Category: SKKN Luận Văn Luận Án

  • SKKN Vận dụng phương pháp dạy học theo góc trong dạy học mỹ thuật tiểu học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh

    SKKN Vận dụng phương pháp dạy học theo góc trong dạy học mỹ thuật tiểu học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Lý do chọn báo cáo sáng kiến
    Qua thực tế nhiều năm giảng dạy chƣơng trình môn Mĩ thuật, tôi nhận thấy
    nhiều giáo viên và học sinh còn cho rằng môn Mĩ thuật là môn phụ, với phƣơng pháp
    truyền thống, bó gọn trong không gian lớp học yên tĩnh, bàn ghế thẳng hàng thì những
    phƣơng pháp cũng nhƣ kĩ thuật dạy học tích cực mang lại sự hứng khởi học tập cho
    học sinh đƣợc ƣa chuộng và dần dần chiếm ƣu thế. Đặc biệt là bộ môn Mĩ thuật tiểu
    học những năm gần đây có sự thay đổi không hề nhỏ. Chúng ta đã thử nghiệm và đƣa
    vào giảng dạy thành công chƣơng trình Mĩ thuật phối kết hợp giữa chƣơng trình
    truyền thống đƣợc thổi vào luồng gió mới: Học Mĩ thuật theo định hướng phát triển
    năng lực (Vận dụng phƣơng pháp mới của Dự án Hỗ trợ Giáo dục Mĩ thuật tiểu học
    do Vƣơng quốc Đan Mạch tài trợ). Trong chƣơng trình Mĩ thuật mới này, các em sẽ
    không học Mĩ thuật theo các phân môn riêng biệt, mang tính đặc trƣng cao nhƣ: vẽ
    tranh đề tài, vẽ trang trí, vẽ theo mẫu (phải vẽ chì, giống hệt mẫu), tập nặn tạo dáng,
    thƣờng thức mĩ thuật mà các em đƣợc thoải mái nghiên cứu theo các chủ đề gần gũi
    trong cuộc sống nhƣ: Chân dung tự họa, sáng tạo với những chiếc lá, cuộc sống quanh
    em, thử nghiệm và sáng tạo với các chất liệu…Ở mỗi chủ đề bài học, các em đƣợc
    thoải mái chọn lựa nội dung và hình thức tiếp cận, thực hành bài học, cho ra những
    sản phẩm rất phong phú, sáng tạo, đẹp mắt. Đó thực sự là một không gian rất rộng mở
    cho các giáo viên Mĩ thuật tiểu học nghiên cứu, tìm tòi, ứng dụng các phƣơng pháp
    dạy học tích cực theo hƣớng phát triển năng lực học sinh nhƣ: phƣơng pháp hoạt động
    nhóm, phƣơng pháp tổ chức trò chơi trong học tập, phƣơng pháp dạy học đặt và giải
    quyết vấn đề, phƣơng pháp học theo hợp đồng, phƣơng pháp học theo dự án, phƣơng
    pháp học theo góc…Tôi rất thích và cảm thấy ấn tƣợng với phƣơng pháp học theo góc
    nhất vì ƣu điểm nó có thể áp dụng ở hầu hết các dạng bài học và các bài tập tích hợp
    kiến thức nhiều môn học trong chƣơng trình Mĩ thuật tiểu học hiện hành. Đó là lý do
    5
    tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Vận dụng phương pháp dạy học theo góc trong dạy học
    Mĩ thuật tiểu học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh” làm sáng kiến. Từ
    sáng kiến này tôi muốn tìm hiểu thêm về việc vận dụng phƣơng pháp dạy học theo
    góc để nâng cao chất lƣợng dạy học môn Mĩ thuật.
    2. Mục đích nghiên cứu
    – Đổi mới PPDH và nâng cao chất lƣợng dạy học môn Mĩ thuật nhằm phát huy
    tính tích cực của học sinh.
    – Tìm hiểu thực trạng về việc vận dụng PPDH theo góc trong môn Mĩ thuật tiểu
    học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
    – Tổ chức dạy học theo góc vào dạy học môn Mĩ thuật.
    3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
    – Đối tƣợng nghiên cứu là vận dụng phƣơng pháp dạy học theo góc trong môn
    Mĩ thuật tiểu học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
    – Thời gian nghiên cứu: Năm học 2020-2021.
    – Phƣơng pháp dạy học theo góc.
    – Học sinh tiểu học và giáo viên Mĩ thuật Trƣờng xã Tiểu học Nghĩa Thái –
    Nghĩa Hƣng – Nam Định.
    4. Phƣơng pháp nghiên cứu
    4.1 Phƣơng pháp nghiên cứu lí luận
    – Dựng sáng kiến dựa vào sách giáo khoa Mĩ thuật, tiểu luận, internet, tài liệu
    để xây dựng cơ sở lí luận.
    4.2 Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
    – Phƣơng pháp quan sát.
    – Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu.
    – Phƣơng pháp vấn đáp.
    – Phƣơng pháp phân tích.
    – Phƣơng pháp tổng hợp.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SÁNG KIẾN
    6
    1. Mô tả giải pháp trƣớc khi tạo ra sáng kiến
    Học sinh tiểu học là lứa tuổi 6 đến 10 tuổi rất thông minh, nhạy cảm. Từ thực tế
    giảng dạy, tôi mạnh dạn đƣa ra giải pháp: “Vận dụng phương pháp dạy học theo góc
    trong môn Mĩ thuật tiểu học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh”. Giải pháp
    đặc trƣng của môn Mĩ thuật: Phƣơng pháp quan sát, phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu,
    phƣơng pháp vấn đáp, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp tổng hợp…Chính vì thế
    giáo viên cần đổi mới phƣơng pháp, đặt biệt là phƣơng pháp dạy học theo góc. Để vận
    dụng phƣơng pháp dạy học theo góc tốt thì GV cần hiểu rõ những vấn đề sau:
    1.1 Cơ sở lý luận
    Đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học.
    Đặc điểm về mặt cơ thể: Đây là thời kỳ hệ xƣơng của trẻ đang phát triển. Hệ cơ
    cũng đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các trò chơi vận động
    nhƣ chạy, nhảy, nô đùa. Hệ thần kinh cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, do
    vậy tƣ duy của các em chuyển dần từ trực quan hành động sang tƣ duy hình tƣợng, tƣ
    duy trừu tƣợng. Do đó, các em rất hứng thú với các trò chơi trí tuệ nhƣ đố vui trí tuệ,
    các cuộc thi trí tuệ,…
    Đặc điểm về hoạt động và môi trƣờng sống: Nếu nhƣ lứa tuổi mầm non hoạt
    động chủ đạo của trẻ là vui chơi thì đến lứa tuổi tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã
    có sự thay đổi về chất, đó là chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập.
    Tuy nhiên, song song với hoạt động học tập các em còn tham gia các hoạt động khác
    nhƣ: vui chơi, lao động, hoạt động xã hội,…
    Đặc điểm về sự phát triển trí tuệ:
    – Nhận thức cảm tính: Lứa tuổi này, các cơ quan cảm giác đều phát triển và
    đang trong quá trình hoàn thiện. Tri giác của học sinh lứa tuổi tiểu học mang tính đại
    thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định. Cụ thể ở đầu tuổi tiểu học tri giác
    thƣờng gắn với các hành động trực quan, nhƣng đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu
    mang tính xúc cảm. Trẻ thích quan sát các sự vật, hiện tƣợng có màu sắc sặc sỡ, hấp
    7
    dẫn, tri giác của trẻ đã mang tính mục đích, có phƣơng hƣớng rõ ràng – tức là tri giác
    có chủ định.
    – Nhận thức lý tính: Tƣ duy trẻ em tiểu học mang đậm màu sắc xúc cảm và
    chiếm ƣu thế ở tƣ duy trực quan hành động. Các phẩm chất tƣ duy chuyển dần từ tính
    cụ thể sang tƣ duy trừu tƣợng khái quát. Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo
    lứa tuổi. Lớp 4, lớp 5 bắt đầu biết khái quát hóa lý luận, tuy nhiên phần lớn hoạt động
    phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng.
    Chính vì những đặc điểm tâm sinh lý nhƣ vậy nên ngƣời giáo viên giảng dạy
    môn Mĩ thuật tiểu học phải tìm tòi và định hƣớng cho học sinh nghiên cứu một chủ đề
    bài học theo một phƣơng pháp phù hợp nhất với từng nội dung chủ đề để gây hứng
    thú cho học sinh, đem lại hiệu quả học tập tốt nhất, giúp các em vừa học vừa chơi,
    phát triển tƣ duy một cách toàn diện.
    Đặc biệt vận dụng phƣơng pháp dạy học theo góc trong môn Mĩ thuật giải
    quyết hết vấn đề trên.
    1.2 Cơ sở thực tiễn
    Qua nhiều năm giảng dạy môn Mĩ thuật, tôi nhận thấy kĩ năng trong môn Mĩ
    thuật của học sinh còn hạn chế. Trong giảng dạy và học môn Mĩ thuật của GV và HS
    trƣờng tiểu học, việc phát huy tính tích cực chủ động của HS trong việc sử dụng các
    phƣơng pháp dạy học tính tích cực chƣa cao. HS chƣa phát hiện ra năng khiếu, sở
    trƣờng, tính tích cực, sáng tạo của mình. Nên GV hạn chế phân hóa đối tƣợng học
    sinh.
    GV coi môn Mĩ thuật là môn phụ trong chƣơng trình tiểu học. Việc nghiên cứu
    đổi mới phƣơng pháp này chƣa đƣợc chú trọng. Còn sử dụng phƣơng pháp truyền
    thống làm cho một số HS nhàm chán không tích cực trong giờ học Mĩ thuật.
    GV chƣa khai thác hết thế mạnh của phƣơng pháp dạy học tích cực, kĩ năng
    dạy học mới vào từng chủ đề, chƣa chú ý sự kết nối giữa thầy và trò, giữa HS với HS.
    Đồ dùng dạy học chƣa đầu tƣ nhƣ: tivi, máy chiếu,…đồ dùng từng góc còn hạn
    chế mất nhiều thời gian.
    8
    Một số học sinh còn lƣời học, ỷ lại, sự tƣơng tác giữa trò và thầy, trò với trò
    còn yếu. Phần lớn các em là con gia đình lao động đi làm công ty may, công ty da
    giày, đi làm ăn xa, chƣa có sự quan tâm về đồ dùng học tập.
    1.2.1 Khái niệm phƣơng pháp dạy học tích cực
    Phƣơng pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn, đƣợc
    dùng ở nhiều nƣớc để chỉ những phƣơng pháp giáo dục, dạy học theo hƣớng phát huy
    tính tích cực, chủ động, sáng tạo của ngƣời học.
    “Tích cực” trong PPDH – tích cực đƣợc dùng với nghĩa là hoạt động, chủ
    động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái với
    tiêu cực.
    PPDH tích cực hƣớng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức
    của ngƣời học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của ngƣời học chứ không
    phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của ngƣời dạy, tuy nhiên để dạy học theo
    phƣơng pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phƣơng pháp thụ
    động.
    Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học,
    nhƣng ngƣợc lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hƣởng tới cách dạy của thầy.
    Chẳng hạn, có trƣờng hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhƣng giáo
    viên chƣa đáp ứng đƣợc, hoặc có trƣờng hợp giáo viên hăng hái áp dụng PPDH tích
    cực nhƣng không thành công vì học sinh chƣa thích ứng, vẫn quen với lối học tập thụ
    động. Vì vậy, giáo viên phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng
    cho học sinh phƣơng pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong
    đổi mới phƣơng pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp
    nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. Nhƣ vậy, việc dùng thuật
    ngữ “Dạy và học tích cực” để phân biệt với “Dạy và học thụ động”.
    1.2.2 Định hƣớng đổi mới phƣơng pháp dạy học môn Mĩ thuật
    Đổi mới PPDH là đƣa ra các PPDH mới vào nhà trƣờng trên cơ sở phát huy
    mặt tích cực của các PPDH truyền thống nhằm nâng cao chất lƣợng dạy học. Dựa vào
    9
    chƣơng trình và SGK môn Mĩ thuật từ đó đổi mới PPDH ở tiểu học, việc sử dụng
    PPDH môn Mĩ thuật cần dựa vào các định hƣớng cơ bản sau:
    – Dựa vào PPDH dạy học truyền thống đƣa các PPDH mới vào quá trình dạy
    học môn Mĩ thuật để phát huy những ƣu điểm của các PPDH truyền thống nhầm nâng
    cao chất lƣợng dạy học.
    – Đề cao vai trò chủ thể của ngƣời học: Đó là cách dạy học hƣớng tập trung vào
    HS, HS chính là chủ thể rèn luyện kĩ năng, nắm tri thức.
    – Việc đổi mới PPDH đòi hỏi phải đổi mới các hình thức tổ thức dạy học, đổi
    mới cách đánh giá nhận xét môn Mĩ thuật, đổi mới cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy
    học.
    1.3 Phƣơng pháp dạy học theo góc
    1.3.1 Khái niệm
    Học “theo góc” còn đƣợc gọi là “trạm học tập” hay “trung tâm học tập”.
    Dạy học theo góc là phƣơng pháp dạy học đáp ứng các phong cách khác nhau
    của HS, khi học theo góc, HS đƣợc thực hiện các nhiệm vụ khác nhau ở các vị trí cụ
    thể trong lớp để hoàn thành nội dung học tập theo mục tiêu đặt ra.
    Mỗi học sinh có một phong cách học khác nhau, có nghĩa là nếu đƣợc học theo
    đúng sở trƣờng của mình thì kết quả học tập sẽ là tối ƣu nhất đối với học sinh.
    Dạy học theo góc có những điểm tƣơng đồng với dạy học theo nhóm, theo cặp
    và một số phƣơng pháp, kỹ thuật, thủ thuật dạy học khác.
    Học sinh lớp 5A đang học theo góc
    10
    Học theo góc là một môi trƣờng học tập với cấu trúc đƣợc xác định cụ thể, kích
    thích học sinh tích cực chủ động thông qua hoạt động đa dạng về nội dung và hình
    thức hoạt động.
    Góc : Quan sát – thực hành tích cực chủ động sáng tạo.
    1.3.2 Phong cách học tập của phƣơng pháp dạy học theo góc
    Mỗi HS có một phong cách học khác nhau, có nghĩa là nếu đƣợc học theo đúng
    sở trƣờng của mình thì kết quả học tập sẽ là tối ƣu nhất đối với HS.
    Một số phong cách học tập:
    – Học qua phân tích: HS thích có sở trƣờng nghiên cứu tài liệu, đọc sách để thu
    nhận kiến thức.
    – Học qua quan sát: HS sẽ tiếp thu kiến thức nhanh nếu đƣợc quan sát qua
    ngƣời khác làm hoặc quan sát qua hình ảnh trực quan.
    – Học qua trải nghiệm: HS sẽ tiếp thu và khắc sâu kiến thức tốt hơn nếu tự mình
    đƣợc thực hành, đƣợc khám phá thực từ thực tiễn…
    – Học qua áp dụng: Qua áp dụng cụ thể, HS sẽ tiếp thu kiến thức và rèn kĩ năng
    tốt hơn.
    Học theo góc thể hiện sự đa dạng học tập, do đó HS có sở thích và năng lực
    khác nhau, nhịp độ và phong cách học tập khác nhau đều có cơ hội tìm đƣợc vị trí
    thích ứng để học. Khi việc học tập phù hợp với sở trƣờng, phong cách của mình, cá
    nhân HS sẽ bị cuốn hút và học tập một cách say sƣa tích cực, không mang tâm trạng
    bị gò ép, bắt buộc. Từ đó các em nhớ kiến thức sâu hơn, rèn kĩ năng thuần thục hơn,
    học tập đạt đến sự thoải mái.
    11
    Mỗi góc học tập ứng với phong cách học tập khác nhau, do đó, các dụng cụ,
    thiết bị, đồ dùng học tập cũng khác nhau:
    – Góc phân tích với các tài liệu sách vở liên quan đến nội dung bài học.
    – Góc quan sát với các hình ảnh trực quan (video, tranh ảnh…) liên quan đến
    nội dung bài học.
    – Góc trải nghiệm với các đồ dùng, thiết bị cho phép HS thử nghiệm các nội
    dung liên quan đến bài học.
    – Góc áp dụng với các điệu kiện để HS áp dụng kiến thức, kĩ năng mà yêu cầu
    bài học đã đặt ra.
    1.3.3 Các bƣớc tổ chức dạy học theo góc
    Chuẩn bị:
    Sắp xếp góc học tập trƣớc khi vào giờ học phù hợp với không gian lớp học.
    Mỗi góc đảm bảo có đủ tài liệu, đồ dùng, phƣơng tiện học tập phù hợp với nhiệm vụ
    học tập tại mỗi góc.
    Tổ chức các hoạt động dạy học:
    Giáo viên giới thiệu bài học, phƣơng pháp học theo góc, nhiệm vụ tại các góc,
    thời gian tối đa để thực hiện nhiệm vụ tại các góc và cho phép học sinh đƣợc lựa
    chọn góc xuất phát. Học sinh lắng nghe, tìm hiểu và quyết định chọn góc theo sở
    thích của mình. Tuy nhiên, giáo viên sẽ phải điều chỉnh nếu nhƣ có số học sinh quá
    đông chọn cùng một góc. Khi học sinh thực hiện nhiệm vụ tại các góc, giáo viên yêu
    cầu học sinh luân chuyển sang góc khác. Kết thúc giờ học tại các góc, giáo viên yêu
    cầu đại diện các góc trình bày kết quả, các học sinh khác nhận xét, đánh giá. Giáo
    viên đánh giá và nhận xét về kết quả học tập của học sinh, chốt lại kiến thức trọng
    tâm của bài học.
    Bƣớc 1: Lựa chọn nội dung chủ đề, không gian lớp học.
    12
    Dạy học theo góc thƣờng áp dụng tích hợp kiến thức liên môn để giải quyết
    một nội dung chủ đề. Vì đƣợc lần lƣợt học qua các góc với các cách tiếp cận chủ đề
    khác nhau nên hầu hết các chủ đề quy định trong chƣơng trình giáo dục phổ thông đều
    có thể triển khai dạy học theo góc. Tuy nhiên, vì mỗi góc đều phải có các thiết bị, đồ
    dùng để phục vụ HS nên GV có thể chọn chủ đề mà trong điều kiện của nhà trƣờng,
    của bản thân có thể đảm bảo đƣợc các thiết bị đồ dùng DH đó.
    Dạy học theo góc cần có không gian đủ rộng để HS có thể chủ động đến trải
    nghiệm ở mỗi góc. GV bố trí các góc học tập trong lớp sao cho HS dễ di chuyển, các
    thiết bị, sách vở, đồ dùng trong mỗi góc đƣợc sắp xếp khoa học, phát huy tối đã công
    năng của mỗi thiết bị, đồ dùng trong các góc học tập.
    Bƣớc 2: Thiết lập các góc học tập.
    Căn cứ nội dung và mục tiêu bài học, GV có thể bố trí số lƣợng các góc học tập
    tùy ý. Mỗi góc học tập có thể đặt tên của góc đó.
    Ví dụ: Góc nghiên cứu; Góc quan sát; Góc trải nghiệm…để HS dễ hình dung
    nhiệm vụ khi đến các góc đó để học tập.
    Ví dụ: Dạy học chủ đề 12: “Tìm hiểu tranh dân gian Việt Nam” trong chƣơng
    trình mĩ thuật lớp 4 với nội dung: Lý luận và lịch sử mĩ thuật. GV sẽ cho học sinh học
    tập cụ thể: Tranh dân gian Việt Nam. GV sẽ chuẩn bị cho HS trải nghiệm 4 góc: Góc
    nghe nhìn; Góc nghiên cứu; Góc trải nghiệm và góc vận dụng. Trong đó:
    – Góc nghe nhìn: GV sẽ treo một số tranh dân gian Việt Nam với đa dạng về thể
    loại của một số dòng tranh tiêu biểu. Hoặc có thể có cả máy phát băng hình giới thiệu
    về tranh dân gian Việt Nam. HS có phong cách học qua quan sát sẽ chọn đây là góc
    xuất phát.
    – Góc nghiên cứu: GV sẽ sắp xếp một số tài liệu viết về tranh dân gian Việt
    Nam phù hợp với HS lớp 4 để các em đọc, nghiên cứu, suy ngẫm về xuất sứ, nội dung
    13
    và giá trị nghệ thuật của tranh dân gian Việt Nam. HS có phong cách học nghiên cứu
    sẽ chọn đây là góc xuất phát.
    – Góc trải nghiệm: GV bố trí một số bức tranh dân gian chỉ in nét và một số bức
    tranh dân gian mẫu để HS đƣợc trải nghiệm tô mà tranh dân gian. Nếu có điều kiện
    GV có thể sƣu tầm một số bản khắc, giấy dó và màu để HS đƣợc trải nghiệm in tranh.
    HS có phong cách học qua trải nghiệm sẽ chọn đây là góc xuất phát.
    – Góc vận dụng: GV giao bài tập cho HS tại góc vận dụng này để HS thực hiện.
    Bài tập có thể bao gồm các câu hỏi/ các mệnh đề trắc nghiệm về: Nội dung, xuất sứ,
    giá trị nghệ thuật…của tranh dân gian Việt Nam. Có thể yêu cầu HS viết một đoạn
    văn ngắn về cảm xúc đối với tranh dân gian Việt Nam qua bài học. HS hoàn toàn có
    thể chọn đây là góc xuất phát cho hành trình học tập của mình.
    Bƣớc 3: Tổ chức DH theo góc.
    GV nêu nội dung bài học, cách thức học và yêu cầu cần đạt của bài học.
    GV hƣớng dẫn cụ thể các góc học tập, cách thực hiện việc học tập tại góc đó để
    HS hình dung cách làm việc tại mỗi góc để các em chủ động chọn góc học đầu tiên
    của mình. Góc mà HS đến đầu tiên chính là góc phù hợp nhất với phong cách học của
    các em. HS có thể học cá nhân hoặc học nhóm ở các góc học tập.
    GV yêu cầu trong một khoảng thời gian nhất định, HS phải lần lƣợt đến đủ các
    góc học tập và hoàn thành bài tập ở góc vận dụng. Sau khi trải nghiệm tại 1 góc học
    tập, HS di chuyển đến góc học tập khác để trải nghiệm tiếp và có thể kiểm chứng cho
    phần kiến thức đã đƣợc trải nghiệm ở góc học tập khác. Việc di chuyển đến các góc
    học tập không nhất thiết phải theo thứ tự cố định mà tùy HS có thể đến và đi nhiều lần
    ở mỗi góc để khẳng định và khắc sâu hơn kiến thức mà mình thu nhận đƣợc. Khi thực
    hiện nhiệm vụ ở góc vận dụng, nếu chƣa chắc chắn vấn đề gì, HS có thể quay trở lại
    các góc mà mình đã đi qua để kiểm chứng lại và xác định phƣơng án hợp lý nhất.
    14
    Trong quá trình HS học tập ở các góc, GV quan sát, hỗ trợ nếu HS còn lúng
    túng trong cách sử dụng thiết bị, đồ dùng học tập, hoặc mất thời gian quá nhiều cho
    một vấn đề ở một góc nào đó…
    Cũng sẽ có những học sinh không xác định đƣợc góc xuất phát của mình hoặc
    chọn góc xuất phát không đúng với phong cách học tập của mình. GV sẽ giúp đỡ để
    thúc đẩy hứng thú của các em lên cao nhất và bài học đạt kết quả cao nhất.
    Qua quan sát và theo dõi học sinh thao tác ở các góc, GV xác định rõ rang
    phong cách học tập của từng em. Điều này sẽ giúp GV có thông tin về HS một cách
    đầy đủ và có căn cứ, không chỉ giúp học sinh học tập môn Mĩ thuật mà còn hỗ trợ các
    em học tốt các môn học khác nhau qua sự phát hiện phong cách học tập của chính em
    đó.
    Bƣớc 4: Hoàn thành bài học.
    GV nhận xét, đánh giá quá trình học tập theo góc của các em học sinh thông
    qua quan sát riêng của mình. GV nhận xét kết quả học tập của các em ở từng góc,
    hƣớng dẫn HS học tập khác nhau.
    GV cũng có thể nói về ƣu thế của mỗi góc học tập để HS hiểu rõ và có thể thử
    nghiệm thay đổi góc xuất phát ở những giờ học sau nhằm mục đích khẳng định đúng
    nhất về phong cách học tập cá nhân.
    Phong cách học tập cá nhân quyết định đến kết quả học tập, làm việc. Dạy học
    theo góc giúp ngƣời học thỏa mãn việc học theo sở trƣờng, hạn chế cách học tập ép
    buộc, tạo áp lực không cần thiết. Học theo góc đáp ứng yêu cầu học tập mang tính đặc
    thù của mỗi ngƣời, hƣớng học sinh biết cách lựa chọn cách học tối ƣu cho mình.
    * Ƣu điểm và hạn chế:
    – Ƣu điểm:
    15
    Học theo góc tăng cƣờng sự tham gia, nâng cao hứng thú học tập và cảm giác
    thoải mái của học sinh trong quá trình học tập.
    Học theo góc giúp học sinh học sâu và hiệu quả bền vững. Học sinh đƣợc tìm
    hiểu một nội dung theo các cách khác nhau: nghiên cứu lý thuyết, trải nghiệm thực
    tiễn, quan sát hình ảnh và áp dụng…qua đó học sinh sẽ hiểu sâu, nhớ lâu hơn việc
    giáo viên sử dụng phƣơng pháp thuyết trình, học sinh chỉ duy nhất nghe một cách thụ
    động.
    Học theo góc sẽ tạo nhiều không gian hơn cho những thời điểm học tập mang
    tính tích cực nhất của học sinh. Các nhiệm vụ và hình thức học tập đƣợc thay đổi tại
    các góc tạo hứng thú và kích thích tính tích cực của học sinh.
    Học theo góc tạo điều kiện cho GV có nhiều thời gian hỗ trợ cá nhân từng học
    sinh. Học sinh có nhiều cơ hội đƣợc trợ giúp do đó tạo ra sự tƣơng tác tích cực giữa
    giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh.
    – Hạn chế:
    Không gian lớp học chật hẹp.
    Đồ dùng thiết bị học tập hạn chế là một hạn chế cho dạy học theo góc. Sẽ phù
    hợp cho việc dạy học theo góc hơn nếu các nhà trƣờng bố trí đƣợc phòng học chuyên
    cho môn Mĩ thuật với các thiệt bị dụng cụ, phƣơng tiện học tập đầy đủ, ổn định,
    không phải di chuyển nhiều đến các lớp.
    Thời gian để học sinh lựa chọn góc học tập thƣờng nhiều, ảnh hƣởng tới các
    hoạt động học tập khác. Thời gian học tập ở mỗi góc thƣờng trôi đi và lấn sang thời
    gian làm việc ở các góc tiếp theo.
    GV cần nhiều thời gian chuẩn bị và thiết kế các góc học tập.
    * Khi dạy học theo góc, các năng lực cốt lõi đƣợc hình thành và phát triển tối
    đa:
    16
    – Năng lực tự chủ và tự học sẽ đƣợc kích hoạt tối đa khi học sinh học tập ở góc
    nghiên cứu.
    – Năng lực giao tiếp và hợp tác sẽ đƣợc ứng dụng hiệu quả khi học sinh tham
    gia vào quá trình học tập ở góc quan sát.
    – Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo đƣợc trải nghiệm và phát triển khi học
    sinh tham gia vào các góc thực hành và góc vận dụng.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1 Thuận lợi:
    Trƣờng Tiểu học xã Nghĩa Thái thuộc địa bàn xã Nghĩa Thái – Nghĩa Hƣng –
    Nam Định nằm trên trục đƣờng lớn của xã, có đầy đủ các phòng chức năng, có cơ sở
    vật chất khang trang, đầy đủ đảm bảo dạy và học tại trƣờng.
    Bản thân tôi là giáo viên có trình độ chuyên môn trên chuẩn, chuyên môn vững
    vàng, yêu nghề yêu trẻ. Luôn học hỏi và tiếp thu những kinh nghiệm quý giá và vận
    dụng những phƣơng pháp dạy học mới vào môn Mĩ thuật để nâng cao chất lƣợng giáo
    dục trong nhà trƣờng đó là một thuận lợi trong việc thực hiện đề tài này.
    Năm học 2020 – 2021 tôi đƣợc phân công dạy môn Mĩ thuật lớp 1, 2, 3, 4, 5 tại
    Trƣờng Tiểu học xã Nghĩa Thái. Bản thân tôi luôn tích cực học hỏi, học tập, tìm hiểu,
    ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Từ những thuận lợi trên tôi áp dụng
    phƣơng pháp dạy học theo góc vào môn Mĩ thuật có kết quả sau:
    – Tăng cƣờng sự tham gia, nâng cao hứng thú và cảm giác thoải mái học tập
    của học sinh.
    – Học sinh đƣợc học sâu và có hiệu quả bền vững.
    – Phƣơng pháp dạy học theo góc tạo nhiều không gian hơn cho những thời điểm
    học tập mang tính tích cực.
    – Giáo viên có nhiều thời gian để hỗ trợ cá nhân học sinh, đồng thời học sinh
    cũng có nhiều cơ hội đƣợc trợ giúp, tạo ra sự tƣơng tác tích cực giữa giáo viên và học
    sinh.
    17
    – Trong dạy học Mĩ thuật, phƣơng pháp dạy học theo góc có thể áp dụng ở hầu
    hết các dạng bài học và các bài tập tích hợp kiến thức nhiều môn học.
    Ví dụ: Chủ đề: Chân dung – Mĩ thuật lớp 5
    Có thể chia thành 4 góc với các nhiệm vụ cụ thể nhƣ sau:
    Góc 1: Quan sát: Tìm hiểu điểm giống và khác nhau trên khuôn mặt ngƣời qua
    các lứa tuổi.
    Góc 2: Trải nghiệm: Nhận xét đƣợc đặc điểm trên khuôn mặt bạn.
    Góc 3: Phân tích: Tìm hiểu tỷ lệ khuôn mặt ngƣời theo chiều cao và chiều
    ngang.
    Góc 4: Áp dụng: Thực hành quan sát và vẽ phác khuôn mặt bạn.
    2.2 Những hạn chế của hoạt động đổi mới phƣơng pháp dạy học theo góc
    trong môn Mĩ thuật.
    Bên cạnh những thuận lợi bƣớc đầu đạt đƣợc khi áp dụng theo phƣơng pháp
    học theo góc trong dạy học môn Mĩ thuật tại Trƣờng Tiểu học xã Nghĩa Thái còn
    nhiều hạn chế cần khắc phục:
    18
    – Hoạt động đổi mới phƣơng pháp dạy theo góc đối với các giáo viên ở Trƣờng
    Tiểu học xã Nghĩa Thái chƣa đạt kết quả cao, vẫn áp dụng phƣơng pháp truyền thống,
    truyền tri thức theo một chiều là chính.
    – Một số giáo viên áp dụng phƣơng pháp dạy học phát huy tính tích cực còn ít.
    – Áp dụng công nghệ thông tin vào dạy học chƣa nhiều.
    2.2.1 Nguyên nhân.
    Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên:
    – Phòng học Mĩ thuật không gian lớp học chật hẹp, đồ dùng thiết bị học tập hạn
    chế là một hạn chế cho dạy học theo góc.
    – Giáo viên cần nhiều thời gian cho chuẩn bị và thiết kế các góc học tập.
    – Thời gian dành cho việc làm đồ dùng ở các góc còn ít, hơn nữa đồ dùng hoạt
    động góc luôn thay đổi theo từng chủ đề.
    – Cần nhiều thời gian cho hoạt động học tập.
    2.2.2 Kết quả khi chƣa áp dụng sáng kiến.
    Trong năm học 2020 – 2021, tôi đƣợc phân công giảng dạy môn Mĩ thuật tại
    Trƣờng Tiểu học xã Nghĩa Thái, qua quan sát thái độ, tinh thần các em trong giờ học
    và đánh giá, nhận xét các bài vẽ của học sinh.Tôi phân loại các nhóm học sinh nhƣ
    sau:
    Kết quả đầu năm học khi chưa áp dụng phương pháp dạy học theo góc ở khối
    5.

    LớpSĩ sốTự tin thể hiện
    xúc, thể hiện
    đƣợc cảm xúc
    Vẽ dập khuôn,
    thiếu tự tin
    Hoàn thành
    bài tại lớp
    Chƣa hoàn thành
    bài tại lớp
    SL%SL%SL%SL%
    5A341132.42367.61235.32264.7
    5B34926.52573.51029.42470.6
    5C34823.52676.5926.42573.6

    19
    2.3 Các giải pháp thực hiện.
    Bản thân tôi trong quá trình giảng dạy môn Mĩ thuật, khi nghiêm cứu chƣơng
    trình tôi thấy có rất nhiều chủ đề có thể áp dụng phƣơng pháp dạy học theo góc,
    không riêng gì môn Mĩ thuật mà áp dụng tất cả các môn học khác có hiệu quả nhằm
    phát huy tính tích cực của học sinh. Trong phạm vi của sáng kiến này tôi xin giới
    thiệu giáo án tiết dạy minh họa sau:
    2.3.1 Giải pháp 1
    GIÁO ÁN MĨ THUẬT LỚP 5
    CHỦ ĐỀ 1: CHÂN DUNG TỰ HỌA
    * Những kiến thức HS đã nắm đƣợc:
    – Phƣơng pháp góc.
    – Các loại nét và cách phối kết hợp các loại nét khác nhau tạo thành tranh vẽ.
    – Màu sắc và cách sử dụng màu sắc trong tranh.
    – Quy trình vẽ biểu cảm.
    – Quy trình tạo hình ba chiều – tiếp cận theo chủ đề.
    – Quy trình điêu khắc – nghệ thuật tạo hình không gian.
    I. Mục tiêu của bài học:
    Trong và sau khi học xong bài này học sinh học đạt đựợc.
    – HS nhận ra đặc điểm riêng, sự cân đối của các bộ phận trên khuôn mặt.
    – Học sinh thể hiện đƣợc tranh chân dung tự họa bằng nhiều hình thức và các
    chất liệu khác nhau.
    – Giới thiệu nhận xét và nêu đƣợc cảm nhận về sản phẩm của mình, của bạn.
    II. Phƣơng pháp và hình thức tổ chức
    – Phƣơng pháp góc, trực quan, vấn đáp, gợi mở, thực hành…
    – Hình thức tổ chức: Hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm.
    III. Đồ dùng và phƣơng tiện
    Giáo viên chuẩn bị:
    – Máy chiếu, sách giáo khoa, màu vẽ, giấy vẽ, kéo, hồ…
    20
    – Hình ảnh sƣu tầm tranh chân dung phù hợp với nội dung chủ đề.
    – Sản phẩm của học sinh về tranh chân dung tự họa.
    – Phiếu học tập và thẻ hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ học tập.
    Học sinh chuẩn bị:
    – SGK MT 5.
    – Giấy, bút, màu, dụng cụ vẽ, keo dán, bìa, gƣơng, ảnh chân dung, vật liệu tìm
    đƣợc…
    – Sƣu tầm hình ảnh chân dung trên sách báo, tạp chí…
    IV. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ YẾU
    Khởi động
    – Tổ chức trò chơi: “Đoán tâm trạng qua biểu hiện trên khuôn mặt”.
    – Cách tổ chức: Giáo viên mời 4 – 5 học sinh lên chơi trò chơi. Mỗi học sinh tự
    thể hiện các tâm trạng, cảm xúc của cá nhân: vui, buồn, tức giận,…
    + Những học sinh khác quan sát và nêu tên biểu cảm trên khuôn mặt mà bạn
    vừa biểu hiện.
    – HS khác nhận xét, đánh giá.
    – GV chốt và dẫn vào bài mới.
    Hoạt động 1: Giới thiệu bài mới.
    Hoạt động 2: Giới thiệu nội dung bài học, phƣơng pháp và nhiệm vụ học
    tập.

    Hoạt động của GVHoạt động của HSThiết bị,
    đồ dùng
    dạy học
    – GV giới thiệu nội dung bài học (mục tiêu,
    nhiệm vụ của các góc, thời gian mỗi góc:
    10 phút – 12 phút) chiếu trên màn hình và
    dán ở các góc, cho học sinh tự lựa chọn
    – Lắng nghe để biết cách
    học tập.
    Máy chiếu

    21

    góc theo phong cách học của bản thân.
    – GV nêu nội dung và yêu cầu của bài học
    thông qua nhiệm vụ, phƣơng tiện, đồ dùng
    học tập tại các góc:
    * Góc 1: Trải nghiệm.
    Nhiệm vụ: Bằng sự hiểu biết và quan sát
    chân dung thông qua thực tế, em hãy thể
    hiện một bức tranh chân dung tự họa bằng
    hình thức, chất liệu em yêu thích.
    * Góc 2: Phân tích – Áp dụng.
    Nhiệm vụ: + Quan sát một số hình ảnh sƣu
    tầm và sơ đồ các bƣớc tạo hình (vẽ/nặn/xé
    dán/cắt dán) chân dung tự họa trên trực
    quan.
    + Phân tích đặc điểm tranh chân dung tự
    họa, các bƣớc tạo hình tranh chân dung tự
    họa trên sơ đồ và tranh minh họa trong
    sách giáo khoa để nắm đƣợc cách tạo hình
    tranh chân dung.
    + Áp dụng các bƣớc tạo hình trên sơ đồ và
    tự tạo hình một chân dung theo ý thích.
    Lƣu ý: Không tạo hình giống với hình ảnh
    các chân dung ở trực quan.
    * Góc 3: Quan sát – Thực hành.
    Nhiệm vụ: Quan sát chân dung trƣớc mặt
    và nhận xét về hình dạng khuôn mặt, cấu
    trúc, kích thƣớc, sự cân đối, đối xứng qua
    – Quan sát và nêu nội
    dung nhiệm vụ tại mỗi
    góc.

    22

    trục dọc của các bộ phận trên khuôn mặt và
    nhận xét về hình thức vẽ, chất liệu vẽ, bố
    cục, màu sắc đƣợc thể hiện trong tranh;
    đồng thời suy nghĩ về tác dụng của chân
    dung trong cuộc sống.
    + Hãy tự tạo hình một tranh chân dung
    biểu cảm.
    – GV vận động học sinh ngồi vào các góc
    cho cân đối về số lƣợng.
    – GV quan sát.
    – GV hƣớng dẫn học sinh luân chuyển đến
    góc 4.
    * Góc 4: Góc tạm nghỉ. Dành cho những
    học sinh hoàn thành xong nhiệm vụ của
    mình ở các góc 1, 2, 3 trƣớc thời gian cho
    phép. Các em có thể di chuyển đến góc 4 để
    vừa học vừa chơi.
    – HS chọn góc phù hợp
    phong cách học và ngồi
    vào vị trí góc đã chọn.
    – HS thực hành.
    – HS nào làm xong nhiệm
    vụ ở góc 1, 2, 3. HS luân
    chuyển đến góc 4 để sáng
    tạo sản phẩm của mình.

    Hoạt động 3: Tổ chức học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập các góc.
    Góc 1: trải nghiệm.
    Nhiệm vụ: Bằng sự hiểu biết và quan sát chân dung thông qua thực tế, em hãy
    thể hiện một bức tranh chân dung tự họa bằng hình thức, chất liệu em yêu thích.
    – Thời gian: 10 phút – 12 phút.

    Hoạt động của giáo viênHoạt động của học sinhThiết bị,
    đồ dùng

    23

    DH
    – GV giới thiệu các thẻ hỗ
    trợ.
    – Phần tạo hình chân dung:
    + Thẻ màu đỏ: Gợi ý cách
    tạo hình chân dung.
    + Thẻ màu vàng: Gợi ý hình
    minh họa các bƣớc tạo hình
    chân dung.
    – Phần tô màu:
    + Thẻ màu hồng: Gợi ý lựa
    chọn màu sắc.
    + Thẻ màu xanh: Một số
    tranh chân dung.
    – GV quan sát, trợ giúp, gợi
    ý trực tiếp khi học sinh cần.
    – HS nhớ lại những hình ảnh chân dung
    và các chân dung đã đƣợc nhìn thấy.
    – HS quan sát chân dung trƣớc mặt.
    – HS hãy quan sát mẫu vẽ và vẽ bức tranh
    chân dung theo sự hiểu biết và ý thích
    của bản thân.
    – HS sử dụng thẻ hỗ trợ khi cần.
    – Giấy
    A5, bút
    chì, màu,
    kéo, hồ.
    – Thẻ hỗ
    trợ.

    Góc 2: Phân tích –áp dụng
    Nhiệm vụ:
    – Quan sát một số hình ảnh sƣu tầm và sơ đồ các bƣớc tạo hình (vẽ/nặn/xé
    dán/cắt dán) chân dung tự họa trên trực quan.
    – Phân tích đặc điểm tranh chân dung tự họa, các bƣớc tạo hình tranh chân dung
    tự họa và tranh minh họa trong sách giáo khoa để nắm đƣợc cách tạo hình tranh chân
    dung.
    – Áp dụng các bƣớc tạo hình và tự tạo hình một chân dung theo ý thích.
    Lƣu ý: Không tạo hình giống với hình ảnh các chân dung ở trực quan.
    – Thời gian: 10 phút – 12 phút.
    24

    Hoạt động của giáo viênHoạt động của học sinhThiết bị,
    đồ dùng
    DH
    – GV quan sát HS thực hiện
    nhiệm vụ và hỗ trợ, gợi mở
    kịp thời.
    – HS quan sát hình ảnh trực quan và
    các bƣớc tạo hình chân dung.
    Hình ảnh các bƣớc tạo hình chân dung
    – HS hãy phân tích đặc điểm tranh chân
    dung tự họa, các bƣớc tạo hình tranh
    chân dung tự họa và tranh minh họa
    trong sách giáo khoa để nắm đƣợc cách
    tạo hình tranh chân dung.
    – HS hãy áp dụng các bƣớc tạo hình và
    tự tạo hình một chân dung theo ý thích.
    – HS sử dụng thẻ hỗ trợ khi cần.
    – Hình ảnh
    chân dung
    sƣu tầm.
    – Sơ đồ
    các bƣớc
    tạo hình
    chân
    dung.
    – Giấy A5,
    bút chì,
    màu vẽ,
    kéo, hồ…
    – Thẻ hỗ
    trợ.

    Góc 3: Quan sát –thực hành
    Nhiệm vụ: Quan sát một số chân dung trƣớc mặt và nhận xét về hình dạng
    khuôn mặt, cấu trúc, kích thƣớc, sự cân đối, đối xứng qua trục dọc của các bộ phận
    trên khuôn mặt và nhận xét về hình thức vẽ, chất liệu vẽ, bố cục, màu sắc đƣợc thể
    hiện trong tranh; đồng thời suy nghĩ về tác dụng của chân dung trong cuộc sống.
    – Hãy tự tạo hình một tranh chân dung theo ý thích.
    – Thời gian: 10 phút – 12 phút.
    25

    Hoạt động của giáo
    viên
    Hoạt động của học sinhThiết bị, đồ
    dùng dạy học
    – GV tổ chức học sinh
    thực hiện nhiệm vụ.
    – GV quan sát, gợi
    mở, phát hiện khó
    khăn để hƣớng dẫn,
    hỗ trợ HS kịp thời.
    Nhắc nhở thời gian
    để HS hoàn thành
    nhiệm vụ và chuẩn bị
    luân chuyển góc.
    – HS quan sát chân dung trƣớc mặt.
    – HS nhận xét về hình dạng khuôn mặt, bố
    cục, đối xứng qua trục dọc của bộ phận trên
    khuôn mặt của mẫu.
    – HS nhận xét về hình thức vẽ, chất liệu , bố
    cục, màu sắc đƣợc thể hiện trong tranh.
    – Suy nghĩ tác dụng của tranh chân dung
    trong cuộc sống.
    – HS sử dụng thẻ hỗ trợ khi cần.
    – HS hãy tạo hình một bức tranh chân dung
    theo ý thích.
    – HS sử dụng thẻ hỗ trợ khi cần.
    – Một số chân
    dung khác
    nhau về hình
    dáng, kích
    thƣớc, cách sử
    dụng họa tiết
    màu sắc. Giấy
    A5, bút chì,
    màu vẽ. Thẻ
    hỗ trợ.

    Góc 4: Tạm nghỉ
    26
    Nhiệm vụ: HS xem một số kiểu dáng chân dung bằng bìa cứng. Hãy chọn các
    bộ phận trên khuôn mặt đã cắt sẵn để gắn vào những “chân dung” đã cắt bằng bìa
    cứng trên bàn thể hiện các biểu cảm khác nhau, tô màu theo ý thích. Sau đó làm
    khung tranh bằng bìa cứng cho sản phẩm của mình.

    Hoạt động của giáo
    viên
    Hoạt động của học sinhThiết bị,
    đồ dùng
    DH
    – GV tổ chức học sinh
    “tạm nghỉ” thông qua
    hoạt động gắn bộ phận
    trên khuôn mặt và tô
    màu vào hình chân
    dung bằng bìa cứng.
    Làm khung tranh cho
    sản phẩm.
    – HS xem một số kiểu dáng chân dung bằng
    bìa cứng.
    – HS lựa chọn hình chân dung bằng bìa cứng
    cho trƣớc. HS lựa chọn thêm các bộ phận trên
    khuôn mặt bằng bìa cứng, thể hiện các cảm
    xúc của con ngƣời dán vào khuôn mặt bằng
    bìa cứng và tô màu theo ý thích vào mô hình
    chân dung bằng bìa trên bàn. Sau đó HS cắt
    bìa cứng làm khung tranh cho sản phẩm của
    mình.
    – Một số
    kiểu dáng
    chân dung
    bằng bìa
    cứng.

    Hoạt động 4 : Củng cố bài học

    Hoạt động của giáo viênHoạt động của học sinhThiết bị,
    đồ dùng
    DH

    27

    – GV tổ chức Hs đánh giá trƣớc
    lớp:
    + Đặc điểm của tranh chân dung.
    Đặc điểm riêng và sự cân đối của
    các bộ phận trên khuôn mặt.
    + Cách vẽ, cắt hoặc xé dán chân
    dung.
    – GV hƣớng dẫn Hs đánh giá, nhận
    xét, nêu cảm nhận của bản thân về
    bài vẽ của các nhóm và một số cá
    nhân ở mức độ hoàn thành và chƣa
    hoàn thành, theo các yếu tố: bố cục,
    sắp xếp họa tiết, màu sắc, đậm
    nhạt.
    – Tổng kết trên cơ sở đánh giá và
    trình bày của HS. Kết thúc bài học.
    – HS trình bày những kiến thức
    học đƣợc từ các góc và hiểu
    biết về chân dung trong cuộc
    sống theo gợi mở của GV.
    – HS nhận xét kết quả tạo hình
    tranh chân dung của các nhóm
    và một số cá nhân theo hƣớng
    dẫn của GV.
    – Kết quả
    học tập của
    các nhóm
    tại góc cuối
    cùng.

