
    ngữ liệu mới)
    1. “Căn phòng này tuy nhỏ bé nhưng nó là nơi ghi dấu những
    kỉ niệm thân thương của gia đình em”.
    Từ trái nghĩa với từ “nhỏ bé” trong câu trên là:
    A. Kềnh càng
    B. Rộng lớn
    C. Nhỏ nhắn
    D. Vang dội
    2. Tìm từ trái nghĩa với những từ sau:
    – cao thượng -…………………………
    – chậm chạp -…………………………
    – khiêm tốn – …………………………
    Vận dụng
    (tìm được các
    từ trái nghĩa
    với từ đã cho
    trong các ngữ
    cảnh khác
    nhau, đặt câu
    với cặp từ trái
    nghĩa, tạo câu
    có ý tương
    phản, viết
    đoạn văn có sử
    dụng từ trái
    nghĩa)
    1. Đặt một câu có chứa một cặp từ trái nghĩa.
    2. Viết tiếp vế câu thích hợp có sử dụng từ trái nghĩa với từ
    được gạch dưới:
    Ai cũng quý những người chăm chỉ,………………………
    3. Tìm ba từ trái nghĩa với các nghĩa khác nhau của từ ngọt
    và đặt ba câu, mỗi câu có từ ngọt và một từ trái nghĩa tìm
    được.
    4. Viết một đoạn văn ngắn khoảng 5 câu trong đó có sử dụng
    cặp từ trái nghĩa nói về người bạn mà em yêu quý nhất.

    Ví dụ 3: Đại từ

    Các mức
    độ nhận
    thức
    Ví dụ minh họa
    Nhận biết
    (nhớ lại
    định
    nghĩa đại
    từ, nhận
    1. Điền vào chỗ trỗng những từ ngữ thích hợp để hoàn chỉnh định
    nghĩa về đại từ:
    Đại từ là từ dùng để…………..……hoặc ……………….danh từ,
    động từ, tính từ (hoặc cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ) trong
    câu cho khỏi………….các từ ngữ ấy.

    12

    diện đại
    từ)
    2. Gạch chân dưới đại từ trong câu sau:
    Tôi rất thích học Toán. Em trai tôi cũng vậy.
    Thông
    hiểu (chỉ
    ra được
    đại từ
    thay thế
    cho từ
    ngữ nào
    trong
    đoạn văn,
    đoạn thơ)
    1. Cho đoạn hội thoại sau:
    Tan học, Hoa hỏi Lan: (1)
    – Lan ơi, bạn được mấy điểm toán? (2)
    – Tớ được mười, còn cậu được mấy điểm? (3 ) – Hà nói. (4)
    – Tớ cũng thế. (5)
    Đoạn hội thoại trên có các đại từ:
    Đại từ …………trong câu (2) thay thế cho…………………….
    Đại từ………….trong câu (3) thay thế cho…………………….
    Đại từ………….trong câu ( 3) thay thế cho……………………
    Đại từ…………..trong câu (5) thay thế cho……………………
    Đại từ…………..trong câu (5) thay thế cho……………………
    Vậndụng
    (dùng
    được đại
    từ thích
    hợp để
    thay thế
    các từ lặp
    trong câu,
    Trong
    đoạn văn;
    viết đoạn
    văn hội
    thoại có
    sử dụng
    đại từ.
    1. Thay từ gạch chân bằng một đại từ thích hợp:
    a. Nguyễn Duy Thì đi sứ nước Minh. Vua Minh muốn thử tài Nguyễn
    Duy Thì bèn ra một câu đố.
    ……………………………………………………………………
    b. Khỉ con sắp được đi thăm bà ngoại bên kia núi. Khỉ con vui lắm,
    gặp ai cũng khoe.
    …………………………………………………………………………
    2. Viết một đoạn văn hội thoại có sử dụng đại từ xưng hô
    Đoạn văn:
    …………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………
    …………………………………………………………………………

    Ví dụ 4: Câu ghép

    Các mức
    độ nhận
    thức
    Ví dụ minh họa

    13

    Nhận biết
    (nêu lại
    định nghĩa
    về câu
    ghép, nhận
    diện quan
    hệ từ nối
    các vế câu
    ghép)
    1. Ghi tiếp vào chỗ trống cho hoàn chỉnh định nghĩa về câu ghép:
    Câu ghép là câu………………………………………………………
    Mỗi vế câu ghép có cấu tạo giống…………………………………..
    (có đủ chủ ngữ, vị ngữ) và thể hiện một ý có quan hệ chặt chẽ với ý
    của những vế câu khác.
    2. Khoanh tròn vào chữ cái trước câu trả lời đúng nhất:
    Các vế câu ghép có thể nối với nhau bằng những từ ngữ nào:
    A. Chỉ nối với nhau bằng cặp từ hô ứng.
    B. Chỉ nối với nhau bằng quan hệ từ hoặc cặp quan hệ từ.
    C. Nối với nhau bằng quan hệ từ, cặp quan hệ từ, cặp từ hô ứng.
    D. Nối với nhau bằng cặp quan hệ từ.
    3. Các vế của câu ghép ‘‘Nếu biển lặng sóng thì anh sẽ đi du
    ngoạn trên thuyền’’ nối với nhau bằng cách nào?
    A. Nối bằng dấu chấm, dấu phẩy.
    B. Nối trực tiếp, không dùng từ nối.
    C. Nối bằng cặp quan hệ từ.
    D. Nối bằng cặp từ hô ứng
    Thông
    hiểu (phân
    biệt được
    câu đơn và
    câu ghép;
    xác định
    được các
    vế câu
    ghép; nhận
    diện cách
    nối các vế
    câu ghép
    trên ngữ
    liệu mới)
    1. Phân chia các câu sau thành hai loại: câu đơn và câu ghép rồi
    ghi kết quả vào chỗ trống:
    a. Sáng ấy, tôi ngắt một chiếc lá sòi đỏ thắm, thả xuống dòng nước.
    b. Thạch Sanh thật thà, tốt bụng còn Lý Thông độc ác, gian xảo.
    c. Ngày chưa tắt hẳn, trăng đã lên rồi.
    d. Ông là nhà tư sản yêu nước, nhà tài trợ đặc biệt của cách mạng.
    – Các câu…………………..là câu đơn.
    – Các câu…………………..là câu ghép.
    2. Gạch một gạch dưới bộ phận chủ ngữ, gạch hai gạch dưới bộ
    phận vị ngữ trong từng vế câu của mỗi câu ghép sau:
    a. Mùa xuân đã về, cây cối đâm chồi nảy lộc.
    b. Vì trời mưa to nên đường ngập nước.
    3. Câu ghép: ‘‘Mặt hồ, sóng chồm dữ dội, bọt tung trắng xóa,
    nước réo ào ào’’ có mấy vế câu?
    A. Một vế. Đó là:…………………………………………………
    B. Hai vế. Đó là:………………………………………………….
    C. Ba vế. Đó là:…………………………………………………..
    D. Bốn vế. Đó là:…………………………………………………
    Vận dụng
    (điền quan
    hệ, cặp
    quan
    1. Điền vào chỗ chấm quan hệ từ, cặp quan hệ từ hoặc cặp từ hô
    ứng (trong ngoặc đơn) thích hợp với mỗi câu văn: (mặc
    dù…nhưng, càng…càng, còn, nếu…thì)

    14

    hệ từ nối
    các vế câu
    ghép; tạo
    câu
    ghép; viết
    đoạn văn
    có sử dụng
    câu ghép)
    a).……..Y Hoa được người làng trọng vọng……cô vẫn rất thân mật
    và hòa mình với mọi người.
    b).……..bé Lan được đưa đến bệnh viện kịp thời……nó không phải
    chịu những cơn đau quằn quại, khổ sở như vậy.
    c)Gió ……..to, con thuyền……..lướt nhanh trên mặt biển.
    d) Mẹ em là giáo viên …….bố em là bộ đội.
    2. Từ các câu ghép dưới đây, hãy tạo ra câu ghép mới bằng cách
    thay đổi vị trí của các vế câu đó:
    a) Nếu trời đẹp, tôi và Lan sẽ đi công viên Thủ Lệ.
    →…………………………………………………………………
    b) Tại bạn hay đi học muộn nên lớp mình bị trừ điểm thi đua.
    →……………………………………………………………………
    c) Vì trời mưa nên đường rất trơn.
    →……………………………………………………………………
    3. Ghi vào chỗ trống vế câu thích hợp tạo thành câu ghép:
    a. Bà em kể chuyện Thạch Sanh,……………………………………
    b. Mặc dù nhà Lan rất nghèo nhưng…………………………………
    c. Mùa xuân đã đến,…………………………………………………..
    d. Không những Bạn Hoa học giỏi……………………………………
    4. Viết một đoạn văn ngắn miêu tả một người bạn cùng lớp
    trong đó có sử dụng câu ghép. Cho biết các vế trong câu ghép
    được nối với nhau bằng cách nào.
    ………………………………………………………………………..
    ………………………………………………………………………..
    ……………………………………………………………………….
    ………………………………………………………………………..
    ……………………………………………………………………….
    ………………………………………………………………………..
    Các vế trong câu ghép được nối với nhau bằng cách:………………..
    ………………………………………………………………………

    Ví dụ 5: Dấu câu

    Các mức độ
    nhận thức
    Ví dụ minh họa
    Nhận biết (nhớ
    lại tác dụng của
    các dấu câu,
    1. Ghi tiếp vào chỗ trống để có những câu trả lời đúng:
    Dấu hai chấm dùng để:
    – Báo hiệu lời tiếp theo là………………………………………..

    15

    nhận diện các
    dấu câu)
    Ví dụ: Lan hỏi tôi: “Hôm nay, cậu được mấy điểm?”
    – Báo hiệu lời tiếp theo là ……………………………………….
    Ví dụ: Cảnh vật xung quanh tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm
    nay tôi đi học.
    – Báo hiệu lời tiếp theo là………………………………………
    Ví dụ: Trên bàn có rất nhiều thứ: vở, bút, sách, thước kẻ………
    Thông hiểu
    (nhận biết tác
    dụng của dấu câu
    trên ngữ liệu
    mới)
    1. Dấu hai chấm trong câu văn sau có tác dụng gì?
    Người cha muốn người con có những phẩm chất sau:
    – Làm người chính trực – Yêu cuộc sống
    – Tin tưởng vào bản thân mọi người
    A. Dẫn lời nói của nhân vật
    B. Đánh dấu sự liệt kê.
    C. Đánh dấu sự giải thích.
    D. Ngăn cách các bộ phận trong câu.
    Vận dụng (minh
    họa tác dụng của
    dấu câu, điền dấu
    câu thích hợp
    trong đoạn văn,
    viết đoạn văn có
    sử dụng dấu câu
    theo yêu cầu, tìm
    các phương
    ánkhác nhau điền
    dấu câu cho đọan
    văn)
    1. Hoàn thành bảng sau:
    Tác dụng của dấu hai chấm Ví dụ1.Báo hiệu lời tiếp theo là lời
    nói của người khác được dẫn
    lại………………………………
    ………………………………
    ………………………………..2. Báo hiệu lời tiếp theo là lời
    giải thích, thuyết minh………………………………..
    ………………………………..3. Báo hiệu lời tiếp theo là sự
    liệt kê………………………………..2. Điền dấu phẩy hoặc dấu hai chấm vào chỗ chấm trong
    câu sau.
    Nói rõ vì sao em chọn dấu câu ấy:
    Rồi những cảnh tuyệt đẹp của đất nước hiện ra …. cánh đồng
    với những đàn trâu thung thăng gặm cỏ, dòng sông với những
    đoàn thuyền ngược xuôi.
    Dấu cần điền là:………………….. Vì………………………
    3. Điền dấu hai chấm vào chỗ nào trong câu sau:
    Mở gói quà Hà tròn mắt ngạc nhiên một con búp bê tuyệt đẹp.
    4. Hãy viết một đoạn văn kể lại cuộc nói chuyện giữa em với
    bạn về một bộ phim đã xem, trong đó có dùng dấu hai chấm,
    dấu ngoặc kép.
    5. Những dấu câu nào có thể điền vào câu “Trời sáng rồi”?
    Đáp án:
    Trời sáng rồi.
    Trời sáng rồi!

    16

    Trời! Sáng rồi!
    Trời sáng rồi?