    * So sánh:
    Sau khi ứng dụng giải pháp 1 vào chủ đề 1: Chân dung tự họa – Lớp 5.
    Thành quả sản phẩm khi chƣa ứng dụng dạy học theo góc và sau khi ứng dụng
    dạy học theo góc:
    Sản phẩm chƣa ứng dụng theo góc
    28
    Sản phẩm ứng dụng theo góc
    Học sinh học theo phƣơng pháp truyền thống khi chƣa ứng dụng dạy học theo
    góc sản phẩm của học sinh chỉ vẽ trên giấy chƣa có sự sáng tạo, tìm tòi, bài vẽ chƣa
    đƣợc đẹp, gò bó, sao chép nhiều, thƣờng xuyên tẩy xóa.
    Sản phẩm học theo ứng dụng theo góc đa dạng về chất liệu, nổi trội, bố cục
    đẹp, rất sáng tạo.
    Từ kết quả trên cho thấy ứng dụng dạy học theo góc ở môn Mĩ thuật học sinh
    biết nhận xét cái đẹp và chƣa đẹp một cách rõ ràng trên bài vẽ. Biết tạo ra sản phẩm
    đẹp trang trí lớp. Đặt biệt học sinh rất yêu thích môn Mĩ thuật hơn, vẽ một cách say
    sƣa hơn, hứng thú hơn tạo ra nhiều sản phẩm tạo hình sáng tạo, khiến cho tiết học trở
    nên thoải mái, nhẹ nhàng. Quan trọng hơn cả là các em thấy tự tin khi vẽ, tạo hình
    mang hiệu quả bất ngờ.
    2.3.2 Giải pháp 2
    GIÁO ÁN MĨ THUẬT LỚP 3
    CHỦ ĐỀ 8: TRÁI CÂY BỐN MÙA
    * Những kiến thức HS đã nắm đƣợc:
    – Phƣơng pháp góc.
    – Nhận biết đƣợc đặc điểm về hình dáng và vẻ đẹp của một số loại trái cây quen
    thuộc.
    – Sáng tạo các hình tƣợng khác nhau từ các hình khối cơ bản.
    – Vẽ, nặn hoặc xé dán, tạo hình một vài loại trái cây theo ý thích.
    29
    I. Mục tiêu của bài học:
    Trong và sau khi học xong bài này học sinh học đạt đựợc.
    – HS nắm đƣợc đặc điểm, vẻ đẹp và sự cân đối về hình dáng, sự phong phú về
    cấu trúc, màu sắc của trái cây.
    – HS vẽ, cắt, hoặc xé dán, tạo hình đƣợc trái cây theo ý thích.
    – Giới thiệu nhận xét và nêu đƣợc cảm nhận về sản phẩm của mình, của bạn.
    II. Phƣơng pháp và hình thức tổ chức
    – Phƣơng pháp góc, trực quan, vấn đáp, gợi mở, thực hành ….
    – Hình thức tổ chức: Hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm.
    III. Đồ dùng và phƣơng tiện
    Giáo viên chuẩn bị:
    – Sách giáo khoa, màu vẽ, giấy vẽ, kéo, hồ…
    – Hình ảnh sƣu tầm tranh trái cây.
    – Một vài loại trái cây thật có hình dáng, kích thƣớc, màu sắc khác nhau.
    – Sản phẩm của học sinh về trái cây.
    – Phiếu học tập và thẻ hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ học tập.
    – Máy chiếu.
    Học sinh chuẩn bị:
    – SGK MT 3.
    – Giấy, bút, màu, keo dán, đất nặn, cốc, thìa nhựa,…
    – Sƣu tầm hình ảnh trái cây trên sách báo, tạp chí,…
    IV. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ YẾU
    Khởi động
    – Tổ chức cho HS chơi trò chơi: “chiếc hộp bí mật”
    – Chuẩn bị: GV chuẩn bị một hộp kín đựng một số trái cây quen thuộc. Trên
    nắp hộp khoét một ô nhỏ để lấy quả ra ngoài. (Số trái cây phải nhiều hơn số nhóm
    trong lớp)
    30
    – Tiến hành: Đại diện HS của từng nhóm dùng tay cảm nhận, đoán tên trái cây
    mà HS nắm đƣợc, sau đó lấy quả ra khỏi hộp. Nếu đoán đúng sẽ đƣợc mang trái cây
    đó về để làm mẫu cho nhóm của mình.
    – Sau khi tổ chức cho HS tham gia trò chơi, GV khuyến khích HS đoán tên bài
    học và giới thiệu chủ đề: “Trái cây bốn mùa”.
    Hoạt động 1: Giới thiệu bài mới.
    Hoạt động 2: Giới thiệu nội dung bài học, phƣơng pháp và nhiệm vụ học
    tập.

    Hoạt động của GVHoạt động của HSThiết bị,
    đồ dùng
    DH
    – GV tổ chức cho HS thành lập nhóm học
    tập.
    – GV giới thiệu nội dung bài học (mục tiêu,
    nhiệm vụ của các góc, thời gian mỗi góc:
    10 phút – 12 phút) chiếu trên màn hình và
    dán ở các góc, cho học sinh tự lựa chọn
    góc theo phong cách học của bản thân.
    – GV nêu nội dung và yêu cầu của bài học
    thông qua nhiệm vụ, phƣơng tiện, đồ dùng
    học tập tại các góc:
    * Góc 1: Trải nghiệm.
    Nhiệm vụ: Bằng sự hiểu biết và quan sát
    trái cây thông qua thực tế, em hãy tập tạo
    dáng bằng cách vẽ, cắt hoặc xé dán, nặn
    một vài trái cây theo ý thích.
    * Góc 2: Phân tích – Áp dụng.
    – HS tạo nhóm học tập
    theo ngẫu nhiên.
    – Lắng nghe để biết cách
    học tập.
    – Quan sát và nêu nội
    dung nhiệm vụ tại mỗi
    góc.
    Máy chiếu

    31

    Nhiệm vụ: + Quan sát một số hình ảnh sƣu
    tầm và sơ đồ các bƣớc tạo hình trái cây
    trên trực quan.
    + Phân tích đặc điểm hình dáng, cấu trúc,
    kích thƣớc một vài trái cây trên trực quan
    và nhận xét đặc điểm, màu sắc trái cây.
    + Áp dụng các bƣớc tạo dáng, trang trí trên
    sơ đồ và các em hãy tự tạo dáng trái cây
    theo ý thích.
    Lƣu ý: Không tạo dáng và trang trí hình
    ảnh các loại quả ở trực quan.
    * Góc 3: Quan sát – Thực hành.
    Nhiệm vụ: Quan sát một vài trái cây trƣớc
    mặt và nhận xét về hình dáng, kích thƣớc,
    cấu trúc, màu sắc trái cây, đồng thời suy
    nghĩ về tác dụng của trái cây trong cuộc
    sống.
    + HS hãy tự nặn trái cây theo ý thích.
    – GV vận động học sinh lựa chọn góc xuất
    phát. Hƣớng dẫn HS luân chuyển góc.
    – GV giới thiệu luôn góc 4 cho HS biết.
    * Góc 4: Góc tạm nghỉ. Dành cho những
    học sinh hoàn thành xong nhiệm vụ của
    mình ở các góc 1, 2, 3 trƣớc thời gian cho
    phép. Các em có thể di chuyển đến góc 4
    để vừa học vừa chơi.
    – HS chọn góc phù hợp
    phong cách học và ngồi
    vào vị trí góc đã chọn.
    – HS lắng nghe.

    32
    Hoạt động 3: Tổ chức học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập các góc.
    Góc 1: trải nghiệm.
    Nhiệm vụ: Bằng sự hiểu biết và quan sát chân dung thông qua thực tế, em hãy
    tập tạo dáng bằng cách vẽ, cắt hoặc xé dán, nặn một vài trái cây theo ý thích.
    – Thời gian: 10 phút – 12 phút.

    Hoạt động của giáo viênHoạt động của học sinhThiết bị,
    đồ dùng
    DH
    – GV giới thiệu các thẻ hỗ
    trợ.
    – Phần tạo hình trái cây:
    + Thẻ màu đỏ: Gợi ý cách
    tạo hình trái cây.
    + Thẻ màu vàng: Gợi ý
    hình minh họa các bƣớc
    tạo hình trái cây.
    – Phần tô màu:
    + Thẻ màu hồng: Gợi ý
    lựa chọn màu sắc.
    + Thẻ màu xanh: Một số
    tranh các loại quả.
    – GV quan sát, trợ giúp,
    gợi ý trực tiếp khi học sinh
    cần.
    – HS nhớ lại những hình ảnh các loại trái
    cây và các loại trái cây đã đƣợc nhìn thấy.
    – HS quan sát hình ảnh trái cây trƣớc mặt.
    Hình ảnh các loại trái cây
    – HS hãy quan sát hình ảnh các loại quả và
    vẽ bức tranh trái cây theo ý thích của bản
    thân.
    – HS sử dụng thẻ hỗ trợ khi cần.
    – Giấy
    A4, bút
    chì, màu,
    kéo, hồ.
    – Thẻ hỗ
    trợ.

    Góc 2: Phân tích – áp dụng
    Nhiệm vụ: Quan sát một số hình ảnh sƣu tầm và các bƣớc tạo dáng trái cây trên
    trực quan.
    33
    – Phân tích đặc điểm hình dáng, cấu trúc, kích thƣớc một vài trái cây trên trực
    quan và nhận xét đặc điểm, màu sắc trái cây.
    – Áp dụng các bƣớc tạo dáng và các em hãy tự tạo dáng trái cây theo ý thích.
    Lƣu ý: Không tạo dáng và trang trí hình ảnh các loại quả ở trực quan.
    – Thời gian: 10 phút – 12 phút.

    Hoạt động của
    giáo viên
    Hoạt động của học sinhThiết bị,
    đồ dùng
    DH
    – GV quan sát
    HS thực hiện
    nhiệm vụ và hỗ
    trợ, gợi mở kịp
    thời.
    – HS quan sát một số sản phẩm một số các loại quả.
    – Sau đó các em quan sát các bƣớc tạo hình vẽ quả
    xoài.
    Các bƣớc vẽ quả xoài
    – HS hãy phân tích đặc điểm hình dáng, cấu trúc, kích
    thƣớc một vài trái cây trên trực quan và nhận xét đặc
    điểm, màu sắc trái cây.
    – HS hãy áp dụng các bƣớc tạo hình trên sơ đồ vẽ quả
    xoài và các em hãy tự tạo hình một bức tranh trái cây
    – Hình ảnh
    một số sản
    phẩm các
    loại quả.
    – Sơ đồ
    các bƣớc
    tạo hình
    vẽ quả
    xoài.
    – Giấy A4,
    bút chì,
    màu vẽ,
    kéo, hồ…
    – Thẻ hỗ
    trợ.

    34

    theo ý thích.
    – HS sử dụng thẻ hỗ trợ khi cần.

    Góc 3: Quan sát – thực hành
    Nhiệm vụ: Quan sát một vài trái cây trƣớc

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Biện pháp giúp học sinh tiểu học phát triển năng lực sáng tạo Mĩ thuật

    SKKN Biện pháp giúp học sinh tiểu học phát triển năng lực sáng tạo Mĩ thuật

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ và đồng
    bộ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục, đào tạo
    theo hướng coi trọng phát triển năng lực và phẩm chất của người học… Trên cơ
    sở xác định đúng, trúng mục tiêu đổi mới giáo dục, đào tạo, công khai mục tiêu,
    chuẩn “đầu vào”, “đầu ra” của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và
    chuyên ngành đào tạo thì việc tiếp theo là đổi mới chương trình khung các môn
    học và nội dung của nó theo hướng phát triển mạnh năng lực và phẩm chất
    người học, đảm bảo hài hòa về đức, trí, thể, mỹ; thực hiện tốt phương châm
    mới: Dạy người, dạy chữ và dạy nghề (trước đây là dạy chữ, dạy người, dạy
    nghề)”. Do vậy, việc giáo dục thẩm mỹ cho học sinh tiểu học là vô cùng cần
    thiết. Thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới 2018, môn Mỹ thuật
    được xem là một phương tiện giáo dục quan trọng trong việc giáo dục thẩm mỹ
    cho học sinh. Ngoài việc cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản Mỹ
    thuật phổ thông còn giúp các em hiểu biết về cái đẹp. Thông qua môn Mỹ thuật,
    các em sẽ được trang bị một số kỹ năng cơ bản về hội hoạ, tiếp thu nhiều tinh
    hoa của nền mỹ thuật dân tộc. Từ đó phát huy óc sáng tạo và tính thẩm mỹ góp
    phần phát triển năng khiếu, phát hiện tài năng và bồi dưỡng nhân tài cho đất
    nước. Trong xã hội phát triển hiện nay thì nhu cầu thẩm mỹ ngày càng cao. Với
    mục tiêu đào tạo con người hiểu về vẻ đẹp, biết cảm thụ cái đẹp và hiểu về nền
    thẩm mĩ truyền thống, thẩm mĩ hiện đại…, các đơn vị, các công ty và các cơ sở
    giáo dục ngày càng có nhiều sân chơi bổ ích dành cho các em, như sân chơi: “Ý
    tưởng trẻ thơ” do công ty HonDa phối hợp với Bộ giáo dục & đào tạo tổ chức;
    “Chiếc ô tô mơ ước” do công ty ToYoTa phối hợp với Bộ giáo dục và đào tạo
    tổ chức; giao lưu vẽ tranh An toàn giao thông; vẽ tranh về biển đảo, vẽ tranh về
    Bác Hồ; giao lưu phát triển năng lực học sinh do Sở giáo dục & đào tạo tổ chức,
    vẽ tranh trên báo Văn tuổi thơ – Toán tuổi thơ vv…Với môn Mỹ thuật, học sinh
    không những chỉ dừng lại ở vẽ tranh mà các em còn được học các quy trình điêu
    khắc – nghệ thuật tạo hình không gian trong các tiết học… Đây là cơ hội để các
    em được thể hiện khả năng hội họa của mình qua tranh vẽ và sản phẩm 2d, 3d
    với các chất liệu tìm được. Đồng thời giúp các em có ý tưởng sáng tạo để trang
    trí lớp học, bổ sung các kiến thức môn học Toán, tiếng Việt, Lịch sử tạo thành
    mô hình giúp các em nắm sâu kiến thức, góp phần xây dựng một đất nước hiện
    đại, giàu đẹp và văn minh.
    Xuất phát từ lí do trên, là người giáo viên dạy Mĩ thuật, tôi luôn mong với
    kiến thức của mình có thể giúp các em nhìn nhận và thể hiện cái đẹp thông qua
    các bài vẽ làm sao cho đúng, đẹp, nghệ thuật. Và giúp các em tìm hiểu thêm về
    những cảnh thiên nhiên mà các em thấy được từ thực tế, từ những cuộc đi tham
    quan những danh lam thắng cảnh muôn màu, muôn vẻ vốn có từ trên mọi miền
    đất nước, cũng như những cảnh vật xung quanh nơi các em sinh sống và học tập.
    3
    Đồng thời mong muốn có thể truyền cảm hứng để có nhiều học sinh yêu thích vẽ
    tranh và nhiều học sinh vẽ được những bức tranh nghệ thuật và độc đáo.
    Sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, hướng dẫn cũng như tự rút kinh nghiệm
    cho chính bản thân mình, tôi đã chính thức áp dụng các biện pháp trong những
    năm học vừa qua và đã đạt được những hiệu quả nhất định ở nhà trường nơi tôi
    đang công tác. Tôi xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp mà bản thân tôi đã áp
    dụng trong công tác bồi dưỡng, hướng dẫn học sinh vẽ tranh qua sáng kiến: “Biện
    pháp giúp học sinh Tiểu học phát triển năng lực sáng tạo mĩ thuật”.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    a. Ưu điểm:
    Nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện về cơ sở vật chất nhằm thúc đẩy sự
    phát toàn diện về mọi mặt cho học sinh. Ban giám hiệu luôn khuyến khích giáo
    viên về việc thiết kế, cải tạo đồ dùng dạy học trong quá trình giảng dạy; bố trí
    tạo điều kiện về thời gian tập trung bồi dưỡng, hướng dẫn học sinh vẽ tranh.
    Nhiều học sinh được sự quan tâm của gia đình, cha mẹ học sinh tích cực đầu tư
    các công cụ phương tiện để các con học môn Mỹ thuật. Đa số học sinh yêu thích
    môn học này nên cũng thuận lợi cho giáo viên bồi dưỡng kĩ năng, giúp các em
    có khả năng vẽ tốt hơn.
    b. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế:
    Trước đây khi công nghệ thông tin chưa phát triển, việc sưu tầm đồ dùng
    tranh ảnh còn hạn chế rất nhiều. Và mỗi khi có các cuộc thi được các cấp tổ
    chức thì việc định hướng và chọn nội dung phân loại rõ các chủ đề cho các em
    gặp rất nhiều khó khăn. Hầu như giáo viên và học sinh tự mày mò, tự sáng tác,
    thiếu thông tin và hình ảnh để tham khảo. Chính vì vậy mà các em thường vẽ
    chưa đạt yêu cầu chủ đề.
    Bản thân tôi tuổi nghề còn trẻ nên kinh nghiệm trong công tác giảng dạy
    còn hạn chế, sự động viên khích lệ học sinh đôi lúc chưa được kịp thời dẫn đến
    một số bài vẽ chưa có tính sáng tạo, màu sắc chưa được đẹp, nội dung không
    được phong phú. Các em cảm thấy mơ hồ và chưa thực sự hứng thú vẽ tranh
    cũng như tham gia các cuộc thi, hầu như các em nhìn bài nhau để vẽ lại, bắt
    chước bài vẽ của bạn, vẽ sai chủ đề yêu cầu, các sản phẩm tạo hình còn đơn
    điệu. Các em nộp bài chỉ để có số lượng sản phẩm nên chất lượng một số bài vẽ
    chưa cao.
    Một số học sinh có năng khiếu về môn Mĩ thuật, các em rất thích vẽ và tạo
    hình sản phẩm. Nhưng cha mẹ các em lại không tạo điều kiện để cho con em
    mình học vẽ.
    4
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    Tên giải pháp: “Biện pháp giúp học sinh Tiểu học phát triển năng lực sáng
    tạo mĩ thuật ”
    2.1. Biện pháp 1: Hình thành ý tưởng cho một bức tranh
    2.1.1. Mục đích, ý nghĩa và sự cần thiết của biện pháp
    Ý tưởng là động lực, là “tài sản” vô giá để người họa sĩ có thể tạo nên một
    bức tranh. Ý tưởng tốt sẽ giúp cho bức tranh chất lượng, có giá trị nghệ thuật
    cao và ngược lại. Tài năng của một họa sĩ chính là chắt lọc ý tưởng từ những trải
    nghiệm trong thực tế cộng với tư duy sáng tạo. Cuối cùng là thể hiện ý tưởng
    của mình lên tác phẩm bằng cảm xúc và theo một hoặc nhiều phong cách nghệ
    thuật khác nhau. Vì vậy, trong lĩnh vực nghệ thuật, đặc biệt trong vẽ tranh, ý
    tưởng là sự khởi đầu, đồng thời cũng là cốt lõi thẩm mỹ của sự sáng tạo.
    Nếu không có ý tưởng cho một bức tranh, tất cả những kỹ năng vẽ tranh
    sẽ trở nên vô dụng. Ý tưởng và nghệ thuật thể hiện tạo nên phong cách của tác
    phẩm. Một bức tranh thường được bắt đầu từ một ý tưởng hay cảm hứng nảy
    sinh. Để vẽ những gì mình muốn, thì tìm ý tưởng là phần khó nhất trong quá
    trình sáng tạo một bức tranh bởi ý tưởng phải độc đáo, phải là của riêng mình.
    Hơn nữa, chỉ độc đáo thôi chưa đủ. Cái mới sẽ chóng chán nếu thiếu sự nhất
    quán giữa ý tưởng và hình thức.
    2.1.2. Nội dung biện pháp
    Ý tưởng phải bám sát và thỏa mãn nội dung, mục đích nhu cầu sáng tạo,
    nhằm truyền tải thông tin đến người xem bằng những hình ảnh và tín hiệu dễ
    nhận diện, mang lợi ích ứng dụng, thẩm mỹ cho cộng đồng và phù hợp với xu
    thế phát triển thời đại. Ý tưởng từ khi hình thành đến hoàn thiện sản phẩm là quá
    trình chắt lọc, tìm tòi, phác thảo các phương án bố cục bức tranh, không chỉ ở
    phần tạo hình mà kể cả màu sắc, nội dung… Các yếu tố đó phải có tính nhất
    quán và liên kết chặt chẽ với nhau. Ý tưởng giàu tính sáng tạo, nội dung và hình
    thức cô đọng, tính thẩm mĩ cao.
    Hình thành ý tưởng kết hợp sự đam mê hứng thú thì mới cho ra sản phẩm
    độc đáo. Để giúp học sinh yêu thích vẽ tranh và hào hứng tham gia các cuộc thi,
    giáo viên Mĩ thuật phải là người truyền cảm hứng, khơi dậy sự hứng thú và tính
    sáng tạo cho các em, tôn trọng gợi mở để ý tưởng của các em được bộc lộ, bồi
    dưỡng và phát triển các ý tưởng của các em. Có như vậy, các em mới có thể phát
    huy tài năng hội họa của mình và sẽ cho ra nhiều những bức tranh đẹp, sáng tạo
    và nghệ thuật để tham gia các cuộc thi đạt giải cao. Từ những ý tưởng, trong
    nhiều năm qua, tôi đã vận dụng đổi mới phương pháp dạy học, tự tìm tòi, học
    hỏi đồng nghiệp, sách báo và nghiên cứu các tài liệu liên quan đến các cuộc thi
    do PGD&ĐT, SGD&Đ và BGD&ĐT tổ chức để có biện pháp hướng dẫn các em
    vẽ tranh đạt hiệu quả cao. Khi hướng dẫn học sinh ý tưởng vẽ tranh tôi đã làm
    như sau:
    5
    – Thứ nhất: Giáo viên phải dành thời gian cho học sinh được trải nghiệm
    và việc làm này sẽ giúp học sinh tích lũy được kinh nghiệm sau từng giờ, từng
    ngày. Từ sự thường xuyên đó, học sinh sẽ hình thành cho bản thân những ý
    tưởng về nội dung, chủ đề, cách thức sắp xếp bố cục, phối màu và sáng tạo tư
    duy nghệ thuật riêng trong từng tác phẩm.
    Cuộc sống luôn ẩn chứa nhiều điều thú vị và luôn chờ con người khám
    phá, phát hiện. Ý tưởng đến từ cuộc sống bởi qua quá trình sinh hoạt, giao tiếp
    hằng ngày, học sinh sẽ thu về được cho mình những thông tin về mọi vấn đề. Về
    lâu dài, khi kinh nghiệm cuộc sống được tích lũy thì cũng là lúc để những ý
    tưởng được nảy sinh, chín muồi. Tuy nhiên, ý tưởng tốt, ý tưởng hay chỉ có
    được khi học sinh tập cho bản thân thói quen tư duy, quan sát sự vật, hiện tượng
    của cuộc sống xung quanh hằng ngày và dành thời gian để ý tới nó thì thành quả
    sẽ tới với mình.
    – Thứ hai: Phối kết hợp với cha mẹ học sinh để gợi mở thêm các ý tưởng
    cho các em.
    – Thứ ba: Hướng dẫn học sinh ghi lại những ý tưởng trong đầu xuống
    những trang giấy; giúp các em cách hệ thống lại những ý tưởng theo từng nội
    dung, chủ đề để có thể đưa ra lựa chọn phù hợp.
    – Thứ tư: Hướng dẫn học sinh tham khảo thêm các tác phẩm nổi tiếng của
    các họa sĩ trong nước cũng như thế giới, những bức tranh của các bạn học sinh
    khác để các em thấy được sự phong phú đa dạng về phong cách nghệ thuật; việc
    làm này giúp các em đưa ra những ý tưởng hợp với xu hướng thời đại.
    Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh vẽ tranh về các chủ đề tham gia các cuộc
    thi, giáo lưu, tôi đã giúp các em hình thành ý tưởng như sau:
    a. Với cuộc thi “Ý tưởng trẻ thơ” do công ty HONDA phối hợp với Bộ
    giáo dục và đào tạo tổ chức
    Đây là một sân chơi thú vị dành cho các em được diễn ra vào tháng 4 đến
    tháng 8 hàng năm. Mục đích cuộc thi là giúp các em phát huy trí tượng tượng,
    sáng tạo để trở thành một nhà phát minh tý hon. Cuộc thi mở rộng với mọi vấn
    đề trong xã hội, những ý tưởng của các em phải mang tính chuyển động mới lạ
    và làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Để giúp các em hiểu rõ về mục đích cuộc thi,
    giúp các em vẽ đúng yêu cầu, tôi đã chia làm 6 đề tài:
    * Đề tài về công nghiệp
    Tôi cho học sinh tham quan các xưởng chế tạo cơ khí ở khu công nghiệp tại
    xã Xuân Tiến để các em được tận mắt trải nghiệm; gợi mở để học sinh sáng tạo
    ra những cỗ máy, bộ máy thần kỳ giúp sản xuất được nhiều sản phẩm đẹp thân
    thiện với môi trường không gây ô nhiễm, độc hại cho con người.
    Sáng chế ra các nhà máy hiện đại ở trên không hoặc ở dưới lòng đại dương,
    dưới lòng đất, trên sa mạc mà không gây hại cho môi trường.
    6
    * Đề tài về nông nghiệp
    Cho học sinh tham quan, xem máy gặt lúa của bà con nông dân. Tham khảo
    trải nghiệm trên ti vi, mạng Internet về những phát minh máy móc giúp bà con
    nông dân trong sản xuất.
    Gợi mở để học sinh nghĩ ra các loại máy nông nghiệp thông minh giúp các
    bác nông dân vừa có thể chăm sóc cây xanh, vừa có thể thu hoạch được…
    Phát minh ra những máy móc, con rô bốt có khả năng thu hút được những
    con côn trùng, chuột, sâu, ốc gây hại cho mùa màng để biến chúng thành phân
    bón cho cây…
    Phát minh các loại máy hái khử độc và chế biến hoa quả…
    * Đề tài về giáo dục và đào tạo
    Tôi gợi mở để học sinh nghĩ ra các đồ dùng học tập hỗ trợ cho các em hoc
    dễ hiểu, dễ nhớ hơn: cặp sách thông minh, bút thông minh, bàn học thông minh,
    bảng thông minh, robot dạy học thông minh,…
    Mô hình trường học thông minh (hiện đại) an toàn, sạch vi khuẩn, lớp học
    thông minh, nhà vệ sinh thông minh…
    * Đề tài về Y tế
    Tôi gợi mở để học sinh phát minh ra những chiếc áo thông minh, các loại
    xe hiện đại khám chữa bệnh cho người nghèo, ung thư,…
    Mô hình bệnh viện thông minh…
    * Đề tài về Môi trường
    Tôi gợi mở để học sinh phát minh ra các loại máy thông minh có thể diệt
    mọi vi khuẩn có hại.
    Các loại ô tô chăm sóc và bảo vệ trái đất.
    Các loại máy làm biến đổi khí hậu.
    Các cỗ máy với hình dạng khác nhau có thể làm sạch biển, sông hồ.
    Các loại máy chống và ngăn ngừa động đất, sóng thần.
    Các loại robot có thể phát hiện thiên tai và có khả năng chăm sóc môi trường.
    * Đề tài về Giao thông
    Các loại phương tiện ô tô, xe máy thân thiện môi trường không xả thải,
    chạy bằng năng lượng: mặt trời, gió, nước, điện với nhiều chức năng hiện đại
    không gây tai nạn và có khả năng tự lái.
    Các loại xe chuyên dụng: xe cứu hỏa thông minh, xe cứu hộ cứu nạn thông
    minh có khả năng biết bay và đi được dưới nước, dưới mọi địa hình.
    Các loại mũ bảo hiểm siêu thông minh.
    Cảnh sát rô bót điều hòa giao thông.
    7
    Đèn giao thông thông minh; Cầu thông minh.
    Máy bay siêu hiện đại không gây tai nạn.
    Trạm sửa chữa máy bay trên không.
    Tàu thuyền thân thiện môi trường không bị chìm.
    * Đề tài về Khoa học viễn tưởng
    Tôi gợi mở để học sinh nghĩ ra các loại ô tô, xe máy có thể bay lên bầu trời.
    Các con hãy nghĩ ra những chiếc ô tô có thể khám khá dứơi lòng đại
    dương, lòng đất và bảo vệ các sinh vật ở đó.
    Các con hãy nghĩ ra các mô hình nhà ở dưới nước, trên các hành tinh…
    * Đề tài về các nội dung khác
    Tôi gợi mở để học sinh nghĩ ra các loại máy chế biến thực phẩm nhanh
    chóng, an toàn khi ăn; các con robot giúp mẹ thu dọn nhà cửa, trông em, trông
    nhà, bắt chuột, trông trộm; Robot bắt trộm, bắt chuột…
    Kính thông minh dành cho bà, cho mẹ, cho chị giúp sáng mắt.
    Các loại xe dành cho ngườ khuyết tật…
    b. Với cuộc thi “Chiếc ô tô mơ ước” do công ty TOYOTA phối hợp với
    Bộ giáo dục và đào tạo tổ chức
    Đây cũng là một sân chơi thú vị dành cho các em được diễn ra vào tháng
    01 đến tháng 6 hàng năm. Cuộc thi giúp các em phát huy trí tượng tượng, sáng
    tạo mong muốn để trở thành một nhà phát minh tý hon. Cuộc thi vẽ về ô tô là
    chính, các em phải sáng tạo ra những chiếc ô tô hiện đại mà mình mơ ước.
    Tương tự như cuộc thi “Ý tưởng trẻ thơ” tôi cũng phải phân loại công dụng của
    các loại xe cho các em:
    * Các loại xe chuyên dụng
    – Xe cứu hỏa, cứu nạn thông minh.
    – Các loại xe hiện đại làm sạch môi trường.
    * Các xe du lịch
    – Xe chở khách thông minh nhiều tiện nghi, an toàn tuyệt đối.
    – Xe du lịch khám khá các hành tinh. Xe du lịch có thể biết bay và di
    chuyển dưới nước, trong lòng đất.
    Và đặc biệt các loại xe này phải chạy bằng năng lượng sạch, có chức năng
    không cần người lái an toàn cho người đi trên xe.
    c. Với các chủ đề vẽ tranh trong nội dung chương trình
    – Dựa vào chủ đề của mỗi cuộc thi mà người giáo viên cần xác định rõ các
    nội dung mà các em có thể vẽ:
    8
    – Vẽ về biển đảo: Giáo dục các em về tình yêu tổ quốc, yêu biển đảo quê
    hương: Vẽ các chú bộ đội đang canh gác biển đảo, cảnh các chú đang đi tuần
    kiểm tra biển, cảnh các bạn thăm các chú.
    – Vẽ về Bác Hồ: Giáo dục các em lòng biết ơn yêu quý Bác, sự gần gũi
    của dễ gần của Bác với các bạn thiếu nhi: Bác Hồ với các bạn Thiếu nhi, Bác
    đang xem các bạn múa hát, Bác đang dạy các bạn học bài, Bác đang vui chơi
    cùng các bạn, Bác và các bạn đang ngắm biển đảo.
    – Đề tài trường học: mái trường, thầy cô và bạn bè.
    Mỹ thuật là môn học đòi hỏi sự sáng tạo, tính mới lạ sự kết hợp giữa ý
    tưởng, hình vẽ và màu sắc hợp lý. Không giống với toán học 1+1=2, một bài
    toán phải có kết quả giống nhau. Tranh vẽ thì mỗi em phải có những sản phẩm
    khác nhau. Vì vậy, tôi luôn nhắc nhở các em là mỗi em phải có ý tưởng riêng
    của bản thân mình, không được bắt chước ý tưởng của người khác. Bởi bức
    tranh mình vẽ dù đẹp đến mấy nhưng nó là bài vẽ bắt chước ý tưởng của người
    khác sẽ không được công nhận. Khi các em nêu ra được ý tưởng mà ý tưởng đó
    bị trùng với các bạn hoặc nó đã được vẽ rồi thì giáo viên không được chê ý
    tưởng của các em ngay mà phải nhẹ nhàng động viên khơi dậy các ý tưởng khác
    cho các em để các em mạnh dạn, hứng thú nghĩ ra ý tưởng mới của riêng mình.
    Giáo viên cần lắng nghe, động viên các ý tưởng, sự sáng tạo của các em để các
    em thấy tự tin cố gắng hơn.
    2.2. Biện pháp 2: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào việc
    hướng dẫn học sinh vẽ tranh giúp các em phát triển năng lực sáng tạo mĩ thuật
    2.2.1.Mục đích, ý nghĩa và sự cần thiết của biện pháp
    Sử dụng CNTT trong việc hướng dẫn học sinh vẽ tranh và nâng cao chất
    lượng bài vẽ nhằm phát huy hiệu quả và chất lượng bài vẽ hơn. CNTT cuốn hút
    học sinh vào các hình ảnh trực quan sinh động, những hình ảnh minh họa có sức
    thuyết phục gắn bó với nội dung và làm phong phú hơn hình thức của bức tranh
    theo chủ đề. CNTT là phương tiện dạy học nhằm phát huy tính sáng tạo của học
    sinh không chỉ để minh họa bài dạy mà còn có tác dụng thúc đẩy quá trình nhận
    thức, phát triển tư duy sáng tạo, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Do đó, việc
    sử dụng CNTT đến đâu, thời gian nào đòi hỏi giáo viên cần có sự lựa chọn và
    chuẩn bị chu đáo để kết quả dạy học đạt được yêu cầu đặt ra. Bởi nếu không,
    CNTT chỉ là công cụ thay cho giáo viên sử dụng ĐDDH để minh họa và trình
    bày bằng lời, thay cho viết phấn trên bảng sẽ hạn chế kết quả.
    CNTT giúp giáo viên có điều kiện thu thập thông tin liên quan đến nội
    dung hướng dẫn vẽ tranh một cách dễ dàng nhanh chóng trên các trang Web, các
    kênh thông tin trong và ngoài nước.
    9
    2.2.2. Nội dung biện pháp
    Lựa chọn CNTT trong việc nâng cao chất lượng bài vẽ của học sinh để
    tham dự các cuộc thi vẽ tranh cần có trọng tâm và phải biết chọn lọc hình ảnh
    cần thiết trong quá trình hướng dẫn học sinh. Phải tạo được sự hấp dẫn, chú ý và
    phát huy được tính tích cực trong học tập của các em; kích thích được sự tìm tòi
    sáng tạo, khám phá; phát hiện những tri thức mới cho học sinh. Hướng dẫn học
    sinh tham khảo thêm các chương trình trên Youtobe, Web, VTV6, VTV7 các
    chương trình khéo tay để các em tham khảo cách làm mô hình con vật nhà cửa
    cây cối. Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học môn Mỹ thuật phát huy hiệu
    quả khi thực hiện các hoạt động: Quan sát, nhận xét, phân tích, hướng dẫn học
    sinh vẽ tranh. Và đặc biệt góp phần trong việc tham khảo bổ sung ý tưởng cho
    bài vẽ.
    Với bản thân tôi qua nhiều năm giảng dạy, tôi thấy được việc ứng dụng
    công nghệ thông tin vào môn Mĩ thuật vô cùng hiệu quả như: Giáo viên không
    phải hoạt động nhiều như khi dạy bằng bảng, mà giáo viên có thể dạy bằng giáo
    án điện tử để giúp học sinh có sự thích thú, say mê với tiết học. CNTT giúp khai
    thác tư liệu trên Internet qua tranh ảnh, báo chí; lựa chọn hình ảnh rõ ràng, đẹp
    để tăng tính hấp dẫn, thu hút học sinh. Học sinh tiếp nhận các hình ảnh qua kênh
    thông tin thị giác, kênh thông tin…được cho là có vai trò quan trọng trong các
    giác quan tiếp nhận thông tin, giúp nâng cao chất lượng bài vẽ.
    2.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh cách trình bày và thể hiện ý
    tưởng khi vẽ tranh, tạo hình sản phẩm 2d,3d
    2.3.1. Mục đích, ý nghĩa và sự cần thiết của biện pháp
    Giúp học sinh biết cách trình bày và thể hiện ý tưởng khi vẽ tranh, nặn tạo
    hình 2d, 3d không gian. Giáo viên hướng dẫn, gợi ý cách bố cục bức tranh hợp
    lý, cách chọn hình ảnh chính, hình ảnh phụ và cách sắp xếp các hình ảnh đó sao
    cho hợp lí, cân đối, có trọng tâm, rõ nội dung là vô cùng cần thiết. Tùy theo từng
    bài mà chọn hình ảnh và sắp xếp bố cục cho phù hợp. Nếu không có phân tích,
    gợi ý của giáo viên, học sinh sẽ rất lúng túng khi trình bày và thể hiện ý tưởng.
    2.3.2. Nội dung của biện pháp
    a. Vẽ ý tưởng bằng nét
    Qua quá trình giảng dạy thực tế, tôi thấy các em thường vẽ hình ảnh chính
    rất nhỏ không rõ được ý tưởng chính. Để giúp các em có thể hiểu về ý tưởng và
    cách trình bày xắp xếp ý tưởng hợp lý, tôi khuyến khích, hướng dẫn các em vận
    dụng thông tin tra cứu vào mạng các hình ảnh có liên quan đến chủ đề vẽ tranh
    và chủ đề cuộc thi vẽ tranh trong các tiết học Tin học và máy tính ở nhà của các
    em (nếu có) để các em có thể tham khảo về cách trình bày hình ảnh và màu sắc
    trong tranh và cũng là để tránh sự bắt chước các ý tưởng có sẵn.
    10
    Tôi luôn nhắc các em trình bày vẽ mô hình chính to đặt ở chính, trung tâm
    của bức tranh, các bộ phận phải rõ ràng.
    Ví dụ: Khi vẽ “Chiếc ô tô mơ ước” thì sau khi vẽ máy móc, mô hình xong,
    các em cần phải vẽ thêm các hình ảnh minh họa cho ý tưởng để thêm đẹp hơn.
    Vẽ thêm các hình ảnh cần thiết phù hợp để làm nổi bật ý tưởng. Có thể viết chú
    thích vào các chức năng để người xem có thể hiểu hơn về ý tưởng.
    Tranh vẽ ý tưởng bằng nét
    b. Vẽ màu
    Màu sắc luôn luôn hấp dẫn, lôi cuốn đối với học sinh tiểu học. Vẽ màu là
    sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và lí trí, tạo nên “linh hồn” và vẻ đẹp của bức
    tranh. Khi hướng dẫn học sinh vẽ màu, giáo viên cần giới thiệu cách sử dụng các
    chất liệu như: bút dạ, sáp màu, màu nước,…thông qua việc giới thiệu cách vẽ
    màu của các bức tranh và cách phạm thị của giáo viên.
    Học sinh tiểu học rất thích vẽ màu nguyên chất và vẽ màu theo bản năng.
    Nếu sự tác động của giáo viên không đúng lúc, đúng chỗ thì sẽ ảnh hưởng
    không tốt tới học sinh và làm mất đi những màu sắc trong sáng và ngây thơ của
    các em. Chính vì thế việc hướng dẫn vẽ màu cần khéo léo và mang tính chất gợi
    ý, động viên khích lệ, tránh ép buộc học sinh vẽ màu theo ý của giáo viên hoặc
    bắt chước các tranh mẫu.
    Để học sinh vẽ màu tự do theo ý thích, chắc chắn các em sẽ phát huy được
    năng lực của bản thân và bộc lộ rõ cá tính của mình. Song nếu không có sự quan
    tâm, hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên thì nhiều học sinh sẽ bị lúng túng, vẽ màu
    sẽ bị quá lòe loẹt hoặc tối xỉn hay sử dụng những màu không ăn nhập với nhau.
    Ý tưởng hay mà màu sắc không được đẹp, không nổi bật ý tưởng thì bài vẽ đó sẽ
    mất đi sự chú ý của người xem tranh, chính vì vậy trong tranh màu sắc cũng rất
    quan trọng.
    Thường thì chúng ta dạy học sinh tô màu vào hình ảnh chính rồi mới tô vào
    hình ảnh phụ, và màu nền tô sau cùng. Qua quá trình giảng dạy, tôi thấy hình ảnh
    11
    chính các bạn tô rất nhiều màu sắc nên khi tô màu vào màu nền, màu của không
    gian các bạn không biết phải tô màu gì, và thường là tô màu bị trùng nhau không
    làm nổi bật được bức tranh. Chính vì vậy, tôi khuyến khích và khuyên các em nên
    tô màu nền, màu của không gian và bầu trời trước rồi mới chọn màu phù hợp tô
    vào ý tưởng đó sao cho màu của ý tưởng phải nổi bật hẳn lên trong tranh. Với
    chất liệu là sáp màu các em cần cầm ngắn bút và phải tô mạnh tay, ngoài ra các
    em có thể sử dụng kỹ thuật in chà xát để bức tranh có màu sắc ấn tượng hơn.
    Tranh vẽ đã được tô màu
    Học sinh lớp 3 đang vẽ tranh
    Học sinh lớp 5 đang tô màu vào hình ảnh chính và hoàn thiện bức tranh
    12
    Các tác phẩm của các em đã hoàn thành
    Học sinh đang ghi lại nội dung ý tưởng bức tranh
    13
    c. Tạo hình sản phẩm 2D, 3D
    Với một chủ đề, giáo viên có thể khuyến khích gợi mở cho học sinh vẽ tranh
    với mọi chất liệu, vẽ kết hợp các nguyên vật liệu tái chế như bìa giấy, vải vụn,
    nắp chai, lá cây khô, đất nặn và các loại hạt để bức tranh được đẹp, độc đáo và lạ
    mắt hơn.
    Huy động học sinh phối kết hợp với gia đình đem các vật liệu tái chế, tìm
    được mang đến tiết học.
    Hướng dẫn chia nhóm, nhóm trưởng sẽ là người quyết định, với mỗi chủ đề
    yêu cầu mà giáo viên đưa ra nhóm trưởng sẽ là người điều hành phân công các
    thành viên trong nhóm theo năng lực, năng khiếu thế mạnh của từng ban, bạn
    nào vẽ đẹp sẽ phân công cho bạn vẽ, bạn nào tô màu sẽ phan công cho bạn tô, và
    bạn nào biết uốn dáng người tạo hình con vật sẽ phối hợp hướng dẫn thêm cùng
    cô giáo hỗ trợ những bạn không biết làm, tránh trường hợp ỷ lại trong nhóm.
    Tác phẩm tạo hình của Nhóm Sơn Ca – Lớp 4B3
    Sản phẩm tạo hình của học sinh được bày trong Ngày hội “Chung tay xây dựng trường học sinh thái”
    14
    Tranh vẽ kết hợp xé dán của học sinh có năng khiếu hội họa
    + Tính mới, tính sáng tạo, khoa học của sáng kiến: Nếu như trước kia học
    sinh chỉ vẽ tranh ở trong phòng học theo các bước vẽ tranh đơn thuần thì ở sáng kiến
    này học sinh được ra ngoài trời, được tận mắt chứng kiến cảnh vật cũng như con
    người… sau đó đưa vào tranh vẽ theo cảm nhận riêng tạo ra một ngân hàng hình ảnh
    đầy cảm xúc. Học sinh lại lựa chọn ở ngân hàng hình ảnh ấy tạo ra những câu
    chuyện lý thú thông qua trí tưởng tượng của mình. Từ thực tế quan sát cuộc sống và
    sự sáng tạo của mình, học sinh sẽ cho ra các tác phẩm như ý.
    + Khả năng áp dụng của sáng kiến: Cách thức áp dụng là học sinh được đi
    trải nghiệm thực tế cuộc sống, ghi nhớ, vẽ tranh theo trí tưởng tượng, không gò bó
    trong sách vở. Mĩ thuật ở bậc tiểu học là môn học đầy thú vị, với phương châm lấy
    học sinh làm trung tâm môn học đã giúp giáo viên định hướng cho học sinh những
    giá trị thẩm mĩ một cách tự nhiên nhất. Đặc biệt qua biện pháp giúp học sinh Tiểu
    học phát triển năng lực sáng tạo mĩ thuật, học sinh biết vận dụng kiến thức vào cuộc
    sống sinh hoạt hàng ngày, tự do thể hiện ý tưởng, sự sáng tạo qua các nét vẽ, màu sắc
    và bố cục.
    2.4. Thực nghiệm sư phạm
    2.4.1. Mục đích thực nghiệm
    Trong những năm gần đây, giáo dục luôn đổi mới không ngừng để bắt kịp
    với yêu cầu của xã hội hiện đại. Không chỉ đổi mới về hình thức tổ chức mà còn
    đổi mới mạnh mẽ về cả phương pháp dạy học. Trong ngành giáo dục đã có
    những định hướng và phương án cụ thể để các bộ môn thực hiện. Các hoạt động
    này thể hiện rõ qua các chuyên đề, các buổi tập huấn dành cho giáo viên toàn
    ngành. Trong quá trình dạy – học bộ môn Mĩ thuật nói chung và dạy vẽ tranh
    theo đề tài nói riêng đã có nhiều biến chuyển so với trước đây. Vì vậy tôi xin
    đưa ra một vài biện pháp để nâng cao hiệu quả trong việc hướng dẫn học sinh vẽ
    tranh theo chủ đề nhằm phát triển năng lực sáng tạo mĩ thuật cho học sinh
    của trường tôi. Thực nghiệm được tiến hành với mục đích khẳng định những
    biện pháp trên là khả thi và hiệu quả.
    2.4.2. Đối tượng, thời gian và không gian thực nghiệm
    – Học sinh Trường Tiểu học Xuân Hồng (Khu B)
    15
    – Thời gian thực nghiệm: 10/9/2015 đến 10/4/2021
    – Không gian thực nghiệm: Trường Tiểu học Xuân Hồng (Khu B)
    2.4.3. Nội dung thực nghiệm
    Nội dung thực nghiệm là bồi dưỡng, hướng dẫn học sinh vẽ tranh theo
    chủ đề để tham gia các cuộc thi do các cấp, các ngành tổ chức: Sân chơi “Ý
    tưởng trẻ thơ” do công ty HONDA phối hợp với Bộ giáo dục và đào tạo tổ
    chức; “Chiếc ô tô mơ ước” do công ty TOYOTA phối hợp với Bộ giáo dục và
    đào tạo tổ chức; Giao lưu vẽ về Bác Hồ; vẽ về biển đảo,…Tôi đưa ra các chủ đề
    vẽ tranh tham gia các cuộc thi trên để thực nghiệm các biện pháp đã làm.
    2.4.4. Quy trình thực nghiệm
    Quy trình thực nghiệm tại Trường Tiểu học Xuân Hồng (Khu B) được
    diễn ra cụ thể như sau:
    – Chuẩn bị trước thực nghiệm:
    Tôi đã lập kế hoạch thực nghiệm trình Ban giám hiệu nhà trường. Qua
    khảo sát tôi nhận thấy, nhà trường đặc biệt quan tâm và chú trọng phát triển bộ
    môn Mĩ thuật, học sinh tiểu học rất ham mê vẽ, đây là những cơ hội thuận lợi
    dành cho những giáo viên Mĩ thuật, nhưng cũng là thách thức rất lớn để tôi hoàn
    thành nhiệm vụ trong vai trò của mình. Tôi nhận thức được vai trò và trách
    nhiệm của mình khi triển khai các biện pháp rèn kĩ năng vẽ cho học sinh. Chính
    vì vậy, các khâu chuẩn bị từ kế hoạch tổng quát, thiết kế bài dạy đều được
    chuẩn bị một cách kĩ càng. Cụ thể:
    + Lập kế hoạch bài học cụ thể theo biện pháp dạy học theo chủ đề. Trong
    kế hoạch bài học thể hiện rõ nội dung dạy học, hoạt động của thầy và trò, minh
    họa đồ dùng dạy học.
    + Giáo viên tham khảo Tài liệu dạy học Mĩ thuật dành cho giáo viên tiểu học.
    + Với chủ đề “Ý tưởng trẻ thơ” ; “Chiếc ô tô mơ ước”, giáo viên xây dựng
    kế hoạch ý tưởng dựa trên mục tiêu về kiến thức, kĩ năng để hướng dẫn HS.
    – Tiến hành các bước thực nghiệm:
    Tôi chọn lớp 5B2 (năm học 2019-2020) là lớp thực nghiệm. Trước khi
    thực nghiệm, tôi tiến hành kiểm tra khảo sát để nắm bắt được trình độ của học
    sinh lớp 5B2. Kết quả kiểm tra cho thấy năng lực cảm thụ Mĩ thuật của lớp 5B2
    thể hiện rõ ràng qua bảng sau:
    Kết quả kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm của lớp 5B2
    (năm học 2019-2020)