    2.3. Vận dụng lí thuyết Bloom để xây dựng đề kiểm tra – đánh giá kết
    quả dạy học Luyện từ và câu
    2.3.1. Nguyên tắc thiết kế đề kiểm tra
    – Đề kiểm tra phải đảm bảo tính toàn diện: Đề phải kiểm tra được bao quát
    các kiến thức, kĩ năng trong đó chú trọng kiến thức trọng tâm, cơ bản nhất, thiết
    yếu nhất thường dùng trong đời sống thực tiễn.
    – Đề kiểm tra phải đảm bảo tính vừa sức: Đề kiểm tra phải bám sát và dựa
    trên chuẩn kiến thức, kĩ năng của đơn vị kiến thức. Nếu đề kiểm tra không bám
    chuẩn kiến thức, kĩ năng thì kết quả thu được có thể quá thấp hoặc quá cao so với
    yêu cầu, mục tiêu bài học.
    – Đề kiểm tra có tính phân loại học sinh: Nội dung các đề kiểm tra phải bao
    hàm đầy đủ các cấp độ nhận thức nhằm kích thích khả năng tư duy sáng tạo của
    học sinh, phân hóa học sinh. Tránh ra đề chỉ kiểm tra trí nhớ, kiểm tra thuộc lòng,
    học vẹt.
    – Đề kiểm tra có những câu hỏi, bài tập nhằm phát hiện ra những khó khăn,
    sai lầm phổ biến của học sinh, từ đó giáo viên sẽ có hướng điều chỉnh phương pháp
    dạy học sao cho phù hợp.
    – Đề kiểm tra phải có sự phối hợp giữa các hình thức kiểm tra đánh giá để
    đảm bảo độ khách quan, chính xác, đánh giá đúng kết quả học tập của học sinh.
    2.3.2. Quy trình thiết kế đề kiểm tra
    Bước 1: Xác định mục tiêu, nội dung của đề kiểm tra: phải căn cứ vào mục
    tiêu cụ thể của từng bài, từng chương để xác định mục tiêu và nội dung kiểm tra.
    Khi ra đề ở giai đoạn nào, giáo viên cần nắm vững nội dung kiến thức, kĩ năng ở
    giai đoạn đó.
    Bước 2: Xây dựng ma trận đề kiểm tra. Đó là một bảng với một chiều thường
    là nội dung các lĩnh vực kiến thức, kĩ năng cần đánh giá và một chiều là các mức
    độ nhận thức của học sinh (nhận biết, thông hiểu, vận dụng).
    Bước 3: Thiết kế các câu hỏi theo ma trận: Đó là các câu hỏi tự luận hay trăc
    nghiệm dựa trên ma trận đã thiết kế ở trên. Mức độ khó của câu hỏi căn cứ vào
    mục tiêu và nội dung cần đánh giá.
    Bước 4: Xây dựng đáp án và barem điểm: Theo quy chế của Bộ giáo dục.
    2.3.3. Thiết kế một số đề kiểm tra phân môn luyện từ và câu lớp 5
    ĐỀ KIỂM TRA GIỮA KÌ I
    ĐỀ 1: Thời gian: 30 phút
    I. Mục tiêu:
    Kiến thức:
    – Học sinh có một số kiến thức sơ giản về: Từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ
    đồng âm, từ nhiều nghĩa, đại từ.
    * Kĩ năng:
    17
    – Hoc sinh có kĩ năng xác định từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm, từ
    nhiều nghĩa, đại từ.
    – Xác định nghĩa của thành ngữ thuộc chủ điểm đã học.
    II. Ma trận đề kiểm tra

    Nội dung kiểm traNhận
    biết
    (câu)
    Thông
    hiểu
    (câu)
    Vận
    dụng
    (câu)
    Tổng số điểm
    1.Từ đồng nghĩa492
    2.Từ trái nghĩa7102
    3.Từ đồng âm8; 32
    4.Từ nhiều nghĩa51
    5. Nghĩa của thành ngữ11
    6. Đại từ2, 62
    Tổng số câu hỏi35210

    III. Nội dung đề kiểm tra:
    1. Khoanh vào chữ cái trước câu trả lời đúng:
    Thành ngữ “Dám nghĩ dám làm” khuyên chúng ta điều gì?( H)
    A. Cần phải làm tất cả những gì mà mình muốn.
    B. Cần phải suy nghĩ trước khi làm một việc gì đó.
    C. Cần phải mạnh dạn, táo bạo có nhiều sáng kiến và dám thực hiện sáng
    kiến.
    D. Phải suy nghĩ thấu đáo trước khi làm.
    2. Điền từ thích hợp vào chố trống: (NB)
    Đại từ là từ dùng để…………….…(1)…………hay để………(2)……..danh
    từ, động từ, tính từ ( hoặc cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ) trong câu cho
    khỏi lặp lại từ ngữ ấy.
    3. Dòng nào dưới đây gồm các cặp từ đồng âm? (H)
    A. Chân núi – chân bàn B. Câu thơ – cần câu
    C. Đi chơi – đi học D. Chạy bộ- chạy giặc
    4. Trong các từ dưới đây, từ nào không đồng nghĩa với ba từ còn lại?
    Khoanh tròn vào chữ cái trước câu trả lời đúng: (H)
    A. mênh mông B. bát ngát C. thênh thang D. chất ngất
    5. Từ “ ăn” trong câu nào mang nghĩa gốc? Khoanh tròn vào chữ cái
    trước câu trả lời đúng:( H)
    A. Bạn Lan rất ăn ảnh.
    B.Rễ cây ăn sâu vào lòng đất.
    C.Hôm nay, nhà tôi ăn cơm muộn.
    D. Chiếc xe này ăn xăng lắm.
    18
    6. Trong câu văn sau có những đại từ nào? Khoanh tròn vào chữ cái
    trước câu trả lời đúng: (NB)
    Lan nói với Hoa: “Ngày mai, cậu và em gái cậu có đi xem phim không?”
    A. Lan, tôi B. Cậu, em gái C. Em gái, Lan D. Cậu
    7. Từ nào trái nghĩa với từ “chăm chỉ”? Khoanh tròn vào chữ cái trước
    câu trả lời đúng:( NB)
    A.Chăm làm B. Chăm sóc C. Lười biếng D. Cần cù
    8. Khoanh tròn vào chữ cái trước câu trả lời đúng.Từ “ bò” trong câu:
    “Kiến bò đĩa thịt bò” là: ( NB)
    A. Từ đồng nghĩa B.Từ trái nghĩa C.Từ đồng âm D.Từ nhiều nghĩa
    9. Em hãy chọn một từ đồng nghĩa để điền vào chỗ trống trong câu văn
    sau để nói được sức quyến rũ mạnh mẽ của hương thơm. (VD)
    “Ai cũng muốn ngẩng lên cho thấy mùi ổi chín….qua mặt”
    Khoanh tròn vào chữ cái trước câu trả lời đúng:
    A. phả B. bay C. chảy D. lướt
    10. Đặt câu có sử dụng một cặp từ trái nghĩa. (VD)
    ……………………………………………………………………………….
    Đáp án

    Câu12345678910
    Đáp
    án
    CXưng
    hô/ thay
    thế
    BDCDCCC

    ĐỀ 2: Thời gian: 30 phút
    I. Ma trận đề kiểm tra

    Nội dung kiểm traNhận
    biết
    (câu)
    Thông
    hiểu
    (câu)
    Vận
    dụng
    (câu)
    Tổng số
    điểm
    1.Từ đồng nghĩa792
    2.Từ trái nghĩa11
    3.Từ đồng âm51
    4.Từ nhiều nghĩa682
    5. Nghĩa của từ41
    6. Đại từ32
    7. Từ loại21
    Tổng số câu hỏi3429

    II. Nội dung kiểm tra
    19
    Đọc thầm bài sau rồi hoàn thành các bài tập:
    Việt Nam
    Việt Nam đẹp khắp trăm miền
    Bốn mùa một sắc trời riêng đất này.
    Xóm làng đồng ruộng rừng cây
    Non cao gió dựng sông đầy nắng chang.
    Xum xuê xoài biếc cam vàng
    Dừa nghiêng, cau thẳng hàng hàng nắng soi.
    Có nơi đâu đẹp tuyệt vời
    Như sông như núi như người Việt Nam.
    Đầu trời ngất đỉnh Hà Giang
    Cà Mau mũi đất mỡ màng phù sa.
    Trường Sơn chí lớn ông cha
    Cửu Long lòng mẹ bao la sóng trào.
    Mặt người sáng ánh tự hào
    Dáng đi cũng lấp lánh màu tự do.
    Bốn nghìn năm dựng cơ đồ
    Vạn năm từ thuở ấu thơ loài người.
    Ơi Việt Nam! Việt Nam ơi!
    Việt Nam ta gọi tên người thiết tha.
    Lê Anh Xuân
    Khoanh tròn vào chữ cái trước câu trả lời đúng:
    1. Từ nào trái nghĩa với từ “đẹp” trong câu “Có nơi đâu đẹp tuyệt vời”? (NB)
    A. Xinh B. xấu C. xinh tươi D. xấu xa
    2. Dòng nào dưới đây gồm các từ láy? (NB)
    A. bao la, thiết tha, mỡ màng, hàng hàng
    B. lấp lánh, thiết tha, mỡ màng, nghìn năm
    C. lấp lánh, thiết tha, mỡ màng, tự do
    D. lấp lánh, thiết tha, mỡ màng, dáng đi
    3. Trong hai câu thơ dưới đây có những đại từ nào? (H)
    Ơi Việt Nam! Việt Nam ơi!
    Việt Nam ta gọi tên người thiết tha .
    A. ta, người B. ta, người, Việt Nam
    C. ta, người, ông cha D. ta
    4. Em hiểu từ “cơ đồ” trong câu “Bốn nghìn năm dựng cơ đồ” nghĩa là gì?(H)
    A. sự nghiệp do cha ông ta xây dựng B. cuộc sống mới
    C. những công trình D. lịch sử dân tộc
    5. Từ “ vàng’’ trong câu “ Xum xuê xoài biếc cam vàng” và câu “ Giá vàng
    tăng rất nhanh” là: ( H)
    A. Từ đồng nghĩa B. Từ trái nghĩa
    C. Từ nhiều nghĩa D. Từ đồng âm
    6. Những từ in đậm trong dòng nào dưới đây là từ nhiều nghĩa? (H)
    A. Cà Mau mũi đất mỡ màng phù sa. / Chú mèo có cái mũi rất đẹp.
    20
    B. Đầu trời ngất đỉnh Hà Giang. / Everest là đỉnh núi cao nhất thế giới.
    C. Bốn nghìn năm dựng cơ đồ. /Năm nay, em lên 9 tuổi.
    D. Mặt người sáng ánh tự hào. / Bạn Lan có khuôn mặt bầu bĩnh.
    7. Từ nào dưới đây không đồng nghĩa với từ “mẹ” (trong câu “Cửu Long lòng
    mẹ bao la sóng trào”)? (NB)
    A. Má B. mế C. u D. tía
    8. Đặt câu có từ “ngọt” được dùng với các nghĩa sau: (VD)
    a. Nói nhẹ nhàng, dễ nghe: ………………………………………………
    b. Có vị của đường mật
    ……………………………………………………………………………
    8. Điền các từ đã cho trong ngoặc đơn dưới đây vào chỗ chấm sao cho phù
    hợp: (VD)
    (xanh, xanh ngắt, xanh mướt, xanh lam)
    Em rất yêu màu xanh: màu …………………………..của lá non,
    màu………………………..của trời cao, màu…………………….của nước biển
    những ngày đẹp trời, màu nào em cũng thấy đẹp.
    ĐỀ 3: Thời

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Sử dụng sơ đồ tư duy nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn tiếng việt lớp 4

    SKKN Sử dụng sơ đồ tư duy nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn tiếng việt lớp 4