    Lớp/sĩ sốChưa hoàn thànhHoàn thànhHoàn thành tốt
    5B2: 36 em
    (thực nghiệm)
    0
    (0%)
    25
    (69,4%)
    11
    (30,6%)

    16
    – Sau khi tiến hành khảo sát, tôi tiến hành thực nghiệm, đưa những biện
    pháp nâng cao chất lượng vẽ tranh đề tài áp dụng vào chương trình dạy học mĩ
    thuật lớp 5B2 (2019-2020). Vì giới hạn nên tôi đưa ra một bài đã áp dụng thực
    nghiệm tại lớp. Chủ đề: “Ý tưởng cho một cuộc sống tốt đẹp hơn” ( Cuộc thi vẽ
    tranh Ý tưởng trẻ thơ do công ty Hon Da phối hợp với BGD tổ chức)
    Giáo viên gợi mở để học sinh hình thành ý tưởng. Yêu cầu học sinh sưu tầm,
    tìm tòi các phương tiện để trình bày và thể hiện ý tưởng. Biện pháp chính sử dụng
    trong tiết này là trình bày và thể hiện ý tưởng vẽ tranh.
    Hoạt động 1: Sáng tác tranh theo chủ đề
    Giáo viên sử dụng các hoạt động trải nghiệm phát huy tối đa tính sáng tạo của
    học sinh. Trong giờ vẽ tranh theo chủ đề này giáo viên chỉ là người định hướng cho
    học sinh chủ động tìm hiểu kiến thức, hào hứng khi được trải nghiệm để đưa ra ý
    tưởng và thực hiện. Phân tích cho các em các đề tài mà các em có thể lựa chọn như
    công nghiệp, nông nghiệp, khoa học, y tế, giáo dục, giao thông giúp các em phát
    minh ra những cỗ máy hoặc mô hình thông minh giúp cho con người không phải lao
    động vất vả, tránh dịch bệnh và những ý tưởng phải mang tính nhân văn giúp đỡ
    đoàn kết chia sẻ cho nhau từ đó phát triển các phẩm chất yêu nước, đoàn kết, trung
    thực và trách nhiệm.
    Giáo viên khuyến khích học sinh sử dụng ngân hàng hình ảnh đã sưu tầm để
    tạo thành bức tranh có chủ đề “Ý tưởng cho một cuộc sống tốt đẹp hơn”. Học sinh
    được hoạt động theo nhóm, cặp. Giáo viên khuyến khích học sinh thảo luận nhóm
    đưa ra câu chuyện thông qua sơ đồ tư duy. Thông qua hoạt động này học sinh được
    phát triển các kĩ năng giao tiếp trao đổi thông tin với thầy cô và bạn bè. Các em kể
    được câu chuyện từ bức tranh, có kĩ năng làm việc nhóm và xây dựng sơ đồ tư duy.
    Hoạt động 2: Tô màu và làm phong phú câu chuyện
    Ở hoạt động này học sinh làm việc theo cá nhân hoặc nhóm, trao đổi bàn bạc
    để vẽ màu phù hợp với chủ đề. Trong hoạt động này, giáo viên khuyến khích các em
    thể hiện với nhiều chất liệu khác nhau, đưa ra những tranh luận để tác phẩm của
    nhóm mình sáng tạo và thẩm mĩ nhất.
    Qua một quá trình tiến hành dạy học, tôi cũng nhận được kết quả khá tốt. Lớp
    thực nghiệm với kết quả tốt và vượt trội hơn. Chất lượng bài vẽ của học sinh được
    nâng cao.
    Kết quả chất lượng lớp 5B2 sau thực nghiệm:

    Lớp/sĩ sốChưa hoàn thànhHoàn thànhHoàn thành tốt
    5B2: 36 em
    (thực nghiệm)
    0
    (0%)
    13
    (36%)
    23
    (64%)

    17
    Tác phẩm của học sinh sau khi thực nghiệm
    2.5. Kết quả thực nghiệm
    + Đối với giáo viên:
    Giáo viên xây dựng giáo án theo chủ đề. Ngoài những phương pháp
    truyền thống giáo viên lồng ghép các hoạt động tích cực cho học sinh. Giáo viên
    sáng tạo hơn trong quá trình lên kế hoạch học tập, có thêm nhiều trải nghiệm
    mới trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Tại đây, giáo viên không còn chiếm vị
    trí độc tôn trong lớp học mà là người định hướng và khuyến khích học sinh sáng
    tạo hơn khi đón nhận tri thức.
    + Đối với học sinh:
    Về cách xây dựng ý tưởng: Các em đã biết cách tìm chọn nội dung theo cách
    nhìn nhận riêng của mình, không dập khuôn theo mẫu. Học sinh tiếp nhận thông tin
    một cách chủ động.
    Về cách triển khai xây dựng bố cục và màu sắc trong vẽ tranh: Phần sắp xếp
    hình ảnh được các em trình bày khoa học hơn, sáng tạo hơn. Các chất liệu sử dụng
    trong bài thì đa dạng hơn (có thể là đồ phế liệu, nguyên liệu tự nhiên, màu nước kết
    hợp với màu sáp…). Các em có thêm các kĩ thuật khi xây dựng một chủ đề.
    Về các kĩ năng mềm: Ngoài kĩ năng vẽ tranh, kĩ năng làm việc nhóm, phân
    chia công việc và thực hiện các hoạt động của các em cũng tốt lên nhiều. Các em biết
    lắng nghe, chia sẻ ý kiến của bạn, biết tôn trọng tập thể và tự tin thể hiện bản thân.
    Các em có kĩ năng thuyết trình thành thạo một tác phẩm của mình, hoặc đánh giá
    18
    nhận xét một tác phẩm khác. Vì được mở rộng với nhiều trải nghiệm nên tâm lí các
    em rất hào hứng đón chờ giờ học. Với không gian học mở rộng các em có thêm
    nhiều ý tưởng để thực hiện bài. Giờ đây việc chuẩn bị đồ dùng không còn là bắt buộc
    mà các em rất tự giác.
    Kết quả sản phẩm: Sản phẩm của học sinh tốt dần lên, thể hiện rõ nét qua sản
    phẩm của các em. Những tác phẩm rất đa dạng, sáng tạo và nghệ thuật hơn.
    III.HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI
    1. Hiệu quả về mặt kinh tế
    Sáng kiến đem lại hiệu quả trực tiếp đến kinh tế cho nhà trường như:
    + Giảm chi phí mua đồ dùng môn học, các sản phẩm mẫu giáo viên chỉ cần
    làm một số mẫu còn lại có thể khai thác trực tiếp trên internet.
    + Các sản phẩm của học sinh dùng để trang trí trường học, lớp học, góc học
    tập ở nhà.
    2. Hiệu quả về mặt xã hội
    Trong thời gian áp dụng “Biện pháp giúp học sinh Tiểu học phát triển
    năng lực sáng tạo mĩ thuật” tôi nhận thấy học sinh chuyển từ thụ động đến tự
    giác và tích cực hào hứng tham gia vẽ tranh.
    Tôi đã nhận thấy dạy mĩ thuật không phải chỉ dạy các em biết về hình
    mảng màu sắc mà quan trọng là giáo dục các em biết cảm nhận cái đẹp, biết yêu
    cái đẹp, làm ra cái đẹp và giáo dục phẩm chất cho các em, giúp các em biết quan
    tâm đến mọi người, mọi sự vật xung quanh để từ đó các em có thể bộc lộ suy
    nghĩ thái độ tình cảm của các em qua các bức tranh. Thông qua mỗi bức tranh, ta
    thấy được tính nhân văn của ý tưởng, không cần đến những gì xa xôi phức tạp
    mà chỉ cần nó gần gũi với các em đó là sự quan tâm của các em với gia đình,
    ông bà, bố mẹ, anh chị em, thầy cô và bạn bè…Những lĩnh vực bất cập, thời sự
    trong cuộc sống mà hiện tại con người chưa thể giải quyết và tháo gỡ được.Vì
    vậy mỗi một bài vẽ, mỗi sản phẩm của các em không chỉ đẹp mà còn có tính
    giáo dục rất cao. Đến với các cuộc thi, học sinh trường tôi có rất nhiều bài vẽ
    đẹp và có ý nghĩa độc đáo, mới lạ, giàu tính nhân văn. Đã có rất nhiều bài báo
    khen ngợi các ý tưởng của các em như ý tưởng: Chú sâu rô bốt dò tìm hài cốt;
    Mũ bảo hiểm thông minh dành cho bố; Mô hình nhà ở chim cánh cụt; Hộp cơm
    nhân ái;…và còn nhiều giải thưởng khác được đăng trên báo VTT – TTT.
    + Lợi ích thiết thực của sáng kiến: Học sinh được thỏa trí tưởng tượng và
    tham gia vẽ tranh bằng trải nghiệm thực tế cuộc sống để mở rộng tầm hiểu biết, nâng
    cao niềm yêu mến môn mĩ thuật.
    Tuy nhiên trong quá trình triển khai tại Trường Tiểu học Xuân Hồng vẫn
    còn những hạn chế. Điều đó đã thôi thúc những giáo viên Mĩ thuật như tôi và
    đồng nghiệp tìm ra những biện pháp nhằm nâng cao dạy học vẽ tranh theo
    hướng tích cực, giúp các em phát triển năng lực sáng tạo mĩ thuật. Bằng sự kế
    19
    thừa, tìm tòi, trải nghiệm và đổi mới, tôi đã thực nghiệm thành công đem đến
    những hiệu quả thật sự trong quá trình học tập của các em học sinh.
    Kết quả các cuộc thi: Sau 12 năm giảng dạy

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Sử dụng hiệu quả một số kỹ thuật dạy học hiện đại nhằm phát triển năng lực học sinh trong môn Mỹ thuật lớp 4,5

    SKKN Sử dụng hiệu quả một số kỹ thuật dạy học hiện đại nhằm phát triển năng lực học sinh trong môn Mỹ thuật lớp 4,5