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐẶT VẤN ĐỀ
    Chúng ta đang sống trong thế kỉ XXI, thế kỉ của sự bùng nổ tri thức khoa học và công
    nghệ. Để có thể vươn lên kịp thời đại, đất nước Việt Nam cần những con người lao động
    có tri thức, có tư duy sáng tạo. Tình hình đó đòi hỏi nền giáo dục nền giáo dục nước ta
    phải đổi mới một cách toàn diện.Để thực hiện được mục tiêu đổi mới giáo dục như trên
    chúng ta không thể không nói đến phương pháp dạy học tích cực.
    Dạy học theo hướng tích cực có ý nghĩa rất lớn đối với ngành giáo dục nói chung và bậc
    Tiểu học nói riêng. Dạy học theo hướng tích cực nhằm giúp học sinh phát huy khả năng tự
    học, sáng tạo mà qua đó còn giúp cho các em nắm vững kiến thức, phát huy khả năng hoạt
    động nhóm…
    Ở bậc tiểu học, môn Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng và cần thiết
    nhất. Môn Tiếng Việt chuẩn bị những hành trang trí tuệ, tâm hồn cho thế hệ trẻ bước vào
    cuộc sống tương lai. Song thực tế, trong quá trình giảng dạy môn Tiếng việt lớp 4, bản
    thân nhận thấy môn Tiếng Việt có lượng kiến thức dài, học sinh thường phải viết nhiều
    hơn các môn học khác nên vẫn còn một số học sinh có tâm lí “ngại học, ngại viết”, “học
    vẹt, học trước quên sau” từ đó ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy.
    Từ những lí do trên, bản thân tôi luôn trăn trở phải tìm ra phương pháp dạy học để
    giúp tất cả các học sinh hiểu bài nhanh, nắm vững nội dung kiến thức mà lại tạo hứng thú
    trong học tập. Vì thế tôi đã nghiên cứu và lựa chọn sáng kiến “Sử dụng sơ đồ tư duy
    nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn Tiếng việt lớp 4”.
    PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
    1. Thực trạng việc xây dựng và sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học ở nhà trường
    1.1.Cơ sở lí luận
    a. Năng lực, phẩm chất của học sinh tiểu học
    Chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ hình thành và phát triển cho học sinh 5
    phẩm chất đáng quý giúp học sinh rèn luyện bản thân. Đó là:
    • Yêu nước: Đây là truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam, được xây dựng và
    bồi đắp qua các thời kỳ từ khi ông cha ta dựng nước vàgiữ nước. Tình yêu đất
    nước được thể hiện qua tình yêu thiên nhiên, di sản, yêu người dân đất nước mình;
    tự hào và bảo vệ những điều thiêng liêng đó.
    2
    • Nhân ái: Nhân ái là biết yêu thương, đùm bọc mọi người; yêu cái đẹp, yêu cái
    thiện; tôn trọng sự khác biệt; cảm thông, độ lượng và sẵn lòng giúp đỡ người khác.
    • Chăm chỉ: Đức tính chăm học, chăm làm, hăng say học hỏi và nhiệt tình tham gia
    công việc chung sẽ giúp các em rèn luyện, phát triển bản thân để đạt được những
    thành công lớn lao trong tương lai.
    • Trung thực: Dù một người có giỏi đến đâu mà thiếu đi đức tính này thì vẫn là kẻ
    vô dụng.. Bởi thế nên ngay từ nhỏ, các học sinh cần được rèn luyện tính thật thà,
    ngay thẳng và biết đứng ra bảo vệ lẽ phải.
    • Trách nhiệm: Chỉ khi một người có trách nhiệm với những gì mình làm thì đó
    mới là khi họ trưởng thành và biết cống hiến sức mình cho một xã hội tốt đẹp hơn
    Trong chương trình giáo dục phổ thông mới các em học sinh không chỉ được
    phát triển 5 phẩm chất nêu trên mà còn được hình thành và phát triển 10 năng lực
    thiết yếu để từ đó phát huy và vận dụng tối đa khả năng của mình vào thực tiễn.
    10 năng lực đó được chia ra thành 2 nhóm năng lực chính là năng lực chung và
    năng lực chuyên môn.
    Năng lực chung là những năng lực cơ bản, thiết yếu hoặc cốt lõi, làm nền tảng
    cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống.Những năng lực chung sẽ được
    nhà trường và giáo viên giúp các em học sinh phát triển trong chương trình giáo dục
    phổ thông là:
    • Tự chủ và tự học
    • Kỹ năng giao tiếp và hợp tác nhóm với các thành viên khác.
    • Giải quyết vấn đề theo nhiều cách khác nhau một cách sáng tạo và triệt để.
    Năng lực chuyên môn là những năng lực được hình thành và phát triển trên cơ
    sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các loại hình
    hoạt động, công việc hoặc tình huống, môi trường đặc thù, cần thiết cho những hoạt
    động chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu hạn hẹp hơn của một hoạt động. Đây cũng được
    3
    xem như một năng khiếu, giúp các em mở rộng và phát huy bản thân mình nhiều hơn.
    Các năng lực chuyên môn được rèn luyện và phát triển trong chương trình giáo dục
    phổ thông mới là:
    • Ngôn ngữ
    • Tính toán
    • Tin học
    • Thể chất
    • Thẩm mỹ
    • Công nghệ
    • Tìm hiểu tự nhiên và xã hội
    Đây chính là 5 phẩm chất và 10 năng lực mà chương trình giáo dục phổ thông mới
    chú trọng hình thành và phát triển các em học sinh, nhờ vậy mà học sinh phổ thông
    sẽ được phát triển toàn diện hơn
    4
    b. Dạy học theo hướng phát triển năng lực:
    Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn
    diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo
    dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội
    Thực hành, trải nghiệm đều là những phương thức học hiệu quả, gắn với vận động, với
    thao tác vật chất, với đời sống thực. Việc học thông qua làm, học đi đôi với hành và học từ