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội khóa 13 về đổi mới
    chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, một trong những nội dung đổi
    mới quan trọng mà Nghị quyết 29-NQ/TW đã đề ra đó là: “Tiếp tục đổi mới
    phương pháp giáo dục theo hướng phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
    người học; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp
    tự học, hứng thú học tập, kỹ năng hợp tác, làm việc nhóm và khả năng tư duy
    độc lập; đa dạng hóa hình thức tổ chức học tập, tăng cường hiệu quả sử dụng các
    phương tiện dạy học, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông; giáo dục ở
    nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội; tạo chuyển biến căn bản,
    toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy
    người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về
    truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và
    năng lực, hài hòa trí, đức, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học
    sinh”.
    Mĩ thuật là môn học thuộc lĩnh vực giáo dục nghệ thuật. Trong CT
    GDPT- 2018, môn Mĩ thuật nhằm hình thành, phát triển ở học sinh năng lực mĩ
    thuật, biểu hiện của năng lực thẩm mĩ trong lĩnh vực mĩ thuật; đồng thời cũng
    góp phần cùng các môn học và hoạt động giáo dục khác hình thành, phát triển ở
    học sinh các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung đặc biệt là giáo dục ý thức kế
    thừa và phát huy văn hóa nghệ thuật dân tộc phù hợp với thời đại.
    Ngay từ lớp một học sinh Tiểu học đã được làm quen với bộ môn mĩ thuật.
    Trẻ em ở lứa tuổi này đã có nhận thức, cảm xúc về thế giới xung quanh và có
    nhu cầu biểu đạt nó. Tuy nhiên, các phương tiện biểu đạt như viết, nói… còn bị
    hạn chế rất nhiều, trong khi đó tạo hình lại là phương tiện biểu đạt phù hợp nhất.
    Thông qua các hình ảnh, vẽ, xé dán, nặn, tạo hình 3D, màu sắc, cách sắp xếp bố
    cục, bài trí…. Các em có thể nói lên suy nghĩ, cảm xúc của mình trước sự vật,
    hiện tượng, con người và thế giới xung quanh mình.
    4
    Vì vậy, trẻ em lứa tuổi học sinh tiểu học luôn có sự ham thích đặc biệt với
    môn mĩ thuật. Tuy nhiên các giờ học mĩ thuật sẽ thu hút và có hiệu quả nếu GV
    có các phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động phù hợp với từng chủ
    đề. Những hoạt động đó mang lại cho trẻ có cơ hội trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm
    sống, thể hiện những ý tưởng, tự tìm tòi, chủ động sáng tạo, khám phá và tạo sản
    phẩm mang dấu ấn cá nhân.
    Theo định hướng phương pháp giáo dục trong chương trình môn mỹ thuật
    nhằm phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh thì: người học muốn có
    năng lực không chỉ học tri thức, kỹ năng mà còn phải học cả phương pháp làm
    việc trong quá trình học để sau khi học có khả năng giải quyết những vấn đề
    trong thực tiễn.
    Mục tiêu dạy học của chương trình môn mĩ thuật hiện hành là nhằm đạt
    được chuẩn kiến thức, kỹ năng theo từng nội dung chủ đề giáo dục cụ thể quy
    định trong chương trình môn mỹ thuật. Với phương pháp do Đan Mạch hỗ trợ
    thì mục tiêu môn học thay đổi theo định hướng phát triển về năng lực và yêu cầu
    cần đạt. Cụ thể, phương pháp dạy học hình thành, phát triển ở học sinh các thành
    phần của năng lực Mĩ thuật như sau:
    + Quan sát và nhận thức thẩm mỹ.
    + Sáng tạo và ứng dụng thẩm mỹ.
    + Phân tích và đánh giá thẩm mỹ.
    Dự án “Hỗ trợ giáo dục mĩ thuật tiểu học” (SAEPS) tại Việt Nam là một dự
    án trong chương trình hợp tác văn hóa Việt Nam – Đan Mạch. Dự án này với
    trọng tâm thay đổi phương pháp giảng dạy (PPGD) Mĩ thuật theo hướng đổi mới
    đã bắt đầu được áp dụng rộng rãi trên cả nước. Tuy vậy, thực tế còn nhiều bất
    cập khi triển khai Phương pháp dạy học mới trên cơ sở Chương trình giáo dục
    Mĩ thuật hiện hành, điều kiện dạy học Mĩ thuật của giáo viên và học sinh còn
    nhiều khó khăn; trình độ chuyên môn, năng lực của giáo viên Mĩ thuật cấp Tiểu
    học còn chưa đồng đều. Nhiều nơi giáo viên dạy Mĩ thuật không được đào tạo
    chuyên sâu, không được tập huấn phương pháp mới hoặc được tập huấn chưa
    đúng hay chưa hiểu đúng tinh thần của phương pháp mới nên còn gặp khó khăn,
    5
    lúng túng trong xây dựng kế hoạch dạy học theo chủ đề và thiết kế các hoạt
    động dạy – học hiệu quả.
    Để giúp cho các giáo viên mĩ thuật tiểu học hiểu rõ những vấn đề chung
    về dạy học Mĩ thuật theo phương pháp mới ở bậc Tiểu học và có thể vận dụng
    linh hoạt, sáng tạo các Phương pháp dạy học Mĩ thuật mới vào Chương trình
    giáo dục Mĩ thuật (GDMT) hiện hành, đồng thời hướng tới Chương trình
    GDMT 2018 theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh cũng chính vì lí
    do đó tôi đã nghiên cứu và áp dụng sáng kiến:
    SỬ DỤNG HIỆU QUẢ MỘT SỐ KỸ THUẬT DẠY HỌC HIỆN ĐẠI NHẰM
    PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG MÔN MĨ THUẬT LỚP 4,5
    Để chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình dạy học nhằm
    đem lại hiệu quả cao trong dạy và học môn Mĩ thuật.
    6
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp kỹ thuật trƣớc khi tạo ra sáng kiến:
    Từ năm học 2015 – 2016 đến năm học 2019 – 2020, tôi được phân công
    giảng dạy môn Mĩ thuật khối lớp 4, khối lớp 5. Trong quá trình dạy học theo dự
    án hỗ trợ của Vương quốc Đan Mạch môn Mĩ thuật tôi thấy rằng một trong
    những đặc trưng cơ bản của dạy học Mĩ thuật là hoạt động dạy – học thông qua
    các hoạt động thực hành.
    Mỗi một quy trình dạy học đều có các hình thức tổ chức hoạt động khác
    nhau nhưng có điểm chung là: học sinh được chia sẻ, khám phá, tìm tòi, sáng tạo
    và biết kết hợp để tạo ra những sản phẩm mang tính ứng dụng cao.
    Việc sử dụng PPDH và KTDH theo chủ đề đều dựa trên biên soạn của bộ
    sách giáo viên và sách giáo khoa.
    1.1. Sách giáo khoa
    1.1.1. Thuận lợi
    Theo phân phối chương trình dành cho lớp 4 có tất cả 12 chủ đề. Cụ thể:
     Chủ đề 1: Những mảng màu thú vị.
     Chủ đề 2: Chúng em với thế giới động vật.
     Chủ đề 3: Ngày hội hóa trang
     Chủ đề 4: Em sáng tạo cùng những con chữ
     Chủ đề 5: Sự chuyển động của dáng người
     Chủ đề 6: Ngày tết, lễ hội và mùa xuân
     Chủ đề 7: Vũ điệu của sắc màu
     Chủ đề 8: Sáng tạo với những nếp gấp giấy
     Chủ đề 9: Sáng tạo họa tiết, tạo dáng và trang trí đồ vật
     Chủ đề 10: Tranh tĩnh vật
     Chủ đề 11: Em tham gia giao thông
     Chủ đề 12: Tìm hiểu tranh dân gian Việt Nam
    Các chủ đề được biên soạn nhằm hướng tới mục tiêu lấy học sinh làm
    trung tâm; kích thích sự tương tác, tư duy sáng tạo và phát triển nhận thức, từ đó
    giúp các em hình thành và phát triển ba năng lực cốt lõi:
    7
     Sáng tạo mĩ thuật, qua đó biểu đạt bản thân (suy nghĩ, tình cảm, mong
    muốn…)
     Hiểu, cảm nhận và trân trọng sản phẩm/ tác phẩm mĩ thuật.
     Giao tiếp/trao đổi, tiếp nhận thông tin thông qua sản phẩm/ tác phẩm
    mĩ thuật.
    Bộ sách vận dụng các quy trình mĩ thuật theo PPDH mới của dự án
    PAEPS do Đan Mạch tài trợ được biên soạn theo các chủ đề. Trong mỗi chủ đề,
    các em được tiếp cận với kiến thức mĩ thuật thông qua các hoạt động tương tác
    với giáo viên và với các bạn trong lớp bằng các hình thức trải nghiệm, thực
    hành, vận dụng sáng tạo.
    Các chủ đề được tách riêng chia theo từng nội dung cụ thể nên rất thuận
    lợi cho giáo viên trong việc tổ chức các hoạt động cơ bản và hoạt động thực
    hành khi hướng dẫn các em tìm hiểu kiến thức và yêu cầu cần đạt thông qua
    mục tiêu của bài. Hệ thống có sự đan xen giữa các chủ đề với nhau tạo ra các
    mức độ từ dễ đến khó nhằm: Rèn luyện và phát triển các kỹ năng thực hành
    thông qua việc quan sát, nhớ lại, tưởng tượng giúp học sinh sáng tạo, linh hoạt
    trong các cách thể hiện tác phẩm cá nhân hay sản phẩm của nhóm. Phát triển tư
    duy ngôn ngữ, khả năng thuyết trình nhận xét và đánh giá tác phẩm.
    Ví dụ:
    Chủ đề 7: Vũ điệu sắc màu
    Học sinh được trải nghiệm khả năng lắng nghe và cảm nhận âm nhạc,
    được vận động theo giai điệu, chuyển âm thanh giai điệu thành những đường
    nét và màu sắc biểu cảm trên giấy.
    Học sinh được chia sẻ cảm nhận thông qua tác phẩm chung và cá nhân.
    Học sinh được phát triển được trí tưởng tượng và sáng tạo trong quá trình
    tạo ra bức tranh biểu cảm mới từ đường nét và màu sắc.
    Học sinh được phân tích đánh giá tác phẩm thông qua việc đặt tên.
    Học sinh được bày tỏ quan điểm, tình cảm trước lớp và người thân trong
    gia đình.
    8
    Theo phân phối chương trình dành cho lớp 5 có tất cả 13 chủ đề. Cụ thể:
     Chủ đề 1: Chân dung tự họa.
     Chủ đề 2: Sự liên kết thú vị của các hình khối.
     Chủ đề 3: Âm nhạc và sắc màu.
     Chủ đề 4: Sáng tạo với những chiếc lá.
     Chủ đề 5: Trường em
     Chủ đề 6: Chú bộ đội của chúng em.
     Chủ đề 7: Tìm hiểu tranh theo chủ đề “Ước mơ của em”
     Chủ đề 8: Trang trí sân khấu và sáng tác câu chuyện.
     Chủ đề 9: Trang phục yêu thích.
     Chủ đề 10: Cuộc sống quanh em.
     Chủ đề 11: Vẽ biểu đạt các đồ vật.
     Chủ đề 12: Thử nghiệm và sáng tạo với các chất liệu.
     Chủ đề 13: Xem tranh “Bác Hồ đi công tác”
    Các chủ đề trong chương trình mĩ thuật lớp 5 hướng tới mục tiêu lấy học sinh
    làm trung tâm. Các chủ đề có sự liên kết chặt chẽ với nhau theo kiến trúc đồng
    tâm giúp các em hình thành và phát triển các năng lực đặc thù.
    Hệ thống các chủ đề đều hướng tới việc rèn luyện và phát triển các kỹ năng
    thực hành thông qua việc quan sát, nhớ lại, tưởng tượng giúp học sinh sáng tạo,
    linh hoạt trong các cách thể hiện tác phẩm cá nhân hay sản phẩm của nhóm. Phát
    triển tư duy ngôn ngữ, khả năng thuyết trình nhận xét và đánh giá tác phẩm.
    1.1.2. Khó khăn
    * Kiến thức trong Sách giáo khoa hàn lâm, còn nặng về dạy học sinh
    chuyên nghiệp, vì vậy:
    – Kết quả sản phẩm của học sinh tiểu học không đảm bảo yêu cầu so với
    lượng kiến thức mà sách giáo khoa đưa ra.
    – Tính ứng dụng sản phẩm còn hạn chế.
    – Sự hợp tác và chia sẻ chưa hiệu quả.
    – Hệ thống hình minh họa không được rõ nét, tư liệu minh họa ít, hệ thống
    câu hỏi còn chung chung chưa phân loại được đối tượng học sinh.
    9
    – Nhiều chủ đề lượng kiến thức mới nhiều nhưng thời gian để giảng dạy ít
    vì vậy giáo viên khó khăn trong việc tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt
    động thực hành cũng như trưng bày và giới thiệu sản phẩm.
    1.2. Về phía giáo viên
    1.2.1. Thuận lợi
    Là một giáo viên chuyên giảng dạy về môn Mĩ thuật, bản thân tôi luôn có
    niềm đam mê trong công việc, luôn tìm tòi học hỏi để tìm ra các phương pháp
    dạy và hình thức tổ chức lớp học hiệu quả, các hình thức tổ chức dạy học trực
    quan nhất, sinh động nhất để học sinh tiếp thu kiến thức, dễ dàng tìm được sự
    móc nối giữa các kiến thức và kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp chia sẻ.
    Tôi thường xuyên giao lưu, học hỏi với các đồng nghiệp trong trường và
    các trường bạn. Tự nghiên cứu sách vở, tài liệu, trang mạng internet… có liên
    quan đến các lĩnh vực giáo dục thẩm mỹ nhằm tìm những giải pháp giúp học
    sinh có thể nắm vững bài học và thực hành tốt các chủ đề mang tính ứng dụng
    và tính thẩm mỹ cao nhất.
    Tôi thường xuyên sử dụng mạng internet trao đổi với đồng nghiệp về các
    tư liệu hình ảnh, sản phẩm tạo hình và kinh nghiệm giảng dạy.
    Thường xuyên tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn, dự giờ theo
    hướng nghiên cứu bài học do Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Nam Định
    tổ chức giúp cho giáo viên có cơ hội để học hỏi chuyên môn, trao đổi kinh
    nghiệm nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy Mĩ thuật trong trường Tiểu học.
    1.2.2. Khó khăn
    Điều kiện không gian và số lượng học sinh đông là cản trở lớn cho tôi khi
    tổ chức các hoạt động theo nhóm như chủ đề: Vẽ theo nhạc, vẽ cùng nhau xây
    dựng câu chuyện, tạo hình 3D.
    1.3. Về phía học sinh
    1.3.1. Thuận lợi
    Học sinh đã được tiếp cận với các quy trình học Mĩ thuật theo dự án từ
    những năm đầu tiên khi thử nghiệm nên tất cả các em đều rất thoải mái và tự tin
    10
    khi tham gia các hoạt động học tập, chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm thông qua các
    hoạt động thực hành và nhận xét, đánh giá.
    Đặc biệt Mĩ thuật là môn học đặc thù nhằm phát huy khả năng sáng tạo và
    tư duy tưởng tượng trong các hoạt động thực hành nên đa phần các em đều rất
    hào hứng muốn thể hiện bản thân nên giờ học rất sôi động, đạt hiệu quả cao.
    1.3.2. Khó khăn
    Bên cạnh việc có nhiều em yêu thích học mĩ thuật thì cũng còn có những
    em chưa hứng thú trong việc học tập, các em còn mải chơi, chưa thực sự tập
    trung khi học tập và dành ít thời gian cho việc thực hành. Do môn Mĩ thuật là
    môn học ít giờ nên phụ huynh học sinh cũng ít quan tâm vì vậy mà các em
    thường xuyên thiếu đồ dùng học tập cá nhân.
    1.4. Đối với nhà trƣờng
    1.4.1. Thuận lợi
    Được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường và sự phối hợp, tạo điều
    kiện của các đồng nghiệp trong trường đó là nguồn động viên để tôi phấn đấu
    tìm tòi, học hỏi nâng cao chất lượng giảng dạy.
    Phòng Mĩ thuật được trang bị các thiết bị hiện đại như: máy tính, máy
    chiếu, mạng Internet,…
    Các lớp được bố trí học 2 tiết Mĩ thuật liên tục trong cùng 1 buổi học nên
    việc học sinh thực hành các chủ đề đảm bảo yêu cầu cần đạt của môn học.
    1.4.2. Khó khăn
    Diện tích phòng học còn hạn chế nên giáo viên chưa chủ động trong việc
    triển khai các kỹ thuật dạy học và hình thức tổ chức các hoạt động dạy học được
    hiệu quả.
    1.5. Đối với phụ huynh học sinh:
    1.5.1. Thuận lợi
    Phần lớn phụ huynh học sinh đều ủng hộ và tạo điều kiện cho con em
    được học tập môn Mĩ thuật và tham gia các hoạt động liên quan đến bộ môn
    như: trang trí trại thu, gian hàng, trưng bày sản phẩm STEM….
    11
    Phụ huynh cũng thường xuyên cho con tiếp cận với những chương trình,
    sự kiện liên quan đến giáo dục thẩm mỹ qua các kênh thông tin. Nhiều phụ
    huynh học sinh còn cùng các em tham gia các hoạt động trình diễn thời trang tái
    chế và các chương trình biểu diễn có sử dụng các sản phẩm mĩ thuật.
    1.5.2. Khó khăn
    Do môn học đặc thù nên nhiều phụ huynh học sinh chưa tìm hiểu sâu về
    hoạt động giáo dục thẩm mĩ nên chưa thực sự quan tâm đến con em mình. Có
    những bài thực hành các em cần sự giúp đỡ của phụ huynh nhưng vì năng lực mĩ
    thuật còn hạn chế nên các em gặp khó khăn khi tham gia các hoạt động trải
    nghiệm thực tế. Hay như một số khác do bận công việc làm ăn nên không để ý
    đến việc học hành của con.
    Tóm lại, qua thực tế giảng dạy tôi thấy rằng với điều kiện cơ sở vật chất,
    không gian lớp học và số lượng học sinh. Để đảm bảo yêu cầu cần đạt về phẩm
    chất, năng lực và đặc biệt là sản phẩm của học sinh sau mỗi chủ đề tôi có những
    biện pháp nhằm thay đổi hình thức tổ chức các hoạt động cũng như phương
    pháp dạy học phù hợp với tình hình thực tế tại trường Tiểu học Chu Văn An.
    2. Mô tả giải pháp kỹ thuật sau khi có sáng kiến:
    Từ thực trạng và nguyên nhân trên, qua quá trình thực hiện, tôi đã đề ra 3
    giải pháp giúp học sinh học tập môn Mĩ thuật hiệu quả hơn :
    2.1. Giải pháp 1: Sử dụng hiệu quả kỹ thuật dạy học theo hƣớng mở
    2.1.1. Nắm vững kỹ thuật dạy học theo hướng mở.
    Trong quá trình dạy học bản thân tôi thấy rằng để sử dụng kỹ thuật dạy
    học theo phương pháp mở giáo viên cần nắm vững bản chất và các quy trình
    thực hiện.
    * Bản chất
    – Nắm chắc và dạy học theo đúng quy trình của từng phương pháp;
    – Dạy học theo phương pháp mở (kết thúc bài học này là mở ra một bài
    học mới); tăng cường dạy học hợp tác nhưng vẫn coi trọng cá thể hóa học sinh;
    – Phát triển các năng lực của trẻ (Văn học, Âm nhạc, Vận động, Ngôn
    ngữ…) trong quá trình dạy học Mĩ thuật theo phương pháp của Đan Mạch;
    12
    – Tạo cơ hội cho học sinh được chia sẻ, thực hành các bài tập ứng dụng
    thiết thực, phục vụ cho học tập và cuộc sống;
    * Các quy trình thực hiện
    Giáo viên linh hoạt trong việc vận dụng Phương pháp dạy học Mĩ thuật
    của Đan Mạch vào các phân môn cụ thể trong chương trình Mĩ thuật hiện hành:
    – Vẽ ký họa dáng (người/vật): Quy trình Vẽ cùng nhau và sáng tạo các câu
    chuyện
    – Vẽ theo mẫu (chân dung /vật thể): Quy trình Vẽ biểu cảm
    – Vẽ trang trí (Làm bìa sách, bưu thiếp, giấy mời…): Quy trình Trang trí
    và vẽ tranh qua âm nhạc
    – Hình ảnh các nhân vật được xé, cắt dán, tạo hình 3D để tạo một chủ đề
    có cốt truyện: Quy trình Xây dựng cốt truyện
    – Các hình khối được tạo ra từ vật tìm được, dây thép, đất nặn, giấy bồi…
    và được kết nối với nhau trong một không gian nhất định: Quy trình tạo hình 3D
    tiếp cận theo chủ đề
    – Các nhân vật được tạo hình từ các vật dụng tìm được và câu chuyện
    được phát triển theo chủ đề: Quy trình Điêu khắc – Nghệ thuật tạo hình không
    gian (Nghệ thuật sắp đặt/ hoạt cảnh/ biểu diễn và sắm vai)
    – Tạo hình các con rối và tạo ra một buổi trình diễn ấn tượng: Quy trình
    “Tạo hình con rối và nghệ thuật biểu diễn”
    Cả 7 quy trình này đều được xây dựng chung một cấu trúc:
    • Thảo luận và làm quen với chủ đề.
    • Quy trình được chi tiết từ đầu tới cuối thông qua mô tả thực tế các bước
    khác nhau của một quy trình, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn các quy trình nói
    trên để đảm bảo hiệu quả cao nhất trong việc giáo dục mĩ thuật.
    • Có thể có những thay đổi linh hoạt hoặc cân nhắc khác cho quy trình cụ
    thể ở thực tế. Những quy trình dạy – học Mĩ thuật này không phải là công thức
    cố định mà chúng ta phải làm theo. Những quy trình này tạo cảm hứng cho giáo
    viên và nó còn có thể điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng học sinh và điều
    kiện thực tế tại địa phương. Giáo viên có thể phát triển khả năng của học sinh ở
    13
    các mức độ khác nhau trong các quy trình này như khả năng trải nghiệm, sáng
    tạo, biểu đạt, giao tiếp và đánh giá.
    2.1.2 Nghiên cứu sách giáo khoa để lựa chọn hoạt động và xây dựng các hoạt
    động theo hướng mở.
    a. Lựa chọn các hoạt động, chủ đề
    14
    b. Xây dựng các hoạt động theo hướng mở
    Với môn học đặc thù như môn Mĩ thuật khi áp dụng kỹ thuật dạy học mở
    này. Giáo viên cần quan tâm đặc biệt đến việc tổ chức các hoạt động và phân
    công công việc cho từng cá nhân, nhóm đảm bảo các thành viên trong nhóm
    phát huy thế mạnh của mình với sự hỗ trợ phù hợp của giáo viên tạo được ngân
    hàng hình ảnh phong phú đa dạng phục vụ cho các chủ đề tiếp theo
    2.1.3. Tổ chức hoạt động theo hướng mở.
    a. Hướng dẫn học sinh hoạt động theo hướng mở.
    b. Sử dụng kết quả/sản phẩm của học sinh theo hướng mở.
    Ví dụ: hình ảnh minh họa (sử dụng dáng người – xây dựng bố cục cho
    chủ đề mới…)
    15
    16
    * Ví dụ: Chủ đề 5: Sự chuyển động của dáng người ( Mĩ thuật 5)
    Quy trình thực hiện:
    – Sau khi GV hướng dẫn tạo hình dáng người bằng dây thép, giao nhiệm
    vụ cụ thể cho các thành viên, nhóm tạo dáng người.
    – Giáo viên hướng dẫn học sinh cách tạo sự chuyển động dáng
    theo ý thích
    – Học sinh thực hiện tạo dáng người và sự chuyển động của dáng người
    theo các tư thế vận động
    – Sử dụng giấy màu, vật liệu tìm được, vải vụn… tạo hình trang phục cho
    nhân vật, dáng người và các tư thế vận động của dáng người
    – Học sinh giới thiệu, nhận xét và nêu cảm nhận về sản phẩm của mình,
    nhóm mình và của bạn, nhóm bạn.
    Hướng mở: sau khi học sinh chia sẻ và nêu cảm nhận về sản phẩm giáo
    viên hướng dẫn học sinh lưu giữ sản phẩm để chuẩn bị cho hoạt động hoặc chủ
    đề tiếp theo: Chủ đề 6 “ Ngày tết, lễ hội và mùa xuân”
    Học sinh sử dụng dáng người trong ngân hàng hình ảnh để xây dựng bố
    cục cho chủ đề mới và xây dựng câu chuyện thông qua sự kết hợp các tư thế vận
    động của dáng người ở bài học trước.
    17
    18
    19
    20
    21
    22
    23
    24
    2.2. Giải pháp 2: Sử dụng hiệu quả kỹ thuật dạy học hợp tác
    2.2.1 Quy trình hợp tác.
    Đây là hình thức dạy học hợp tác kết hợp dạy học cá thể, trong đó học
    sinh từng nhóm dưới sự hướng dẫn của giáo viên, trao đổi chia sẻ những ý
    tưởng, kiến thức, kĩ năng trong quá trình học tập nhằm đạt được tri thức và hình
    thành phát triển những năng lực của người học.
    Dạy học theo nhóm hợp tác sẽ phát huy được tính tích cực chủ động của
    học sinh. Học sinh tham gia học tập một cách tự giác bằng khả năng của bản
    thân. Học theo nhóm, học sinh sẽ có trách nhiệm hơn với nhiệm vụ học tập của
    mình đồng thời tham gia, hợp tác với các thành viên khác trong nhóm nhằm đạt
    hiệu quả tối ưu của nhóm. Học theo nhóm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh
    phát huy tinh thần tập thể, chia sẻ kinh nghiệm sống, có ý thức cộng đồng đối
    với công việc chung.
    Sơ đồ hợp tác
    Ví dụ:
    + Hoạt động quan sát và nhận thức thẩm mỹ
    Các nhóm quan sát hình ảnh/ bức tranh/ tác phẩm nghệ thuật/… trực tiếp
    hoặc gián tiếp; Phát hiện và nhận biết các hình thức thể hiện, chất liệu tạo hình
    cơ bản trong các sản phẩm, tác phẩm mỹ thuật và xung quanh; nhận biết được
    các yếu tố, nguyên lí tạo hình thông qua hình ảnh trực quan và cùng trao đổi,
    chia sẻ rút ra nhận thức thẩm mỹ.
    + Hoạt động sáng tạo và vận dụng thẩm mỹ
    Các nhóm thực hiện tạo hình theo cảm nhận bằng nhiều hình thức như
    2D, 3D,… và bằng các chất liệu khác nhau. Quá trình này sẽ tạo điều kiện để
    học sinh trao đổi, thảo luận và thống nhất ý tưởng thực hiện…
    + Hoạt động phân tích và đánh giá thẩm mỹ
    Các nhóm cảm nhận, trao đổi nội dung thể hiện trong các sản phẩm/ tác
    phẩm mỹ thuật; nhận biết và phân biệt nội dung, chất liệu và yếu tố thẩm mỹ
    xung quanh đời sống.
    25
    2.2.2. Hình thức tổ chức dạy học mỹ thuật ngoài không gian lớp học
    Là hình thức tổ chức dạy học mỹ thuật ở địa điểm ngoài lớp học; trong đó
    giáo viên tổ chức, chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh nhằm tạo điều kiện
    thuận lợi cho học sinh được hợp tác, nắm vững, mở rộng kiến thức mỹ thuật
    thông qua các hoạt động. Hình thức tổ chức dạy học này rất linh hoạt và tạo nên
    các hoạt động dạy học đa dạng, phong phú kích thích hứng thú học tập của học
    sinh. Dạy học ngoài lớp tạo điều kiện để học sinh trải nghiệm thực tế cuộc sống,
    thực hiện phương thức học tập, chia sẻ, hợp tác cùng thực hiện hoạt động học
    tập có hiệu quả. Có nhiều hình thức dạy học mỹ thuật ngoài lớp học như: vẽ
    ngoài trời, tham quan thực tế, học tại bảo tàng, phòng triển lãm tranh,….
    2.2.3. Các hình thức tổ chức dạy học hợp tác
    Các hình thức dạy học hợp tác mỹ thuật muốn đạt kết quả tối ưu về giáo
    dục và phát triển năng lực cho học sinh, giáo viên cần chuẩn bị chu đáo kế
    hoạch bài dạy và thực hiện tốt kế hoạch đó. Kế hoạch phải thể hiện rõ các khâu
    của quá trình dạy học. Có thể nói, các hình thức tổ chức dạy học mỹ thuật nêu
    trên có quan hệ mật thiết với nhau và hỗ trợ nhau.
    Trong thực tiễn dạy học nói chung và dạy học mỹ thuật nói riêng, mỗi
    hình thức tổ chức dạy học đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Việc vận
    dụng, phối hợp hình thức, phương pháp dạy học như thế nào để đạt hiệu quả thì
    giáo viên cần cân nhắc phù hợp, khoa học, hợp lí với đặc thù môn học nghệ
    thuật – mỹ thuật và với nhận thức của học sinh.
    Ví dụ: Chủ đề 11: Vẽ biểu cảm các đồ vật ( Mĩ thuật 5 )
    Chủ đề 01: Chân dung tự họa ( Mĩ thuật 5)
    Quy trình thực hiện:
    – Giáo viên chia nhóm ( nhóm đôi vẽ chân dung )
    – Bày mẫu, làm mẫu
    – Hướng dẫn học sinh cách thực hành vẽ biểu cảm ( Vẽ mà không nhìn vào
    giấy, vẽ một nét)
    – Sau khi vẽ xong đổi bài cho bạn để vẽ thêm nét
    – Vẽ màu theo nét mà bạn đã chỉnh sửa và vẽ thêm
    26
    – Trưng bày và chia sẻ cảm nhận về bài của bạn và nhóm bạn
    27
    28
    29
    30
    31
    2.3. Giải pháp 3: Sử dụng hiệu quả kỹ thuật dạy học tích hợp
    tăng cƣờng ứng dụng
    2.3.1 Thiết kế dạy học tích hợp
    Dạy học tích hợp môn Mĩ thuật là hình thức dạy kiến thức liên môn xuất
    phát từ yêu cầu của mục tiêu dạy học phát triển năng lực học sinh, đòi hỏi phải
    tăng cường yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức môn học vào giải quyết những
    vấn đề thực tiễn trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
    Các vấn đề thực tiễn trong hoạt động hàng ngày và những giờ học thực
    địa đã giúp học sinh có thêm kiến thức thực tế áp dụng vào mỗi giờ học có hiệu
    quả. Chuyển từ phương pháp truyền thống qua phương pháp học tích cực, tích
    hợp kiến thức liên môn, quan sát thực địa không khỏi gây cho giáo viên phải đầu
    tư thời gian nghiên cứu bài học cũng như tư liệu liên môn, sợ học sinh không
    tiếp thu được kiến thức bài học, nhất là đối tượng học sinh nhút nhát không
    quen với hoạt động nhóm, hoạt động tự thuyết trình, chia sẻ, kể chuyện,… Vì
    vậy, đòi hỏi người giáo viên phải thực sự tìm tòi, chuẩn bị chu đáo, chủ động
    vận dụng linh hoạt vào từng chủ đề khác nhau, nhằm thu hút sự tham gia của tất
    cả các em học sinh.
    Thông qua bộ môn Mĩ thuật, học sinh có thể lĩnh hội được các kiến thức
    về Tự nhiên xã hội, Văn hóa, Toán học, Âm nhạc,Tiếng Việt….đằng sau những
    biểu hiện của ngôn ngữ tạo hình. Bằng cách này, giáo dục nghệ thuật được tích
    hợp trong chương trình giảng dạy ở tất cả các lớp học, chúng được lồng ghép
    trong các bài học để nâng cao khả năng quan sát, liên tưởng, kết nối kiến thức
    của học sinh. Vậy làm thế nào để các môn Tiếng Việt, Âm nhạc, Toán học, khoa
    học, tự nhiên xã hội…. được tích hợp vào bộ môn Mĩ thuật?
    Thực ra, chương trình Mĩ thuật ở bậc tiểu học luôn có sự kết nối với các
    môn học và được nâng cao dần ở cấp học tiếp theo, tạo thành một vòng tròn phát
    triển đồng tâm phù hợp với các giai đoạn phát triển nghệ thuật của trẻ, sự tích
    hợp đó có thể tạo ra kinh nghiệm phong phú đa tầng cho trẻ cũng như kinh
    nghiệm bản thân.
    32
    2.3.2. Cách thực hiện
    Để thực hiện tốt phương pháp dạy học tích cực, tích hợp kiến thức liên
    môn, quan sát thực địa, giáo viên cần: Học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, áp
    dụng linh hoạt, sáng tạo sao cho phù hợp với điều kiện, đối tượng học sinh của
    mình. Tuy nhiên khó khăn này chỉ là bước đầu và có thể khắc phục dễ dàng hơn
    khi giáo viên chuẩn bị tốt các bước dạy học tích hợp theo chủ đề.
    Bước 1: cho học sinh tìm hiểu tài liệu, các kênh thông tin liên quan đến
    chủ đề cần dạy tích hợp. Với hoạt động ngoài không gian lớp học thi cho học
    sinh tới những điểm thực địa gần gũi nơi em sinh hoạt tiếp xúc hàng ngày như
    sân trường, vườn hoa, phố phường, di tích lịch sử địa phương hoặc kết hợp với
    các chuyến trải nghiệm thực tế ngoại khóa của lớp, nhà trường tổ chức
    Bước 2: Trong quá trình dạy học của mình, giáo viên vẫn phải thường
    xuyên dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác, vì vậy đã có sự
    am hiểu về kiến thức liên môn cũng như kỹ năng hợp tác trong thực hành.
    Bước 3: Với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của giáo
    viên không còn là người truyền thụ kiến thức thụ động mà là người tổ chức,
    kiểm tra, định hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học.
    Tổ chức những cuộc thi vẽ tranh cá nhân, tập thể cho HS, tổ chức những
    phòng tranh thiếu nhi, trưng bày sản phẩm sáng tạo, mô hình, những buổi kể
    chuyện, thuyết trình, biểu diễn, đóng kịch, câu lạc bộ Mĩ thuật, những buổi dã
    ngoại và trải nghiệm…
    2.3.3 Ví dụ minh họa:
    Chủ đề 7: Vũ điệu của sắc màu ( Mĩ thuật 4 )
    Với chủ đề này học sinh được làm quen với kỹ năng nghe nhạc và vận
    động theo giai điệu của âm nhạc, Học sinh biết tiết tấu, nhịp điệu và các thể loại
    nhạc. ( Giáo dục âm nhạc)
    Chủ đề 11: Em tham gia giao thông (Mĩ thuật 4)
    Với chủ đề này ngoài kiến thức về đặc điểm các loại hình, phương tiện
    giao thông học sinh còn được tìm hiểu về luật an toàn giao thông và kỹ năng
    tham gia giao thông một cách an toàn nhất ( Giáo dục An toàn giao thông)
    33
    Chủ đề 7: Tìm hiểu tranh theo chủ đề: “ Ước mơ của em” (Mĩ thuật 5)
    Với chủ đề này học sinh không những thể hiện được ước mơ của mình
    thông qua sản phẩm vẽ tranh học sinh còn được tìm hiểu kiến thức về các ngành
    nghề liên quan đến các môn học khác. ( giáo dục hướng nghiệp, lịch sử, địa lí…)
    Chủ đề 6: Chú bộ đội của chúng em (Mĩ thuật 5)
    Với chủ đề này học sinh được tìm hiểu về các lực lượng vũ trang, binh
    chủng, quân chủng và các hoạt động của bộ đội thời chiến và thời binh. Thông
    qua tìm hiểu và tạo hình sản phẩm học sinh nắm được kiến thức về quân đội
    nhân dân Việt nam và trang sử hào hùng của dân tộc trong các cuộc kháng chiến
    chống quân xâm lược ( Giáo dục lịch sử và Địa lí)
    Chủ đề 6: Ngày tết, lễ hội và mùa xuân ( Mĩ thuật 4)
    Với chủ đề này học sinh được thể hiện tình cảm gia đình đoàn viên trong
    ngày tết cổ truyền của dân tộc. Trang bị kiến thức về văn hóa vùng miền thông
    qua các lễ hội dân gian Việt Nam. Giáo dục cho học sinh tình yêu quê hướng đất
    nước bản sắc Văn hóa dân tộc ( Giáo dục Tự nhiên xã hội, lịch sử văn hóa,
    Tiếng Việt…)
    Chủ đề 2: Sự liên kết thú vị của các hình khối (Mĩ thuật 5)
    Với chủ đề này học sinh nắm vững về cấu trúc, đặc điểm hình khối và
    không gian thị giác 3 chiều giúp học sinh có thêm kiến thức về Toán học, logic
    và hình học không gian.
    2.3.4 Thiết kế dạy học tăng cường ứng dụng.
    Dạy học Mĩ thuật tăng cường ứng dụng được xem như đổi mới hình thức
    giáo dục theo định hướng phát triển năng lực, hướng đến đáp ứng được khả
    năng thích ứng của mỗi cá nhân trong đời sống hàng ngày thông qua những sản
    phẩm mỹ thuật,
    Qua khảo sát thực tế việc dạy học mỹ thuật theo các phương pháp đã áp
    dụng tại cơ sở giáo dục nhà trường cho thấy mỗi cách thức dạy Mỹ thuật dù
    được các chuyên gia nghiên cứu cẩn trọng đến mấy cũng có những mặt tích cực
    và hạn chế. Trong các phương pháp dạy học Mỹ thuật đã triển khai hiện nay đều
    sử dụng những phương pháp chuyên ngành (vẽ theo mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh,
    34
    thưởng thức mỹ thuật, tạo dáng – nặn) và các phương pháp bổ trợ khác (phương
    pháp thảo luận nhóm; phương pháp quan sát; phương pháp trực quan; phương
    pháp đàm thoại gợi mở; phương pháp luyện tập thực hành). Các phương pháp
    này đều xoay quanh việc truyền đạt ngôn ngữ của nghệ thuật thị giác như hình,
    khối, màu sắc, bố cục, trang trí,… Tuy nhiên, việc vận dụng trong từng bài học
    theo những cách khác nhau nên đem lại kết quả khác nhau. Theo đó, không có
    một cách thức dạy học Mĩ thuật nào mang tính tối ưu về mọi mặt. Dạy Mĩ thuật
    theo chương trình hiện hành nặng về kiến thức và mục tiêu đề ra không phù hợp
    với lĩnh vực giáo dục nghệ thuật, nhưng phù hợp với việc dạy ở diện rộng, với
    nhiều thành phần học sinh và lớp học có số lượng quá đông như hiện nay.
    Dạy Mỹ thuật theo phương pháp Đan Mạch thì đa dạng về hình thức, nội
    dung phong phú, tăng cường ứng dụng, tạo được sự hứng khởi của người học,
    khuyến khích sự sáng tạo
    Như vậy, dạy học tăng cường ứng dụng trong môn Mĩ thuật theo định
    hướng phát triển năng lực cần được xem là một quá trình giáo dục được kiểm
    soát chặt chẽ, hình thức học tập đa dạng, phong phú, học sinh phải tự làm ra sản
    phẩm mang tính ứng dụng cao cũng như có ý thức hợp tác để thực hiện các bài
    thực hành theo nhóm. Nội dung chương trình cần đi thẳng vào đối tượng của
    môn học là cảm xúc và các nhóm bài thực hành đều xoay quanh mục tiêu này
    theo nhiều hình thức thực hành khác nhau như: vẽ, xé – dán, đắp nổi, tạo khối,
    trình diễn, sắp đặt, thậm chí là kết hợp của nhiều dạng thức thực hành khác
    nhau. Việc kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học Mĩ thuật là điều phù hợp
    bởi mục đích của giáo dục chính là tạo nên năng lực của học sinh, thông qua
    từng môn học, ở môn học này là năng lực mỹ thuật, biểu hiện của năng lực thẩm
    mỹ trong lĩnh vực mỹ thuật. Do đó, mục tiêu hướng đến của dạy học mĩ thuật
    tăng cường ứng dụng cần hướng đến phải được thể hiện ở một số phương diện
    sau:
    Học sinh được thực hành và trình bày hiểu biết của mình thông qua tác
    phẩm, sản phẩm mỹ thuật để định hướng
    35
    Học sinh chủ động tạo ra những sản phẩm mỹ thuật, cũng như hình thành
    thái độ hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm với các thành viên trong nhóm.
    Học sinh biết cách biểu đạt ý kiến, ấn tượng và cảm giác của bản thân trước
    một sản phẩm mỹ thuật, một tác phẩm mỹ thuật.
    Học sinh hiểu, phân tích và diễn giải các yếu tố cấu thành của mỹ thuật theo
    các mức độ khác nhau.
    Chính những kỹ năng này là điều cần và đủ để hình thành năng lực mỹ thuật
    cho học sinh, thể hiện ở các kĩ năng và hiểu biết sau:
    Nhận biết cái đẹp. Học sinh nhận biết được cái đẹp/cái xấu trong tự nhiên,
    đời sống xã hội và nghệ thuật; có cảm xúc và biết bày tỏ cảm xúc trước cái đẹp
    và cái chưa đẹp trong cuộc sống xung quanh.
    Phân tích, đánh giá cái đẹp. Học sinh mô tả được cái đẹp, biết so sánh, nhận
    xét về biểu hiện bên ngoài của cái đẹp, giới thiệu sản phẩm thông qua các gian
    hàng, phòng triển lãm.
    Tạo ra cái đẹp. Học sinh biết mô phỏng, tái hiện được vẻ đẹp quen thuộc
    bằng hình thức, công cụ, phương tiện, ngôn ngữ biểu đạt,… phù hợp, ở mức độ
    đơn giản; có ý tưởng sử dụng kết quả học tập/sáng tạo thẩm mỹ để làm tăng
    thêm vẻ đẹp cho cuộc sống hàng ngày của bản thân.
    Như vậy, từ lý luận đến thực tiễn của việc sử dụng dạy học tăng cường ứng
    dụng trong nhà trường hiện nay đã hình thành và phát triển năng lực cốt lõi cho
    học sinh khi tham gia các hoạt động học tập Mĩ thuật.
    2.3.5.Ví dụ minh họa:
    Chủ đề 7: Vũ điệu của sắc màu: Mĩ thuật 5
    Quy trình thực hiện
    – Vẽ theo nhạc
    – Đặt tên tác phẩm
    – Chia sẻ
    – Lựa chọn góc nhìn cá nhân
    – Làm sản phẩm cá nhân
    – Trưng bày, triển lãm, tặng, bán, đấu giá
    36
    Như vậy thông qua chủ đề này học sinh đã có thực hiện được những sản
    phẩm tăng cường ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày.
    37
    2.4. Một số lƣu ý khi sử dụng các kỹ thuật dạy học hiện đại nhằm phát triển
    năng lực:
    – Nắm vững các nội dung yêu cầu và phương pháp tổ chức để vận dụng linh
    hoạt trong các chủ đề, phù hợp với điều kiện thực tế và đối tượng học sinh
    – Dựa vào điều kiện thực tế ở mỗi địa phương, giáo viên linh hoạt lựa chọn các
    vật liệu và quy trình, phương pháp dạy học mĩ thuật phù hợp.
    – Động viên, khuyến khích, hỗ trợ kịp thời để giúp HS phát triển năng lực cá
    nhân
    – Cần chuẩn bị các học liệu, vật tìm được, đồ dùng học tập cho buổi học sau.
    – Giáo viên cũng cần cho học sinh mang sản phẩm về nhà để trưng bày thành
    góc Mĩ thuật ở gia đình.
    – Cuối mỗi chủ đề, GV cần tổ chức cho HS trưng
    4
    Vì vậy, trẻ em lứa tuổi học sinh tiểu học luôn có sự ham thích đặc biệt với
    môn mĩ thuật. Tuy nhiên các giờ học mĩ thuật sẽ thu hút và có hiệu quả nếu GV
    có các phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động phù hợp với từng chủ
    đề. Những hoạt động đó mang lại cho trẻ có cơ hội trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm
    sống, thể hiện những ý tưởng, tự tìm tòi, chủ động sáng tạo, khám phá và tạo sản
    phẩm mang dấu ấn cá nhân.
    Theo định hướng phương pháp giáo dục trong chương trình môn mỹ thuật
    nhằm phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh thì: người học muốn có
    năng lực không chỉ học tri thức, kỹ năng mà còn phải học cả phương pháp làm
    việc trong quá trình học để sau khi học có khả năng giải quyết những vấn đề
    trong thực tiễn.
    Mục tiêu dạy học của chương trình môn mĩ thuật hiện hành là nhằm đạt
    được chuẩn kiến thức, kỹ năng theo từng nội dung chủ đề giáo dục cụ thể quy
    định trong chương trình môn mỹ thuật. Với phương pháp do Đan Mạch hỗ trợ
    thì mục tiêu môn học thay đổi theo định hướng phát triển về năng lực và yêu cầu
    cần đạt. Cụ thể, phương pháp dạy học hình thành, phát triển ở học sinh các thành
    phần của năng lực Mĩ thuật như sau:
    + Quan sát và nhận thức thẩm mỹ.
    + Sáng tạo và ứng dụng thẩm mỹ.
    + Phân tích và đánh giá thẩm mỹ.
    Dự án “Hỗ trợ giáo dục mĩ thuật tiểu học” (SAEPS) tại Việt Nam là một dự
    án trong chương trình hợp tác văn hóa Việt Nam – Đan Mạch. Dự án này với
    trọng tâm thay đổi phương pháp giảng dạy (PPGD) Mĩ thuật theo hướng đổi mới
    đã bắt đầu được áp dụng rộng rãi trên cả nước. Tuy vậy, thực tế còn nhiều bất
    cập khi triển khai Phương pháp dạy học mới trên cơ sở Chương trình giáo dục
    Mĩ thuật hiện hành, điều kiện dạy học Mĩ thuật của giáo viên và học sinh còn
    nhiều khó khăn; trình độ chuyên môn, năng lực của giáo viên Mĩ thuật cấp Tiểu
    học còn chưa đồng đều. Nhiều nơi giáo viên dạy Mĩ thuật không được đào tạo
    chuyên sâu, không được tập huấn phương pháp mới hoặc được tập huấn chưa
    đúng hay chưa hiểu đúng tinh thần của phương pháp mới nên còn gặp khó khăn,
    5
    lúng túng trong xây dựng kế hoạch dạy học theo chủ đề và thiết kế các hoạt
    động dạy – học hiệu quả.
    Để giúp cho các giáo viên mĩ thuật tiểu học hiểu rõ những vấn đề chung
    về dạy học Mĩ thuật theo phương pháp mới ở bậc Tiểu học và có thể vận dụng
    linh hoạt, sáng tạo các Phương pháp dạy học Mĩ thuật mới vào Chương trình
    giáo dục Mĩ thuật (GDMT) hiện hành, đồng thời hướng tới Chương trình
    GDMT 2018 theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh cũng chính vì lí
    do đó tôi đã nghiên cứu và áp dụng sáng kiến:
    SỬ DỤNG HIỆU QUẢ MỘT SỐ KỸ THUẬT DẠY HỌC HIỆN ĐẠI NHẰM
    PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG MÔN MĨ THUẬT LỚP 4,5
    Để chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình dạy học nhằm
    đem lại hiệu quả cao trong dạy và học môn Mĩ thuật.
    6
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp kỹ thuật trƣớc khi tạo ra sáng kiến:
    Từ năm học 2015 – 2016 đến năm học 2019 – 2020, tôi được phân công
    giảng dạy môn Mĩ thuật khối lớp 4, khối lớp 5. Trong quá trình dạy học theo dự
    án hỗ trợ của Vương quốc Đan Mạch môn Mĩ thuật tôi thấy rằng một trong
    những đặc trưng cơ bản của dạy học Mĩ thuật là hoạt động dạy – học thông qua
    các hoạt động thực hành.
    Mỗi một quy trình dạy học đều có các hình thức tổ chức hoạt động khác
    nhau nhưng có điểm chung là: học sinh được chia sẻ, khám phá, tìm tòi, sáng tạo
    và biết kết hợp để tạo ra những sản phẩm mang tính ứng dụng cao.
    Việc sử dụng PPDH và KTDH theo chủ đề đều dựa trên biên soạn của bộ
    sách giáo viên và sách giáo khoa.
    1.1. Sách giáo khoa
    1.1.1. Thuận lợi
    Theo phân phối chương trình dành cho lớp 4 có tất cả 12 chủ đề. Cụ thể:
     Chủ đề 1: Những mảng màu thú vị.
     Chủ đề 2: Chúng em với thế giới động vật.
     Chủ đề 3: Ngày hội hóa trang
     Chủ đề 4: Em sáng tạo cùng những con chữ
     Chủ đề 5: Sự chuyển động của dáng người
     Chủ đề 6: Ngày tết, lễ hội và mùa xuân
     Chủ đề 7: Vũ điệu của sắc màu
     Chủ đề 8: Sáng tạo với những nếp gấp giấy
     Chủ đề 9: Sáng tạo họa tiết, tạo dáng và trang trí đồ vật
     Chủ đề 10: Tranh tĩnh vật
     Chủ đề 11: Em tham gia giao thông
     Chủ đề 12: Tìm hiểu tranh dân gian Việt Nam
    Các chủ đề được biên soạn nhằm hướng tới mục tiêu lấy học sinh làm
    trung tâm; kích thích sự tương tác, tư duy sáng tạo và phát triển nhận thức, từ đó
    giúp các em hình thành và phát triển ba năng lực cốt lõi:
    7
     Sáng tạo mĩ thuật, qua đó biểu đạt bản thân (suy nghĩ, tình cảm, mong
    muốn…)
     Hiểu, cảm nhận và trân trọng sản phẩm/ tác phẩm mĩ thuật.
     Giao tiếp/trao đổi, tiếp nhận thông tin thông qua sản phẩm/ tác phẩm
    mĩ thuật.
    Bộ sách vận dụng các quy trình mĩ thuật theo PPDH mới của dự án
    PAEPS do Đan Mạch tài trợ được biên soạn theo các chủ đề. Trong mỗi chủ đề,
    các em được tiếp cận với kiến thức mĩ thuật thông qua các hoạt động tương tác
    với giáo viên và với các bạn trong lớp bằng các hình thức trải nghiệm, thực
    hành, vận dụng sáng tạo.
    Các chủ đề được tách riêng chia theo từng nội dung cụ thể nên rất thuận
    lợi cho giáo viên trong việc tổ chức các hoạt động cơ bản và hoạt động thực
    hành khi hướng dẫn các em tìm hiểu kiến thức và yêu cầu cần đạt thông qua
    mục tiêu của bài. Hệ thống có sự đan xen giữa các chủ đề với nhau tạo ra các
    mức độ từ dễ đến khó nhằm: Rèn luyện và phát triển các kỹ năng thực hành
    thông qua việc quan sát, nhớ lại, tưởng tượng giúp học sinh sáng tạo, linh hoạt
    trong các cách thể hiện tác phẩm cá nhân hay sản phẩm của nhóm. Phát triển tư
    duy ngôn ngữ, khả năng thuyết trình nhận xét và đánh giá tác phẩm.
    Ví dụ:
    Chủ đề 7: Vũ điệu sắc màu
    Học sinh được trải nghiệm khả năng lắng nghe và cảm nhận âm nhạc,
    được vận động theo giai điệu, chuyển âm thanh giai điệu thành những đường
    nét và màu sắc biểu cảm trên giấy.
    Học sinh được chia sẻ cảm nhận thông qua tác phẩm chung và cá nhân.
    Học sinh được phát triển được trí tưởng tượng và sáng tạo trong quá trình
    tạo ra bức tranh biểu cảm mới từ đường nét và màu sắc.
    Học sinh được phân tích đánh giá tác phẩm thông qua việc đặt tên.
    Học sinh được bày tỏ quan điểm, tình cảm trước lớp và người thân trong
    gia đình.
    8
    Theo phân phối chương trình dành cho lớp 5 có tất cả 13 chủ đề. Cụ thể:
     Chủ đề 1: Chân dung tự họa.
     Chủ đề 2: Sự liên kết thú vị của các hình khối.
     Chủ đề 3: Âm nhạc và sắc màu.
     Chủ đề 4: Sáng tạo với những chiếc lá.
     Chủ đề 5: Trường em
     Chủ đề 6: Chú bộ đội của chúng em.
     Chủ đề 7: Tìm hiểu tranh theo chủ đề “Ước mơ của em”
     Chủ đề 8: Trang trí sân khấu và sáng tác câu chuyện.
     Chủ đề 9: Trang phục yêu thích.
     Chủ đề 10: Cuộc sống quanh em.
     Chủ đề 11: Vẽ biểu đạt các đồ vật.
     Chủ đề 12: Thử nghiệm và sáng tạo với các chất liệu.
     Chủ đề 13: Xem tranh “Bác Hồ đi công tác”
    Các chủ đề trong chương trình mĩ thuật lớp 5 hướng tới mục tiêu lấy học sinh
    làm trung tâm. Các chủ đề có sự liên kết chặt chẽ với nhau theo kiến trúc đồng
    tâm giúp các em hình thành và phát triển các năng lực đặc thù.
    Hệ thống các chủ đề đều hướng tới việc rèn luyện và phát triển các kỹ năng
    thực hành thông qua việc quan sát, nhớ lại, tưởng tượng giúp học sinh sáng tạo,
    linh hoạt trong các cách thể hiện tác phẩm cá nhân hay sản phẩm của nhóm. Phát
    triển tư duy ngôn ngữ, khả năng thuyết trình nhận xét và đánh giá tác phẩm.
    1.1.2. Khó khăn
    * Kiến thức trong Sách giáo khoa hàn lâm, còn nặng về dạy học sinh
    chuyên nghiệp, vì vậy:
    – Kết quả sản phẩm của học sinh tiểu học không đảm bảo yêu cầu so với
    lượng kiến thức mà sách giáo khoa đưa ra.
    – Tính ứng dụng sản phẩm còn hạn chế.
    – Sự hợp tác và chia sẻ chưa hiệu quả.
    – Hệ thống hình minh họa không được rõ nét, tư liệu minh họa ít, hệ thống
    câu hỏi còn chung chung chưa phân loại được đối tượng học sinh.
    9
    – Nhiều chủ đề lượng kiến thức mới nhiều nhưng thời gian để giảng dạy ít
    vì vậy giáo viên khó khăn trong việc tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt
    động thực hành cũng như trưng bày và giới thiệu sản phẩm.
    1.2. Về phía giáo viên
    1.2.1. Thuận lợi
    Là một giáo viên chuyên giảng dạy về môn Mĩ thuật, bản thân tôi luôn có
    niềm đam mê trong công việc, luôn tìm tòi học hỏi để tìm ra các phương pháp
    dạy và hình thức tổ chức lớp học hiệu quả, các hình thức tổ chức dạy học trực
    quan nhất, sinh động nhất để học sinh tiếp thu kiến thức, dễ dàng tìm được sự
    móc nối giữa các kiến thức và kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp chia sẻ.
    Tôi thường xuyên giao lưu, học hỏi với các đồng nghiệp trong trường và
    các trường bạn. Tự nghiên cứu sách vở, tài liệu, trang mạng internet… có liên
    quan đến các lĩnh vực giáo dục thẩm mỹ nhằm tìm những giải pháp giúp học
    sinh có thể nắm vững bài học và thực hành tốt các chủ đề mang tính ứng dụng
    và tính thẩm mỹ cao nhất.
    Tôi thường xuyên sử dụng mạng internet trao đổi với đồng nghiệp về các
    tư liệu hình ảnh, sản phẩm tạo hình và kinh nghiệm giảng dạy.
    Thường xuyên tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn, dự giờ theo
    hướng nghiên cứu bài học do Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Nam Định
    tổ chức giúp cho giáo viên có cơ hội để học hỏi chuyên môn, trao đổi kinh
    nghiệm nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy Mĩ thuật trong trường Tiểu học.
    1.2.2. Khó khăn
    Điều kiện không gian và số lượng học sinh đông là cản trở lớn cho tôi khi
    tổ chức các hoạt động theo nhóm như chủ đề: Vẽ theo nhạc, vẽ cùng nhau xây
    dựng câu chuyện, tạo hình 3D.
    1.3. Về phía học sinh
    1.3.1. Thuận lợi
    Học sinh đã được tiếp cận với các quy trình học Mĩ thuật theo dự án từ
    những năm đầu tiên khi thử nghiệm nên tất cả các em đều rất thoải mái và tự tin
    10
    khi tham gia các hoạt động học tập, chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm thông qua các
    hoạt động thực hành và nhận xét, đánh giá.
    Đặc biệt Mĩ thuật là môn học đặc thù nhằm phát huy khả năng sáng tạo và
    tư duy tưởng tượng trong các hoạt động thực hành nên đa phần các em đều rất
    hào hứng muốn thể hiện bản thân nên giờ học rất sôi động, đạt hiệu quả cao.
    1.3.2. Khó khăn
    Bên cạnh việc có nhiều em yêu thích học mĩ thuật thì cũng còn có những
    em chưa hứng thú trong việc học tập, các em còn mải chơi, chưa thực sự tập
    trung khi học tập và dành ít thời gian cho việc thực hành. Do môn Mĩ thuật là
    môn học ít giờ nên phụ huynh học sinh cũng ít quan tâm vì vậy mà các em
    thường xuyên thiếu đồ dùng học tập cá nhân.
    1.4. Đối với nhà trƣờng
    1.4.1. Thuận lợi
    Được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường và sự phối hợp, tạo điều
    kiện của các đồng nghiệp trong trường đó là nguồn động viên để tôi phấn đấu
    tìm tòi, học hỏi nâng cao chất lượng giảng dạy.
    Phòng Mĩ thuật được trang bị các thiết bị hiện đại như: máy tính, máy
    chiếu, mạng Internet,…
    Các lớp được bố trí học 2 tiết Mĩ thuật liên tục trong cùng 1 buổi học nên
    việc học sinh thực hành các chủ đề đảm bảo yêu cầu cần đạt của môn học.
    1.4.2. Khó khăn
    Diện tích phòng học còn hạn chế nên giáo viên chưa chủ động trong việc
    triển khai các kỹ thuật dạy học và hình thức tổ chức các hoạt động dạy học được
    hiệu quả.
    1.5. Đối với phụ huynh học sinh:
    1.5.1. Thuận lợi
    Phần lớn phụ huynh học sinh đều ủng hộ và tạo điều kiện cho con em
    được học tập môn Mĩ thuật và tham gia các hoạt động liên quan đến bộ môn
    như: trang trí trại thu, gian hàng, trưng bày sản phẩm STEM….
    11
    Phụ huynh cũng thường xuyên cho con tiếp cận với những chương trình,
    sự kiện liên quan đến giáo dục thẩm mỹ qua các kênh thông tin. Nhiều phụ
    huynh học sinh còn cùng các em tham gia các hoạt động trình diễn thời trang tái
    chế và các chương trình biểu diễn có sử dụng các sản phẩm mĩ thuật.
    1.5.2. Khó khăn
    Do môn học đặc thù nên nhiều phụ huynh học sinh chưa tìm hiểu sâu về
    hoạt động giáo dục thẩm mĩ nên chưa thực sự quan tâm đến con em mình. Có
    những bài thực hành các em cần sự giúp đỡ của phụ huynh nhưng vì năng lực mĩ
    thuật còn hạn chế nên các em gặp khó khăn khi tham gia các hoạt động trải
    nghiệm thực tế. Hay như một số khác do bận công việc làm ăn nên không để ý
    đến việc học hành của con.
    Tóm lại, qua thực tế giảng dạy tôi thấy rằng với điều kiện cơ sở vật chất,
    không gian lớp học và số lượng học sinh. Để đảm bảo yêu cầu cần đạt về phẩm
    chất, năng lực và đặc biệt là sản phẩm của học sinh sau mỗi chủ đề tôi có những
    biện pháp nhằm thay đổi hình thức tổ chức các hoạt động cũng như phương
    pháp dạy học phù hợp với tình hình thực tế tại trường Tiểu học Chu Văn An.
    2. Mô tả giải pháp kỹ thuật sau khi có sáng kiến:
    Từ thực trạng và nguyên nhân trên, qua quá trình thực hiện, tôi đã đề ra 3
    giải pháp giúp học sinh học tập môn Mĩ thuật hiệu quả hơn :
    2.1. Giải pháp 1: Sử dụng hiệu quả kỹ thuật dạy học theo hƣớng mở
    2.1.1. Nắm vững kỹ thuật dạy học theo hướng mở.
    Trong quá trình dạy học bản thân tôi thấy rằng để sử dụng kỹ thuật dạy
    học theo phương pháp mở giáo viên cần nắm vững bản chất và các quy trình
    thực hiện.
    * Bản chất
    – Nắm chắc và dạy học theo đúng quy trình của từng phương pháp;
    – Dạy học theo phương pháp mở (kết thúc bài học này là mở ra một bài
    học mới); tăng cường dạy học hợp tác nhưng vẫn coi trọng cá thể hóa học sinh;
    – Phát triển các năng lực của trẻ (Văn học, Âm nhạc, Vận động, Ngôn
    ngữ…) trong quá trình dạy học Mĩ thuật theo phương pháp của Đan Mạch;
    12
    – Tạo cơ hội cho học sinh được chia sẻ, thực hành các bài tập ứng dụng
    thiết thực, phục vụ cho học tập và cuộc sống;
    * Các quy trình thực hiện
    Giáo viên linh hoạt trong việc vận dụng Phương pháp dạy học Mĩ thuật
    của Đan Mạch vào các phân môn cụ thể trong chương trình Mĩ thuật hiện hành:
    – Vẽ ký họa dáng (người/vật): Quy trình Vẽ cùng nhau và sáng tạo các câu
    chuyện
    – Vẽ theo mẫu (chân dung /vật thể): Quy trình Vẽ biểu cảm
    – Vẽ trang trí (Làm bìa sách, bưu thiếp, giấy mời…): Quy trình Trang trí
    và vẽ tranh qua âm nhạc
    – Hình ảnh các nhân vật được xé, cắt dán, tạo hình 3D để tạo một chủ đề
    có cốt truyện: Quy trình Xây dựng cốt truyện
    – Các hình khối được tạo ra từ vật tìm được, dây thép, đất nặn, giấy bồi…
    và được kết nối với nhau trong một không gian nhất định: Quy trình tạo hình 3D
    tiếp cận theo chủ đề
    – Các nhân vật được tạo hình từ các vật dụng tìm được và câu chuyện
    được phát triển theo chủ đề: Quy trình Điêu khắc – Nghệ thuật tạo hình không
    gian (Nghệ thuật sắp đặt/ hoạt cảnh/ biểu diễn và sắm vai)
    – Tạo hình các con rối và tạo ra một buổi trình diễn ấn tượng: Quy trình
    “Tạo hình con rối và nghệ thuật biểu diễn”
    Cả 7 quy trình này đều được xây dựng chung một cấu trúc:
    • Thảo luận và làm quen với chủ đề.
    • Quy trình được chi tiết từ đầu tới cuối thông qua mô tả thực tế các bước
    khác nhau của một quy trình, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn các quy trình nói
    trên để đảm bảo hiệu quả cao nhất trong việc giáo dục mĩ thuật.
    • Có thể có những thay đổi linh hoạt hoặc cân nhắc khác cho quy trình cụ
    thể ở thực tế. Những quy trình dạy – học Mĩ thuật này không phải là công thức
    cố định mà chúng ta phải làm theo. Những quy trình này tạo cảm hứng cho giáo
    viên và nó còn có thể điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng học sinh và điều
    kiện thực tế tại địa phương. Giáo viên có thể phát triển khả năng của học sinh ở
    13
    các mức độ khác nhau trong các quy trình này như khả năng trải nghiệm, sáng
    tạo, biểu đạt, giao tiếp và đánh giá.
    2.1.2 Nghiên cứu sách giáo khoa để lựa chọn hoạt động và xây dựng các hoạt
    động theo hướng mở.
    a. Lựa chọn các hoạt động, chủ đề
    14
    b. Xây dựng các hoạt động theo hướng mở
    Với môn học đặc thù như môn Mĩ thuật khi áp dụng kỹ thuật dạy học mở
    này. Giáo viên cần quan tâm đặc biệt đến việc tổ chức các hoạt động và phân
    công công việc cho từng cá nhân, nhóm đảm bảo các thành viên trong nhóm
    phát huy thế mạnh của mình với sự hỗ trợ phù hợp của giáo viên tạo được ngân
    hàng hình ảnh phong phú đa dạng phục vụ cho các chủ đề tiếp theo
    2.1.3. Tổ chức hoạt động theo hướng mở.
    a. Hướng dẫn học sinh hoạt động theo hướng mở.
    b. Sử dụng kết quả/sản phẩm của học sinh theo hướng mở.
    Ví dụ: hình ảnh minh họa (sử dụng dáng người – xây dựng bố cục cho
    chủ đề mới…)
    15
    16
    * Ví dụ: Chủ đề 5: Sự chuyển động của dáng người ( Mĩ thuật 5)
    Quy trình thực hiện:
    – Sau khi GV hướng dẫn tạo hình dáng người bằng dây thép, giao nhiệm
    vụ cụ thể cho các thành viên, nhóm tạo dáng người.
    – Giáo viên hướng dẫn học sinh cách tạo sự chuyển động dáng
    theo ý thích
    – Học sinh thực hiện tạo dáng người và sự chuyển động của dáng người
    theo các tư thế vận động
    – Sử dụng giấy màu, vật liệu tìm được, vải vụn… tạo hình trang phục cho
    nhân vật, dáng người và các tư thế vận động của dáng người
    – Học sinh giới thiệu, nhận xét và nêu cảm nhận về sản phẩm của mình,
    nhóm mình và của bạn, nhóm bạn.
    Hướng mở: sau khi học sinh chia sẻ và nêu cảm nhận về sản phẩm giáo
    viên hướng dẫn học sinh lưu giữ sản phẩm để chuẩn bị cho hoạt động hoặc chủ
    đề tiếp theo: Chủ đề 6 “ Ngày tết, lễ hội và mùa xuân”
    Học sinh sử dụng dáng người trong ngân hàng hình ảnh để xây dựng bố
    cục cho chủ đề mới và xây dựng câu chuyện thông qua sự kết hợp các tư thế vận
    động của dáng người ở bài học trước.
    17
    18
    19
    20
    21
    22
    23
    24
    2.2. Giải pháp 2: Sử dụng hiệu quả kỹ thuật dạy học hợp tác
    2.2.1 Quy trình hợp tác.
    Đây là hình thức dạy học hợp tác kết hợp dạy học cá thể, trong đó học
    sinh từng nhóm dưới sự hướng dẫn của giáo viên, trao đổi chia sẻ những ý
    tưởng, kiến thức, kĩ năng trong quá trình học tập nhằm đạt được tri thức và hình
    thành phát triển những năng lực của người học.
    Dạy học theo nhóm hợp tác sẽ phát huy được tính tích cực chủ động của
    học sinh. Học sinh tham gia học tập một cách tự giác bằng khả năng của bản
    thân. Học theo nhóm, học sinh sẽ có trách nhiệm hơn với nhiệm vụ học tập của
    mình đồng thời tham gia, hợp tác với các thành viên khác trong nhóm nhằm đạt
    hiệu quả tối ưu của nhóm. Học theo nhóm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh
    phát huy tinh thần tập thể, chia sẻ kinh nghiệm sống, có ý thức cộng đồng đối
    với công việc chung.
    Sơ đồ hợp tác
    Ví dụ:
    + Hoạt động quan sát và nhận thức thẩm mỹ
    Các nhóm quan sát hình ảnh/ bức tranh/ tác phẩm nghệ thuật/… trực tiếp
    hoặc gián tiếp; Phát hiện và nhận biết các hình thức thể hiện, chất liệu tạo hình
    cơ bản trong các sản phẩm, tác phẩm mỹ thuật và xung quanh; nhận biết được
    các yếu tố, nguyên lí tạo hình thông qua hình ảnh trực quan và cùng trao đổi,
    chia sẻ rút ra nhận thức thẩm mỹ.
    + Hoạt động sáng tạo và vận dụng thẩm mỹ
    Các nhóm thực hiện tạo hình theo cảm nhận bằng nhiều hình thức như
    2D, 3D,… và bằng các chất liệu khác nhau. Quá trình này sẽ tạo điều kiện để
    học sinh trao đổi, thảo luận và thống nhất ý tưởng thực hiện…
    + Hoạt động phân tích và đánh giá thẩm mỹ
    Các nhóm cảm nhận, trao đổi nội dung thể hiện trong các sản phẩm/ tác
    phẩm mỹ thuật; nhận biết và phân biệt nội dung, chất liệu và yếu tố thẩm mỹ
    xung quanh đời sống.
    25
    2.2.2. Hình thức tổ chức dạy học mỹ thuật ngoài không gian lớp học
    Là hình thức tổ chức dạy học mỹ thuật ở địa điểm ngoài lớp học; trong đó
    giáo viên tổ chức, chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh nhằm tạo điều kiện
    thuận lợi cho học sinh được hợp tác, nắm vững, mở rộng kiến thức mỹ thuật
    thông qua các hoạt động. Hình thức tổ chức dạy học này rất linh hoạt và tạo nên
    các hoạt động dạy học đa dạng, phong phú kích thích hứng thú học tập của học
    sinh. Dạy học ngoài lớp tạo điều kiện để học sinh trải nghiệm thực tế cuộc sống,
    thực hiện phương thức học tập, chia sẻ, hợp tác cùng thực hiện hoạt động học
    tập có hiệu quả. Có nhiều hình thức dạy học mỹ thuật ngoài lớp học như: vẽ
    ngoài trời, tham quan thực tế, học tại bảo tàng, phòng triển lãm tranh,….
    2.2.3. Các hình thức tổ chức dạy học hợp tác
    Các hình thức dạy học hợp tác mỹ thuật muốn đạt kết quả tối ưu về giáo
    dục và phát triển năng lực cho học sinh, giáo viên cần chuẩn bị chu đáo kế
    hoạch bài dạy và thực hiện tốt kế hoạch đó. Kế hoạch phải thể hiện rõ các khâu
    của quá trình dạy học. Có thể nói, các hình thức tổ chức dạy học mỹ thuật nêu
    trên có quan hệ mật thiết với nhau và hỗ trợ nhau.
    Trong thực tiễn dạy học nói chung và dạy học mỹ thuật nói riêng, mỗi
    hình thức tổ chức dạy học đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Việc vận
    dụng, phối hợp hình thức, phương pháp dạy học như thế nào để đạt hiệu quả thì
    giáo viên cần cân nhắc phù hợp, khoa học, hợp lí với đặc thù môn học nghệ
    thuật – mỹ thuật và với nhận thức của học sinh.
    Ví dụ: Chủ đề 11: Vẽ biểu cảm các đồ vật ( Mĩ thuật 5 )
    Chủ đề 01: Chân dung tự họa ( Mĩ thuật 5)
    Quy trình thực hiện:
    – Giáo viên chia nhóm ( nhóm đôi vẽ chân dung )
    – Bày mẫu, làm mẫu
    – Hướng dẫn học sinh cách thực hành vẽ biểu cảm ( Vẽ mà không nhìn vào
    giấy, vẽ một nét)
    – Sau khi vẽ xong đổi bài cho bạn để vẽ thêm nét
    – Vẽ màu theo nét mà bạn đã chỉnh sửa và vẽ thêm
    26
    – Trưng bày và chia sẻ cảm nhận về bài của bạn và nhóm bạn
    27
    28
    29
    30
    31
    2.3. Giải pháp 3: Sử dụng hiệu quả kỹ thuật dạy học tích hợp
    tăng cƣờng ứng dụng
    2.3.1 Thiết kế dạy học tích hợp
    Dạy học tích hợp môn Mĩ thuật là hình thức dạy kiến thức liên môn xuất
    phát từ yêu cầu của mục tiêu dạy học phát triển năng lực học sinh, đòi hỏi phải
    tăng cường yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức môn học vào giải quyết những
    vấn đề thực tiễn trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
    Các vấn đề thực tiễn trong hoạt động hàng ngày và những giờ học thực
    địa đã giúp học sinh có thêm kiến thức thực tế áp dụng vào mỗi giờ học có hiệu
    quả. Chuyển từ phương pháp truyền thống qua phương pháp học tích cực, tích
    hợp kiến thức liên môn, quan sát thực địa không khỏi gây cho giáo viên phải đầu
    tư thời gian nghiên cứu bài học cũng như tư liệu liên môn, sợ học sinh không
    tiếp thu được kiến thức bài học, nhất là đối tượng học sinh nhút nhát không
    quen với hoạt động nhóm, hoạt động tự thuyết trình, chia sẻ, kể chuyện,… Vì
    vậy, đòi hỏi người giáo viên phải thực sự tìm tòi, chuẩn bị chu đáo, chủ động
    vận dụng linh hoạt vào từng chủ đề khác nhau, nhằm thu hút sự tham gia của tất
    cả các em học sinh.
    Thông qua bộ môn Mĩ thuật, học sinh có thể lĩnh hội được các kiến thức
    về Tự nhiên xã hội, Văn hóa, Toán học, Âm nhạc,Tiếng Việt….đằng sau những
    biểu hiện của ngôn ngữ tạo hình. Bằng cách này, giáo dục nghệ thuật được tích
    hợp trong chương trình giảng dạy ở tất cả các lớp học, chúng được lồng ghép
    trong các bài học để nâng cao khả năng quan sát, liên tưởng, kết nối kiến thức
    của học sinh. Vậy làm thế nào để các môn Tiếng Việt, Âm nhạc, Toán học, khoa
    học, tự nhiên xã hội…. được tích hợp vào bộ môn Mĩ thuật?
    Thực ra, chương trình Mĩ thuật ở bậc tiểu học luôn có sự kết nối với các
    môn học và được nâng cao dần ở cấp học tiếp theo, tạo thành một vòng tròn phát
    triển đồng tâm phù hợp với các giai đoạn phát triển nghệ thuật của trẻ, sự tích
    hợp đó có thể tạo ra kinh nghiệm phong phú đa tầng cho trẻ cũng như kinh
    nghiệm bản thân.
    32
    2.3.2. Cách thực hiện
    Để thực hiện tốt phương pháp dạy học tích cực, tích hợp kiến thức liên
    môn, quan sát thực địa, giáo viên cần: Học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, áp
    dụng linh hoạt, sáng tạo sao cho phù hợp với điều kiện, đối tượng học sinh của
    mình. Tuy nhiên khó khăn này chỉ là bước đầu và có thể khắc phục dễ dàng hơn
    khi giáo viên chuẩn bị tốt các bước dạy học tích hợp theo chủ đề.
    Bước 1: cho học sinh tìm hiểu tài liệu, các kênh thông tin liên quan đến
    chủ đề cần dạy tích hợp. Với hoạt động ngoài không gian lớp học thi cho học
    sinh tới những điểm thực địa gần gũi nơi em sinh hoạt tiếp xúc hàng ngày như
    sân trường, vườn hoa, phố phường, di tích lịch sử địa phương hoặc kết hợp với
    các chuyến trải nghiệm thực tế ngoại khóa của lớp, nhà trường tổ chức
    Bước 2: Trong quá trình dạy học của mình, giáo viên vẫn phải thường
    xuyên dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác, vì vậy đã có sự
    am hiểu về kiến thức liên môn cũng như kỹ năng hợp tác trong thực hành.
    Bước 3: Với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của giáo
    viên không còn là người truyền thụ kiến thức thụ động mà là người tổ chức,
    kiểm tra, định hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học.
    Tổ chức những cuộc thi vẽ tranh cá nhân, tập thể cho HS, tổ chức những
    phòng tranh thiếu nhi, trưng bày sản phẩm sáng tạo, mô hình, những buổi kể
    chuyện, thuyết trình, biểu diễn, đóng kịch, câu lạc bộ Mĩ thuật, những buổi dã
    ngoại và trải nghiệm…
    2.3.3 Ví dụ minh họa:
    Chủ đề 7: Vũ điệu của sắc màu ( Mĩ thuật 4 )
    Với chủ đề này học sinh được làm quen với kỹ năng nghe nhạc và vận
    động theo giai điệu của âm nhạc, Học sinh biết tiết tấu, nhịp điệu và các thể loại
    nhạc. ( Giáo dục âm nhạc)
    Chủ đề 11: Em tham gia giao thông (Mĩ thuật 4)
    Với chủ đề này ngoài kiến thức về đặc điểm các loại hình, phương tiện
    giao thông học sinh còn được tìm hiểu về luật an toàn giao thông và kỹ năng
    tham gia giao thông một cách an toàn nhất ( Giáo dục An toàn giao thông)
    33
    Chủ đề 7: Tìm hiểu tranh theo chủ đề: “ Ước mơ của em” (Mĩ thuật 5)
    Với chủ đề này học sinh không những thể hiện được ước mơ của mình
    thông qua sản phẩm vẽ tranh học sinh còn được tìm hiểu kiến thức về các ngành
    nghề liên quan đến các môn học khác. ( giáo dục hướng nghiệp, lịch sử, địa lí…)
    Chủ đề 6: Chú bộ đội của chúng em (Mĩ thuật 5)
    Với chủ đề này học sinh được tìm hiểu về các lực lượng vũ trang, binh
    chủng, quân chủng và các hoạt động của bộ đội thời chiến và thời binh. Thông
    qua tìm hiểu và tạo hình sản phẩm học sinh nắm được kiến thức về quân đội
    nhân dân Việt nam và trang sử hào hùng của dân tộc trong các cuộc kháng chiến
    chống quân xâm lược ( Giáo dục lịch sử và Địa lí)
    Chủ đề 6: Ngày tết, lễ hội và mùa xuân ( Mĩ thuật 4)
    Với chủ đề này học sinh được thể hiện tình cảm gia đình đoàn viên trong
    ngày tết cổ truyền của dân tộc. Trang bị kiến thức về văn hóa vùng miền thông
    qua các lễ hội dân gian Việt Nam. Giáo dục cho học sinh tình yêu quê hướng đất
    nước bản sắc Văn hóa dân tộc ( Giáo dục Tự nhiên xã hội, lịch sử văn hóa,
    Tiếng Việt…)
    Chủ đề 2: Sự liên kết thú vị của các hình khối (Mĩ thuật 5)
    Với chủ đề này học sinh nắm vững về cấu trúc, đặc điểm hình khối và
    không gian thị giác 3 chiều giúp học sinh có thêm kiến thức về Toán học, logic
    và hình học không gian.
    2.3.4 Thiết kế dạy học tăng cường ứng dụng.
    Dạy học Mĩ thuật tăng cường ứng dụng được xem như đổi mới hình thức
    giáo dục theo định hướng phát triển năng lực, hướng đến đáp ứng được khả
    năng thích ứng của mỗi cá nhân trong đời sống hàng ngày thông qua những sản
    phẩm mỹ thuật,
    Qua khảo sát thực tế việc dạy học mỹ thuật theo các phương pháp đã áp
    dụng tại cơ sở giáo dục nhà trường cho thấy mỗi cách thức dạy Mỹ thuật dù
    được các chuyên gia nghiên cứu cẩn trọng đến mấy cũng có những mặt tích cực
    và hạn chế. Trong các phương pháp dạy học Mỹ thuật đã triển khai hiện nay đều
    sử dụng những phương pháp chuyên ngành (vẽ theo mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh,
    34
    thưởng thức mỹ thuật, tạo dáng – nặn) và các phương pháp bổ trợ khác (phương
    pháp thảo luận nhóm; phương pháp quan sát; phương pháp trực quan; phương
    pháp đàm thoại gợi mở; phương pháp luyện tập thực hành). Các phương pháp
    này đều xoay quanh việc truyền đạt ngôn ngữ của nghệ thuật thị giác như hình,
    khối, màu sắc, bố cục, trang trí,… Tuy nhiên, việc vận dụng trong từng bài học
    theo những cách khác nhau nên đem lại kết quả khác nhau. Theo đó, không có
    một cách thức dạy học Mĩ thuật nào mang tính tối ưu về mọi mặt. Dạy Mĩ thuật
    theo chương trình hiện hành nặng về kiến thức và mục tiêu đề ra không phù hợp
    với lĩnh vực giáo dục nghệ thuật, nhưng phù hợp với việc dạy ở diện rộng, với
    nhiều thành phần học sinh và lớp học có số lượng quá đông như hiện nay.
    Dạy Mỹ thuật theo phương pháp Đan Mạch thì đa dạng về hình thức, nội
    dung phong phú, tăng cường ứng dụng, tạo được sự hứng khởi của người học,
    khuyến khích sự sáng tạo
    Như vậy, dạy học tăng cường ứng dụng trong môn Mĩ thuật theo định
    hướng phát triển năng lực cần được xem là một quá trình giáo dục được kiểm
    soát chặt chẽ, hình thức học tập đa dạng, phong phú, học sinh phải tự làm ra sản
    phẩm mang tính ứng dụng cao cũng như có ý thức hợp tác để thực hiện các bài
    thực hành theo nhóm. Nội dung chương trình cần đi thẳng vào đối tượng của
    môn học là cảm xúc và các nhóm bài thực hành đều xoay quanh mục tiêu này
    theo nhiều hình thức thực hành khác nhau như: vẽ, xé – dán, đắp nổi, tạo khối,
    trình diễn, sắp đặt, thậm chí là kết hợp của nhiều dạng thức thực hành khác
    nhau. Việc kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học Mĩ thuật là điều phù hợp
    bởi mục đích của giáo dục chính là tạo nên năng lực của học sinh, thông qua
    từng môn học, ở môn học này là năng lực mỹ thuật, biểu hiện của năng lực thẩm
    mỹ trong lĩnh vực mỹ thuật. Do đó, mục tiêu hướng đến của dạy học mĩ thuật
    tăng cường ứng dụng cần hướng đến phải được thể hiện ở một số phương diện
    sau:
    Học sinh được thực hành và trình bày hiểu biết của mình thông qua tác
    phẩm, sản phẩm mỹ thuật để định hướng
    35
    Học sinh chủ động tạo ra những sản phẩm mỹ thuật, cũng như hình thành
    thái độ hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm với các thành viên trong nhóm.
    Học sinh biết cách biểu đạt ý kiến, ấn tượng và cảm giác của bản thân trước
    một sản phẩm mỹ thuật, một tác phẩm mỹ thuật.
    Học sinh hiểu, phân tích và diễn giải các yếu tố cấu thành của mỹ thuật theo
    các mức độ khác nhau.
    Chính những kỹ năng này là điều cần và đủ để hình thành năng lực mỹ thuật
    cho học sinh, thể hiện ở các kĩ năng và hiểu biết sau:
    Nhận biết cái đẹp. Học sinh nhận biết được cái đẹp/cái xấu trong tự nhiên,
    đời sống xã hội và nghệ thuật; có cảm xúc và biết bày tỏ cảm xúc trước cái đẹp
    và cái chưa đẹp trong cuộc sống xung quanh.
    Phân tích, đánh giá cái đẹp. Học sinh mô tả được cái đẹp, biết so sánh, nhận
    xét về biểu hiện bên ngoài của cái đẹp, giới thiệu sản phẩm thông qua các gian
    hàng, phòng triển lãm.
    Tạo ra cái đẹp. Học sinh biết mô phỏng, tái hiện được vẻ đẹp quen thuộc
    bằng hình thức, công cụ, phương tiện, ngôn ngữ biểu đạt,… phù hợp, ở mức độ
    đơn giản; có ý tưởng sử dụng kết quả học tập/sáng tạo thẩm mỹ để làm tăng
    thêm vẻ đẹp cho cuộc sống hàng ngày của bản thân.
    Như vậy, từ lý luận đến thực tiễn của việc sử dụng dạy học tăng cường ứng
    dụng trong nhà trường hiện nay đã hình thành và phát triển năng lực cốt lõi cho
    học sinh khi tham gia các hoạt động học tập Mĩ thuật.
    2.3.5.Ví dụ minh họa:
    Chủ đề 7: Vũ điệu của sắc màu: Mĩ thuật 5
    Quy trình thực hiện
    – Vẽ theo nhạc
    – Đặt tên tác phẩm
    – Chia sẻ
    – Lựa chọn góc nhìn cá nhân
    – Làm sản phẩm cá nhân
    – Trưng bày, triển lãm, tặng, bán, đấu giá
    36
    Như vậy thông qua chủ đề này học sinh đã có thực hiện được những sản
    phẩm tăng cường ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày.
    37
    2.4. Một số lƣu ý khi sử dụng các kỹ thuật dạy học hiện đại nhằm phát triển
    năng lực:
    – Nắm vững các nội dung yêu cầu và phương pháp tổ chức để vận dụng linh
    hoạt trong các chủ đề, phù hợp với điều kiện thực tế và đối tượng học sinh
    – Dựa vào điều kiện thực tế ở mỗi địa phương, giáo viên linh hoạt lựa chọn các
    vật liệu và quy trình, phương pháp dạy học mĩ thuật phù hợp.
    – Động viên, khuyến khích, hỗ trợ kịp thời để giúp HS phát triển năng lực cá
    nhân
    – Cần chuẩn bị các học liệu, vật tìm được, đồ dùng học tập cho buổi học sau.
    – Giáo viên cũng cần cho học sinh mang sản phẩm về nhà để trưng bày thành
    góc Mĩ thuật ở gia đình.
    – Cuối mỗi chủ đề, GV cần tổ chức cho HS trưng

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Giải pháp khắc phục khó khăn trong giảng dạy Âm nhạc lớp 1 Chương trình GDPT 2018

    SKKN Giải pháp khắc phục khó khăn trong giảng dạy Âm nhạc lớp 1 Chương trình GDPT 2018

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    “Âm nhạc là loại hình nghệ thuật sử dụng âm thanh để diễn tả cảm
    xúc, thái độ, nhận thức và tư tưởng của con người. Âm nhạc là một phần thiết
    yếu của các nền văn hoá, gắn bó và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội.
    Âm nhạc làm phong phú những giá trị tinh thần của nhân loại, là phương
    tiện giúp con người khám phá thế giới, góp phần nâng cao chất lượng cuộc
    sống”. Âm nhạc còn là quà tặng đặc biệt dành cho tất cả mọi người trên trái
    đất này, không phân biệt già trẻ gái trai, không phân biệt màu da sắc tộc,
    không phân biệt giữa người có năng khiếu âm nhạc hay không có năng khiếu
    âm nhạc. Âm nhạc để lại trong lòng người những khoảng lắng cần thiết để có
    thể làm vui hơn niềm vui, làm vơi đi những nỗi buồn, làm dịu đi những căng
    thẳng trong cuộc sống đời thường để tình người được lên ngôi với đầy ắp tình
    yêu thương và lòng nhân ái. Lứa tuổi thiếu nhi nếu không được sống trong
    môi trường âm nhạc sẽ là một thiệt thòi lớn cho các em.
    Nhà sư phạm lỗi lạc thế giới Xu Khôm – Linxki đã nhận định về âm
    nhạc và tác dụng của nó với trẻ em như sau:
    “Tuổi thơ ấu không thể thiếu âm nhạc, trò chơi và truyện cổ tích. Thiếu
    những cái đó, trẻ em chỉ là những bông hoa khô héo. Âm nhạc dẫn dắt trẻ đi
    vào thế giới của những điều thiện, tạo được sự đồng cảm và là một phương
    tiện bồi dưỡng năng lực, trí tuệ mà không một phương tiện nào có thể sánh
    kịp. Thiếu giáo dục âm nhạc thì không thể phát triển trí tuệ của trẻ em một
    cách đầy đủ được.
    Trong nhà trường, giáo dục âm nhạc tạo cơ hội cho học sinh được trải
    nghiệm và phát triển năng lực âm nhạc – biểu hiện của năng lực thẩm mĩ với
    các thành phần sau: thể hiện âm nhạc, cảm thụ và hiểu biết âm nhạc, ứng
    dụng và sáng tạo âm nhạc; góp phần phát hiện, bồi dưỡng những học sinh có
    năng khiếu âm nhạc. Đồng thời, thông qua nội dung các bài hát, các hoạt
    động âm nhạc và phương pháp giáo dục của nhà sư phạm, giáo dục âm nhạc
    3
    góp phần phát triển ở học sinh các phẩm chất yêu nước, nhân ái, chăm chỉ,
    trung thực, trách nhiệm, cùng các năng lực tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp
    tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo để trở thành những công dân phát triển
    toàn diện về nhân cách, hài hoà về thể chất và tinh thần. Sự yêu thích âm
    nhạc của trẻ diễn ra một cách tự nhiên như là một nhu cầu không thể thiếu.
    Để trẻ phát triển một cách toàn diện, phù hợp với xu thế của thời đại, bên
    cạnh những môn văn hóa, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa các môn nghệ
    thuật như Âm nhạc, Mĩ thuật vào chương trình phổ thông. Trong chương
    trình Âm nhạc cấp Tiểu học, phân môn chủ đạo và xuyên suốt là phân môn
    “Học hát”. Qua học hát, các em có ý thức về việc hát đúng cao độ, trường độ
    và tập hát diễn cảm để từ đó kết hợp với các động tác phụ họa khi biểu diễn
    tại lớp cũng như các hoạt động âm nhạc khác, Học sinh được giáo dục tình
    cảm trong sáng, lành mạnh, phát triển năng lực cảm thụ âm nhạc, có ý thức
    tích cực tham gia các hoạt động âm nhạc ở lớp, ở trường…
    Năm học 2020 – 2021, là năm học đầu tiên chương trình GDPT 2018
    được thực hiện đối với lớp 1. Để thực hiện chương trình đạt hiệu quả, sau quá
    trình nghiên cứu và được tập huấn kĩ càng trước khi chính thức áp dụng
    chương trình, tôi nhận thấy được một số khó khăn khi giảng dạy môn Âm
    nhạc lớp 1 chương trình mới, chính vì thế tôi lựa chọn đề tài:
    “Giải pháp khắc phục khó khăn trong giảng dạy Âm nhạc lớp 1
    chương trình GDPT 2018″
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến
    Chương trình môn Âm nhạc cấp tiểu học giúp học sinh bước đầu làm
    quen với kiến thức âm nhạc phổ thông, sự đa dạng của thế giới âm nhạc và
    các giá trị âm nhạc truyền thống; hình thành một số kĩ năng âm nhạc ban đầu;
    nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ và tình yêu âm nhạc, hứng thú tham gia các
    hoạt động âm nhạc phù hợp với lứa tuổi; góp phần hình thành và phát triển
    cho học sinh những phẩm chất chủ yếu (yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung
    4
    thực, trách nhiệm) và các năng lực chung (tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp
    tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo). Khi thực hiện chương trình mới, tôi nhận
    thấy có những thuận lợi, khó khăn sau:
    1.1. Thuận lợi:
    1.1.1. Về cơ sở vật chất: Trường tiểu học Lương Thế Vinh được công
    nhận đạt chuẩn mức II và chuẩn Xanh – Sạch – Đẹp – An toàn, cơ sơ vật chất
    của nhà trường được nâng cấp khang trang. cảnh quan sạch đẹp, có phòng
    học riêng cho bộ môn âm nhạc với các thiết bị phục vụ bộ môn tương đối đầy
    đủ và hiện đại như máy tính, máy chiếu, ti vi thông minh kết nối internet…
    1.1.2. Về nội dung chương trình, SGK lớp 1:
    * Về Sách học sinh:
    – Có đủ SGK
    – Sách được phân chia theo Chủ đề giúp giáo viên (GV) xây dựng kế
    hoạch và triển khai thực hiện dễ dàng hơn.
    * Về đồ dùng học tập, tư liệu tham khảo:
    – Bộ đồ dùng học tập của HS sinh động, dễ sử dụng. Có trang sách điện
    tử làm tài liệu tham khảo.
    * Về Sách giáo viên (SGV) và kế hoạch bài học (KHBH):
    – SGV được thiết kế chi tiết với KHBH theo từng chủ đề có các trang
    học liệu điện tử như trang Hành trang số, trang Tập huấn…để tham khảo
    – GV được chủ động lên kế hoạch từng tiết, từng tuần và cả năm học.
    – Có nhiều trang, hội nhóm, sách tham khảo…. trên mạng internet, có
    KHBH đã được xây dựng để GV tham khảo bám sát chương trình Âm nhạc
    ban hành ngày 26/12/2018, khi chuyển thành SGK có độ mở nhất định. Kế
    thừa có chọn lọc một số điểm trong các SGK Âm nhạc đã có. Vận dụng một
    số kinh nghiệm của các nước. Sách góp phần đổi mới Phương pháp dạy học
    âm nhạc. Sách được trình bày gọn gàng, sáng sủa, nội dung nhẹ nhàng, dễ
    dạy, dễ học. Hình thức sách có tính thẩm mĩ, nhiều hình minh họa, hấp dẫn.
    5
    Những bài hát trong chương trình là những bài hát có lời ca hay, trong
    sáng, được viết ở các nhịp
    2 4
    ;
    4 4
    với tiết tấu và hình thức âm nhạc đơn giản,
    giai điệu đẹp, âm vực các bài hát thường không quá quãng 9, phù hợp với
    tâm sinh lý của học sinh lớp 1.
    1.1.3. Về yếu tố con người:
    * Về Học sinh
    – Hồn nhiên, ngây thơ trong sáng, yêu thích môn học.
    – HS hứng thú tham gia các hoạt động như: khởi động trước tiết học,
    các trò chơi, các bài tập (BT) liên quan đến trò chơi….
    – Hầu hết học sinh khối lớp 1 có cùng độ tuổi nên có sự đồng đều về
    nhận thức và đặc biệt các em rất thích học âm nhạc nên các em luôn có sự say
    mê, hứng thú đối với môn học.
    * Về GV
    – Tâm huyết, yêu nghề, được đào tạo chuyên môn căn bản.
    * Về PHHS
    – Mua đầy đủ SGK cho con em mình và quan tâm tới việc học của các
    con hơn trước kia.
    – Chưa có ý kiến phản hồi đồng tình hay không đồng tình với chương
    trình GDPT mới.
    Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện tốt nhất để giáo viên và
    học sinh hoàn thành nhiệm vụ dạy và học.
    Là giáo viên chuyên, được đào tạo cơ bản về âm nhạc, đồng thời là giáo
    viên cốt cán bộ môn, đã được phòng giáo dục cử đi học lớp tin học phục vụ
    trong giảng dạy, tôi có cơ hội đem những kiến thức của mình giảng dạy cho
    học sinh và chia sẻ cùng đồng nghiệp.
    Là giảng viên cốt cán bộ môn Âm nhạc cấp tiểu học tỉnh Nam Định, tôi
    được tham gia trực tiếp các đợt tập huấn chuyên môn của Bộ GD – ĐT nên có
    điều kiện nắm bắt tốt hơn về nội dung chương trình và phương pháp giảng
    dạy âm nhạc ở Tiểu học.
    6
    1.2. Khó khăn:
    Tuy nhiên, khi thực hiện giảng dạy Âm nhạc lớp 1 chương trình GDPT
    2018, tôi nhận thấy có những khó khăn sau:
    1.2.1. Về Cơ sở vật chất: Tuy đã được công nhận đạt chuẩn II, nhưng
    sau khi sáp nhập trường thì tại điểm trường A vẫn còn thiếu một số phòng
    chức năng trong đó có phòng âm nhạc. Chương trình giáo dục phổ thông mới
    đã chính thức thông qua vào tháng 7/2017. Mặc dù đã được quyết định lùi
    thời gian triển khai nhưng lộ trình đưa chương trình giáo dục phổ thông mới
    vào áp dụng trong thực tế vẫn gấp gáp. Hiện các nhà trường còn khá nhiều
    khó khăn để đảm bảo cho chương trình được thực hiện đúng mục tiêu. Một
    trong những khó khăn lớn nhất của các trường hiện nay là điều kiện cơ sở vật
    chất nhằm đáp ứng chương trình, sách giáo khoa mới, số phòng học bộ môn,
    trang thiết bị dạy học, thư viện hiện chưa đáp ứng được nhu cầu.
    Các cơ sở giáo dục trong huyện có nơi vẫn còn phòng học bán kiên cố,
    các thiết bị ứng dụng công nghệ thông tin ở một số trường thiếu hoặc đã lạc
    hậu. Một yêu cầu quan trọng để triển khai chương trình giáo dục phổ thông
    mới là cơ sở vật chất. Điều kiện tối thiểu là học sinh Tiểu học phải học 2
    buổi/ngày, sĩ số 35 học sinh/lớp. Lớp học cũng phải đảm bảo điều kiện về
    diện tích để kê bàn ghế theo nhóm… đây cũng là thách thức không nhỏ vì khi
    thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, về phòng học, cấp tiểu học
    phải đảm bảo yêu cầu 1 lớp/phòng học để học 2 buổi/ngày, trong thực tế một
    số trường chưa đáp ứng được yêu cầu của chương trình mới.
    1.2.2. Về nội dung chương trình:
    * Về SGK, vở bài tập (VBT)
    – Một số trang chữ viết nhỏ, HS chưa biết chữ nên rất khó đọc được nội
    dung, các em còn nhiều bỡ ngỡ, tốn nhiều thời gian để học lời ca. VBT ít học
    sinh có.
    – Một số bài hát chưa thực sự hay, quãng khó, kết lửng.
    * Về đồ dùng học tập, tư liệu
    7
    – Thiếu đồ dùng dạy học (tranh ảnh, đồ dùng của GV và HS).
    – Cơ sở vật chất một số trường chưa có điều kiện (tivi, máy chiếu, âm
    thanh) hỗ trợ giảng dạy tương tác trình chiếu, nên cách truyền đạt chưa linh
    hoạt, sinh động như các bài giảng mẫu, thiếu đồ dùng dạy học nên cũng khó
    truyền đạt nội dung hoặc tổ chức luyện tập được sinh động.
    – Trang hanhtrangso.nxbgd.vn GV khó khăn khi đăng nhập theo mã số
    sau sách vì:
    + Mã số in quá nhỏ, khó đọc.
    + Đa số đăng nhập đều bị báo là mã số đã đăng nhập hoặc sai mật khẩu
    * Về nội dung chương trình:
    – Tập đọc cao độ các nốt nhạc Đô – Rê – Mi – Son – La hơi quá sức với
    học sinh lóp 1, vì nhiều em nói còn ngọng, phát âm chưa chuẩn.
    – Hiện nay chủ trương của ngành giáo dục là giảm tải nhiều nội dung
    trong sách giáo khoa, nhưng trong thực tế việc thực hiện chủ trương này vẫn
    còn hạn chế. Công tác hành chính, sổ sách của cán bộ quản lý và giáo viên
    vẫn còn rất nhiều.
    * Về KHBH
    Nội dung bài soạn dài, giáo viên có rất nhiều lo lắng vì cho đến hiện
    tại “quyền tự chủ cho giáo viên sắp xếp lại nội dung, xây dựng kế hoạch
    giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh” chỉ dừng lại ở mức bố trí tiết học
    thế nào, kết hợp hay chia tách nội dung của sách giáo khoa mà không phải là
    định hướng nội dung và tự do chọn lựa chương trình. Đồ dùng dạy học của
    giáo viên và đồ dùng học tập của học sinh ở chương trình mới chưa được
    trang bị đầy đủ
    1.2.3. Khó khăn về yếu tố con người:
    * Về Học sinh
    – Khó khăn khi đọc lời ca vì chưa biết chữ.
    – Hiếu động, vẫn còn ảnh hưởng nền nếp sinh hoạt ở trường mầm non.
    * Về GV
    8
    – Thời gian tập huấn còn quá ít, khó tiếp thu vì đa số là tập huấn trực
    tuyến.
    – Nội dung bài soạn trong SGV dài và chưa quen xây dựng KHBH.
    – Thiếu thiết bị ĐDDH và các phương tiện hỗ trợ khác như: âm thanh,
    tivi, sách tham khảo, tranh ảnh….
    * Về PHHS
    – Chưa thực sự tham gia vào quá trình giáo dục, nhận xét, đánh giá học
    sinh đặc biệt còn xem nhẹ bộ môn ít giờ.
    – Đa phần PHHS là nông dân và công nhân, ít có thời gian để theo sát
    việc học của con.
    Một trong những vấn đề hóc búa và nan giải nhất khi triển khai thực
    hiện chương trình – sách giáo khoa mới là những khó khăn về đội ngũ giáo
    viên, cán bộ quản lý. Một số trường giáo viên và cán bộ quản lý chưa đạt
    chuẩn về văn bằng chứng chỉ…
    2. Mô tả giải pháp sau khi áp dụng sáng kiến.
    2.1. Khắc phục khó khăn về cơ sở vật chất:
    Để đáp ứng điều kiện cơ sở vật chất thực hiện chương trình – sách giáo
    khoa mới, số phòng học bộ môn, trang thiết bị dạy học, thư viện cần phải
    được đầu tư, trang bị đầy đủ và khắc phục việc thiếu tư liệu, phần mềm,
    phương tiện phục vụ giảng dạy âm nhạc cùng những hạn chế của các phương
    tiện sẵn có.
    Khi gặp những khó khăn như trên, tôi đã mất nhiều ngày tư duy, tìm
    hiểu vấn đề, nguyên nhân vướng mắc để tìm cách tháo gỡ. Qua một thời gian,
    với những trải nghiệm thực tế, tôi xin được trình bày những giải pháp mà tôi
    đã thực hiện để khắc phục khó khăn này.
    Trước tiên, tôi tham mưu với nhà trường để nhà trường tham mưu với
    chính quyền địa phương và quản lý cấp trên cho phương án khắc phục việc
    thiếu phòng học. Được sự đồng ý của cấp trên, nhà trường đã dồn khối lớp
    chưa thực hiện chương trình mới để tạo điều kiện đủ phòng học cho lóp 1
    9
    thực hiện chương trình. Phòng âm nhạc được nối mạng internet và trang bị
    âm thanh, màn hình phù hợp, thay màn chiếu bằng Smart tivi.
    Có Smart tivi, tôi khai thác được rất nhiều tư liệu phục vụ việc giảng
    dạy từ trang Hành trang số, trang Tập huấn… ở đó có tương đối đầy đủ các tư
    liệu, hình ảnh, âm thanh để ta sử dụng cho việc dạy học.
    10
    2.2. Khắc phục khó khăn về nội dung chương trình:
    * Về SGK, VBT
    – HS chưa biết chữ nên rất khó đọc được nội dung, các em còn nhiều
    bỡ ngỡ, tốn nhiều thời gian để học lời ca. Tôi đã sử dụng smart phone kết nối
    với smart tivi trình chiếu lời ca sau đó dùng thanh phách hướng dẫn các em
    đọc lời ca theo tiết tấu.
    Qua việc thực hành này các em đã thuộc lời ca dễ dàng hơn
    – Một số bài hát chưa thực sự hay, quãng khó, kết lửng. Tôi đã chủ
    động báo cáo với BGH để xin được thay thế bài hát khác và sử dụng thời
    lượng phù hợp hơn để giải quyết những hạn chế này. Đề xuất hợp lí nên BGH
    và phụ trách chuyên môn cấp trên rất đồng tình.
    * Về đồ dùng học tập, tư liệu
    – Thiếu đồ dùng dạy học (tranh ảnh, đồ dùng của GV và HS). Tôi đã
    nhờ giáo viên chủ nhiệm lớp thông qua hệ thống sổ liên lạc điện tử nhắn tới
    11
    phụ huynh làm giúp con em mình những nhạc cụ đơn giản như thanh phách,
    súc sắc… tôi cho thông số kích thước, chất liệu cụ thể như: chiều dài, chiều
    rộng, độ dày, các vật liệu như: tre, nứa, gỗ, chai nhựa, đá cuội, sỏi, bi ve…
    Qua đó, phụ huynh rất dễ thực hiện giúp con em mình và các em đã rất thích
    thú, phấn khởi khi sử dụng các đồ dùng tự làm đó trong các tiết học, phụ
    huynh cũng cảm thấy rất vui và hào hứng khi được đồng hành cùng các con
    trong việc học tập.
    – Cơ sở vật chất của một số trường chưa có điều kiện (tivi, máy chiếu,
    âm thanh) hỗ trợ giảng dạy tương tác trình chiếu, nên cách truyền đạt chưa
    linh hoạt, sinh động như các bài giảng mẫu, thiếu đồ dùng dạy học nên cũng
    khó truyền đạt nội dung hoặc tổ chức luyện tập được sinh động. Trong các
    buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi đã phát biểu ý kiến đề xuất để lãnh đạo cấp
    trên có biện pháp tham mưu tháo gỡ.
    – Trang taphuan.nxbgd.vn; trang hanhtrangso.nxbgd.vn, GV gặp khó
    khăn khi đăng nhập theo mã số sau sách vì:
    + Mã số in quá nhỏ, khó nhìn.
    + Đa số đăng nhập đều bị báo là mã số đã đăng nhập hoặc sai mật khẩu
    Sau khi nhiều đồng nghiệp thắc mắc vì không đăng nhập được, tôi đã
    liên hệ trực tiếp với người phụ trách của Phòng giáo dục, Sở giáo dục đề xuất
    vướng mắc để cán bộ phụ trách cấp trên cấp tài khoản và mật khẩu mới hoặc
    cho cách khắc phục những vướng mắc này. Sau đó, khó khăn trong việc đăng
    nhập đã được giải quyết.
    Khi đã đăng nhập được các trang: taphuan.nxbgd.vn; hay là trang
    hanhtrangso.nxbgd.vn, tôi đã hướng dẫn cặn kẽ bằng hình ảnh cụ thể để các
    đồng nghiệp có thể dễ dàng thực hiện thao tác tìm kiếm tư liệu trên nền tảng
    của ứng dụng đó và một số nền tảng ứng dụng khác trên không gian mạng
    internet như: YouTube, Zalo, Facebook… có rất nhiều tư liệu để sử dụng và
    tham khảo, như hình ảnh dưới đây:
    + Tư liệu trên YouTube
    12
    13
    + Tư liệu Trên Zalo; Facebook:
    14
    + Tìm tư liệu để phục vụ giảng dạy và tham khảo trên các trang của
    nxbgd.vn với các bước đăng nhập như sau:
    * Bước 1: Trên Google (hoặc Cốc Cốc…) nhập từ khóa vào ô tìm kiếm.
    15
    * Bước 2: Đăng nhập bằng ID và mật khẩu được cấp hoặc đăng nhập
    bằng Email của mình rồi click (nháy chuột trái) vào quên mật khẩu, mật khẩu
    sẽ được cung cấp qua Email mà ta vừa dùng để dăng nhập.
    16
    * Bước 3: Chọn lớp và chọn bộ sách mà ta sử dụng
    17
    * Với trang hanhtrangso.nxbgd.vn: ta cũng thao tác tương tự như vậy.
    Ở những trang học liệu này ta sẽ thấy có đầy đủ các bộ sách và các môn học
    khác nhau để phục vụ giảng dạy và làm tư liệu tham khảo.
    18
    19
    20
    21
    + Ta cũng có thể tìm tài liệu liên môn một cách dễ dàng:
    22
    * Về nội dung chương trình:
    – Tập đọc cao độ các nốt nhạc Đô – Rê – Mi – Son – La hơi quá sức với
    học sinh lóp 1, vì nhiều em nói còn ngọng, phát âm chưa chuẩn, hơi thở ngắn.
    Tôi đã phải tăng nhiều thời gian hơn và chia nhỏ câu nhạc ra để giúp các em
    thực hiện được yêu cầu cần đạt của bài.
    Hiện nay chủ trương của ngành giáo dục là giảm tải nhiều nội dung
    trong sách giáo khoa nhưng trong thực tế việc thực hiện chủ trương này vẫn
    còn hạn chế. Công tác hành chính, sổ sách của c

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Nâng cao chất lượng dạy hát Dân ca đối với học sinh cấp tiểu học