    trải nghiệm đều giúp người học đạt được tri thức và kinh nghiệm nhưng theo các hướng
    tiếp cận không hoàn toàn như nhau, trong đó trải nghiệm có ý nghĩa giáo dục cao nhất và
    có phần bao hàm cả làm và thực hành
    c.Sơ đồ tư duy
    Bản đồ tư duy còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, là hình thức ghichép nhằm
    tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay mộtmạch kiến thức
    bằng cách kết hợp sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc,chữ viết với tư duy tích
    cực để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Đặc biệt sơ đồ tư duylà một sơ đồ mở, không yêu
    5
    cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽthêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người
    vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hìnhảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một
    chủ đề nhưng mỗi người có thể “thểhiện” nó dưới dạng sơ đồ tư duy theo một cách riêng,
    do đó việc lập sơ đồ tư duy phát huyđược tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.
    Cơ chế hoạt động của sơ đồ tư duy là chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng
    lướiliên tưởng (các nhánh). Sơ đồ tư duy là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ
    vớinhau vì vậy có thể vận dụng sơ đồ tư duy vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố
    kiếnthức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương và giúp họcsinh
    hiểu bài, nhớ lâu, nhớ sâu.
    Lợi ích của sơ đồ tư duy:
    Việc ứng dụng và triển khai sơ đồ tư duy đã được áp dụng thành công từ nhiều thập kỷ, sơ
    đồ tư duy đã trở thành công cụ “vàng” giúp trẻ học tập hiệu quả và phát huy các năng lực,
    phẩm chất của người học ,cụ thể là :
    • Phẩm chất yêu nước
    • Phẩm chất nhân ái
    • Năng lực tư duy ngôn ngữ
    • Năng lực giải quyết vấn đề
    • Năng lực thẩm mĩ.
    1.2. Cơ sở thực tiễn
    a. Về giáo viên:
    Những năm trước đây, giáo viên chủ yếu tập trung làm những đồ dùng để phục vụ
    cho việc giảng dạy của giáo viên trước lớp, ít chú trọng đến các đồ dùng dành cho học sinh
    tự học.Chính điều đó đã hạn chế phần nào năng lực tự học, tự khám phá và lĩnh hội tri
    thức của các em.
    Hiện nay, nhà trường đã thay đổi hình thức dạy học theo mô hình trường học mới.
    Quá trình giáo dục chuyển từ việc dạy của giáo viên trước lớp sang việc tự học của học
    6
    sinh theo cá nhân và các nhóm học tập. Vì thế, một số đồ dùng giáo viên tự làm hoặc được
    cấp trước kia đã không còn phù hợp.
    Để phù hợp với quá trình đổi mới giáo dục hiện nay, trong những năm gần đây, giáo
    viên trường Tiểu học Nam Mỹ đã rất quan tâm đến việc làm những bộ đồ dùng dạy học đa
    năng đặc biệt là mô hình sơ đồ tư duy vừa có thể phục vụ cho việc giảng dạy của giáo viên
    vừa giúp học sinh tự học theo nhóm và cá nhân.
    b. Học sinh:
    Khả năng nắm bắt kiến thức, trí tưởng tượng khái quát hóa còn yếu, khả năng ghi nhớ của
    các em còn chậm trong khi hệ thống kiến thức của các môn học Tiếng Việt trong chương
    trình lớp 4 lại tương đối nhiều nên các em chỉ có thể ghi nhớ một cách máy móc (dễ nhớ
    nhưng lại mau quên).
    Đa phần các đồ dùng có sẵn hoặc được làm trước đây chủ yếu là để giáo viên giảng dạy
    chung cho cả lớp, học sinh ít được thao tác và trực tiếp sử dụng nên vẫn còn thụ động
    trong việc tiếp thu kiến thức, tinh thần hợp tác học chưa cao, nhiều em chưa hào hứng với
    việc học tập.
    Thực trạng về việc sử dụng sơ đồ tư duy trong lớp học
    Lớp đã xây dựng được một số sơ đồ tư duy nhưng hình thứcchưa phong phú.
    Trong một số tiết học, giáo viên ngại cho học sinh sử dụng sơ đồ tư duy.
    2. Biện pháp sử dụng sơ đồ tư duy nâng cao hiệu quả trong giảng dạy môn Tiếng Việt
    lớp 4
    Để sử dụng sơ đồ tư duy nâng cao hiệu quả trong việc giảng dạy lớp 4, tôi đã thực hiện
    như sau:
    Thứ nhất: Nghiên cứu bài học để xây dựng hệ thống sơ đồ tư duy phù hợp.
    Thứ hai: Xây dựng kế hoạch làm sơ đồ tư duy .
    Thứ ba: Hướng dẫn học sinh biết cách xây dựng sơ đồ tư duy
    Thứ tư: Hướng dẫn học sinh biết cách sử dụng sơ đồ tư duy
    Thứ năm :Sử dụng sơ đồ tư duy tùy theo nội dung từng bài học
    3. Thực nghiệm sư phạm
    3.1. Mô tả cách thực hiện
    Thứ nhất: Nghiên cứu nội dung các bài học môn Tiếng việt để xây dựng hệ thống sơ đồ
    tư duy phù hợp.
    7
    Thông thường thì đầu năm học, mỗi giáo viên trong khối sẽ nghiên cứu chương
    trình thuộc bộ môn mình giảng dạy để lập danh sách những đồ dùng cần làm.Sơ đồ tư duy
    cũng là một đồ dùng học tập vì vậykhối trưởng cùng với các giáo viên trong khối sẽ tiến
    hành họp tổ chuyên môn để thống nhất và hệ thống các sơ đồ tư duy cần làm.
    Thực tế cho thấy không phải bài học nào cũng có thể áp dụng hoặc sử dụng sơ đồ tư
    duy là đạt hiệu quả, mà nó cần sự phù hợp, linh hoạt nhất định.Việc lựa chọn bài học, nội
    dung, chủ đề, người thực hiện sơ đồ tư duy thể hiện tầm nhìn và kinh nghiệm của giáo
    viên trong dạy học. Qua nghiên cứu 10 chủ điểm trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 4,
    tôi nhận thấy có thể sử dụng sơ đồ tư duy vào trong các tiết dạy phân môn Tập đọc, Tập
    làm văn, Kể chuyện và Luyện từ và câu sẽ đạt hiệu quả cao nhất. Sau đây là một số bài
    trong 3 chủ điểm đầu tiên có thể sử dụng sơ đồ tư duy.