    SKKN Nâng cao chất lượng dạy hát Dân ca đối với học sinh cấp tiểu học

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    Dân ca Việt Nam là một thể loại âm nhạc cổ truyền của Việt Nam, hiện vẫn
    đang được sáng tác. Âm nhạc này có nhiều làn điệu từ khắp các miền cộng đồng
    người, thể hiện qua có nhạc hoặc không có nhạc của các dân tộc Việt Nam. Do
    chính người dân lao động tự sáng tác theo tập quán, phong tục. Trong sinh hoạt
    cộng đồng người quần cư trong vùng đất của họ, thường trong làng xóm hay
    rộng hơn cả một miền. Các làn điệu dân ca thể hiện phong cách bình dân, sát với
    cuộc sống lao động mọi người. Các dịp biểu diễn thường thường là lễ hội, hát
    làng nghề. Thường ngày cũng được hát lên trong lao động để động viên nhau,
    hay trong tình yêu đôi lứa, trong tình cảm giữa người và người. Tuy nhiên mỗi
    tỉnh thành của Việt Nam lại có âm giọng và ca từ khác nhau nên dân ca cũng có
    thể phân theo tỉnh nhưng gọi chung cho dễ gọi vì nó cũng có tính chung
    của miền Bắc, miền Trung và miền Nam Việt Nam.
    – 3 –
    Đối với người dân Việt Nam nói chung và với trẻ em nói riêng, làn điệu
    dân ca đã thấm sâu vào tâm hồn mỗi người ngay từ khi còn trong bụng mẹ. Từ
    những lời ru ầu ơ, các làn điệu dân ca ngọt ngào, tha thiết đã rất gần gũi với mỗi
    người Việt Nam. Những làn điệu dân ca tiêu biểu, đặc sắc của từng vùng miền
    đã làm rung động tâm hồn mỗi người dân Việt. Cho đến ngày nay, những di sản
    nghệ thuật quý báu ấy vẫn là những nguồn sữa dinh dưỡng để bồi bổ, nuôi
    dưỡng tâm hồn cho mỗi con người, nhất là trong bối cảnh của thời kì hội nhập
    và toàn cầu hóa, khi mà sự giao thoa và tiếp biến các giá trị văn hóa nói chung
    và văn hóa dân gian nói riêng đã tạo nên những trào lưu mới trong xã hội, và
    cũng tạo nên những ảnh hưởng không ít tới sự hình thành và phát triển những
    nét tâm lý, tính cách của thế hệ trẻ.
    Đối với giáo dục, các bài hát dân ca đã được đưa vào trong chương trình
    học của các bậc học. Tuy nhiên, trong chương trình môn Âm nhạc của bậc Tiểu
    học thì các bài hát dân ca còn rất ít. Do vậy sự hiểu biết của các em học sinh
    Tiểu học về dân ca chưa thật sự sâu rộng. Mặt khác sự xâm nhập tràn lan của
    những dòng nhạc hiện đại, nhạc giải trí đã khiến cho các em ít quan tâm tới việc
    lưu giữ các làn điệu dân ca riêng của quê hương mình. Học sinh Tiểu học ở lứa
    tuổi từ 6 đến 11, đây là lứa tuổi rất nhạy cảm với Âm nhạc. Với nhận thức của
    học sinh tiểu học thì hát dân ca chiếm vị trí quan trọng trong nghệ thuật âm
    nhạc. Âm nhạc dân gian giúp các em hướng tới cái “Chân – Thiện – Mỹ”. Việc
    đưa dân ca vào trường học không chỉ đơn thuần là dạy dân ca, hát dân ca mà
    quan trọng là giúp học sinh nhận ra được những giá trị to lớn của văn hóa dân
    ca. Từ đó các em biết trân trọng, yêu quý, biết lưu giữ điệu hồn dân tộc; góp
    phần giáo dục các em trở thành những người phát triển toàn diện. Ngoài ra, còn
    giúp các em có tâm hồn phong phú và bớt mệt mỏi sau những giờ học căng
    thẳng.
    – 4 –
    *, Thực trạng:
    a, Thuận lợi:
    Trong tình hình chung, việc giảng dạy bộ môn âm nhạc ở cấp tiểu học cũng
    như các phong trào hoạt động ngoài giờ phát triển mạnh. Học sinh tiểu học rất
    thích bộ môn này. Nhờ đó các em rất say mê và thích thú. Thích thể hiện khả
    năng âm nhạc và rất thích thể hiện sự sáng tạo trong âm nhạc.
    Trường Tiểu học Chu Văn An là một trường có thế mạnh về các hoạt động
    ngoài giờ lên lớp. Trường có một cơ sở vật chất khang trang; đủ điều kiện tổ
    chức các hoạt động học trong lớp và dạy học ngoài không gian lớp học. Riêng
    bộ môn âm nhạc đã được đầu tư đầy đủ về cơ sở cật chất cũng như đồ dùng dạy
    học như máy tính, máy chiếu, loa đài, đàn phím điện tử, tranh ảnh, các bộ gõ cơ
    bản…Bên cạnh đó là sự hiểu biết, mong muốn cũng như sự ủng hộ nhiệt tình của
    đại đa số các bậc phụ huynh về bộ môn âm nhạc. Đặc biệt học sinh trường tiểu
    học Chu văn An có một phong cách rất tự tin, và vô cùng yêu thích bộ môn âm
    nhạc. Đó là thế mạnh mà ít trường có thể làm được. Chính vì thế trong thời gian
    qua,khi triển khai dạy – học, nhất là bộ môn Âm nhạc đã gặt hái được những kết
    quả tốt.
    b, Khó khăn
    Trong chương trình Âm nhạc ở Tiểu học, học hát là nội dung trọng tâm,
    được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 5. Đây cũng là phân môn học sinh vô cùng yêu
    thích nhất. Phân môn học hát có ba thể loại là: học hát bài hát thiếu nhi Việt
    Nam, học hát bài hát dân ca và các bài hát nước ngoài. Nội dung chương trình
    chính khóa môn Âm nhạc cấp tiểu học có 11 bài dân ca Việt Nam, đó là: Quê
    hương tươi đẹp (dân ca Nùng); Lí cây xanh (dân ca Nam Bộ); Xoè hoa (dân ca
    Thái); Bắc kim thang (dân ca Nam Bộ); Gà gáy (dân ca Cống); Ngày mùa vui
    (dân ca Thái); Bạn ơi lắng nghe (dân ca Ba na); Cò lả (dân ca đồng bằng Bắc
    Bộ); Chim sáo (dân ca Khmer); Màu xanh quê hương (dân ca Khmer); Hát
    mừng (dân ca Hrê); Tuy nhiên bài hát Màu xanh quê hương trong mấy năm gần
    – 5 –
    đây đã được thay bằng một bài hát địa phương tự chọn. Ngoài ra trong chương
    trình còn có bài hát dân ca nước ngoài là bài hát Con chim non (dân ca Pháp).
    Với một số lượng các bài hát dân ca chưa phải là lớn như vậy cùng với một
    khoảng thời gian 35 – 40p/1tiết thì sự tiếp thu của các em có thể tạm dừng ở mức
    đọ hát dúng giai điệu, thuộc lời ca. Còn thể hiện được tính chất bài hát hoặc
    thấm được nét giai điệu, thấm được nét văn hóa.. trong các em chưa có trừ các
    em có năng khiếu hoặc áp dụng các phương pháp giảng dạy đa dạng, phong phú
    và hữu ích.
    Việc dạy hát dân ca cho học sinh tiểu học là rất khó so với dạy các bài hát
    thiếu nhi trong chương trình sách giáo khoa. Bởi mỗi bài dân ca trong chương
    trình đều gắn liền với đời sống sinh hoạt, những truyền thống văn hóa tốt đẹp
    của một vùng, hoặc của đặc thù riêng một dân tộc. Mỗi một bài hát có cách hát,
    cách diễn đạt khác nhau. Trên cơ sở để đạt được những kết quả tốt hơn trong
    giảng dạy cũng như niềm say mê học hỏi, sáng tạo tôi đã lấy đó là động cơ
    nghiên cứu, áp dụng vào giảng dạy và viết Sáng kiến kinh nghiệm này.
    Trong thời gian qua tôi đã nghiên cứu, tìm tòi để rút ra những kinh nghiệm;
    hệ thống hóa một hệ thống đa dạng hơn các phương pháp dạy hát dân ca để nâng
    cao chất lượng dạy hát dân ca cấp tiểu học. Sau đây tôi xin trình bày nội dung,
    kính mong được sự góp ý của hội đồng khoa học cũng như các thầy cô giáo.
    – 6 –
    B. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    I. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT TRƢỚC KHI CÓ SÁNG KIẾN
    Ở những năm học trước, khi dạy hát dân ca nói riêng, dạy hát nói chung
    chủ yếu kết quả đạt được là hát đúng giai điệu, thuộc lời ca; biết hát kết hợp gõ
    đệm; biết hát kết hợp vận động phụ họa. Chủ yếu chỉ dạy hát dân ca theo thời
    lượng quy định cúa Bộ giáo dục, một tiết dạy bài hát mới và một tiết Ôn tập bài
    hát. Ở các tiết dạy hát dân ca không có liên hệ đến các tiết Nghe nhạc và Giới
    thiệu nhạc cụ. Cũng như không tổ chức Câu lạc bộ; không áp dụng các trò chơi
    dân gian vào dạy hát dân ca. Chính vì thế đã hạn chế sự sáng tạo của các em
    cũng như niềm hứng khởi khi học hát dân ca. Các em không có sự tưởng tượng
    trong phân môn này và không có trí nhớ sâu về các giai điệu, các nét văn hóa
    vùng miền. Tiết dạy không có sự say mê, yêu thích, niềm hứng khởi hạn hẹp..
    Sau khi nghiên cứu Đổi mới phương pháp dạy học Âm nhạc cấp tiểu học qua mô
    hình trường học mới VNEN tôi đã nghiên cứu lại các phương pháp giảng dạy hát
    dân ca để nâng cao chất lương dạy – học hát dân ca.
    Chính vì có sự đổi mới trong phương pháp giảng dạy nên chất lượng của
    học sinh có sự thay đổi rõ rệt. Ngoài việc các em phát huy được các kỹ năng hát,
    kỹ năng biểu diễn các bài hát dân ca thì các em còn có rất nhiều các tiết mục văn
    nghệ biểu diễn trươc toàn trường cũng như biểu diễn ở các Hội nghị, các buổi lễ
    do Phòng Giáo dục – Đào tạo, Sở Giáo dục – đào tạo, Ủy ban nhân dân thành
    phố cũng như các chương trình lớn khác tổ chức.
    – 7 –
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN
    1. Khái niệm về dân ca Việt Nam
    1.1. Khái niệm dân ca Việt Nam
    Người Đức gọi dân ca là volkslied (tạm dịch là: bài ca của nhân dân),
    người Pháp gọi là chanson populaire (tạm dịch là: bài ca phổ cập trong quần
    chúng), người Anh gọi dân ca là folk song (tạm dịch là bài ca mang tính dân
    tộc). Ngay cả trong các tài liệu Việt Nam về dân ca hay công trình Nghiên cứu
    của Gs. TS Vũ Ngọc Khánh “Tiếp cận kho tàng folklore Việt Nam” cũng không
    có khái niệm cụ thể hay một định nghĩa công thức về dân ca như các định nghĩa
    về những phạm trù khác.
    Dân ca Việt Nam là một thể loại âm nhạc cổ truyền, qua việc truyền khẩu,
    truyền ngón các bài dân ca, mỗi người diễn xướng có quyền ứng tác tự do, góp
    phần sáng tạo của mình vào tác phẩm trong quá trình biểu diễn. Do vậy họ gần
    như là “đồng tác giả” với những người sáng tác mà người sáng tác ban đầu
    không rõ là ai. Một bài dân ca thường tồn tại với một bản coi như bản gốc, gọi là
    lòng bản và nhiều bản được ứng tấu thêm hay sửa đổi gọi là dị bản. Những bài
    dân ca được nhiều người yêu thích sẽ được truyền bá đi khắp nơi. Hiện nay các
    nhạc sĩ đã sáng tác thêm những lời ca mới dựa trên các làn điệu đã có tạo nên sự
    đa dạng và phong phú cho dân ca. Các dịp biểu diễn thường là lễ hội, hát làng
    nghề ngoài ra thường ngày cũng được hát lên trong lao động để động viên nhau,
    hay trong tình yêu đôi lứa, trong tình cảm giữa người và người. Tuy nhiên mỗi
    tỉnh thành, dân ca Việt Nam lại có phát âm, giọng nói và các từ khác nhau nên
    cũng có thể phân theo tỉnh cho dễ gọi vì nó cũng có tính chung của miền Bắc,
    miền Trung và miền Nam. Ngày nay, khi khảo sát một bài dân ca được phổ biến
    ở một vùng nào đó, muốn biết được xuất xứ của chúng, người ta thường dựa vào
    một vài đặc điểm có trong đó ví dụ như tiếng địa phương, những địa danh. Đây
    là cách dễ nhận biết nhất để nhận ra xuất xứ của một bài dân ca. Nói chung trong
    các bài dân ca miền Bắc thường có những từ đệm như: “rằng, thì, chứ…” và các
    – 8 –
    dấu giọng như: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng được dệt bới những nốt nhạc sao cho
    việc phát âm được rõ nét. Một số phụ âm được phát âm một cách đặc thù như:
    “r, d, gi” hay “s và x” phát âm giống nhau, không phân biệt nặng nhẹ. Dân ca
    miền Trung thì thường có chữ “ ni, nớ, răng, rứa…” dấu sắc được đọc thành dấu
    hỏi (so với giọng người Bắc), dấu hỏi và ngã đều được đọc giống nhau và trầm
    hơn chữ không dấu. Những bài dân ca miền Nam thì thường có chữ “má (mẹ),
    bậu (em), đặng (được)…” chữ “ê” đọc thành chữ “ơ”, dấu ngã đọc thành dấu
    hỏi,… Nhưng nhìn chung thì vẫn là thoát thai từ lòng dân với đậm tính chất mộc
    mạc giản dị của họ. (Sưu tầm)
    Theo GS.TS Trần Quang Hải làm việc tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu
    khoa học về Sơ lược về dân ca Việt Nam: “Dân ca là những bài hát, khúc ca
    được sáng tác và lưu truyền trong dân gian mà không thuộc về riêng một tác giả
    nào. Đầu tiên bài hát có thể do một người nghĩ ra rồi truyền miệng qua nhiều
    người từ đời này qua đời khác và được phổ biến ở từng vùng, từng dân tộc…
    Các bài dân ca được gọt giũa, sàng lọc qua nhiều năm tháng bền vững với thời
    gian”.
    Để tiện cho việc nghiên cứu, ta có thể hiểu khái niệm về dân ca tạm thời
    như sau: Dân ca là những bài hát cổ truyền do nhân dân sáng tác được lưu
    truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
    1.2. Sự đa dạng và phong phú của dân ca Việt Nam
    Việt Nam là một quốc gia đa sắc tộc với nền văn hóa lâu đời, do vậy dân ca
    Việt Nam bao gồm nhiều vùng miền, nhiều thể loại vô cùng phong phú: dân ca
    Quan họ Bắc Ninh, hát Ví, hát Dặm (Nghệ An), hát Xoan (Phú Thọ), hát Trống
    quân ở nhiều làng quê Bắc Bộ, hát Dô (Hà Tây), hò Huế, lý Huế ở TrungBộ,
    Nam Bộ có các điệu Lý, điệu Hò… dân ca của các dân tộc miền núi phía Bắc,
    đồng bào Thái, H’mông, Mường, dân ca các dân tộc Tây nguyên… đều có
    những nét riêng, mang bản sắc riêng. Những âm điệu tiết tấu, đặc trưng của dân
    ca phần lớn bắt nguồn từ những câu ca dao thâm thúy khúc chiết, loại thơ vần
    như lục bát hay những câu đồng dao đơn giản được bổ sung qua nhiều giai đoạn
    – 9 –
    rồi trở nên những thể loại hát dân gian khác nhau của từng địa phương, từng
    vùng đất nước.
    Từ bao đời nay dân ca luôn gắn liền với đời sống tinh thần của cộng đồng
    các dân tộc trên khắp đất nước Việt Nam. Ngoài những làn điệu thuộc các loại
    dân ca khác nhau còn những loại hát có nhạc đệm theo như: Chầu văn, ca Trù,
    ca Huế… nhạc tài tử Miền Nam và những hình thức ca kịch độc đáo như Tuồng,
    Chèo, Cải lương… Hát Chầu văn là hình thức hát nhạc thờ cúng, có tính chất
    tôn giáo linh thiêng, các thầy cúng chuyên nghiệp đánh đàn nguyệt, có giọng hát
    điêu luyện phụ theo, thuộc nhiều điệu hát và pha vào là tiếng trống vỗ. Ngoài ra
    Quan họ Bắc Ninh cũng là một lối hát phong phú và độc đáo về âm nhạc. Dân
    ca Việt Nam rất phong phú và đa dạng, đi liền với tiếng hát ru, đồng dao, trò
    chơi trẻ em, rồi đến các điệu hò, điệu lý. Các điệu hát trong khi làm việc, trong
    những lễ hội tạo điều kiện cho nhiều thế hệ gặp nhau qua các loại hát giao
    duyên. Mức sáng tác lời mới nhiều hơn các thể loại nhạc cung đình, nhạc bác
    học, nhạc thính phòng và đưa vào trong văn chương bình dân những đóng góp
    đáng kể (hát quan họ). Phần nhiều chỉ có tuỳ hứng lời trên một điệu nhạc (hát
    Trống quân, Cò lả…). Chỉ có hát Quan họ là vừa sáng tác lời lẫn nhạc. Riêng
    Quan họ theo thống kê mới nhất hiện nay có tới trên 700 làn điệu khác nhau
    trong truyền thống hát Quan họ. Còn theo TS Nghiên cứu âm nhạc Hà Thị Hoa
    thì hiện nay có khoảng 250 làn điệu Chèo…(Sưu tầm)
    Dân ca lại mang màu sắc địa phương rất đặc biệt, tuỳ theo phong tục ngôn
    ngữ, giọng nói và âm nhạc của từng vùng mà khác đi đôi chút. Từ những bài hát
    ru được nghe khi còn nằm trong nôi mà các mẹ (bà ,chị) hát ru trẻ ngủ. Loại này
    được gọi là hát ru (miền Bắc), ru con (miền Trung), hay gọi là hát đưa em, ầu ơ
    ví dầu (miền Nam). TS Trần Quang Hải nói về Dân ca Việt Nam: “Dân ca Việt
    Nam được trình bày theo trình tự một đời người, nghĩa là bắt đầu bằng các bài
    hát ru khi em bé bắt đầu chào đời, đến khi đứa bé lớn lên, trưởng thành và chết
    đi sẽ có những bài hát liên hệ đến từng giai đoạn của một đời người”.
    – 10 –
    Ngay từ thuở lọt lòng, dân ca đã dành cho trẻ những bài hát đơn sơ, mộc
    mạc nhưng du dương, ngọt ngào để đưa trẻ vào giấc ngủ êm đềm. Chuyển sang
    tuổi ấu thơ các em lại được hát lên những bài dân ca, đồng dao để vui chơi giải
    trí, luyện cho trẻ quen tiếng nói tiếp cận với thiên nhiên, tìm hiểu những vấn đề
    xã hội nảy sinh trong đời sống hàng ngày. Trong mỗi chúng ta ai cũng có một
    miền quê, quê hương là cánh đồng lúa thơm ngát, lũy tre xanh trải dọc bờ đê, là
    những hình ảnh thân thương nhất đối với cuộc sống mỗi con người. Hai tiếng
    quê hương qua những giai điệu ngọt ngào của dân ca như gần gũi hơn, lung linh
    hơn nhờ những ca từ đầy hình ảnh.Chính vì vậy, khi hiểu được những giai điệu
    quê hương chúng ta sẽ mang lại niềm tự hào cho chính mình. Cũng từ đó mà có
    sự hãnh diện trong lòng khi thấy dân tộc mình có một nền âm nhạc dân gian
    phong phú.
    2. Dân ca Việt Nam đối với thiếu nhi Việt Nam
    “Ru con giấc ngủ no tròn
    Cánh diều nâng bước chân son vào đời.
    Mai sau khôn lớn nên người
    Mong con đi trọn những lời mẹ ru” (Lời ru cho con – Phan Thu Hà)
    Ai trong chúng ta cũng đều có những những ký ức tuổi thơ thật sâu đậm
    với những lời hát ru của mẹ. Từ những bài hát ru khi còn trong bụng mẹ đã là
    yếu tố góp phần hình thành nên nhân cách và những màu sắc đẹp cho tâm hồn
    của mỗi con người. Âm nhạc thiếu nhi nói chung, dân ca nói riêng có tầm ảnh
    hưởng quan trọng trong việc định hình nhân cách tâm lý và giáo dục đạo đức
    cho trẻ em. Nó tác động mạnh mẽ tới tâm tư, tình cảm và tâm hồn của con
    người. Âm nhạc nói chung, dân ca nói riêng gieo vào lòng trẻ thơ những hình
    ảnh sống động kỳ diệu, những ước mơ trong sáng và cao đẹp. Từ đó thai nghén
    và phát triển tình cảm con người, tình cảm gia đình và tình yêu thiên nhiên, yêu
    quê hương đất nước cho tâm hồn trẻ thơ.
    Từ khi còn trong bụng mẹ, những bài hát ru và các làn điệu dân ca quen
    thuộc đã đi vào tận giấc ngủ của từng trẻ thơ. Với những giai điệu ngọt ngào,
    – 11 –
    nhẹ nhàng, êm ái, chất chứa đầy tình thương yêu. Bài hát ru không chỉ giúp con
    say giấc mà còn là sợi dây gắn kết tình mẫu tử thiêng liêng giữa con và mẹ.
    Được nghe giọng hát ngọt ngào của mẹ, trẻ thơ sẽ từ từ đi vào giấc ngủ ngon với
    nhiều giấc mơ đẹp.
    Lời ru Bắc Bộ :
    Con cò, cò bay lả, lả, bay la,
    Bay từ từ cửa phủ, bay ra, ra cánh đồng.
    Tình tính tang, là tang tính tình… (Bài Cò Lả – Dân ca Quan họ Bắc Ninh)
    Từ kho tàng Ca dao Tục ngữ, lời ru ngày qua ngày cứ thầm dần vào tâm
    hồn trẻ, hình thành cho trẻ một phong cách riêng của văn hóa dân tộc. Nhiều câu
    hát ru mang tính chất giáo dục đạo đức, giúp các em có một nền tảng nhân cách
    đẹp ngay từ khi còn trong nôi.
    Công cha như núi Thái Sơn
    Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
    Một lòng thờ mẹ kính cha,
    Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
    Ngày nào con bé cỏn con
    Bây giờ con đã lớn khôn thế này.
    Cơm cha, áo mẹ, công thầy,
    Lo sao cho đáng những ngày ước mong.
    Lớn thêm một chút nữa, các bài hát dân ca cũng góp phần dẫn các bé vào
    khung trời cổ tích với những hình ảnh sinh động về thiên nhiên, hoa lá, các con
    vật…
    “Bắc kim thang cà lang bí rợ. Cột qua kèo là kèo qua cột. Chú bán dầu qua cầu
    mà té. Chú bán ếch ở lại làm chi. Con le le đánh trống thổi kèn. Con bìm bịp
    thổi tò tí te tò te” (Dân ca Nam Bộ)
    Những bài này được rất nhiều em nhỏ yêu thích vì nó gợi lên trong các em
    những hình ảnh bình dị, gần gũi, và khơi gợi những niềm vui đơn sơ. Điều đó sẽ
    góp phần hình thành một nhân cách tốt với tư duy tích cực, sáng tạo, cũng như
    trí tưởng tượng phong phú và khả năng hài hước nơi trẻ em.
    – 12 –
    Dân ca góp phần xây dựng nơi trẻ em tình yêu mến thiên nhiên và môi
    trường xung quanh, dạy cho trẻ em những hiểu biết về đời sống thực tiễn, giúp
    trẻ nhận thức về những giá trị văn hóa tinh thần của gia đình và xã hội. Các loài
    vật nhỏ bé, dễ thương, cả chim chóc, côn trùng… đều trở nên gần gũi thân quen
    với trẻ em qua những ca từ trong sáng và những giai điệu, vẽ nên những hình
    ảnh thật sống động. Bằng trực giác, trẻ có thể cảm nhận được bao giá trị tốt đẹp
    trong cuộc sống hàng ngày. Những âm hưởng đó tác động trên tâm hồn trẻ em,
    giúp hình thành lòng nhân ái và khả năng ngạc nhiên, ưa thích tìm hiểu mọi sự
    vật của trẻ.
    Âm nhạc thiếu nhi nói chung, dân ca nói riêng có tầm ảnh hưởng rất quan
    trọng trong việc bồi đắp tâm hồn và nhân cách trẻ thơ như thế. Nhiều phụ huynh
    không hề nhắc nhở mà còn cảm thấy tự hào khi con mình còn nhỏ mà hát những
    bài tình cảm yêu đương và ăn diện, nhảy nhót, biểu cảm như người lớn. Nhiều
    em nhỏ ưa hát những bài nước ngoài, không phải cho trẻ em, mà là những ca
    khúc tình yêu mãnh liệt. Ngày nay, chuyện trẻ con chạy theo thị hiếu thẩm mỹ
    âm nhạc lệch lạc, lai căng như nghe nhạc chế, nhạc thị trường, thích hát nhạc
    người lớn không còn là chuyện hiếm. Vì thế, việc dạy dân ca cho thiếu nhi cấp
    tiểu học là điều chính đáng và cần thiết, nhằm giúp cho trẻ được tăng trưởng
    lành mạnh.
    3. Vận dụng linh hoạt các phƣơng pháp dạy học vào giờ dạy hát dân ca
    3.1. Sử dụng phƣơng pháp trực quan
    Biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan là một phương pháp dạy học vô cùng
    quan trọng và có hiệu quả rất cao trong dạy Âm nhạc cấp tiểu học. Sử dụng đồ
    dùng trực quan trong dạy hát dân ca là sử dụng đàn ooc-gan; dạy trình chiếu
    Powerpoint, sử dụng nhạc cụ và các đồ dùng dạy học khác…Các em có thể trực
    tiếp quan sát, nghe thấy, nhìn thấy, cảm thấy.
    Việc sử dụng đồ dùng trực quan không những làm cho quá trình học tập
    thêm sinh động mà nó còn góp phần rèn luyện tư duy phân tích, tập cho cácem
    nhìn thấy bản chất của các đối tượng ẩn sau các hình thức và những biểu hiện bề
    ngoài, kích thích ham hiểu biết của học sinh. Lời nói sinh động của giáo viên kết
    – 13 –
    hợp với tính trực quan có hiệu quả to lớn trong việc truyền đạt cũng như tiếp thu
    kiến thức. Bên cạnh đó cần phải tìm tòi sáng tạo ra những đồ dùng dạy học tự
    làm. Việc học sinh được trực tiếp quan sát, trực tiếp tìm hiểu qua âm thanh, hình
    ảnh, màu sắc…kích thích sự tò mò khám phá cái mới của các em. Tạo cho các
    em sự say mê tìm tòi, học hỏi.
    Việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan làm nội dung học tập trở nên
    phong phú và sinh động hơn. Từ đó truyền đạt thông tin, giúp học sinh được học
    tập bằng đa giác quan, góp phần khuyến khích và thúc đẩy học sinh tích cực học
    tập, giúp các em phát triển các năng lực quan sát, phân tích, tổng hợp, đánh
    giá…Giúp học sinh tăng cường trí nhớ, làm cho việc học tập được hiệu quả và
    lâu bền hơn. Tạo điều kiện cho các em thực hành, thao tác kĩ thuật, chủ động
    tham gia quá trình học tập. Giúp giáo viên giảng dạy đỡ vất vả, góp phần giải
    phóng giáo viên, tạo điều kiện để giáo viên hỗ trợ học sinh nhiều hơn. Góp phần
    nâng cao năng lực âm nhạc, năng lực sư phạm của giáo viên.
    3.1.1. Sử dụng tranh ảnh trong dạy hát dân ca
    Sử dụng phương pháp trực quan vào dạy hát dân ca chúng ta có thể sử dụng
    tranh ảnh để cho các em hiểu thêm về các tục lệ và các điệu múa truyền thống.
    Trong một tiết dạy hát dân ca, cần cho các con hiểu về địa lý, dân tộc, vùng
    miền nơi bài hát được ra đời. Từ đó giúp các em thể hiện hay hơn tính chất
    cũng nhƣ tình cảm đối với bài hát.
    Ví dụ dạy tiết 15 – lớp 3: Học hát bài Ngày mùa vui – dân ca Thái ; Giới
    thiệu một vài nhạc cụ dân tộc
    Ở nội dung 1 Học hát bài hát Ngày mùa vui – Qua một số hình ảnh giáo
    viên có thể giới thiệu nhanh cho các em biết dân tộc người Thái qua một số hình
    ảnh.
    – 14 –
    Hình ảnh minh họa người dân tộc Thái
    – 15 –
    Sau đó giới thiệu cho học sinh về điệu múa Xòe hoe của người dân tộc Thái
    bằng những hình ảnh.
    Điệu múa Xòe hoa của người dân tộc Thái
    – 16 –
    Tiếp theo nội dung 2 Giới thiệu một vài nhạc cụ dân tộc. Giáo viên cho học
    sinh quan sát các nhạc cụ dân tộc qua hình ảnh. Từ đó các em có thể hiểu được
    cấu trúc, chất liệu của từng loại nhạc cụ.
    Đàn Nguyệt Đàn Tỳ Bà
    Sáo
    – 17 –
    Cồng chiêng Tây Nguyên
    3.1.2. Sử dụng băng đài, đầu video, trong dạy học Âm nhạc
    Trong hoạt động dạy một bài hát mới thì việc sử dụng băng đài, đầu video
    là một phương pháp trực quan vô cùng hữu hiệu. Tác dụng của nó rất lớn đối
    với việc tiếp thu bài của học sinh. Các em được nghe bài hát, trực tiếp cảm nhận
    tính chất, tình cảm bài hát. Các em được nhìn trực tiếp các bạn biểu diễn ngoài
    việc gây hứng thú cho các em còn giúp các em tự bắt chước các bạn nét mặt, cử
    chỉ, hành động thể hiện bài hát. Các em được tiếp cận với giai điệu, lời ca của
    bài hát một cách trung thực nhất. Qua nghe và xem trong khi học bài hát các em
    phát huy khả năng âm nhạc của mình một cách tối đa.
    Tuy nhiên với thời đại 4.0 hiện nay các trường thường đã đầu tư máy tính,
    máy chiếu, loa đài.v.v. nên sử dụng băng đài, đầu video không còn phổ biến
    trong các trường tiểu học.
    Khi lắng nghe, theo dõi những hình ảnh, giai điệu lời ca của bài hát các em
    bắt đầu cảm được nét giai điệu cũng như tình cảm của bài một cách rất nhanh.
    Các em tỏ ra rất thích thú, các em có thể bắt chước làm theo băng đài, đầu đĩa.
    Trong dạy học Âm nhạc tiểu học phát triển khả năng cảm thụ âm nhạc thì
    phương pháp sử dụng băng đài, đầu video là một phương pháp vô cùng hữu hiệu
    – 18 –
    giup học sinh cảm nhận được cái hay, cái tốt và chính xác các nét giai điệu cũng
    như lời ca của âm nhạc.
    3.1.3. Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy hát dân ca
    Nói đến dạy học sử dụng hiệu ứng của phần mềm Powerpoint trình chiếu,
    nó thực chất là tổng hợp dạy học sử dụng tranh ảnh, đàn, băng đài, video… Đối
    với việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học Âm nhạc trở nên hấp dẫn
    hơn và mang tính chuyên nghiệp cao hơn. Dạy hát dân ca sử dụng công nghệ
    thông tin cụ thể là trình chiếu trên Powerpoint đem lại hiệu quả rất rõ rệt. Hình
    ảnh được lồng ghép với âm thanh là dẫn chứng, minh họa chính xác và hiệu quả
    hơn. Ngoài việc giúp các em tiếp thu bài nhanh, chính xác, còn giúp giáo dục
    các em tính thẩm mĩ, sự nâng cao khả năng cảm thụ âm nhạc.
    Ví dụ dạy tiết 15 – lớp 3: Học hát bài Ngày mùa vui – dân ca Thái ; Giới
    thiệu một vài nhạc cụ dân tộc
    Nếu chỉ đơn giản treo bảng phụ bài tập đọc nhạc lên bảng rồi đệm đàn lần
    lượt từng bước giáo viên thực hiện từng thao tác thì học sinh dẫn đến tiếp thu bài
    một cách nhàm chán, đơn điệu. Nhưng nếu sử dung dạy học trình chiếu
    Powetpoin thiết kế bài giảng trên máy vi tính học sinh tiếp thu bài một cách cụ
    thể. Các kĩ năng cần thực hiện sẽ được thực hiện chủ động tích cực vì phần sử
    dụng trực quan kích thích tính tò mò của các em. Giáo viên đưa lần lượt lên màn
    hình những phần như giới thiệu bài mới; giới thiệu dân ca vùng miền; nghe hát
    mẫu; xem hình ảnh nhạc cụ dân tộc; xem video bài hát; xem video các nhạc
    công chơi các loại nhạc cụ dân tộc.v.v.
    Ngoài việc cho các em xem tranh ảnh trên Powerpoint, giáo viên cho các
    em trực tiếp xem video. Ngoài việc các em có thể hình dung về người dân tộc
    Thái thì các em có thể nhìn trực tiếp các hoạt động của người dân tộc Thái.
    Cũng như vậy, ngoài việc các em hiểu được cấu trúc của các loại nhạc cụ dân
    tộc thì các em có thể nghe trực tiếp âm thanh, cách sử dụng các loại nhạc cụ dân
    tộc qua video trình chiếu trên Powerpoint.
    – 19 –
    Bài dạy Powerpoint
    – 20 –
    Để dạy học sử dụng biện pháp thông qua trình chiếu các hiệu ứng phần
    mềm Powerpoint đòi hỏi giáo viên phải tích cực học hỏi sử dụng công nghệ
    thông tin. Phải chịu khó mầy mò, tìm hiểu, khai thác những dữ liệu, thông tin
    cần thiết cho nội dung bài học. Phải biết sắp xếp hình ảnh, biết kết hợp hình ảnh
    với âm thanh một cách khoa học, hợp lí.
    3.2. Sử dụng nhạc cụ trong dạy hát dân ca
    Trong dạy Âm nhạc ở cấp Tiểu học thì nhạc cụ chủ yếu là đàn Ooc-gan đối
    với giáo viên. Sử dụng các bộ gõ đơn giản như thanh phách, trống con, song
    loan… dành cho học sinh.
    Giáo viên cần sử dụng thành thạo nhạc cụ
    – 21 –
    Đối với giáo viên thì sử dụng đàn ooc-gan trong dạy tập đọc nhạc vô cùng
    quan trọng. Vì bài hát dân ca có nhiều dấu luyến láy. Qua tiếng đàn giáo viên có
    thể giúp học sinh cảm nhận và hát đúng cao độ cũng như tiết tấu của bài hát. Các
    âm sắc của đàn phím điện tử có thể thay đổi một cách đa dạng. Ví dụ bài hát Cò
    lả (dân ca đồng bằng Bắc Bộ), giáo viên có thể sử dụng âm sắc của tiếng sáo.
    Âm sắc đó thể hiển được sự du dương của bài hát. Chính vì thế yêu cầu giáo
    viên phải sử dụng thuần thục đàn ooc-gan. Đối với học sinh việc sử dụng các
    loại nhạc cụ đơn giản trong học hát dân ca cũng vô cùng quan trọng. Nó thể hiện
    sự cảm nhận giai điệu, tình cảm của bài hát dân ca. Trong học hát nói chung,
    học hát dân ca nói riêng, việc sử dụng nhạc cụ là rất thiết yếu. Nó vừa hỗ trợ cho
    các em cảm giai điệu nó vừa thể hiện được nét văn hóa đặc trưng của từng giai
    điệu vùng miền. Qua hình ảnh, âm thanh sinh động các em động não suy nghĩ,
    nhận thức vấn đề. Các em chủ động suy nghĩ, tự giác vận động và tích cực vỡ
    nội dung kiến thức bài một cách nhanh chóng.
    Học sinh sử dụng nhạc cụ gõ trong tiết học hát dân ca
    – 22 –
    Một tiết dạy môn Âm nhạc áp dụng biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan là
    một tiết dạy có hiệu quả cao nhất nếu giáo viên biết sử dụng thành thạo đồ dùng
    trực quan và có kiến thức cũng như kĩ năng sư phạm vững chắc.
    3.3. Sử dụng phƣơng pháp trò chơi trong dạy hát dân ca
    Đó chính là sự kết hợp các phương pháp tìm tòi, thí nghiệm, thảo
    luận,luyện tập, đánh giá trong dạy hát dân ca. Tổ chức trò chơi trong dạy hát dân
    ca thực chất là một hình thức ôn tập thông qua trò chơi. Nó giúp các em có sự
    ghi nhớ kiến thức sâu. Trò chơi giúp các em năng động, sáng tạo, tạo sự hứng
    thú trong học tập. Giờ học bớt căng thẳng, bớt áp lực. Đây là một hoạt động
    không thể thiếu đối với học sinh tiểu học. Trò chơi là một hình thức dạy học hấp
    dẫn học sinh, có giải trí, thư giãn, giúp các em phát triển hoàn thiện tính tích cực
    trong học môn Âm nhạc. Trò chơi trong học môn âm nhạc là một hoạt động
    được các em học sinh vô cùng yêu thích.
    Mục đích tổ chức trò chơi là truyền tải tới học sinh kiến thức mới dưới một
    cách mới thực tế. Và thông qua trò chơi ôn tập kiến thức, kĩ năng mà giáo viên
    vừa truyền tải tới học sinh. Trò chơi mang đầy đủ những tính chất: Có luật chơi;
    đội chơi; có sự thi đua giữa từng đội chơi, cá nhân chơi;có thưởng có phạt
    nhưng phạt nhẹ nhàng và mang tính ôn luyện cho học sinh. Ở hoạt động tổ chức
    trò chơi trước tiên giáo viên phải nêu luật chơi, tiếp theo chọn đội chơi hoặc cá
    nhân chơi. Có trò chơi chọn vài học sinh làm ban giám khảo, cũng có trò chơi
    cảo lớp là thành phần ban giám khảo. Sau đó giáo viên cho chơi thử, rồi tiến
    hành chơi thật. Trong khi chơi có cổ vũ. Sau khi chơi có hình thức khen thưởng
    đối với các em thắng cuộc và hình thức phạt kết hợp ôn tập đối cới các em thua
    cuộc.
    Có rất nhiều trò chơi trong dạy hát dân ca như: Trò chơi Hát và chơi tiết
    tấu bằng nhạc cụ gõ; Ai nhanh hơn; Ai khỏe hơn; Em tập làm ca sĩ; Nghe giai
    điệu xướng lời ca; Nghe nhạc và vận động; Hái hoa dân chủ; Hát kết hợp gõ
    đệm bộ gõ cơ thể; Ghép tên bài hát và tên tác giả; Ghép tranh đoán tên bài hát;
    – 23 –
    Hát theo ký hiệu bàn tay; Hát theo âm “ O, A, U, I “ ; Mô tả những gì bạn
    nghe được; Âm thanh đó là gì? Đặc biệt là trò chơi Thi hát dân ca…
    Ngoài ra ta có thể tổ chức các trò chơi dân gian gắn liền với các bài hát dân
    ca. Để các em phát triển tư duy cảm nhận của mình, giáo viên cho các em tự sưu
    tầm những bài dân ca hoặc âm nhạc các dân tộc rồi tổ chức thi biểu diễn bằng
    khả năng của mình. Dựa trên cơ sở đó giáo viên phân tích cái hay , cái đặc sắc
    của âm nhạc dân tộc . Một loại hình không thể thiếu trong giáo dục yêu thích âm
    nhạc dân tộc là các trò chơi dân gian gắn liền với các bài đồng giao như: Rồng
    rắn lên mây, nu na nu nống…….hoặc từ các bài đồng giao được phổ nhạc như
    bài “ Con chim hay hót “của âm nhạc lớp 5.
    Nếu có điều kiện, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh vừa hát bài dân ca
    vừa kết hợp với các trò chơi dân gian như: tập tầm vông, nhảy dây, ô ăn quan,
    rồng rắn lên mây, Mèo đuổi chuột…
    Trò chơi Mèo đuổi chuột kết hợp với bài hát dân ca
    – 24 –
    Áp dụng trò chơi Mèo đuổi chuột với bài hát dân ca có thể tổ chức các
    bước như sau:
    – 1 đội khoảng 5 – 10Hs tham gia (Tùy thuộc không gian lớp học)
    – 1 HS làm chuột, 1 HS làm mèo. Các em vừa chơi vừa hát 1 bài hát dân ca.
    – Có thể sử dụng hình thức thưởng phạt là biểu diễn một bài hát dân ca.
    *, Lưu ý: Các trò chơi dân gian áp dụng vào học hát dân ca có thể áp dụng
    nhiều nhất vào phần cuối của trò chơi, đó là phần thưởng phạt. Ở phần này các
    em có thể biểu diễn một bài hát dân ca được học hoặc các em biết. Ngoài ra có
    thể bài hát dân ca vùng miền nào thì áp dụng trò chơi dân gian vùng miền đó
    hoặc sử dụng các câu đồng dao được phổ thành lời bài hát dân ca đó.
    Các em tham gia trò chơi Em tập làm ca sỹ với một bài hát dân ca
    – 25 –
    Các em tham gia trò chơi Nghe nhạc vận động với bài hát dân ca Gà gáy
    Tổ chức trò chơi âm nhạc trong dạy học Âm nhạc cấp tiểu học là một hoạt
    động có tác dụng rất lớn phát huy tính tích cực, sáng tạo cho học sinh. Bên cạnh
    đó trò chơi âm nhạc có đặc điểm ưu việt là luôn mang tính khích lệ, giải trí giúp
    các em có hứng thú trong học tập. Ngoài ra giúp học sinh nắm vững và nhớ rõ
    các kiến thức các em đã được học. Phát huy kỹ năng biểu diễn và đánh giá, tự
    đánh giá trong quá trình học. Trong mỗi phân môn cần áp dụng các trò chơi
    riêng, có nội dung gần với kiến thức. Trò chơi âm nhạc có thể áp dụng ở hoạt
    động khởi động hoặc ứng dụng của tiết học. Trò chơi âm nhạc luôn được sự
    tham gia nhiệt tình của các em học sinh. Trò chơi âm

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo Sân khấu hóa một số hình tượng nhân vật và tác phẩm văn học

    SKKN Nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo Sân khấu hóa một số hình tượng nhân vật và tác phẩm văn học

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIÊN, HOÀN CẢNH TẠO RA SANG KIÊN
    Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát
    triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhiều quốc gia trên thế giới đã đạt được những
    thành tựu to lớn trong quá trình phát triển nhờ sớm coi trọng vai trò của giáo dục
    và đào tạo như Nhật Bản với quan điểm coi “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng
    đầu; cần kết hợp hài hoà giữa bản sắc văn hóa lâu đời phương Đông với những
    tri thức Phương Tây hiện đại”; hay Singapore với phương châm “Thắng trong
    cuộc đua về giáo dục sẽ thắng trong cuộc đua về phát triển kinh tế”; cường quốc
    Mỹ cũng luôn chú trọng đến việc “Tập trung cho đầu tư giáo dục – đào tạo và
    thu hút nhân tài”; một người bạn lớn của Việt Nam là Liên xô trước đây cũng đã
    khẳng định “Chính sách về con người là điểm bắt đầu và là điểm kết thúc của
    mọi chính sách kinh tế – xã hội”.
    Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn thế hệ trẻ “Non sông
    Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh
    quang sánh vai cùng các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ
    một phần lớn ở công học tập của các em” (Hồ chí Minh toàn tập, 1995, tập 4,
    tr33). Có thể nói giáo dục là quốc sách hàng đầu góp phần vào sự phát triển của
    mỗi quốc gia dân tộc; để có thể thực hiện tốt vai trò của mình Giáo dục nước
    nhà đang từng bước chuyển mình để đáp ứng yêu cầu của thực tế cuộc sống.
    Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng khẳng định: “Văn chương sẽ là
    hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế văn chương còn
    sáng tạo ra sự sống… Công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và
    gợi lòng vị tha”. Quả đúng vậy, văn học là nghệ thuật ngôn từ, là bức tranh
    muôn màu của cuộc sống, là thế giới sâu thẳm đa chiều của tâm hồn con người
    được các nhà văn, nhà thơ phát hiện, phản ánh, sáng tạo bằng tiếng nói, chữ viết
    và được lưu hành trong xã hội từ đời này sang đời khác. Văn học không chỉ
    mang trong mình chức năng nhận thức mà còn chứa đựng cả chức năng giáo dục
    thẩm mĩ giúp con người vươn tới cái chân, thiện, mĩ. Văn học giúp cho con
    người hiểu biết hơn về đời sống xã hội, từ đó thêm yêu mến, tự hào về quê
    hương đất nước, về lịch sử vẻ vang của dân; đồng thời khơi dậy hoài bão nối gót
    4
    người trước, khám phá và làm giàu thêm những di sản văn hóa của ông cha để
    lại. Bởi vậy, học văn không chỉ là việc khám phá thế giới nghệ thuật ngôn từ để
    mở rộng tầm hiểu biết, làm giàu có thêm vốn tri thức của mình mà qua đó ta còn
    được tiếp xúc, thấu hiểu, đồng cảm và hình thành những tình cảm nhân văn cao
    quý, để sống “người” hơn đúng như M.Gorki từng nói: “Văn học là nhân học”,
    “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản
    thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý”.
    Hiểu được điều đó, người giáo viên mang cho mình một trọng trách, một
    sứ mệnh cao cả và thiêng liêng hơn; đó là không chỉ truyền đạt cho học sinh
    những kiến thức cơ bản, những nét đặc sắc trong nội dung, nghệ thuật của văn
    bản mà giáo viên còn hướng tới phát triển những năng lực cá nhân đặc biệt là
    năng thực cảm thụ thẩm mĩ và thưởng thức văn học từ đó bồi đắp tâm hồn cho
    học sinh, hình thành ở các em tình yêu văn chương, sự đồng cảm với những
    mảnh đời, số phận trong văn học; biết trân trọng, ngợi ca tài năng của các thi
    sĩ…Muốn thực hiện được điều đó thì việc đầu tiên là người thầy phải làm cách
    nào để đưa tác phẩm đến với học sinh, giúp các em hiểu sâu sắc tác phẩm đó tức
    là phải có những phương pháp dạy học phù hợp, khoa học và hiệu quả.
    Môn Ngữ Văn là một môn học có vai trò vô cùng quan trọng và có sự gần
    gũi, gắn bó mật thiết với cuộc sống con người. Trong xã hội phong kiến xưa,
    văn chương là môn thi duy nhất để các sĩ tử khẳng định mình trong các khoa
    thi. Trong xã hội ngày nay, việc học văn có ý nghĩa rất to lớn, nó giúp con người
    nhận thức được cái hay, cái đẹp, nhận thức được chuẩn mực trong cuộc sống;
    giúp con người hướng tới những giá trị nhân văn, nhân ái giữa nhịp sống xô bồ,
    gấp gáp của thời đại. Có thể thấy, văn chương chân chính dù ở bất kì thời đại
    nào cũng đều đề cao tình yêu thương, lòng nhân ái, sự công bằng, giúp con
    người nhận thấy thế giới này sẽ đẹp hơn nhiều từ những điều giản dị nhất, định
    hướng cho con người sống có bản lĩnh, có suy nghĩ; có lối sống đúng đắn, cách
    ứng xử lành mạnh, văn minh. Và đặc biệt văn học còn rèn cho các em có được
    bộ óc sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú – thứ mà con người đang rất cần khi
    bước sang một thời đại mới – thời đại công nghệ số 4.0 hay 5.0…
    5
    Thực tế việc giảng dạy môn Ngữ văn đối với đối tượng học sinh THCS
    còn gặp rất nhiều khó khăn bởi nhận thức của học sinh còn hạn chế, học sinh
    khó tiếp nhận, ít hào hứng và say mê, học sinh chưa có tính tự giác trong học tập
    từ đó dẫn đến hiệu quả chưa cao. Học sinh chưa có sự chủ động tìm hiểu và
    khám phá bài học, các em tiếp nhận các tác phẩm một cách thụ động và như vậy
    nếu không được ôn tập, nhắc lại một cách thường xuyên thì nội dung kiến thức
    đã học sẽ chẳng đọng lại trong các em được bao lâu. Thêm vào đó khả năng cảm
    thụ và tư duy của học sinh còn yếu, học sinh ít có khả năng độc lập suy nghĩ để
    tự mình chiếm lĩnh tri thức mới.
    Vậy làm thế nào để tổ chức việc học môn Ngữ Văn cho đạt hiệu quả?
    Thiên chức của giáo viên dạy văn cũng giống như người nghệ sĩ: khơi dậy tâm
    hồn ngây thơ của các em biết rung động trước cái đẹp, cái thiện của cuộc sống;
    biết yêu ghét cái xấu xa, thấp hèn. Xa hơn nữa, các em có thể cảm nhận được tài
    năng của nhà văn khi khắc họa các hình tượng nghệ thuật đặc sắc. Vậy làm như
    thế nào để giờ dạy văn dê đi vào lòng người? Đó là một vấn đề luôn được các
    nhà trường, thầy cô quan tâm và trăn trở. Là giáo viên đứng lớp trực tiếp giảng
    dạy môn Ngữ văn, chúng tôi đã luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, đổi mới phương
    pháp dạy học để tạo nên sự hứng thú học tập và nâng cao kết quả học tập cho
    học sinh. Chúng tôi mong muốn, sau mỗi tiết học, học sinh của mình không chỉ
    hiểu mà còn say sưa, thích thú với những kiến thức vừa được khám phá. Xuất
    phát từ mong muốn này, chúng tôi đã nhiều lần thử nghiệm, trao đổi cùng đồng
    nghiệp để tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng trong việc dạy học bộ môn.
    Và một trong những giải pháp mà chúng tôi cùng đồng nghiệp dạy bộ môn Ngữ
    Văn tại trường THCS Nguyên Hiền tâm đắc, hứng thú đó là cho học sinh tham
    gia “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo dưới hình thức sân khấu hoá một số hình
    tượng nhân vật và tác phẩm văn học”.
    Hoạt động trải nghiệm sáng tạo này được diên ra thường kì mỗi năm 2
    lần theo lịch sinh hoạt của Câu lạc bộ Văn học trường THCS Nguyên Hiền và
    được vận dụng linh hoạt trong tiết học theo chủ đề phù hợp, tiết sinh hoạt dưới
    cờ, buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp theo chủ đề,…
    6
    II. MÔ TẢ GIẢI PHAP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến.
    Khi tiến hành thực hiện sáng kiến này, chúng tôi đã nghiên cứu, thực
    nghiệm trên cơ sở lí thuyết và thực tế cụ thể như sau:
    1.1. Phương pháp nghiên cứu
    a. Nghiên cứu lí luận
    – Nghiên cứu những thuận lợi, khó khăn, hiệu quả của việc dạy các tác
    phẩm văn học trong chương trình.
    – Những kiến thức, kĩ năng, thái độ mà bộ môn cần cung cấp, bồi dưỡng
    cho HS trong quá trình dạy học văn bản, các hình tượng nhân vật.
    – Cách thức tổ chức các hoạt động để nâng cao chất lượng giảng dạy.
    b. Nghiên cứu thực tế
    Điều tra thực tế về việc giảng dạy của gaió viên, học tập của học sinh;
    theo dõi kết quả học tập của học sinh qua các giai đoạn từ đó kiểm nghiệm, đối
    chứng và tìm ra giải pháp phù hợp.
    1.2. Nội dung cụ thể của giải pháp
    Để tìm hiểu rõ hơn nguyên nhân dẫn đến chất lượng dạy học môn Ngữ Văn
    của một số lớp ở các khối của nhà trường trong những năm gần đây chưa cao,
    chúng tôi tiến hành trao đổi, thảo luận và dự giờ thăm lớp các đồng nghiệp ở
    trường THCS Nguyên Hiền.
    Qua thực tế dự giờ, trao đổi chuyên môn và chấm bài khảo sát học sinh,
    chúng tôi nhận thấy những ưu điểm và tồn tại của giáo viên và học sinh như sau:
    a. Giáo viên
    – Ưu điểm: Các đồng nghiệp của chúng tôi đều yêu nghề, say chuyên môn,
    vững vàng về kiến thức; truyền đạt đúng đủ nội dung yêu cầu theo chuẩn kiến
    thức kĩ năng; đảm bảo đầy đủ tiến trình lên lớp theo Kế hoạch bài học.
    – Tồn tại:
    + Giáo viên chủ yếu tuân thủ các phương pháp dạy học truyền thống
    chủ yếu dùng phương pháp thuyết giảng, đọc chép là chính. Khi dùng phương
    pháp này giáo viên chủ yếu dùng lời nói của mình tác động tới học sinh bởi vậy
    mà vô tình đã làm mất khả năng tư duy sáng tạo, khả năng tưởng tượng vô cùng
    7
    phong phú ở các em. Do đó, khi đối mặt với các đề thi có tính mở như hiện nay,
    học sinh không linh hoạt trong việc xử lí yêu cầu của đề dẫn đến kết quả thi
    chưa cao.
    + Hiểu biết của một số giáo viên chưa sâu rộng, cách truyền giảng chưa
    lôi cuốn được sự chú ý của học sinh. Trong quá trình lên lớp, giáo viên chỉ chú
    trọng truyền tải kiến thức trong sách giáo khoa, chưa có sự liên hệ mở rộng với
    các tác phẩm cùng đề tài ở ngoài chương trình do đó chưa khơi gợi được hứng
    thú học tập của học sinh. Đặc biệt, khi giảng dạy, một số giáo viên chưa gắn vấn
    đề được đề cập tới trong văn bản với thực tế cuộc sống, chưa giúp học sinh nhận
    ra giá trị chân chính, cái đích cuối cùng của tác phẩm.
    + Những năm gần đây, các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới đã được
    vận dụng vào các giờ học song chưa thực sự hiệu quả do giáo viên chưa hiểu
    chính xác, chưa làm tốt các thao tác dẫn đến việc làm hình thức, chống đối cho
    có. Bởi vậy mà dù áp dụng phương pháp dạy học mới nhưng thực chất là “bình
    mới rượu cũ”, học sinh vẫn rất thụ động làm theo sự hướng dẫn định hình dập
    khuôn, chủ quan của giáo viên chứ chưa thể hiện được cá tính sáng tạo riêng của
    mình.
    b. Học sinh
    Đầu năm học 2019-2020, 2020-2021 chúng tôi đã tiến hành khảo sát học
    sinh và đưa ra một số kết luận, nhìn từ góc độ học sinh thì chất lượng dạy học
    môn Ngữ Văn ở trường THCS Nguyên Hiền thời gian qua chưa cao là do:
    – Học sinh không có hứng thú học môn Ngữ Văn, với một số em việc học Văn
    trở thành “cực hình”, thành một việc vô cùng khó khăn và mệt mỏi.
    – Đa số các em học Văn theo lối học truyền thống: ghi chép thụ động, học thuộc
    một cách máy móc, không có cảm nhận, sáng tạo riêng, dập khuân theo kiến
    thức thầy cô truyền tải.
    – Nhiều em lười suy nghĩ, tìm tòi, ỷ lại vào sách tham khảo, bạn bè, thầy cô.
    – Một số em không có hứng thú học tập, chưa có sự tập trung chú ý trong giờ,
    làm việc riêng hoặc không tập trung nghe giảng.
    – Ấn tượng về các nhân vật, các tác phẩm văn học mờ nhạt, dê quên nếu không
    được thầy cô nhắc đi, nhắc lại.
    8
    Nhận thức sâu sắc về những hạn chế của cách dạy học đã ảnh hưởng
    nghiêm trọng đến chất lượng học tập của học sinh, chúng tôi đã suy nghĩ, tìm tòi
    đổi mới trong phương pháp dạy học bộ môn Ngữ Văn. Từ sự thay đổi trong cách
    dạy, chúng tôi cũng định hướng, giúp các em học sinh thay đổi phương pháp
    học, đổi mới cách viết văn theo lối tư duy sáng tạo để học sinh không chỉ là đối
    tượng của nhận thức mà các em còn xuất hiện với vai trò chủ thể của hoạt động
    học tập, của quá trình tiếp nhận. Qua thực tế thử nghiệm, chúng tôi nhận ra rằng,
    một trong những giải pháp giúp học sinh yêu thích, hứng thú với bộ môn Ngữ
    Văn là cho các em được trải nghiệm; đưa các nhân vật, các tác phẩm văn học
    đến với thực tế cuộc sống để học sinh có sự tiếp cận và bộc lộ suy nghĩ, cảm
    nhận rõ ràng hơn. Xuất phát từ năng lực, sở trường của các thành viên trong
    nhóm; từ những điều kiện của nhà trường và đặc biệt là từ đối tượng học sinh
    với những năng khiếu khác nhau, chúng tôi nhận thấy phương pháp dạy học
    thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo “Sân khấu hóa một số hình tương
    nhân vật và tác phẩm văn học” đem lại những hiệu quả thiết thực cho việc dạy
    và học của thầy và trò nhà trường.
    2. Mô tả giải pháp sau khi co sáng kiến.
    2.1. Nêu vấn đề
    Năm học 2020 -2021, vấn đề đổi mới trong dạy và học diên ra ngày càng
    mạnh mẽ, đặc biệt Đảng, Nhà nước và Bộ Giáo dục quyết tâm thực hiện Nghị
    quyết số 29NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành TW
    khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đáp ứng yêu cầu công nghiệp
    hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
    và hội nhập quốc tế. Cụ thể là đổi mới phương pháp dạy và học, kiểm tra, đánh
    giá hướng tới hình thành và phát triển năng lực cho học sinh. Nhìn những tổng
    thể mặt đạt được của giáo dục đến những mặt còn hạn chế, chúng ta đã thấy
    được sự nỗ lực, chung tay góp sức của các cấp, các ngành, của toàn Đảng, toàn
    dân ta để góp phần thúc đẩy đưa giáo dục đi lên. Nhằm nâng cao chất lượng giáo
    dục, hướng tới đối tượng lĩnh hội là các em học sinh thì các nhà trường, các thầy
    cô quyết tâm tìm mọi cách thức để thực hiện đổi mới trong phương pháp dạy và
    học nhằm đưa kiến thức đến với học sinh một cách tự nhiên, hiệu quả nhằm
    9
    nâng cao chất lượng học tập của các em. Các em thực sự tích cực, chủ động
    trong việc lĩnh hội tri thức.
    Trong bước tiến không ngừng của xã hội, giáo dục phổ thông ở Việt Nam
    cũng đang thực hiện những bước chuyển mình từ chương trình giáo dục “tiếp
    cận nội dung” sang “giáo dục tiếp cận năng lực”. Nghĩa là từ chỗ truyền thụ kiến
    thức thụ động chuyển sang quan tâm vào việc xây dựng kế hoạch, hỗ trợ, hướng
    dẫn học sinh tìm hiểu, khám phá, lĩnh hội tri thức và vận dụng được kiến thức
    vào thực tiên cuộc sống. Để thực hiện được mục tiêu đổi mới phát triển năng lực
    học sinh, nhất định người giáo viên phải thực hiện thành công việc chuyển từ
    phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy “cách học vận
    dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất”.
    Xuất phát từ thực tiên của nền giáo dục nước nhà, Đảng và Nhà nước ta
    đã đề ra mục tiêu đổi mới và nhấn mạnh khâu quan trọng của đổi mới giáo dục
    là đổi mới phương pháp dạy học. Luật giáo dục năm 2005, điều 28.2 đã nêu
    rõ “Phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
    động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học; bồi dưỡng
    phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng
    kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
    tập cho học sinh”. Nền giáo dục đổi mới đòi hỏi giáo viên không chỉ trang bị
    cho học sinh kiến thức mà nhân loại đã tìm ra mà còn phải bồi dưỡng cho học
    sinh tính năng động, óc tư duy sáng tạo và thực hành giỏi. Tức là giáo dục phải
    đào tạo được những con người không chỉ biết tiếp nhận tri thức, thực hành tri
    thức đó mà còn phải có năng lực hành động để sáng tạo ra những tri thức mới.
    Góp phần thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, hiện
    nay, rất nhiều nhà trường đang thực hiện việc dạy học theo phương pháp trải
    nghiệm sáng tạo. Đây được coi là chìa khóa thực hiện việc học đi đôi với hành,
    học qua làm, học giải quyết các vấn đề thực tiên trong cuộc sống ngay trong lớp,
    trong trường.
    2.2. Những vấn đề lý luận chung
    Thay đổi phương pháp dạy học không có nghĩa là chúng ta bác bỏ hoàn
    toàn các phương pháp cũ vì không có phương pháp dạy học nào là toàn năng.
    10
    Phương pháp nào cũng có những điểm tích cực và điểm hạn chế vậy người giáo
    viên phải làm sao lựa chọn được phương pháp tối ưu nhất cho phù hợp với từng
    mảng kiến thức, từng văn bản cụ thể để pháy huy được cao nhất hiệu quả của
    phương pháp và mang lại chất lượng tốt nhất cho giờ học.
    Giảng dạy môn Ngữ văn không hề dê và để giảng sao cho hay, cho học
    sinh thấm được cái hồn của tác phẩm, thấu được cái tình của tác giả rồi từ đó
    hình thành ý tưởng để có thể sân khấu hóa một số hình tượng văn học lại càng
    khó. Để làm được điều đó đòi hỏi trước hết người giáo viên phải là người nắm
    chắc kiến thức về mảng văn học này để thật sự hiểu và sống với từng tác phẩm;
    từ đây mới có được những rung cảm thực sự, những ý tưởng sáng tạo, biến tác
    phẩm thành kịch bản để việc truyền thụ tri thức, tình yêu, sự say mê văn học tới
    các em học sinh một cách sáng tạo nhất. Muốn vậy, giáo viên phải nắm vững,
    hiểu rõ những khái niệm, đặc trưng hình thức của hoạt động trải nghiệm sáng tạo
    dưới hình thức “Sân khấu hoá một số hình tượng nhân vật và tác phẩm văn học”
    trước khi tiến hành tổ chức các hoạt động cụ thể, tạo hứng thú, lôi cuốn với học
    sinh. Cụ thể:
    2.2.1. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình giáo dục
    phổ thông
    a. Thế nào là hoạt động trải nghiệm sáng tạo?
    Đây là hoạt động giáo dục trong đó dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà
    giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực
    tiên khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư
    cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiên, phẩm chất
    nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình.
    Hoạt động trải nghiệm sáng tạo có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho hoạt
    động dạy học trên lớp của giáo viên.
    Hình thức và phương pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo rất đa
    dạng, linh hoạt, ở đó học sinh tự hoạt động, trải nghiệm là chính. Có 4 phương
    pháp chính, đó là: Phương pháp giải quyết vấn đề (GQVĐ), phương pháp sắm
    vai, phương pháp trò chơi và phương pháp làm việc nhóm.
    11
    Trong quá trình giảng dạy, mỗi giáo viên tùy thuộc vào điều kiện cơ sở
    vật chất của nhà trường, kinh phí thực hiện, đặc thù bộ môn và năng lực của giáo
    viên, học sinh mà có thể vận dụng các hình thức và phương pháp trải nghiệm
    khác nhau.
    b. Tầm quan trọng của hoạt động trải nghiệm sáng tạo
    Hoạt động giáo dục (theo nghĩa rộng) là những hoạt động có chủ đích, có
    kế hoạch hoặc có sự định hướng của nhà giáo dục, được thực hiện thông qua
    những cách thức phù hợp để chuyển tải nội dung giáo dục tới người học nhằm
    thực hiện mục tiêu giáo dục.
    Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, kế hoạch giáo dục bao gồm
    các môn học, chuyên đề học tập (gọi chung là môn học) và hoạt động trải
    nghiệm sáng tạo; hoạt động giáo dục (theo nghĩa rộng) bao gồm hoạt động dạy
    học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
    Cùng với việc “dạy học tích hợp liên môn”, “dạy học gắn với sản xuất
    kinh doanh”, “dạy học với di sản”, “trải nghiệm sáng tạo” là việc được nhiều nhà
    trường thực hiện. Nhưng những nơi thực hiện đúng tinh thần, có hiệu quả thì
    không nhiều, “trải nghiệm sáng tạo” trở thành phong trào, thành các cuộc thi
    mang tính hình thức ở nơi này, nơi kia do không được các cấp quản lý hiểu
    đúng, chỉ đạo thực hiện đúng.
    Ta phải hiểu rõ tầm quan trọng của hoạt động trải nghiệm sáng tạo:
    Trong dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, hoạt động trải nghiệm
    sáng tạo được xếp vào nhóm môn học bắt buộc có phân hóa, trải từ tiểu học đến
    THPT. Trong tọa đàm phản biện dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng
    thể, TS Phạm Đỗ Nhật Tiến (nguyên chuyên gia giáo dục của Bộ GD-ĐT) cho
    rằng: hoạt động trải nghiệm sáng tạo đưa vào chương trình với mục đích chính
    là chuyển hóa kiến thức, kỹ năng, thái độ thành năng lực. Vì vậy đó không thể là
    môn học riêng biệt mà phải gắn liền với từng môn học, là một phần của giáo dục
    môn học. Vì thế để tách hoạt động này riêng biệt trong hệ thống môn học của
    các bậc học là không hợp lý, mà nên đưa vào môn học với phân bổ thời lượng
    hợp lý làm cơ sở để thiết kế chương trình từng môn học theo yêu cầu riêng của
    từng môn.
    12
    Hoạt động trải nghiệm sáng tạo không gọi là môn học mà là hoạt động
    giáo dục. Các môn học thực hiện giảng dạy những lĩnh vực có tính khoa học,
    chủ yếu nhằm phát triển năng lực trí tuệ cho học sinh. Bên cạnh đó, chúng ta có
    hoạt động giáo dục, là hoạt động nhằm phát triển những phẩm chất nhân cách,
    kỹ năng sống hay là năng lực tâm lý xã hội giúp con người có thể thích nghi,
    thích ứng với xã hội, làm chủ bản thân, biết sống tích cực và hạnh phúc… Đây là
    những mặt vô cùng quan trọng để tạo nên cuộc sống có ý nghĩa của mỗi cá nhân.
    Hoạt động trải nghiệm sáng tạo còn được biết đến với tên gọi tên gọi là
    hoạt động ngoài giờ lên lớp hoặc hoạt động ngoài giờ chính khóa. Mục tiêu
    hướng đến của hoạt động trải nghiệm sáng tạo là phải được xây dựng sao cho
    100% học sinh tham gia, được rèn luyện, và 100% học sinh được đánh giá trong
    các hoạt động đó. Để thực hiện mục tiêu đổi mới đó, chương trình Hoạt động
    trải nghiệm sáng tạo bao gồm:
    – Chương trình trải nghiệm hoạt động sinh hoạt hành chính nhà trường (Bắt
    buộc)
    – Chương trình hoạt động trải nghiệm định hướng cá nhân (Bắt buộc)
    – Chương trình hoạt động trải nghiệm giáo dục tổng hợp (Tự chọn bắt buộc)
    – Chương trình hoạt động câu lạc bộ ( Tự chọn phân hoá)
    Đối với loại chương trình thứ nhất, nhà trường đã tiến hành đổi mới giờ
    sinh hoạt dưới cờ và sinh hoạt lớp. Hai giờ sinh hoạt này là không thể thiếu được
    trong quản lý nhà trường và quản lý lớp học. Các em học sinh sẽ được tham gia
    trực tiếp và chủ động hơn vào các hoạt động này, phối kết hợp chặt chẽ với nhà
    trường, thầy cô chủ nhiệm lớp, tổng phụ trách Đoàn Đội… để tổ chức lồng ghép
    các chủ đề giáo dục có tính thời sự, tính địa phương.
    Hoạt động trải nghiệm sáng tạo không chỉ hướng đến những phẩm chất và
    năng lực chung mà còn có ưu thế trong việc thúc đẩy hình thành ở người học các
    năng lực đặc thù sau:
    – Năng lực hoạt động và tổ chức hoạt động;
    – Năng lực tổ chức và quản lý cuộc sống;
    – Năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân;
    – Năng lực định hướng nghề nghiệp;
    13
    – Năng lực khám phá và sáng tạo;
    c. Hình thức tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo
    Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường phổ thông rất đa dạng với
    nhiều hình thức khác nhau như hoạt động câu lạc bộ, tổ chức trò chơi, diên đàn,
    sân khấu tương tác, tham quan dã ngoại, các hội thi, hoạt động giao lưu, hoạt
    động nhân đạo, hoạt động tình nguyện, hoạt động cộng đồng, sinh hoạt tập thể,
    lao động công ích, sân khấu hóa (kịch, thơ, hát, múa rối, tiểu phẩm, kịch tham
    gia,…), thể dục thể thao, tổ chức các ngày hội,… Mỗi hình thức hoạt động trên
    đều mang ý nghĩa giáo dục nhất định.
    d. Một số phương pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo
    Hoạt động trải nghiệm sáng tạo coi trọng các hoạt động thực tiên mang
    tính tự chủ của học sinh, về cơ bản là hoạt động mang tính tập thể trên tinh thần
    tự chủ cá nhân, với sự nỗ lực giáo dục giúp phát triển sáng tạo và cá tính riêng
    của mỗi cá nhân trong tập thể. Đây là những hoạt động giáo dục được tổ chức
    gắn liền với kinh nghiệm, cuộc sống để học sinh trải nghiệm và sáng tạo. Điều
    đó đòi hỏi các hình thức và phương pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo
    phải đa dạng, linh hoạt, học sinh tự hoạt động, trải nghiệm là chính. Ở đây có 4
    phương pháp chính, đó là:
    – Phương pháp giải quyết vấn đề
    Giải quyết vấn đề là một phương pháp giáo dục nhằm phát triển năng lực
    tư duy, sáng tạo, giải quyết vấn đề của học sinh. Các em được đặt trong tình
    huống có vấn đề, thông qua việc giải quyết vấn đề giúp học sinh lĩnh hội tri
    thức, kĩ năng và phương pháp. Trong tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo,
    phương pháp giải quyết vấn đề thường được vận dụng khi học sinh phân tích,
    xem xét và đề xuất những giải pháp trước một hiện tượng, sự việc nảy sinh trong
    quá trình hoạt động.
    Phương pháp giải quyết vấn đề có ý nghĩa quan trọng, phát huy tính tích
    cực, sáng tạo của học sinh, giúp các em có cách nhìn toàn diện hơn trước các
    hiện tượng, sự việc nảy sinh trong hoạt động, cuộc sống hàng ngày. Để phương
    pháp này thành công thì vấn đề đưa ra phải sát với mục tiêu hoạt động, kích
    thích học sinh tích cực tìm tòi cách giải quyết. Đối với tập thể lớp, khi giải quyết
    14
    vấn đề giáo viên phải coi trọng nguyên tắc tôn trọng, bình đẳng, tránh gây ra
    căng thẳng không có lợi khi giáo dục học sinh. Phương pháp trên được tiến hành
    theo các bước cụ thể như sau:
    + Bước 1: Nhận biết vấn đề
    Trong bước này giáo viên cần phân tích tình huống đặt ra giúp học sinh
    nhận biết được vấn đề để đạt yêu cầu, mục đích đặt ra. Do đó, vấn đề ở đây cần
    được trình bày rõ ràng, dê hiểu đối với học sinh.
    + Bước 2: Tìm phương án giải quyết
    Để tìm ra các phương án giải quyết vấn đề, học sinh cần so sánh, liên hệ
    với cách giải quyết vấn đề tương tự hay kinh nghiệm đã có cũng như tìm
    phương án giải quyết mới. Các phương án giải quyết đã tìm ra cần được sắp xếp,
    hệ thống hóa để xử lí ở giai đoạn tiếp theo. Khi có khó khăn hoặc không tìm
    được phương án giải quyết thì cần quay trở lại việc nhận biết vấn đề để kiểm tra
    lại và hiểu vấn đề.
    + Bước 3: Quyết định phương án giải quyết
    Giáo viên cần quyết định phương án giải quyết vấn đề, khi tìm được phải
    phân tích, so sánh, đánh giá xem có thực hiện được việc giải quyết vấn đề hay
    không. Nếu có nhiều phương án giải quyết thì cần so sánh để xác định phương
    án tối ưu. Nếu các phương án đã đề xuất mà không giải quyết được vấn đề thì
    tìm kiếm phương án giải quyết khác. Khi quyết định được phương án thích hợp
    là đã kết thúc việc giải quyết vấn đề.
    – Phương pháp sắm vai
    Sắm vai là phương pháp giáo dục giúp học sinh thực hành cách ứng xử,
    bày tỏ thái độ trong những tình huống giả định hoặc trên cơ sở óc tưởng tượng
    và ý nghĩ sáng tạo của các em. Sắm vai thường không có kịch bản cho trước
    mà học sinh tự xây dựng trong quá trình hoạt động. Đây là phương pháp giúp
    học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào cách ứng xử
    cụ thể mà các em quan sát được. Sắm vai có ý nghĩa rất lớn trong việc hình
    thành và phát triển các kĩ năng giao tiếp cho học sinh. Thông qua sắm vai, học
    sinh được rèn luyện, thực hành những kĩ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong
    môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiên, tạo điều kiện phát triển
    15
    óc sáng tạo của các em, khích lệ thay đổi thái độ và hành vi theo hướng tích
    cực trước một vấn đề hay đối tượng nào đó.
    Về mặt tâm lý học, thông qua các hành vi, cá nhân nhận thức và giải
    quyết tốt hơn vấn đề của bản thân, vai trò lĩnh hội được trong quá trình sắm vai
    cho phép học sinh thích ứng với cuộc sống tốt hơn. Trong trò chơi cũng như
    trong cuộc sống, các em mong muốn có được một vai yêu thích, khi sắm một
    vai học sinh bước ra từ chính bản thân mình. Điều này trở thành phương tiện
    để thể hiện niềm vui, nỗi buồn, mối quan tâm, băn khoăn, mong muốn được
    chia sẻ, sự do dự, ngập ngừng… của chính các em. Thông qua các vai được
    sắm trong trò chơi, học sinh thể hiện các khía cạnh khác nhau trong tính cách
    như: sự ưa thích, tình cảm, sự hiểu biết về nhân vật mà các em đang sắm vai đó
    và những người bạn đang chơi cùng với hành động của chúng là điều đặc biệt
    quan trọng, có ý nghĩa nhiều mặt đối với học sinh.
    Phương pháp sắm vai được tiến hành theo các bước nhất định bao gồm:
    + Bước 1: Nêu tình huống sắm vai (phù hợp với chủ đề hoạt động; phải là
    tình huống mở; phù hợp với trình độ học sinh).
    + Bước 2: Cử nhóm chuẩn bị vai diên (có thể chuẩn bị trước khi tiến hành
    họat động): yêu cầu nhóm sắm vai xây dựng kịch bản thể hiện tình huống sao
    cho sinh động, hấp dẫn, mang tính sân khấu nhưng không đưa ra lời giải hay
    cách giải quyết tình huống. Kết thúc sắm vai là một kết cục mở để mọi người
    thảo luận.
    + Bước 3: Thảo luận sau khi sắm vai: khi sắm vai kết thúc, người dẫn chương
    trình đưa ra các câu hỏi có liên quan để học sinh thảo luận
    + Bước 4: Thống nhất và chốt lại các ý kiến sau khi thảo luận.
    – Phương pháp trò chơi
    Trò chơi là tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn đề hay thực hiện những hành
    động, việc làm hoặc hình thành thái độ thông qua một trò chơi nào đó.
    Đặc thù của trò chơi: Trò chơi không phải là thật mà là giả vờ như làm một cái
    gì đó nhưng mang tính chân thật (nhập các vai chơi một cách chân thật, thể hiện
    động tác, hành vi phù hợp…). Hơn nữa, đây là một hoạt động tự do, tự nguyện
    16
    không thể gò ép hoặc bắt buộc chơi khi các em không thích, không đáp ứng nhu
    cầu, nguyện vọng của chúng.
    Trò chơi được giới hạn bởi không gian và thời gian, có qui tắc tổ chức
    (luật chơi do nội dung chơi quy định). Đặc thù này sẽ quy định quy mô, số
    lượng người chơi, điều kiện, vật chất, cũng như xác định tính chất, phương
    pháp hành động, tổ chức và điều khiển hành vi cũng như những mối quan hệ
    lẫn nhau của người chơi.
    Trò chơi là một hoạt động mang tính sáng tạo cao, thể hiện ở việc lựa
    chọn chủ đề chơi, phân vai tạo ra tình huống, hoàn cảnh chơi, sử dụng phương
    tiện thay thế trong các trò chơi sáng tạo, lựa chọn các phương thức hành động
    và phân chia tình huống chơi để giải quyết nhiệm vụ chơi trong những trò chơi
    có luật.
    Trò chơi là phương tiện giáo dục và phát triển toàn diện HS, giúp các em
    nâng cao hiểu biết về thế giới hiện thực xung quanh, kích thích trí thông minh,
    lòng ham hiểu biết, học cách giải quyết nhiệm vụ. Ngoài ra, trò chơi là phương
    tiện giáo dục phẩm chất nhân cách cho học sinh. Các phẩm chất nhân cách
    được hình thành thông qua chơi như tính hợp tác, tính đồng đội, tính tập thể,
    tính kỷ luật, tự chủ, tích cực, độc lập, sáng tạo, sự quan tâm lo lắng đến người
    khác, thật thà, dũng cảm, kiên nhẫn… Trò chơi còn là phương tiện giáo dục thể
    lực cho học sinh, giáo dục thẩm mỹ, hình thành các kĩ năng giao tiếp, kĩ năng
    xã hội…
    Trò chơi là một phương thức giải trí tích cực, hiệu quả, mang lại niềm
    vui, sự hứng khởi, hồn nhiên, yêu đời cho học sinh… để các em tiếp tục học tập
    và rèn luyện tốt hơn.
    Về mặt tâm lý học, trong quá trình diên ra trò chơi tất cả các thành viên
    của nhóm đều tham gia hết mình và từ đó các em sẽ được trải nghiệm, bởi vì
    mỗi cá nhân cũng như cả nhóm đang sống trong một tình huống khác với
    những gì các em đã sống trong cuộc sống thực.
    – Phương pháp làm việc nhom
    Làm việc theo nhóm nhỏ là phương pháp tổ chức dạy học – giáo dục,
    17
    trong đó, giáo viên sắp xếp học sinh thành những nhóm nhỏ theo hướng tạo ra
    sự tương tác trực tiếp giữa các thành viên, từ đó học sinh trong nhóm trao đổi,
    giúp đỡ và cùng nhau phối hợp làm việc để hoàn thành nhiệm vụ chung của
    nhóm.
    Tác dụng: phương pháp làm việc nhóm có ý nghĩa rất lớn trong việc:
    – Phát huy cao độ vai trò chủ thể, tính tự giác, tích cực, sáng tạo, năng
    động, tinh thần trách nhiệm của học sinh, tạo cơ hội cho các em tự thể hiện, tự
    khẳng định khả năng, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao.
    – Giúp học sinh hình thành các kĩ năng xã hội và phẩm chất nhân cách
    cần thiết như: kĩ năng tổ chức, quản lí, giải quyêt vấn đề, hợp tác, có trách
    nhiệm cao, tinh thần đồng đội, sự quan tâm và mối quan hệ khăng khít, sự ủng
    hộ cá nhân và khuyến khích tinh thần học hỏi lẫn nhau, xác định giá trị của sự đa
    dạng và tính gắn kết.
    – Thể hiện mối quan hệ bình đẳng, dân chủ và nhân văn: tạo cơ hội bình
    đẳng cho mỗi cá nhân người học được khẳng định và phát triển. Nhóm làm việc
    sẽ khuyến khích HS giao tiếp với nhau và như vậy sẽ giúp cho những em nhút
    nhát, thiếu tự tin có nhiều cơ hội hòa nhập với lớp học.
    Tóm lại, hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giữ vai trò quan
    trọng và mang lại những tác động tích cực, rất bổ ích tới học sinh. Hoạt động
    này giúp cho học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm để vận dụng những kiến thức
    học được vào thực tiên từ đó hình thành năng lực thực tiên cũng như phát huy
    tiềm năng sáng tạo của bản thân. Trong những hoạt động trải nghiệm sáng tạo
    mà tôi và đồng nghiệp tổ chức, áp dụng khi dạy học thì hình thức tôi tâm đắc
    nhất là sân khấu hoá một số hình tượng nhân vật và tác phẩm văn học trong và
    ngoài chương trình.
    2.2.2. Sân khấu hóa tác phẩm văn học.
    Sân khấu là một hình thức hợp tác của nghệ thuật sử dụng biểu diên trực
    tiếp, thường bao gồm việc các diên viên trình bày những trải nghiệm của một sự
    kiện có thật hay tưởng tượng trước những đối tượng khán giả tại chỗ ở một nơi
    cụ thể, thường là nhà hát. Các diên viên có thể truyền tải kinh nghiệm này đến
    với khán giả thông qua sự kết hợp của cử chỉ, lời nói, bài hát, âm nhạc, và khiêu
    18
    vũ. Các yếu tố của nghệ thuật, chẳng hạn như khung cảnh được dàn dựng và
    kịch nghệ như ánh sáng được sử dụng để nâng cao tính biểu tượng, sự hiện diện
    và tính tức thời của trải nghiệm. Nơi trình diên sân khấu cũng được gọi tên là
    sân khấu.
    Sân khấu hoa tác phẩm là hoạt động tiếp nhận văn học sáng tạo rất cần
    thiết tác động tốt đến mục tiêu dạy và học Ngữ văn nước ta. Sân khấu hóa tác
    phẩm văn học thực chất là chuyển thể văn bản ngôn từ (thơ, truyện, kịch…)
    thành kịch bản ngắn, tiểu phẩm chỉ như một minh họa, một trích dẫn. Trong giới
    hạn hoạt động ngoại khóa, sân khấu hóa chỉ là hình thức bổ trợ minh họa cho tác
    phẩm trong chương trình phổ thông.
    Chính những hoạt động ngoại khóa theo hình thức sân khấu hóa môn Ngữ
    Văn không chỉ là sân chơi mà còn giúp các em khám phá thế giới văn chương
    vốn đa chiều, phong phú… Sân khấu hóa tác phẩm văn học trong hoạt động
    ngoài giờ lên lớp rõ ràng rất quan trọng và cần thiết. Mỗi nhà trường và thầy cô
    giáo sẽ chọn cách sân khấu hóa tác phẩm theo thể loại, bám sát tác phẩm và
    chọn những chi tiết điển hình, tiêu biểu làm toát được chủ đề, hạn chế những chi
    tiết có nguy cơ hiểu lệch lạc, hiểu không đúng.
    Một số hình thức sân khấu hóa hình tượng và tác phẩm văn học dê áp
    dụng: Tác phẩm thơ được phổ nhạc với sự diên xuất của người hát và múa phụ
    họa sẽ là cách dê áp dụng nhất. Tác phẩm kịch, nên trích trọn vẹn một phân cảnh
    hoặc nhiều phân cảnh ngắn quan trọng theo chủ đề. Trang phục, đạo cụ dê làm
    nên ưu tiên thay vì đi thuê, mượn. Tác phẩm truyện chọn tình huống hoặc đoạn
    trích, chi tiết tiêu biểu để nhân vật thể hiện được chủ đề tác phẩm. Cố gắng chọn
    ngôn ngữ và cách nhân vật nghĩ, hành động. Các sáng tác dân gian rất cần thận
    trọng để không hiện đại hóa quá mức.Trong điều kiện cho phép, nhà trường tạo
    điều kiện tốt nhất về thời gian, phương tiện âm thanh, ánh sáng, sân khấu; ủng
    hộ sáng tạo và giúp đỡ thầy trò thực hiện thành công ý tưởng.
    Không có phương pháp nào chung cho giáo viên Ngữ văn và cho từng bài
    học. Môn văn vốn được coi là môn học “khó ưa” với nhiều học sinh. Với
    phương pháp dạy học truyền thống một chiều, học sinh sẽ “đứng ngoài” môn
    học, kiến thức sẽ truyền đạt nặng nề, khó hiểu. Người giáo viên ngoài việc khơi
    19
    gợi giúp trò trực tiếp tìm hiểu, khám phá, giảng giải các thông điệp về xuất xứ,
    nội dung, ngôn từ, biện pháp nghệ thuật và áp dụng nhiều phương pháp dạy học
    khác thì việc các thầy cô giáo Ngữ văn nỗ lực đầu tư công sức, cùng đồng
    nghiệp tổ chức hiệu quả hoạt động ngoài giờ qua hình thức sân khấu hóa tác
    phẩm văn học. Thực tế cho thấy, dạy học bằng hình thức sân khấu hóa rất thu
    hút học sinh. Mọi học sinh đều mong muốn tham gia để thể hiện bản thân, rèn
    luyện sự tự tin và các kỹ năng khác. Đây là một hình thức mới trong thực hiện
    định hướng dạy học phát triển năng lực của học sinh. Thông qua hình thức sân
    khấu hóa đã đưa những tác phẩm ngữ văn, trích đoạn văn học đến gần hơn với
    các em học sinh; giúp các em có thể đồng sáng tạo với nhà văn và tạo ra sân
    chơi bổ ích cho các em học sinh; làm cho những tiết học văn thú vị, hấp dẫn hơn
    rất nhiều.Sâu khấu hóa giúp tiết học trở nên nhẹ nhàng hơn, lôi kéo học sinh vào
    cuộc cùng môn học. Ở hình thức này, các em buộc phải nhập cuộc cùng với tác
    phẩm, sống cùng nhân vật và hiểu hơn về nhân vật một cách hết sức tự nhiên,
    không khiên cưỡng. Hơn nữa, hình thức sân khấu hóa còn giúp học sinh mở
    mang thêm nhiều kiến thức khác ngoài sách vở, trang bị những kỹ năng mềm,
    đồng thời định hướng đam mê cho các em. Một phân cảnh trong tác phẩm được
    coi là thành công khi chính các em biết bản thân mình phù hợp với nhân vật nào,
    biết cách làm việc nhóm và “sống” cùng nhân vật.
    Tuy nhiên, việc tổ chức sân khấu hóa tác phẩm văn học khá tốn thời gian,
    công sức và tiền bạc. Vì vậy cần biết cách tổ chức sao cho vừa tạo hiệu quả với
    học sinh vừa phù hợp thực tế mỗi nhà trường. Sự thái quá, có phần lạm dụng
    việc sân khấu theo những kịch bản sơ sài, chỉ chú ý một vài chi tiết để thỏa mãn
    thị hiếu học trò hiện nay ở nhiều nơi đã làm giảm giá trị nghệ thuật của tác phẩm
    văn học, phá vỡ tính chỉnh thể và đa nghĩa của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ.
    Mỗi học kỳ, mỗi năm học chỉ nên làm một đến hai lần, không nên làm theo
    phong trào và phải biết vận dụng linh hoạt để phát huy hiệu quả của phương
    pháp này.
    2.3. Thực trạng của vấn đề:
    a. Thuận lợi
    20
    – Chúng tôi rất may mắn khi được giảng dạy dưới ngôi trường Trung học
    cơ sở Nguyên Hiền – ngôi trường mang tên vị trạng nguyên trẻ tuổi nhất nước ta.
    Trường THCS Nguyên Hiền là Trung tâm giáo dục chất lượng cao của huyện
    Nam Trực, đang trên lộ trình xây dựng trung tâm giáo dục chất lượng cao của
    tỉnh, nơi đây là cái nôi đào tạo, bồi dưỡng rất nhiều nhân tài cho quê hương, đất
    nước. Nhà trường có đội ngũ giáo viên trẻ, nhiệt tình trong công tác giảng dạy,
    có ý thức tự học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Ở
    đây chúng tôi được các giáo viên đàn anh, đàn chị quan tâm, giúp đỡ, hướng dẫn
    tận tình, được học hỏi, nâng viên cao kinh nghiệm trong giảng dạy.
    – Cơ sở vật chất của nhà trường được trang bị tương đối đối đầy đủ. Hiện
    nay, trường đã hoàn thiện về cơ sở hạ tầng với 5 dãy nhà cao đẹp, khang trang, 1
    nhà đa năng tạo điều kiện cho mọi hoạt động dạy học chính khóa, ngoại khóa,
    các hoạt động thể dục – thể thao, các buổi sinh hoạt tập thể. Nhà trường đã trang
    bị cho từng phòng học những trang thiết bị dạy học hiện đại như hệ thống tivi,
    máy tính, các thiết bị loa đài; ở các phòng học chức năng có bảng tương tác
    thông minh…. Đây là nguồn động lực, tạo hứng khởi, thúc đẩy thầy dạy tốt hơn
    và trò học tốt hơn.
    – Học sinh trường Trung học cơ sở Nguyên Hiền được tuyển chọn từ các
    xã trong huyện nên đa số các em đều chăm ngoan, học giỏi. Vinh dự được học
    dưới mái trường mang tên vị Trạng nguyên trẻ tuổi của dân tộc, được giáo dục
    về truyền thống tốt đẹp của nhà trường, các em luôn ý thức nỗ lực học tập và rèn
    luyện để giữ gìn, phát huy và viết tiếp trang thành tích vẻ vang của các thế hệ đi
    trước. Trong quá trình học tập, tham gia các Hoạt động ngoài giờ lên lớp và sinh
    hoạt các Câu lạc bộ, nhiều em đã bộc lộ các năng khiếu như múa hát, nhảy
    Dance sport, thuyết trình, diên xuất…Điều đáng mừng là một số em ham học,
    say mê, hứng thú với môn Ngữ văn và thể hiện rõ năng khiếu văn chương của
    mình. Các em có những hiểu biết phong phú, cảm nhận sâu sắc với những tác
    phẩm, những bài thơ, câu chuyện được học, điều này thể hiện rất rõ qua từng bài
    kiểm tra, bài viết của mình. Đây cũng là sự động viên rất lớn để chúng tôi phấn
    đấu hơn nữa trong quá trình giảng dạy, để mỗi tiết học thực sự là niềm mong
    chờ của các em.
    21
    – Trường THCS Nguyên Hiền thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt
    chuyên môn theo tổ chuyên môn, nhóm chuyên môn vào thứ hai hàng tuần để
    giáo viên chúng tôi có điều kiện thuận lợi trao đổi, học hỏi, trau dồi kiến thức,
    kinh nghiệm cho bản thân mình.
    – Tài liệu, sách, báo viết về việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay
    khá phong phú, đa dạng.
    – Môn Ngữ văn là môn học vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ
    thuật có sự gắn bó, gần gũi với cuộc sống. Nhiều tác phẩm văn học được sáng
    tác dựa trên các sự kiện lịch sử, các nhân vật có thực trong cuộc sống; nhiều câu
    chuyện trong chương trình Ngữ văn học sinh đã được biết đến qua lời kể của bà,
    của mẹ từ khi còn nằm trong nôi; một số tác phẩm đã được dựng thành phim
    hoạt hình … do đó đã trở nên rất thân quen với học sinh.
    – Bản thân chúng tôi đã có kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm, cũng có
    điều kiện tiếp xúc bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi, lại được cùng các em trải
    qua rất nhiều các buổi Sinh hoạt “Câu lạc bộ Văn học” nên chúng tôi có những
    biện pháp, kĩ thuật riêng để phát hiện và khám phá những năng khiếu thiên bẩm
    ở mỗi thế hệ học sinh trong trường. Những yếu tố đó kết hợp cùng niềm đam mê
    yêu thích đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong việc nghiên cứu và thực
    hiện giải pháp “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo dưới hình thức sân khấu hoá
    một số hình tượng nhân vật và tác phẩm văn học”.
    b. Kho khăn
    Trong quá trình dạy học, chúng tôi gặp phải một số khó khăn ảnh hưởng
    đến chất lượng dạy học môn Ngữ văn. Sau khi phân tích chi tiết, tôi nhận thấy
    những khó khăn đó có nguyên nhân khách quan và chủ quan. Cụ thể:
    – Về phía văn bản:
    + Đời sống được phản ánh trong một số tác phẩm văn học là bối cảnh xã
    hội từ những thế kỷ trước, thời đại trước khiến tác phẩm nên xa lạ với học sinh
    làm cho các em khó tiếp cận, tiếp nhận tác phẩm.
    + Tư tưởng, tình cảm, suy nghĩ của con người ngày xưa khác rất nhiều
    ngày nay, khiến cho học sinh rất khó cảm nhận về giá trị nội dung tư tưởng.
    22
    + Còn có nhiều ý kiến trao đổi về ý nghĩa các hình tượng văn học, các chi
    tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn học và chưa đi đến một thống nhất chung. Vì
    vậy, giáo viên thường thụ động dựa vào sách hướng dẫn để giảng cho học sinh.
    Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc chuyển tải cái hay, cái đẹp của tác phẩm
    tới học sinh, học sinh thường chỉ nhớ “vẹt” ý của bài mà không hiểu sâu sắc tác
    phẩm, không phát huy được năng lực sáng tạo. Chỉ sau thời gian ngắn, những
    nội dung ấy nếu không được ôn lại, sẽ nhanh chóng ra khỏi chỗ nhớ, lâu dần,
    thói quen đó làm mất hứng thú của học sinh đối với bộ môn Văn.
    – Về phía giáo viên:
    + Thời lượng trong chương trình dành cho môn Ngữ văn là 4 tiết/tuần,
    lượng kiến thức trong chương trình có bài khá nặng, việc giảng dạy đảm bảo
    kiến thức cơ bản cho học sinh chiếm rất nhiều thời gian vì vậy việc giảng dạy
    những nội dung gắn với thực tế cuộc sống hay việc tổ chức cho học sinh thực
    hành còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Nhiều tác phẩm dài và khó nhưng
    lượng thời gian theo Kế hoạch dạy học còn hạn chế.
    + Một số giáo viên vẫn còn giữ thói quen dạy học theo các phương pháp
    truyền thống, truyền thụ kiến thức một chiều; khi lên lớp thì trung thành với nội
    dung và trình tự bài học trong sách giáo khoa, chưa mạnh dạn thay đổi, sáng tạo
    trong phương pháp để tạo hứng thú cho học sinh và đáp ứng yêu cầu đổi mới
    của bộ môn.
    + Việc giao nhiệm vụ cho học sinh chưa rõ ràng, cụ thể mà còn chung
    chung và đại khái. Vấn đề được giao chưa hấp dẫn học sinh tìm tòi, khám phá
    sáng tạo chưa kích thích sự tự giác và năng lực sáng tạo của các em.
    + Trong bối cảnh hiện nay, khi mà việc dạy và học luôn đòi hỏi tính đổi
    mới và sáng tạo thì công việc của giáo viên cũng tăng lên rất nhiều. Để có những
    giờ lên lớp hiệu quả, người giáo viên cần có sự nghiên cứu, tìm tòi, ứng dụng
    các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
    học…do đó, thời gian để hỗ trợ học sinh sân khấu hóa các tác phẩm văn học
    chưa nhiều. Hơn nữa một số đồng nghiệp của tôi do không có năng khiếu, quỹ
    thời gian hạn chế nên chưa hào hứng và chưa hỗ trợ nhiều trong công việc này.
    Một số giáo viên cùng chuyên môn mới ra trường, nhiệt huyết, hứng thú thì
    23
    nhiều nhưng kinh nghiệm chưa có nên khó hình dung để cùng chúng tôi thực
    hiện giải pháp này.
    – Về phía học sinh:
    + Khả năng tư duy độc lập để phát hiện vấn đề, còn hạn chế còn mang
    tính chất ỷ lại cho giáo viên khi đi tìm hiểu, khám phá kiến thức mới. Khi tìm
    hiểu các văn bản văn học dân gian như truyền thuyết, cổ tích, các em bắt gặp rất
    nhiều chi tiết giàu ý nghĩa như chi tiết niêu cơm thần, tiếng đàn thần trong
    truyện cổ tích Thạch Sanh nhưng đa số các em không hiểu hết được ý nghĩa của
    các chi tiết đó dẫn đến sự phụ thuộc vào lời giảng, cách phân tích của thầy cô.
    Từ đó học sinh mất hứng thú, cảm thấy khó khăn khi tiếp nhận, thấy bị gò bó, áp
    đặt và lâu dần sẽ thấy nhàm chán khi học văn và kéo theo chất lượng học văn
    ngày càng sa sút, tình yêu và niềm say mê môn văn cũng vì thế ngày một mất
    dần.
    + Bên cạnh đó, thế kỉ XXI với xu thế hội nhập toàn cầu, đời sống kinh tế
    xã hội, khoa học công nghệ phát triển học sinh có xu hướng tìm hiểu kiến thức
    trên diện rộng chứ không đi vào chiều sâu, các em có hứng thú và xem trọng
    những môn học có tính thời thượng (Toán, Lý, Hoá, Tin học, Ngoại ngữ…) hay
    gần đây là sự ứng dụng của giáo dục Stem, cuộc cách mạng khoa học công nghệ
    số thời đại 4.0 đang được triển khai mạnh mẽ thu hút sự hứng thú của học sinh
    còn văn chương bị coi là môn học không có tính năng ứng dụng, tương lai người
    học không được đảm bảo, cả phụ huynh cũng không muốn cho con mình theo
    đuổi văn chương, không muốn cho con vào đội tuyển Ngữ Văn nên họ ngăn cản
    hoặc coi đội tuyển Ngữ Văn như chốn “tạm nghỉ chân” để chờ cơ hội chuyển
    sang đội tuyển khác. Chính điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới tư duy và
    hứng thú của các em với môn Ngữ Văn khiến các em ngày càng xa rời văn
    chương.
    Qua thực tế khảo sát đầu năm tại các lớp, đội tuyển chúng tôi được phân
    công giảng dạy về “Hứng thú học tập bộ môn Ngữ văn và Hoạt động trải nghiệm
    sáng tạo” chúng tôi thu được kết quả như sau:
    * Ý kiến của học sinh về hứng thú học tập môn Ngữ Văn và hoạt động
    trải nghiệm sáng tạo
    24

    LớpTổng
    số HS
    Xếp loại (số lượng và tỉ lệ %)
    Rất thíchThíchBình thườngGhét
    6A375 (13,6 %)8 (21,6 %)14 (37,8 %)10 (27 %)
    6E384 (10,5 %)7 (18,4 %)16 (42,1 %)11 (28,9 %)
    Đội tuyển
    HSG Ngữ
    Văn 6
    289 (32,1 %)12 (42,9 %)7 (25%)0%

    Bảng 1.1: Khảo sát “Hứng thú học tập bộ môn Ngữ văn và
    Hoạt động trải nghiệm sáng tạo”
    Dựa vào bảng trên có thể dê dàng nhận thấy chưa nhiều học sinh có hứng
    thú học tập và hoạt động trải nghiệm đối với bộ môn NgữV. Đối với lớp
    đại trà mới chỉ có khoảng 10 – 14 % học sinh yêu thích và khá nhiều học sinh ghét
    môn này (chiếm khoảng 28%). Phần lớn học sinh không có hứng thú học tập bộ
    môn Ngữ văn (khoảng 40 % học sinh cảm thấy bình thường). Ngay cả với Đội
    tuyển học sinh giỏi Ngữ Văn mới được tuyển chọn số học sinh yêu thích cũng chỉ
    chiếm 32,1 %; tuy không có học sinh ghét học văn nhưng còn tới 25% học sinh
    cảm thấy bình thường, chưa hứng thú với môn học và hoạt động trải nghiệm sáng
    tạo.
    Từ việc không yêu thích, ít hứng thú với bộ môn dẫn đến kết quả bài làm
    của học sinh không cao. Cụ thể:
    * Kết quả khảo sát kiến thức về chủ đề truyện dân gian của học sinh

    LớpTổng số
    HS
    Xếp loại (số lượng và tỉ lệ %)
    Điểm
    9-10
    Điểm
    7-8
    Điểm
    5-6
    Điểm
    3-4
    Điểm
    1-2
    6A373 (8,1 %)19 (51,3%)14(37,9%)1(2,7%)0%
    6E384 (10,5 %)20 (52,6%)12(31,5%)2(5,3%)0%
    Đội tuyển
    HSG Ngữ
    Văn 6
    288 (28,6%)18 (64,3%)2 (7,1 %)0%0%