    STTPhân mônTên bài (Hoạt động)Nội dung
    1Tập đọcBài 1A: Thương người như thể
    thương thân – HĐCB2
    Tập đọc: Dế Mèn
    bênh vực kẻ yếu
    Bài 3A: Thông cảm và chia sẻ –
    HĐCB2
    Tập đọc: Thư thăm
    bạn
    Bài 3B: Cho và nhận – HĐCB2Tập đọc: Người ăn
    xin
    2Kể chuyệnBài 1B: Thương người, người
    thương – HĐTH2
    Kể câu chuyện “Sự
    tích hồ Ba Bể”
    Bài 2B: Cha ông nhân hậu tuyệt
    vời – HĐTH3
    Kể câu chuyện “Nàng
    tiên Ốc”
    Bài 4B: Con người Việt Nam –
    HĐTH5
    Kể câu chuyện “Một
    nhà thơ chân chính”
    Bài 4C: Người con hiếu thảo –
    HĐTH1
    Kể chuyện người con
    hiếu thảo
    Bài 5B: Đừng vội tin những lời
    ngọt ngào –HĐTH2
    Kể câu chuyện về
    người có lòng trung
    thực

    8

    Bài 6B: Không nên nói dối –
    HĐTH1
    Kể câu chuyện về
    lòng tự trọng
    Bài 6C: Trung thực – Tự trọng
    HĐTH2
    Kể câu chuyện “Ba
    lưỡi rìu”
    Bài 7B: Thế giới ước mơ –
    HĐTH4
    Kể câu chuyện “Lời
    ước dưới trăng”
    Bài 7C: Bạn mơ ước điều gì?-
    HĐTH1
    Kể câu chuyện theo
    trình tự thời gian
    Bài 8B: Ước mơ giản dị- HĐTH2Kể câu chuyện về ước
    Bài 8C: Kể chuyện theo trình tự
    thời gian, không gian – HĐTH2
    Kể câu chuyện “Ở
    vương quốc Tương
    Lai” theo trình tự
    không gian
    Bài 9B: Hãy biết ước mơ-
    HĐTH2
    Kể câu chuyện về ước
    3Tập làm vănBài 2B: Cha ông nhân hậu tuyệt
    vời – HĐCB8
    Tìm hiểu hành động
    của nhân vật trong
    truyện
    Bài 3C: Nhân hậu – Đoàn kết –
    HĐCB2, HĐCB3
    Văn viết thư
    4Luyện từ và câuBài 4C: Người con hiếu thảo –
    Sau HĐCB4
    Tổng hợp kiến thức
    về từ: Từ đơn, từ
    phức, từ ghép, từ láy
    Bài 5C: Ở hiền gặp lành – Sau
    HĐCB1
    Danh từ
    Bài 8A: Bạn sẽ làm gì nếu có
    phép lạ? – HĐCB6
    Cách viết tên người,
    tên địa lí nước ngoài
    Bài 8C: Kể chuyện theo trình tự
    thời gian, không gian – HĐCB2
    Tác dụng dấu ngoặc
    kép

    9
    Thứ hai: Xây dựng kế hoạch làm sơ đồ tư duy .
    Sau khi đã bàn bạc và thống nhất các sơ đồ tư duy cần làm trong môn Tiếng việt lớp 4, tôi
    cùng với tổ khối xây dựng kế hoạch làm sơ đồ tư duy để phân công công việc cụ thể cho
    từng giáo viên cũng như giúp giáo viên hiểu rõ hơn về mục đích, yêu cầu của việc làm sơ
    đồ tư duy.
    Thứ ba: Hướng dẫn học sinh biết cách xây dựng sơ đồ tư duy
    Sơ đồ tư duy sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc,chữ viết vì thế có nhiều hình
    thức khác nhau .Sau khi nghiên cứu và lập kế hoạch xây dựng sơ đồ tư duy, giáo viên cùng
    hội phụ huynh đã tiến hành làm một số sơ đồ tư duy mẫu cùng các thẻ từ phục vụtrong quá
    trình giảng dạy.
    10
    Tuy nhiên để tạo sự hứng thú và phát huy các hết khả năng sáng tạo của học sinh
    giáo viên giới thiệu thêm một số sơ đồ tư duy với hình thức đa dạng, phong phú hơn.
    11
    12
    13
    14
    Sau khi giới thiệu một số sơ đồ tư duy mẫu, giáo viên tiến hành hướng dẫn học sinh
    cách xây dựng một sơ đồ tư duy gồm 6 bước:
    Bước 1:Chuẩn bị
    – Giấy trắng
    – Bút chì, bút màu
    – Ý tưởng về vấn đề em cần ghi nhớ
    Bước 2:Xác định từ khóa, chủ đề trung tâm
    Bước 3: Vẽ chủ đề ở trung tâm
    -Chủ đề trung tâm là trọng tâm của vấn đề nên cần vẽ chủ đề ở chính giữa tờ giấy.
    Có thể tự do sử dụng tất cả các màu sắc mà học sinh thích, chủ đề trung tâm có thể là chữ
    hoặc là hình, nếu kết hợp cả 2 thì càng tốt
    – Chủ đề trung tâm cần gây sự chú ý để chúng ta dễ nhìn nhận vấn đề, do đó, học
    sinh nên vẽ to, rõ ràng, sử dụng từ ngữ ngắn gọn, súc tích.
    Bước 4: Vẽ các nhánh chính và viết từ khóa cho mỗi nhánh chính
    Các nhánh chính là các ý chính của vấn đề. Học sinh nên vẽ thứ tự các ý cần ghi nhớ theo
    chiều kim đồng hồ, mỗi nhánh là một màu riêng biệt.
    Từ khóa cần ngắn gọn và mang tính chất gợi ý.
    Bước 5: Vẽ các nhánh phụ
    Nhánh phụ là các nhánh được vẽ ra từ nhánh chính và nhỏ hơn nhánh chính.
    Học sinh nên vẽ nhánh phụ là đường cong, như thế sẽ làm cho sơ đồ tư duy nhìn
    mềm mại, uyển chuyển và dễ nhớ hơn.
    Bước 6: Thêm các hình ảnh minh họa và hoàn thiện sơ đồ tư duy
    Ở bước này, giáo viên nên để trí tưởng tượng của học sinh bay bổng hơn bằng cách
    thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi bật, cũng như lưu chúng vào trí
    nhớ tốt hơn vì não bộ của con người có khả năng tiếp thu hình ảnh cao hơn chữ viết.
    Qua việc xây dựng sơ đồ tư duy, chúng ta thấy rằng, chỉ có sử dụng sơ đồ tư duy
    mới phát triển tối ưu các năng lực phẩm chất cho học sinh. Học sinh thỏa sức sáng tạo các
    15
    hình thức sơ đồ tu duy, bồi dưỡng phẩm chất yêu nước, lòng nhân ái, yêu thiên nhiên,…
    Qua đó phát huy học sinh năng lực thẩm mỹ cho học sinh.
    Thứ tư: Hướng dẫn học sinh biết cách sử dụng sơ đồ tư duy
    Khi học sinh nắm được các bước xây dựng sơ đồ tư duy, tôi hướng dẫn các em cách sử
    dụng sơ đồ tư duy theo 4 bướcnhư sau:
    Bước 1: Học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý, hướng dẫn củagiáo viên.
    Bước 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, trình bàyvề SĐTD của
    nhóm mình..
    Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến thứccủa bài
    học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnhSĐTD, từ đó
    dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
    – Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặcmột
    BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày về kiến
    thức đó.
    Khi củng cố kiến thức giáo viên hướng dẫn HS hệ thống kiến thức bài học bằng sơ đồ tư
    duy
    16
    Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng sơ đồ tư duy
    Ví dụ :Dạy bài 3C: Nhân hậu – Đoàn kết ở HĐ2:Tìm hiểu về cách viết một bức thư
    Mục tiêu ở hoạt động này là học sinh phải nắm được cách viết một bài văn viết thư. Vì
    vậy khi dạy hoạt động này chúng ta hướngdẫn học sinh hoạt động nhóm thiết lập SĐTD
    với “từ khóa” là “Văn viết thư”. Từ đó xậy dựng kiến thứccủa từng nội dung lớn, nhỏ.
    Việc làm này giúp học sinh tư duylựa chọn kiến thức để lập và phát triển thêm.
    Hoạt động 1: Lập SĐTD
    Bước 1: Chuẩn bị đồ dùng
    Bước 2: Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm trả lời câu hỏi trong sách hướng
    dẫn trang 37,38, xác định chủ đề là“Văn viết thư”
    Bước 3: Vẽ chủ đề trung tâm
    Bước 4: Học sinh xác định 3 nhánh chính: phần đầu thư, phần chính, phần cuối thư
    Bước 5: Triển khai các nhánh phụ từ nhánh chính
    Phần đầu thư: Địa điểm, thời gian
    Lời thưa gửi
    Phần chính: Mục đích, lí do
    Thăm hỏi người nhận thư
    Thông báo tình hình người viết thư
    Bày tỏ ý kiến
    Phần cuối thư: Lời chúc, cảm ơn
    Kí tên
    +Bước 6: Trang trí hoàn thiện sơ đồ tư duy
    17
    Học sinh lập sơ đồ tư duy
    Hoạt động 2: Báo cáo, thuyết minh về SĐTD.
    Cử đại diện của các nhóm lên báo cáo, thuyết minh về SĐTD của nhómmình . Qua hoạt
    động này giáo viên nắm được việc hiểu kiến thức, kỹnăng giao tiếp, hợp tác, tinh thần học
    tập của học sinh, từ đó giáo viên vừa bổ sung kiến thức, vừa rèn cho các em khả năng
    thuyết trình trước đông người, phát triển năng lực ngôn ngữ .Đây cũng là một trong những
    điểm cần rèn luyện của học sinh hiệnnay đó là (kỹ năng sống).
    18
    Học sinh thuyết minh về sơ đồ tư duy
    Hoạt động 3: Thảo luận, chỉnh sửa, hoàn thiện sơ đồ tư duy.
    Tổ chức cho học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ đồ tư duy về bài văn
    viết thư . (giáo viên sẽ là ngườicố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh sơ đồ tư duy).
    Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một sơ đồ tư duy.
    Giáo viên cho học sinh lên trình bày cấu tạo một bài văn viết thư trên sơ đồ tư duy mà
    cácem vừa thiết kế và cả lớp đã chỉnh sửa, hoàn thiện.
    19
    Sơ đồ tư duy hoàn chỉnh cho bài văn viết thư
    Như vậy, việc sử dụng sơ đồ tư duy đã giúp bồi dưỡng cho học sinh các năng lực chung
    và năng lực chuyên môn cụ thể là học sinh biết giao tiếp, hợp tác với các bạn để hoàn
    thành sơ đồ tư duy.Việc hợp tác làm việc nhóm giúp học sinh có tinh thần trách nhiệm
    hơn, rèn đức tính chăm chỉ, chăm học ở các em. Ngoài ra, học sính mạnh dạn chia sẻ ý
    kiến của mình, tự tin trước đám đông để phát triển năng lực ngôn ngữ.
    Thứ năm :Sử dụng sơ đồ tư duy tùy theo nội dung từng bài học
    Sơ đồ tư duy được mệnh danh “công cụ vạn năng cho bộ não”, là phương pháp ghi chú
    đầy sáng tạo. Chính vì vậy, sơ đồ tư duy được sử dụng đa dạng trong các phân môn của
    môn Tiếng Việt .Cụ thể như sau:
    a.Sử dụng sơ đồ tư duy trong phân môn Tập đọc
    Đối với phân môn tập đọc thì kiến thức trọng tâm là nội dung của văn bản chính vì vậy
    trong các tiết học tôi thường sử dụng sơ đồ tư duy trong các hoạt động tìm hiểu nội dung
    bài học.Việc chốt kiến thức bằng hình thức sơ đồ tư duy , tôi thấy học sinh nắm chắc kiến
    thức hơn và đặc biệt khả năng ghi nhớ hiệu quả hơn rất nhiều.
    Ví dụ: Ở bài 30A: Vòng quanh trái đất, tối sử dụng sơ đồ tư duy để chốt ý và nêu bật
    nội dung bài học
    20
    b. Sử dụng sơ đồ tư duy trong phân môn Luyện từ và câu
    Với các tiết luyện từ và câu, hoạt động tìm hiểu kiến thức và vận dụng kiến thức hoàn
    thành bài tập đều rất quan trọng nên tôi thường tập trung cho học sinh sử dụng sơ đồ tư
    duy ở các bước rút ra ghi nhớ bài học hoặc củng cố kiến thức.
    Ví dụ 1: Bài 30C: Nói về cảm xúc của em, ở hoạt động tìm hiểu về câu cảm, tôi đã giúp
    các em ghi nhớ bằng cách đưả một sơ đồ tư duy. Kết quả học sinh nhớ bài rất nhanh và
    vận dung làm bài tốt.
    21
    Ví dụ 2 :Bài 5C: Ở hiền gặp lành ở HĐCB1: Tìm hiểu về danh từ. Học sinh thực hiện các
    bước sau:
    Bước 1:Học sinh xếp được các từ chỉ sự vật vào 5 cột theo bảng nhóm trong sách hướng
    dẫn
    Bước 2: Giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng hoàn thành sơ đồ tư duy với chủ đề là “Danh
    từ”. Các nhóm còn lại tự vẽ sơ đồ tư duy.
    Bước 3: Đại diện nhóm lên trình bày sơ đồ tư duy
    Bước 4: Các nhóm và cô giáo nhận xét, hoàn thiện sơ đồ tư duy
    Bước 5: Từ sơ đồ tư duy học sinh hiểu được: Danh từ là từ chỉ sự vật (người, vật, con vật,
    cây cối, hiện tượng…)
    22
    Học sinh lập sơ đồ tư duy theo nhóm
    23
    Hay khi học sinh được học về từ đơn, từ phức, từ gh

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education