    Bảng 2.1: Khảo sát kiến thức môn Ngữ văn 6: Chủ đề truyện dân gian
    25
    Dựa vào bảng 2 nhận thấy kết quả học tập các nội dung kiến thức về truyện
    dân gian chưa cao. Các lớp đại trà chỉ có khoảng 8-10% học sinh đạt điểm 9-10;
    tuy không có học sinh đạt điểm 1- 2 nhưng còn 3 học sinh đạt điểm dưới trung
    bình và có tới 31,5 – 37,9 % học sinh trong lớp đạt điểm trung bình 5 – 6. Kết quả
    này cho thấy kết quả học tập bộ môn chưa cao.
    + Về phía học sinh, khi nghe tôi chia sẻ kế hoạch tổ chức hoạt động trải
    nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn, đa số các em rất hào hứng. Tuy nhiên khi bắt tay
    vào công việc, nhiều yếu tố phát sinh khiến một số em không duy trì được quyết
    tâm ban đầu; một số em thì chưa có năng khiếu thể hiện mặc dù rất háo hức, có
    em dê bị tác động, tham gia chưa tích cực, chưa phát huy hết khả năng sáng tạo
    của bản thân.
    + Ở độ tuổi của học sinh THCS, khả năng tư duy, sáng tạo của các em
    vẫn còn hạn chế, mức độ tập trung khi tham gia các hoạt động chưa cao, nhiều
    em không có năng khiếu để tham gia, một số em lúc đầu rất háo hức nhưng khi
    bắt đầu thực hiện thì nảy sinh tâm lý “cả thèm chóng chán”.
    + Đặc biệt, một thực tại mà giáo viên nào cũng nhận thấy: Sách tham
    khảo, sách hướng dẫn để học tốt, sách chuẩn kiến thức, những bài văn mẫu…
    quá nhiều, vô hình chung đã làm cho học sinh bỏ rơi sách giáo khoa, học sinh tỏ
    ra biết đầy đủ nội dung tác phẩm văn chương được học dựa vào bài soạn, sách
    học tốt… ở nhà nhưng chưa một lần đọc văn bản trong sách giáo khoa. Thầy, cô
    có kiểm tra phát vấn thì các loại sách tham khảo nghĩ hộ, nói hộ tất cả. Thậm chí
    trong nhiều tiết ôn tập khi tôi chúng đưa ra một câu hỏi, một đề bài để khắc sâu
    kiến thức thì trong quá trình làm bài các em không hề xem lại sách giáo khoa
    hay nội dung bài học mà thầy cô đã giảng mà ngay lập tức các em lôi ra đủ mọi
    loại tài liệu tham khảo để tìm câu trả lời và chép vào vở. Đến khi kiểm tra đánh
    giá thì chất lượng bài làm không cao thể hiện sự thiếu kiến thức và thái độ học
    tập chưa tốt của học sinh như các em không thích và không có hứng thú học
    Văn.
    + Bên cạnh việc dạy và học chương trình đại trà, học sinh trường THCS
    Nguyên Hiền còn tham gia học các đội tuyển bồi dưỡng học sinh giỏi, đa số học
    26
    sinh ở xa trường, đến trường bằng xe ô tô đưa đón học sinh do đó thời gian dành
    cho các hoạt động trải nghiệm sáng tạo chưa nhiều
    – Về cơ sở vật chất: Nhà trường chưa có phòng riêng với các trang thiết bị
    đặc trưng phục vụ cho việc trải nghiệm, sáng tạo của học sinh. Các em vẫn phải
    tự lựa chọn địa điểm hoặc sử dụng tạm các phòng chức năng, phòng Đoàn Đội,
    nhà Đa năng… sinh hoạt, sáng tác kịch bản và luyện tập. Bên cạnh đó, kinh phí
    hỗ trợ cho các hoạt động sáng tạo còn hạn chế.
    Trước tình hình ấy, để khắc phục những khó khăn đó và đáp ứng yêu cầu
    giảng dạy, giáo viên phải tìm hiểu kĩ chương trình, bổ sung thêm kiến thức từ
    các nguồn tài liệu, các sách nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu, lựa chọn phương pháp
    giảng dạy phù hợp, vừa sức với học sinh, giúp các em vượt qua những khó khăn.
    Người giáo viên phải là chiếc cầu nối giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp của
    các tác phẩm văn học qua việc giảng dạy ở trên lớp và qua việc tổ chức hoạt
    động trải nghiệm sáng tạo cho các em trong quá trình học.
    2.4. Cách thức thực hiện.
    – Từ thực trạng trên, chúng tôi nhận thấy rằng muốn nâng cao hiệu quả
    học tập bộ môn, một trong các giải pháp đó là nâng cao hứng thú học tập từ đó
    sẽ cải thiện và nâng cao kết quả học tập môn Ngữ văn. Đặc biệt trong điều kiện
    hiện nay, giáo dục nước ta đang đổi mới từ “dạy học tiếp cận nội dung” chuyển
    sang “dạy học tiếp cận năng lực”, chuyển từ học sinh “học được gì?” sang học
    xong học sinh “làm được gì?”. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra đó là người giáo viên
    phải đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao hứng thú học tập cho học sinh,
    nâng cao chất lượng học tập bộ môn nói chung, phát triển 9 năng lực chung, 4
    năng lực chuyên biệt môn Ngữ văn đặc biệt là năng lực sáng tạo, khả năng vận
    dụng kiến thức môn Ngữ văn vào cuộc sống.
    – Giáo viên bộ môn đã căn cứ trên điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị, năng
    lực giáo viên và học sinh xác định và thực hiện các giải pháp sau để nâng cao
    hứng thú, chất lượng bộ môn, phát triển khả năng sáng tạo và vận dụng kiến
    thức vào thực tế đời sống.
    27
    2.4.1. Thành lập Câu lạc bộ Văn học
    Câu lạc bộ (CLB) là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm học
    sinh cùng sở thích, nhu cầu, năng khiếu,… dưới sự định hướng của những nhà
    giáo dục nhằm tạo môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các học sinh với
    nhau và giữa học sinh với thầy cô giáo, với những người lớn khác. Hoạt động
    của Câu lạc bộ tạo cơ hội để học sinh được chia sẻ những kiến thức, hiểu biết
    của mình về các lĩnh vực mà các em quan tâm, qua đó phát triển các kĩ năng của
    học sinh như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe và biểu đạt ý kiến, kĩ năng
    trình bày suy nghĩ, ý tưởng, kĩ năng viết bài, kĩ năng chụp ảnh, kĩ năng hợp tác,
    làm việc nhóm, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề,… Câu lạc bộ là nơi
    để học sinh được thực hành các quyền trẻ em của mình như quyền được học tập,
    quyền được vui chơi giải trí và tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật;
    quyền được tự do biểu đạt; tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin,… Thông
    qua hoạt động của các Câu lạc bộ, nhà giáo dục hiểu và quan tâm hơn đến nhu
    cầu, nguyện vọng mục đích chính đáng của các em. Câu lạc bộ hoạt động theo
    nguyên tắc tự nguyện, thống nhất, có lịch sinh hoạt định kì và có thể được tổ
    chức với nhiều lĩnh vực khác nhau như: Câu lạc bộ học thuật; Câu lạc bộ thể dục
    thể thao; Câu lạc bộ văn hóa nghệ thuật; Câu lạc bộ võ thuật; Câu lạc bộ hoạt
    động thực tế; Câu lạc bộ trò chơi dân gian…
    Trường THCS Nguyên Hiền là trung tâm giáo dục chất lượng cao của
    huyện Nam Trực. Vì vậy bên cạnh nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi, nhà
    trường luôn chú trọng giáo dục toàn diện cho học sinh trong đó có giáo dục kiến
    thức, kỹ năng cho học sinh qua các hoạt động của các Câu lạc bộ. Nhà trường đã
    thành lập các Câu lạc bộ Toán học tuổi thơ, Câu lạc bộ Văn học, Câu lạc bộ
    STEM,… Đối với Câu lạc bộ Văn học, đây vừa là một sân chơi bổ ích, vừa là
    nơi để các em học tập và rèn luyện. Khi thành lập câu lạc bộ cần có những qui
    định và cách thức hoạt động cụ thể. Đồng thời để hoạt động của câu lạc bộ diên
    ra hiệu quả cần có sự quan tâm, đồng hành của nhà trường. Cụ thể nhà trường
    phân công tổ chuyên môn phụ trách chung, tổ chuyên môn phân công giáo viên
    phụ trách theo khối lớp. Chúng tôi cùng các đồng chí giáo viên dạy môn Ngữ
    văn 6 được phân công phụ trách học sinh khối lớp 6,7 nên có nhiều thuận lợi
    28
    trong việc thực hiện biện pháp nâng cao chất lượng công tác giảng dạy môn Ngữ
    Văn.
    2.4.2. Tập hợp học sinh yêu thích Ngữ văn, học sinh có năng khiếu
    sáng tạo tham gia Câu lạc bộ Văn học.
    Đối với hoạt động giáo dục nói chung, hoạt động trải nghiệm sáng tạo nói
    riêng thì học sinh chính là nhân tố chính, là người đóng vai trò thực hiện mọi
    hoạt động còn người giáo viên chỉ đóng vai trò định hướng, tư vấn, bổ trợ giúp
    các em hoạt động thuận lợi có hiệu quả. Không một Câu lạc bộ nào có thể tồn tại
    và hoạt động thành công nếu thiếu sự đóng góp tích cực của các em học sinh.
    Câu lạc bộ Văn học và hoạt động sân khấu hóa các hình tượng nhân vật và tác
    phẩm văn học trong nhà trường cũng vậy,vai trò của các em học sinh là vô cùng
    quan trọng. Điều đầu tiên mà người giáo viên phải quan tâm đó là tập hợp, lôi
    cuốn được các em học sinh tham gia. Đó là những em học sinh yêu thích môn
    Ngữ văn, học sinh có năng khiếu sáng tạo. Hai đối tượng này có thể đồng nhất
    hoặc không đồng nhất. Bởi trên thực tế có những em học sinh lực học môn Văn
    không tốt, những em là học sinh các đội tuyển khác như Toán, Anh, Hóa,
    Sinh… nhưng các em yêu thích môn Ngữ văn nên vẫn tích cực tham gia và hoạt
    động rất hiệu quả. Đồng thời Câu lạc bộ thu hút hầu hết các em trong đội tuyển
    học sinh giỏi môn Văn ở hầu hết các khối lớp tham dự. Thông thường khi tiếp
    cận với một tác phẩm văn học việc đầu tiên là ta phải đọc nó bằng mắt, cảm
    nhận bằng trí óc và sân khấu là một hình thức để đưa các em đến một sự tiếp
    nhận gần gũi mang tính sáng tạo. Không chỉ đọc tác phẩm văn học, các em được
    trực tiếp tham gia vào tác phẩm, được lên sân khấu để cảm nhận, điều này để
    học sinh không chỉ thâm nhập mà còn sống cùng với tác phẩm. Và đưa tác phẩm
    lên một hình thức khác rất sinh động, linh hoạt, dê truyền tải.
    Học sinh là một lứa tuổi mà người ta bảo “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học
    trò”, các em rất nghịch, rất ham vui, và cũng rất giàu sáng tạo. Nhiều khi có
    những em học sinh lúc đầu không chịu đọc, không chịu học tác phẩm văn học
    nhưng sau khi tham gia câu lạc bộ, hứng thú đối với bộ môn của các em được
    cải thiện, nâng cao đáng kể và từ đó chất lượng học Văn của các em cũng có tiến
    triển tích cực. Như vậy việc sân khấu hoá tác phẩm văn học cũng là một thành tố
    29
    kích thích sự ham đọc, ham học, và dê tiếp cận tác phẩm dù dưới hình thức nào,
    các em được thoả sức sáng tạo và bộc lộ cá tính của mình.
    Các em học sinh tuy chưa có kĩ năng diên xuất nhưng lại ở lứa tuổi rất
    hồn nhiên, và giàu cảm xúc. Một tác phẩm văn học lên sân khấu do diên viên
    chuyên nghiệp rất khác với các em học sinh diên xuất. Các em học sinh có sự
    ngây thơ, hồn nhiên, trong trẻo để tiếp cận tác phẩm, và các em có sự sáng tạo.
    Sân khấu hoá tác phẩm văn học có thể áp dụng cho nhiều thể loại văn học
    như văn học nước ngoài, văn học dân gian, văn học trung đại, văn học hiện đại.
    Hoạt động ngoại khoá trong nhà trường nói chung và hoạt động ngoại khoá văn
    học nói riêng là một việc làm cần thiết và bổ ích, đây cũng là dịp để học sinh rèn
    luyện thêm kĩ năng cảm thụ tác phẩm, mang tính sáng tạo, được chủ động tham
    gia vào tác phẩm, đánh thức sự say mê trong các em.
    Sứ mệnh nhân văn lớn lao của nhà giáo nói chung, hay sứ mệnh của giáo
    viên môn Ngữ Văn nói riêng là không phải gieo cấy mà là đánh thức, đánh thức
    trí tuệ tâm hồn học sinh, đánh thức niềm đam mê sáng tạo, hứng khởi thích thú
    với môn học. Thông qua từng tiết dạy Ngữ văn 6 trên lớp, các buổi bồi dưỡng
    học sinh giỏi Ngữ văn 6, kết hợp với giáo viên dạy cùng khối, giáo viên phát
    hiện và bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu về môn học này. Lập danh
    sách, theo dõi, ghi chép để nắm chắc năng lực bộ môn, năng khiếu, sở trường
    của từng em, để định hướng các em theo các nhóm phù hợp trong hoạt động của
    câu lạc bộ.
    2.4.3. Bồi dưỡng phát triển tư duy sáng tạo và chia nhom theo năng
    lực, sở trường của học sinh.
    – Giáo viên xin ý kiến Ban giám hiệu nhà trường tổ chức lớp học bồi
    dưỡng phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh. Các lớp học bên cạnh việc bồi
    dưỡng kiến thức lí luận, nâng cao những kĩ năng sân khấu cho học sinh còn có
    thể tổ chức các diên đàn thảo luận cho các em vào cuối mỗi buổi học. Diên đàn
    là một hình thức tổ chức hoạt động được sử dụng để thúc đẩy sự tham gia của
    học sinh thông qua việc các em trực tiếp, chủ động bày tỏ ý kiến của mình với
    đông đảo bạn bè, nhà trường, thầy cô giáo. Thông qua diên đàn, học sinh có cơ
    hội bày tỏ suy nghĩ, ý kiến, quan niệm hay những câu hỏi, đề xuất của mình.
    30
    Đây cũng là dịp để các em biết lắng nghe ý kiến, học tập lẫn nhau. Vì vậy, diên
    đàn như một sân chơi tạo điều kiện để học sinh được biểu đạt ý kiến của mình
    một cách trực tiếp với đông đảo bạn bè và những người khác giúp các em khẳng
    định vai trò và tiếng nói của mình, đưa ra những suy nghĩ và hành vi tích cực để
    khẳng định vai trò và tiếng nói của mình, đưa ra những suy nghĩ và hành vi tích
    cực để khẳng định mình. Qua việc trao đổi giữa học sinh sẽ có nhiều ý tưởng
    mới mẻ, thú vị nảy sinh tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động trải nghiệm sáng
    tạo của các em.
    – Trong quá trình bồi dưỡng giáo viên phụ trách kết hợp với giáo viên bộ
    môn tổ chức bồi dưỡng, theo dõi, nắm bắt chắc chắn năng lực, sở trường và tiến
    hành phân học sinh thành những nhóm nhỏ hơn đồng thời cũng phân công giáo
    viên phụ trách từng nhóm. Cụ thể chia học sinh theo năng lực, sở trường vào
    những nhóm sau:
    + Nhóm sáng tác kịch bản: gồm những học sinh có tư duy tốt, có ý tưởng
    sáng tạo, khả năng diên đạt tốt… Những học sinh này lên ý tưởng, tham khảo
    các tài liệu, lắng nghe sự đóng góp của các thành viên, các thầy cô để từ đó xây
    dựng kịch bản cho mỗi lần hoạt động trải nghiệm.
    Giáo viên sẽ tổ chức cho nhiều nhóm học sinh sáng tạo sản phẩm ở cùng
    một tác phẩm, một chủ đề (vấn đề); sau đó cho các em thể hiện, nhận xét đánh
    giá lẫn nhau để rút kinh nghiệm cho bản thân.
    + Nhóm diễn viên: gồm những học sinh có giọng truyền cảm, giọng khác
    biệt, có ngoại hình phù hợp, có khả năng nhập vai, diên xuất tốt,…
    Tăng cường khích lệ nhiều đối tượng học sinh tham gia hoạt động trải
    nghiệm sáng tạo để học sinh có những trải nghiệm, khám phá bản thân và giáo
    viên có những lựa chọn phù hợp. Hình thức sân khấu hóa sẽ giúp học sinh khắc
    sâu kiến thức, rèn kỹ năng cảm thụ tác phẩm, kỹ năng “hóa thân” vào nhân vật
    văn học để đạt được mục tiêu là tạo yếu tố say mê, hứng thú, tích cực chủ động,
    sáng tạo trong học tập của học sinh. Trên cơ sở nền tảng cốt truyện của các tác
    phẩm, kết hợp sự tưởng tượng phong phú phù hợp với nội dung chương trình,
    bằng lối diên xuất tự nhiên và việc nhập vai khá tốt, các học sinh đã đem đến
    những trích đoạn chuyển thể như “Thầy bói xem voi”, “ Thánh Gióng”, “ Ông
    31
    già và Thần Chết”, “Quan Âm Thị Kính”, “Yết thị”, Ca dao, tục ngữ, truyện
    cười dân gian… mang đậm tính sáng tạo, gây được cảm xúc cho người xem và
    điều quan trọng là học sinh được hiểu và cảm nhận sâu sắc hơn về các tác phẩm
    văn học, có hứng thú học tập hơn đối với bộ môn Ngữ văn.
    + Nhóm chuẩn bị đạo cụ, phục trang, sân khấu: gồm những học sinh
    năng động, nhanh nhẹn, hoạt bát; có năng khiếu âm nhạc, hội họa, khéo tay,…
    Học sinh trong nhóm này có những em tuy lực học môn văn chưa tốt, không có
    năng khiếu, khả năng cảm thụ tác phẩm chưa bằng các bạn nhưng các em lại có
    sự say mê, thích thú với môn học, với các hoạt động của câu lạc bộ và có năng
    khiếu về âm nhạc, hội họa nên các em vẫn tích cực tham gia và có những đóng
    góp đáng kể. Ngoài ra, các em khi chuẩn bị đạo cụ, phục trang, sân khấu còn
    phải chú ý đến sự phù hợp của chúng với tác phẩm, thời đại của tác phẩm và từ
    đó sẽ kích thích sự tìm tòi, học hỏi của bản thân. Giáo viên dựa vào những yếu
    tố đó để vừa hỗ trợ các em phát huy năng lực, giúp đỡ các em và động viên khơi
    gợi ý thức học tập của các em.
    – Các nhóm tiến hành bầu trưởng nhóm, phó nhóm, xây dựng nội quy, kế
    hoạch hoạt động của nhóm dưới sự hướng dẫn của giáo viên phụ trách.
    Với phương châm tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy gắn với nhu cầu
    thực tế của học sinh, những năm gần đây, các buổi sinh hoạt ngoại khóa của Tổ
    Khoa học xã hội trường THCS Nguyên Hiền thường diên ra dưới hình thức sân
    khấu hóa một số hình tượng nhân vật và tác phẩm văn học trong nhà trường. Khi
    tham gia hoạt động sân khấu hóa, học sinh được lựa chọn những tác phẩm ngữ
    văn, trích đoạn văn học trong chương trình giảng dạy để nghiên cứu, chuyển thể
    sang hình thức sân khấu. Thông qua hình thức trình diên, các tác phẩm văn học
    dường như sống động và hấp dẫn hơn so với những giờ giảng trên lớp. Các em
    học sinh được dành thời gian nghiên cứu về đặc điểm, tính cách nhân vật, từ đó
    “nhập vai” sao cho sát nhất với nội dung của tác phẩm văn học.
    Ngoài ra, để có thể bồi dưỡng tốt cho học sinh, người giáo viên cũng
    phải tích cực học hỏi, nâng cao trình độ, kĩ năng, phương pháp của chính mình
    với sự hỗ trợ của tổ chuyên môn và nhà trường. Tổ chuyên môn cần xây dựng
    các chuyên đề dạy học, hội thảo chuyên môn về các phương pháp dạy học đổi
    32
    mới, dạy học theo định hướng năng lực học sinh để nâng cao chuyên môn của
    các thành viên trong tổ. Nhóm chuyên môn Ngữ Văn có các buổi họp, trao đổi
    kinh nghiệm, đóng góp ý kiến các thành viên học hỏi, cùng tiến bộ.
    Đề xuất với nhà trường cần bổ sung thêm sách tham khảo về các đề tài,
    các vở diên cho giáo viên và học sinh ở thư viện của trường; thiết kế phòng bộ
    môn có một sân khấu và đầy đủ đồ dùng, tiện nghi để phục vụ cho đặc thù của
    hoạt động sân khấu hoá. Nhà trường cần tạo điều kiện giúp đỡ cho một số giáo
    viên được học tập tại một số trung tâm phát triển tài năng con người và một số
    trung tâm sân khấu nghiệp dư để giáo viên có thêm các kinh nghiệm nhằm phục
    vụ tốt cho bản thân khi tham gia những hoạt động trên tại nhà trường.
    Nhà trường tạo điều kiện để cho giáo viên, học sinh tổ chức các hoạt
    động trải nghiệm sáng tạo và tham quan thực tế, các cuộc giao lưu cùng những
    diên viên, những nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch… để gây hứng thú cho giáo
    viên và học sinh một cách hiệu quả. Ví dụ như mời Đoàn kịch nói Nam Định,
    Đoàn chèo Nam Định… về giao lưu, chia sẻ cùng các em học sinh và giáo viên
    trong nhà trường. Thậm chí nhà trường đã tổ chức cho các em học sinh lên tham
    quan Nhà hát chèo Nam Định để các em tận mắt thấy sân khấu chèo; tận tay
    chạm vào những trang phục, đạo cụ; nghe chia sẻ của những diên viên thực thụ
    để mở rộng tầm hiểu biết của mình.
    Có thể nói, bồi dưỡng phát triển tư duy sáng tạo và năng lực, sở trường
    của học sinh là khâu khó khăn nhất và cũng là khâu quan trọng nhất để dẫn đến
    thành công của mọi hoạt động. Bởi vậy, cần có sự nỗ lực của học sinh, vai trò
    “thuyền trưởng” của người giáo viên và sự đồng hành của các tổ, nhóm, đơn vị
    đoàn thể trong nhà trường.
    2.4.4. Lựa chọn chủ đề hoạt động trải nghiệm sáng tạo
    Giáo viên hướng dẫn cho học sinh lựa chọn chủ đề hoạt động trải nghiệm
    sáng tạo từ các tác phẩm truyện, thơ trong và ngoài chương trình theo từng thể
    loại cụ thể: truyện truyền thuyết, truyện ngụ ngôn, truyện cười, ca dao dân ca,
    thơ văn hiện đại… tương ứng với chủ đề sinh hoạt câu lạc bộ từng giai đoạn. Đây
    là khâu vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng hoạt động.
    Một chủ đề hay sẽ tạo nên sức hấp dẫn, hứng thú cho học sinh và từ đó học sinh
    33
    sẽ có những ý tưởng, hình thức biểu diên phong phú, sáng tạo. Bởi vậy trong
    khâu học sinh và giáo viên phụ trách cần phải phối hợp hết sức nhịp nhàng, ăn ý.
    Học sinh bàn bạc, thảo luận đưa ra ra ý tưởng, giáo viên lắng nghe, chắt lọc rồi
    cùng học sinh thống nhất việc lựa chọn tác phẩm và hướng sáng tạo kịch bản.
    Để tăng cường hứng thú cho học sinh, chủ đề sinh hoạt của Câu lạc bộ
    luôn được đổi mới như: Sân khấu hóa tác phẩm văn học dân gian trong nhà
    trường; Thơ văn với đời sống, Văn học dân gian- sức sống trường tồn…Đồng
    thời các hình thức, loại hình nghệ thuật được lựa chọn cũng rất đa dạng, phong
    phú, sinh động như diên kịch, múa hát tập thể, hát dân ca giao duyên, ngâm thơ,
    diên chèo, nhảy đương đại… Bởi vậy mỗi lần diên ra hoạt động trải nghiệm đều
    thu hút được sự quan tâm, tham gia tích cực từ học sinh và đạt được sự đánh giá
    cao của Phòng GD – ĐT huyện, Ban giám hiệu nhà trường, các thầy cô giáo, các
    bậc phụ huynh và toàn thể học sinh của nhà trường.
    2.4.5. Tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động
    a. Tổ chức sinh hoạt, tập luyện
    Sân khấu hóa các tác phẩm Ngữ Văn, trích đoạn văn học là một cách học
    hay, lôi cuốn người học. Bởi khi được hóa thân vào nhân vật trong tác phẩm văn
    học, các em tự phân tích, đánh giá, suy nghĩ về tâm lý nhân vật, bối cảnh, diên
    biến câu chuyện, qua đó cảm nhận sâu sắc về tác phẩm văn học nói chung và
    từng nhân vật nói riêng. Nhận thức được ý nghĩa của hoạt động trải nghiệm
    sáng tạo dưới hình thức sân khấu hoá một số hình tượng nhân vật và tác phẩm
    văn học đối với việc lĩnh hội kiến thức môn Ngữ Văn, các em càng say mê tham
    gia các hoạt động của Câu lạc bộ Văn học và phát huy mạnh mẽ vai trò của
    mình trong từng nhóm, từng bộ phận để làm nên những buổi sinh hoạt ngoại
    khóa thành công. Và để hoạt động diên ra có hiệu quả, ngay từ đầu năm học,
    giáo viên phụ trách kết hợp cùng giáo viên bộ môn dựa trên kế hoạch năm học
    chung của nhà trường, kế hoạch của tổ chuyên môn, kế hoạch của Câu lạc bộ
    Văn học (trên thực tế xây dựng kế hoạch tổ chức các buổi sinh hoạt câu lạc bộ
    Văn học đã trở thành công việc thường niên triển khai ngay từ đầu năm học của
    Trường THCS Nguyên Hiền)

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Một số giải pháp rèn kỹ năng làm bài văn lập luận giải thích cho học sinh lớp 7

    SKKN Một số giải pháp rèn kỹ năng làm bài văn lập luận giải thích cho học sinh lớp 7

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN.
    Theo khung chương trình ngữ văn trung học cơ sở hiện hành thì phân
    môn tập làm văn được thiết kế nhằm hướng dẫn học sinh làm tốt các kiểu bài:
    Tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và một số văn bản hành chính
    thông dụng. Trong đó phần văn nghị luận được đưa vào dạy từ học kỳ II năm
    lớp 7 và tiếp tục được học ở lớp 8 và lớp 9.
    Như ta đã biết nhu cầu nghị luận trong đời sống là rất phong phú, nó
    thường được thể hiện dưới dạng các ý kiến nêu ra trong cuộc họp, các bài xã
    luận bình luận, bài phát biểu ý kiến trên báo chí. Mục tiêu của việc dạy kiểu bài
    này là nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó.
    Nó là một trong những kiểu văn bản quan trọng có vai trò bồi dưỡng tư tưởng,
    tình cảm, phẩm chất đạo đức, hình thành những quan điểm tư tưởng sâu sắc
    trước đời sống, rèn luyện tư duy, năng lực diễn đạt cho học sinh. Có thể nói:
    không có văn nghị luận thì khó có thể hình thành các tư tưởng mạch lạc và sâu
    sắc. Có năng lực nghị luận là một trong những điều kiện cơ bản giúp con người
    trưởng thành trong cuộc sống.
    Về bản chất văn nghị luận là văn bản lí thuyết, văn bản nói lí lẽ nhằm
    phát biểu các nhận định, thể hiện quan điểm tư tưởng, suy nghĩ, thái độ trước
    vấn đề đặt ra. Do đó muốn làm văn nghị luận tốt thì người ta phải có khái niệm,
    có quan điểm, chủ kiến rõ ràng, biết sử dụng khái niệm, biết tư duy lô gic đồng
    thời biết sử dụng các thao tác phân tích, tổng hợp, qui nạp, diễn dịch, suy lí… nói
    chung là biết tư duy trừu tượng. Đây là loại văn bản tương đối khó đối với học
    sinh nói chung, nhất là với học sinh lớp 7 bởi các em còn nhỏ với thói quen tư
    duy cụ thể, cảm tính, ít năng lực suy luận, còn thiếu bản lĩnh chủ kiến khi trình
    bày quan điểm của mình. Thông qua việc dạy văn nghị luận bên cạnh việc
    hướng dẫn học sinh biết cách tạo lập một dạng văn bản thì cần bồi dưỡng cho
    học sinh tư tưởng, phẩm chất lối sống, tinh thần làm chủ; rèn luyện năng lực tư
    duy, kĩ năng lập luận, năng lực giao tiếp…
    Việc dạy văn nghị luận ở lớp 7 còn gặp khó khăn nữa là để xác lập cho
    người đọc người nghe một tư tưởng thì người viết phải có luận điểm rõ ràng,
    biết sử dụng lý lẽ dẫn chứng thuyết phục, lập luận chặt chẽ để khẳng định luận
    điểm của mình đưa ra là đúng. Trong khi đó ở lớp 6, các em học viết các văn
    bản tự sự, miêu tả và kỳ I là văn biểu cảm- những kiểu bài gần gũi chủ yếu dùng
    tư duy hình tượng, còn tư duy lô gic với các em thì rất lạ lẫm. Hơn nữa, nhìn
    chung vốn kiến thức về lịch sử, xã hội của học sinh là ít, các em không chịu đọc
    sách nên sự hiểu biết là hạn hẹp. Điều này khiến các em gặp nhiều khó khăn
    trong việc lấy dẫn chứng lý lẽ để trình bày tư tưởng quan điểm. Các bài hướng
    dẫn cách làm hầu hết lại rất chung chung chưa đầy đủ khiến phần lớn học sinh
    hiểu về văn nghị luận còn rất lơ mơ, chưa nắm chắc cách làm cả hai dạng bài là
    văn chứng minh và văn giải thích.
    3
    Đặc biệt khi dạy văn nghị luận ở loại bài giải thích tôi còn gặp một số
    vướng mắc như sau:
    * Về phía học sinh: Với học sinh ở dạng bài này yêu cầu các em phải vận
    dụng được các phương pháp giải thích để làm rõ nội dung của vấn đề giúp người
    đọc, người nghe hiểu được tư tưởng đạo lý từ đó nâng cao nhận thức, bồi dưỡng
    tình cảm và định hướng hành động. Các vấn đề được đưa ra giải thích thường là
    những câu nói ngắn gọn, xúc tích thể hiện những kinh nghiệm, những lời
    khuyên sâu sắc, những chân lý của thời đại như tục ngữ, ca dao, các câu danh
    ngôn, lời kêu gọi…Tuy nhiên, với đối tượng là học sinh lớp 7, kinh nghiệm sống
    còn ít, kiến thức xã hội thiếu sự sâu sắc, vốn ngôn ngữ còn hạn chế, thiếu khả
    năng tư duy trìu tượng thì việc giải thích ngắn gọn đề làm nổi bật nội dung của
    vấn đề là rất khó khăn (đôi khi các em càng giải thích càng thấy khó hiểu). Điều
    này dẫn đến kết quả của bài lập luận thường đạt kết quả thấp.
    * Về chương trình:
    – Theo khung chương trình ngữ văn 7 hiện hành ( Chương trình năm học
    2018-2019) thì tổng số tiết cho cả văn nghị luận là 19 tiết được phân phối như
    sau:
    + Tìm hiểu chung về văn nghị luận: 6 tiết.
    + Phép lập luận chứng minh: 8 tiết
    + Phép lập luận giải thích: 5 tiết bao gồm:
     Tiết 104: Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích.
     Tiết 107 : Cách làm bài văn lập luận giải thích.
     Tiết 108: Luyện tập lập luận giải thích. Bài viết số 6 – làm ở nhà .
     Tiết 112: Luyện nói: Bài văn giải thích một vấn đề.
     Tiết 116: Trả bài văn giải thích.
    – Do tình hình dịch bệnh, kế hoạch giáo dục cho phần văn giải thích năm
    học 2019 – 2020 được điều chỉnh như sau:
    + Số tiết dạy trên lớp : 2 tiết ( Tiết 95 – Kết hợp hai bài “ Tìm hiểu chung
    về phép lập luận giải thích. Cách làm bài văn lập luận giải thích.”; tiết 116 – Trả
    bài văn giải thích.)
    + Số tiết học sinh tự học : 2 tiết ( Luyện tập lập luận giải thích. Bài viết số
    6 – làm ở nhà; Luyện nói: Bài văn giải thích một vấn đề.)
    – Năm học 2020- 2021 theo Hướng dẫn điều chỉnh khung nội dung dạy
    học cấp THCS môn Ngữ văn 7 Bộ Giáo dục và đào tạo phần văn giải thích
    được xây dựng như sau:
    + Tổng số tiết dạy trên lớp: 5 tiết
     Tiết 100: Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích.
     Tiết 101 : Cách làm bài văn lập luận giải thích.
     Tiết 111: Luyện tập cách làm bài văn giải thích một vấn đề (giải thích
    một tư tưởng đạo lý).
     Tiết 112: Luyện tập cách làm bài văn giải thích một vấn đề (giải thích
    một quan điểm, tư tưởng).
     Tiết 116: Luyện nói bài văn giải thích một vấn đề
    4
    Ngoài ra giáo viên còn kết hợp phần luyện tập, rèn kỹ năng viết bài văn
    giải thích và các tiết luyện đề trong các buổi học thêm trong nhà trường ở học kỳ
    II.
    Nhìn vào phân phối chương trình ta thấy:
    * Về ưu điểm:
    – Chương trình đã quan tâm đến việc cung cấp cho học sinh những hiểu
    biết chung về kiểu bài; đề bài và phương pháp lập luận trong văn nghị luận, thực
    hành làm bài văn nghị luận
    – Chương trình dạy đủ các dạng bài từ tìm hiểu chung, cách làm bài, bài
    viết. Trong từng bài, sách giáo khoa đã tích hợp rất tích cực với văn bản trục
    chính.
    – Bên cạnh những đề bài có tính truyền thống như: giải thích câu ca dao,
    giải thích câu tục ngữ, giải thích các câu danh ngôn nhiều đề văn đã được ra
    mang tính tổng hợp theo kiểu “đề mở” gây nhiều hứng thú cho học sinh
    * Về hạn chế:
    Theo tôi, hạn chế lớn nhất của chương trình trên là ở từng loại bài (nghị
    luận chứng minh, giải thích) sách giáo khoa chưa có các bài hướng dẫn một cách
    cụ thể cách dựng các đoạn văn, kiến thức còn nặng. Chẳng hạn bài Cách làm bài
    văn lập luận chứng minh, chỉ có 45 phút mà thầy trò phải tìm hiểu đề văn: Nhân
    dân ta thường nói “Có chí thì nên”. Hãy chứng minh tính đúng đắn của câu tục
    ngữ đó với các công việc: Tìm hiểu đề; Tìm ý, lập dàn ý; viết bài (viết từng đoạn
    từ đoạn mở bài cho đến đoạn kết bài; đọc lại và sửa chữa). Đấy là chưa kể phần
    luyện tập. Đây là yêu cầu quá sức với học sinh, nhất là với đối tượng học sinh
    lần đầu tiên làm quen với văn nghị luận.
    Tương tự như vậy là bài Cách làm bài văn lập luận giải thích (Trang 84
    đến trang 86 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 tập 2). Cũng chỉ trong một tiết mà
    thầy trò phải giải quyết xong các khâu: Tìm hiểu đề, Tìm ý; Lập dàn ý; Viết bài
    cho đề bài: Giải thích câu tục ngữ “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”
    trong khi các em mới chỉ có những hiểu biết sơ đẳng nhất về kiểu bài giải thích.
    Đặc biệt với tình hình năm học 2019-2020, chương trình phải giảm tải,
    lồng ghép các bài trong một tiết học; phần luyện tập hầu hết là học sinh tự học
    thì kiến thức, kỹ năng giáo viên cần cung cấp và rèn cho học sinh lại càng nặng,
    áp lực của việc học tập lên học sinh lại càng lớn.
    Đã vậy, cách hướng dẫn của sách giáo khoa ở bài “Cách làm bài văn lập
    luận giải thích” , theo tôi không được khoa học, thiếu hợp lý, không gắn bó chặt
    chẽ với bài trước đó và yêu cầu chung của việc viết bài văn lập giải thích. Cụ thể
    như sau:
    – Trong phần ghi nhớ của bài Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích
    (Trang 69 đến trang 74 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 tập 2) nêu rõ: “Người ta
    thường giải thích bằng cách: nêu định nghĩa, kể ra các biểu hiện, so sánh đối
    chiếu với các hiện tượng khác, chỉ ra các mặt lợi hại, nguyên nhân, hậu quả,
    cách đề phòng hoặc noi theo”. Theo ghi nhớ này, ta có thể hiểu sách đã định
    hướng rõ ràng các bước giải thích:
    5
    Bước 1: Nêu định nghĩa, kể ra các biểu hiện, so sánh, đối chiếu với các
    hiện tượng khác. Đây chính là bước nêu rõ vấn đề giải thích, bước mà chúng tôi
    thường gọi là bước “là gì”? .
    Bước 2: Chỉ ra các mặt lợi hại, nguyên nhân, hậu quả. Đây chính là bước
    lí giải nguyên nhân của vấn đề giải thích được gọi là bước “tại sao”.
    Bước 3: Cách đề phòng hoặc noi theo. Đây là bước nêu ra bài học gọi là
    là bước “phải làm gì? ”.
    – Yêu cầu chung của bài văn lập luận giải cũng yêu cầu học sinh phải làm
    rõ vấn đề với hệ thống luận điểm bao gồm: Giải thích nội dung (Là gì?) , Giải
    thích lý do (Tại sao?) và nêu giải pháp (phải làm gì?)
    Vậy mà ở bài “Cách làm bài văn lập luận giải thích”, triển khai việc giải
    thích, sách giáo khoa lại gợi ý cụ thể cho phần thân bài như sau:
    b. Thân bài : Triển khai việc giải thích :
    – Nghĩa đen : Đi một ngày đàng nghĩa là gì? Một sàng khôn là gì? (Chú
    ý: Cách đo không gian bằng đơn vị ngày, đo trí khôn, kiến thức bằng sàng có gì
    đặc biệt?)
    – Nghĩa bóng: Như cách giải thích của từ điển đã dẫn ở trên. Hãy suy
    nghĩ xem: Câu tục ngữ có đúc kết một kinh nghiệm về nhận thức không? Kinh
    nghiệm đó là gì?
    – Nghĩa sâu: Liên hệ với các dị bản khác: Đi một bữa chợ học một mớ
    khôn hoặc các câu ca dao tục ngữ nêu trên để thấy cái khao khát của người
    nông dân xưa được muốn đi ra khỏi nhà, khỏi làng để mở rộng tầm mắt. Từ đó
    ta hiểu câu tục ngữ không chỉ đúc kết một kinh nghiệm, mà còn biểu hiện một
    khát vọng hiểu biết.
    Nếu chỉ theo ba gợi ý này mới chỉ dừng lại ở việc giải thích nội dung vấn
    đề mà chưa cho học sinh chưa thấy được cái lợi hại, chưa thấy được nguyên
    nhân của việc phải đi sâu vào thực tế cuộc sống, phải tiếp xúc với thực tế, cũng
    như chưa nêu ra được cần học tập theo lời dạy bảo của cha ông như thế nào. Hay
    nói khác đi, sự gợi ý của SGK là không đầy đủ.
    * Về phía giáo viên:
    Từ thực tế giảng dạy của bản thân và của một số đồng nghiệp tôi thấy việc
    dạy kiểu bài giải thích còn một số bất cập như sau.
    – Giáo viên chưa nắm chắc và làm rõ một số thuật ngữ khiến cho việc
    triển khai bài viết của học sinh còn lúng túng. Ví dụ khi dạy bài Đặc điểm của
    văn bản nghị luận (SGK ngữ văn 7 tập II), giáo viên cần hướng dẫn cho học
    sinh hiểu các thuật ngữ: luận điểm, luận cứ, lập luận. Điều này không chỉ giúp
    các em nắm vững đặc điểm của kiểu bài mà còn định hướng cách xác lập hệ
    thống luận điểm, triển khai dàn ý khi làm bài. Tuy nhiên nội dung trong SGK
    hướng dẫn rất sơ lược chung chung không phân biệt được luận điểm chính với
    luận điểm phụ. Và SGV cũng chỉ lý giải : “Luận điểm chính chưa chắc đã lớn,
    luận điểm phụ chưa chắc đã nhỏ”. Thực tình ngay cả giáo viên cũng cùng lúng
    túng mơ hồ lẫn lộn giữa các khái niệm này thì việc yêu cầu học sinh nắm chắc là
    vô cùng khó khăn. Chính vì vậy học sinh rất khó có thể xác lập được hệ thống
    6
    luận điểm đồng nghĩa với việc học sinh không thể có chìa khóa để giải mã các
    đề bài.
    – Một số giáo viên chưa chú ý rèn kỹ năng làm bài cho học sinh. Trong
    quá trình giảng dạy một bộ phận không nhỏ các thày cô giáo chưa quan tâm đến
    việc hướng dẫn học sinh cách viết bài mà mới chỉ dừng lại ở việc chữa dàn ý.
    Đấy là chưa kể đến việc còn một số giáo viên còn dạy văn mẫu, yêu cầu học
    sinh học thuộc. Điều này dẫn đến học sinh không hiểu rõ được vấn đề, không có
    kỹ năng làm bài, dẫn đến chất lượng bài làm thấp.
    Từ thực tế như trên, qua một thời gian được phân công dạy môn ngữ văn
    7 tôi thấy cần phải tìm ra giải pháp tốt hơn để việc giảng dạy đạt kết quả cao,
    giúp học sinh có kỹ năng làm tốt loại bài lập luận giải thích. Trong thời gian từ
    tháng 1 năm 2018 đến tháng 5 năm 2021 tôi đã áp dụng, cải tiến phương pháp
    dạy học ở kiểu bài giải thích trên đối tượng học sinh lớp 7 trường THCS Kim
    Thái. Trong khuôn khổ bản sáng kiến này tôi xin giới thiệu “ Một số giải pháp
    rèn kỹ năng làm bài văn lập luận giải thích cho học sinh lớp 7”
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    Trước khi áp dụng các giải pháp mới việc dạy và học loại bài giải thích
    của thày và trò còn gặp một số vấn đề như sau :
    Bản thân tôi và nhiều đồng nghiệp khác đều cảm thấy loay hoay khi
    hướng dẫn học sinh cách làm bài. Nó xuất phát từ chỗ muốn làm được bài văn
    giải thích thì việc xác lập hệ thống luận điểm là vô cùng quan trọng, việc này
    giúp học sinh định hướng được quan điểm tư tưởng, dẫn dắt vấn đề ở phần mở
    bài, triển khai nội dung ở thân bài và kết luận vấn đề. Tuy nhiên với việc giáo
    viên chỉ dừng lại ở việc cho học sinh nắm một cách chung chung về khái niệm
    luận điểm như trong bài đặc điểm của văn bản nghị luận (Luận điểm là những ý
    chính thể hiện tư tưởng quan điểm của bài văn được nêu ra dưới 2 hình thức
    khẳng định hay phủ định, được diễn đạt sáng tỏ, dễ hiểu nhất quán. Luận điểm là
    linh hồn của bài viết, nó thống nhất các đoạn văn thành một khối. Luận điểm
    phải đúng đắn chân thực đáp ứng yêu cầu thực tế.) mà không phân định rõ trong
    hệ thống luận điểm có các luận điểm chính, luận điểm phụ thì khi bắt tay vào
    làm bài học sinh không thể xác lập được hệ thống luận điểm đúng đắn cho bài
    văn. Điều này dẫn tới một hệ lụy tiếp theo là giáo viên thường áp đặt khiến học
    sinh tiếp thu bài một cách thụ động thậm chí để cho nhanh thày cô còn đọc văn
    mẫu cho học sinh. Đây là điều tối kỵ trong dạy học.
    Khi hướng dẫn học sinh làm bài lập luận giải thích tôi còn gặp một vấn đề
    nữa là khi tìm hiểu chung về văn giải thích và các phương pháp giải thích giáo
    viên đã định hướng cho học sinh là khi giải thích ta cần kết hợp các phương
    pháp như định nghĩa, nêu biểu hiện, so sánh đối chiếu, chỉ ra nguyên nhân kết
    quả, đề xuất các giải pháp… để làm rõ vấn đề. Các cách giải thích trên có thể
    đưa vào ba luận điểm triển khai trong phần thân bài bao gồm
    – Giải thích nội dung (Là gì)
    – Giải thích lý do (Tại sao)
    7
    – Bàn luận vấn đề: Nêu giải pháp (Phải làm gì), liên hệ mở rộng, phê phán
    các biểu hiện sai trái, rút ra bài học.
    Tuy nhiên trong bài Cách làm bài văn lập luận giải thích (Trang 84 – 85 –
    86 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 tập 2) thì mới dừng lại ở việc hướng dẫn học
    sinh phần giải thích nội dung (Luận điểm 1). Với cách làm này vô hình chung
    làm cho học sinh lúng túng, hoặc hiểu sai vấn đề khi làm bài (nhiều em cho rằng
    chỉ cần giải thích nội dung đã hoàn thành bài viết).
    Chính sự lúng túng của giáo viên trong quá trình hướng dẫn học sinh
    cách làm bài đã khiến cho học sinh thấy đây là dạng bài quá khó, cộng thêm
    nhiều em còn lười tư duy, vốn kiến thức, vốn ngôn ngữ hạn hẹp; các thao tác tư
    duy trìu tượng như phân tích, tổng hợp, suy lý, đánh giá, bình luận còn yếu;
    không có bản lĩnh, chủ kiến khi trình bày quan điểm của mình, khả năng lập
    luận diễn đạt còn yếu nên các em ngại học, tiếp thu thụ động, kết quả bài làm
    không cao. Khi chấm bài giáo viên nhận thấy học sinh còn mắc vào các lỗi cơ
    bản:
    – Xác định không đúng vấn đề cần giải thích ( Bản chất là học sinh không
    hiểu đúng nội dung của các câu ca dao, tục ngữ, các danh ngôn)
    – Xác định hệ thống luận điểm cho bài văn giải thích không đầy đủ.
    – Giải thích nội dung sơ sài, không bám sát nội dung, không làm nổi bật
    luận điểm kết luận.
    – Thiếu hệ thống lý lẽ dẫn chứng thuyết phục.
    – Không rút ra được bài học về nhận thức và định hướng hành động cho
    bản thân.
    – Phần phản biện vấn đề thường không được đưa vào bài văn.
    – Diễn đạt còn yếu.
    Kết quả đánh giá về tinh thần thái độ và kết quả bài viết trên 98 học sinh
    khối 7 năm học 2017- 2018 của trường THCS Kim Thái như sau:
    * Về tinh thần thái độ học tập

    Tổng số
    học sinh
    Số học sinh
    thích học
    Số học sinh
    không thích học
    Số học sinh
    thấy khó tiếp thu
    98192851

    * Về kết quả bài làm

    Số học
    sinh
    Kết quả bài viết số 6 làm tại nhà
    điểm 8-10điểm 5
    trở lên
    điểm dưới
    5
    điểm dưới
    2
    điểm 0
    984613120

    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
    Trước thực trạng trên khi nghiên cứu áp dụng sáng kiến đổi mới phương
    pháp dạy dạy kiểu bài lập luận giải thích tôi đã đưa ra một số giải pháp như sau:
    8
    2.1. Giúp học sinh nắm chắc các thuật ngữ
    Trong kiểu bài nghị luận có nhiều thuật ngữ mới, có nắm được các thuật
    ngữ này thì thầy trò mới dễ dàng tìm hiểu các văn bản nghị luận, cũng như các
    đề văn nghị luận. Do vậy việc đầu tiên tôi xác định là ngay từ ở các bài tìm hiểu
    chung về văn nghị luận đã phải cho học sinh hiểu rõ bản chất các thuật ngữ, thấy
    sự khác nhau cũng như mối liên hệ giữa các thuật ngữ thì mới học được văn giải
    thích nói riêng cũng như văn nghị luân nói chung.
    Thuật ngữ đầu tiên mà chúng ta cần nắm chắc đó là luận điểm. Với thuật
    ngữ này ngoài việc cho học sinh nắm được khái niệm theo ghi nhớ SGK trang
    19/Ngữ văn 7 tập II Thì tôi thấy cần phải cho học sinh hiểu rõ luận điểm trong
    bài văn nghị luận là một hệ thống bao gồm:
    – Luận điểm tổng quát bao trùm xuyên suốt toàn bài nghị luận.
    – Luận điểm xuất phát là vấn đề mà người nghị luận dùng dẫn dắt ở phần
    mở bài.
    – Luận điểm triển khai là các luận điểm ở phần thân bài.
    – Luận điểm chính là vấn đề rút ra ở phần kết bài (cũng có khi ở phần thân
    bài.
    Với bài nghị luận giải thích nói riêng (các bài nghị luận nói chung) việc
    xác định hệ thống luận điểm tuỳ thuộc vào từng đề bài cụ thể và có tính linh
    hoạt của nó. Nhưng nhìn chung dàn ý của bài văn giải thích thường có những
    bước cụ thể sau:
    – Mở bài: Nêu luận điểm xuất phát.
    – Thân bài: các luận điểm triển khai (Các luận điểm phụ)
    + Giải nghĩa vấn đề giải thích: nêu định nghĩa, kể ra các biểu hiện so sánh
    đối chiếu với các hiện tượng khác (Là gì?)
    + Lý giải nguyên nhân vấn đề giải thích: chỉ ra các mặt lợi hại, nguyên
    nhân, hậu quả (Tại sao?)
    + Bài học rút ra: cách đề phòng, noi theo, những việc cần làm, những việc
    không nên làm(Phải làm gì?)
    – Kết bài: Khẳng định luận điểm chính.
    Khái niệm tiếp theo cầm làm rõ là luận cứ. Vậy luận cứ là gì? Như SGK,
    luận cứ là lý lẽ và dẫn chứng để thể hiện luận điểm. Vậy thì các lý lẽ, dẫn chứng
    dùng để thể hiện các luận điểm xuất phát, luận điểm triển khai…là các luận cứ. Ở
    phần này thì tôi lại xác định cần cho học nắm rõ yêu cầu của dẫn chứng và lý lẽ
    đó là cụ thể, chính xác, tiêu biểu, toàn diện, có cơ sở khoa học và thực tiễn, được
    mọi người thừa nhận được trình bày theo một trình tự hợp lý bám sát phù hợp
    với luận điểm. Điều này sẽ giúp các em có định hướng tốt khi tìm ý, xây dựng
    dàn ý từ đó giúp cho việc trình bày bài văn giải thích có tính thuyết phục.
    Một thuật ngữ cơ bản nữa của văn nghị luận là lập luận. Theo SGK, SGV
    thì lập luận là cách lựa chọn, sắp xếp, trình bày luận cứ sao cho chúng là cơ sở
    vững chắc cho luận điểm. Khi dạy về phương pháp lập luận thì điều quan trọng
    nhất phải cho học sinh hiểu được là sau khi tìm được hệ thống dẫn chứng lý lẽ
    thì ta phải biết lựa chọn những luận cứ phù hợp cho từng luận điểm rồi sắp xếp
    chúng theo một trình hợp lý để làm nổi bật luận điểm. Khi sử dụng phương pháp
    9
    lập luận cần lưu ý cách lập luận trong bài chứng minh và bài giải thích là khác
    nhau. Ở kiểu bài chứng minh việc lập luận chủ yếu dựa trên hệ thống dẫn chứng
    cụ thể, chính xác, toàn diện, có cơ sở đã được thừa nhận để khẳng định tính
    đúng đắn của vấn đề. Bài nghị luận giải thích thì việc lập luận chủ yếu dựa trên
    hệ thống lý lẽ, ngắn gọn, cụ thể, xác đáng, đã được thừa nhận để giúp người đọc
    hiểu rõ một quan điểm tư tưởng từ đó bồi dưỡng tình cảm, thái độ .
    2.2. Rèn các kỹ năng thực hiện các bước làm bài giải thích
    Bài văn nghị luận giải thích là sự liên kết các luận điểm để thể hiện rõ tư
    tưởng quan điểm của người viết về một vấn đề nào đó. Như vậy có nghĩa là học
    sinh phải biết viết các đoạn luận điểm (luận điểm xuất phát, luận điểm triển
    khai, luận điểm kết luận). Để học sinh có thể làm bài tốt thì việc quan trọng nhất
    là hướng dẫn cho học sinh cách triển khai từng luận điểm, đưa cho học sinh các
    chìa khoá để giải mã các đề bài. Có các chìa khoá này, gặp bất cứ đề bài nào, dù
    thầy cô chưa bao giờ chữa, học sinh cũng có thể tự mình tìm ra cách giải quyết.
    Để làm được điều này thì theo tôi một nguyên tắc bất dịch đó là phải yêu cầu
    học sinh thực hiện đầy đủ, cụ thể, chắc chắn các bước làm bài. Sau đây là các kỹ
    năng cần thiết.
    2.2.1. Kỹ năng tìm hiểu đề, tìm ý:
    Đây là phần tương đối đơn giản nhưng nó lại rất quan trọng vì nó là định
    hướng đầu tiên nhưng lại xuyên suốt bài viết. Khi tìm hiểu đề học sinh phải đọc
    kỹ đề, gạch chân từng từ ngữ quan trọng rồi rút ra:
    – Thể loại
    – Luận điểm tổng quát.
    – Luận điểm chính.
    – Luận điểm triển khai.
    (Đề bài giải thích thường có tính chất giảng giải, khuyên nhủ nên luận
    điểm chính cần phải rút ra là lời khuyên thực hiện tốt một điều nào đó, một đạo
    lý nào đó).
    Ví dụ: Tìm hiểu đề bài:
    Nhân dân ta thường khuyên nhủ
    “Bầu ơi thương lấy bí cùng
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn ”
    Hãy giải thích câu ca dao trên.
    Khi tìm hiểu đề tìm ý giáo viên cần định hướng cho học sinh xác định
    được các vấn đề sau:
    a. Kiểu bài: Giải thích một vấn đề về tư tưởng đạo lý.
    b. Hệ thống luận điểm
    – Luận điểm tổng quát: Truyền thống đoàn kết yêu thương đùm bọc lẫn
    nhau của nhân dân ta.
    – Luận điểm triển khai (Luận điểm phụ hướng tới làm rõ luận điểm tổng
    quát)
    + Giải thích nội dung câu ca dao
    + Vì sao ông cha ta lại khuyên con cháu phải biết đoàn kết yêu thương
    đùm bọc lẫn nhau.
    10
    + Chúng ta phải làm gì để phát huy truyền thống đó. Bản thân em rút ra
    bài học gì?
    – Luận điểm chính (luận điểm kết luận): chúng ta phải phát huy truyền
    thống tốt đẹp này trong cuộc sống hiện tại như thế nào? (Mục đích hướng tới
    của bài làm)
    Sau khi đã xác lập được hệ thống luận điểm giáo viên cần cho học sinh đi
    tìm dẫn chứng lý lẽ cho từng luận điểm (Tập trung vào các luận điểm triển khai).
    Ở công đoạn này giáo viên nên tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm để các
    em có thể phát huy tối đa tinh thần tự giác tích cực học tập cũng như hỗ trợ bổ
    xung mở rộng kiến thức cho nhau.
    2.2.2. Lập dàn ý
    Đây là bước rất quan trọng, nó giúp học sinh hình thành lên toàn bộ
    khung cho bài viết với việc sắp xếp hệ thống luận điểm luận cứ theo một trình tự
    hợp lý tránh được việc thiếu, thừa ý hay lập luận không chặt chẽ trong bài làm.
    Khi lập dàn ý giáo viên cần yêu cầu HS bán sát hệ thống luận điểm, dẫn
    chứng lý lẽ đã tìm được ở phần trên để sắp xếp thành bố cục hợp lý.
    Một điều đáng lưu ý là việc lập dàn ý không nên quá sơ sài và cũng không
    nên quá chi tiết vì nếu quá sơ sài thì khi làm bài học sinh vẫn có thể để sót ý,
    còn nếu quá chi tiết thì sẽ tốn thời gian có thể không thể hoàn thành bài viết.
    Ví dụ khi lập dàn ý cho đề văn trên ta cần đưa ra một dàn ý như sau:
    * Mở bài
    – Dẫn dắt: Nêu luận điểm khái quát
    – Trích dẫn câu ca dao
    – Nêu vấn đề: Câu ca dao có ý nghĩa như thế nào chúng ta cùng tìm hiểu.
    * Thân bài
    Luận điểm 1: Giải thích nội dung
    – Câu ca dao là lời nhắn nhủ tới bầu và bí là hai loại cây khác giống
    nhưng cùng loài thường được bà con nông dân trồng nơi góc vườn bờ ao, chúng
    có điều kiện sống giống nhau thì hãy chung sống hòa thuận, chớ có ghen ghét
    mà xa lánh nhau.
    – Câu ca dao mượn chuyện bầu bí để nói về con người.
    + Bầu bí là hình ảnh ẩn dụ để chỉ những người như thế nào?
    + Chung một giàn có nghĩa là gì? (là cùng sống trên một quê hương đất
    nước).
    – Câu ca dao khuyên mỗi chúng ta điều gì?
    – So sánh đối chiếu với các câu tục ngữ ca dao khác
    Luận điểm 2: Giải thích lý do
    – Con người không thể tồn tại nếu tách mình ra khỏi cộng đồng. Chúng ta
    chung một nòi giống, sống trên cùng một quê hương đất nước nên có quan hệ
    với nhau cả về vật chất và tinh thần..
    – Cuộc sống của mỗi người sẽ có lúc gặp khó khăn trắc trở nếu chỉ có một
    mình thì sẽ khó vượt qua nên chúng ta phải nương tựa vào nhau để cùng nhau
    xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn.
    11
    – Đoàn kết vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà chúng ta phải có
    nghĩa vụ phát huy truyền thống đó. Sự cảm thông chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau là cơ
    sở để hình thành nên lòng yêu nước yêu dân tộc.
    – Lấy dẫn chứng để chứng minh.
    + Tinh thần đoàn kết trong chiến đấu chống ngoại xâm.
    + Tinh thần đoàn kết trong cuộc sống hằng ngày như: phong trào vì
    người nghèo, ủng hộ đồng bào vùng lũ hay chương trình cặp lá yêu thương trao
    cơ hội đi học cho trẻ em nghèo. Đặc biệt ngay cả những lúc khó khăn hoạn nạn
    thì nhiều người vẫn sẵn sàng giúp đỡ những người khó khăn hơn mình với tinh
    thần “ Lá rách ít đùm lá rách nhiều”.
    Luận điểm 3: Bàn luận và mở rộng vấn đề
    Ở luận điểm này học sinh cần trình bày được hai vấn đề:
    – Nêu những việc làm cụ thể của toàn xã hội và của bản thân trong việc
    phát huy truyền thống đoàn kết
    + Luôn phải biết quan tâm chia sẻ với những người xung quanh nhất là
    những người có hoàn cảnh khó khăn thông qua các hành động cụ thể như phong
    trào ủng hộ người nghèo, quyên góp quần áo, sách vở ủng hộ các bạn vùng lũ,
    vùng sâu vùng xa, mua tăm ủng hộ người mù…
    + Khi giúp đỡ người khác chúng ta cần nhớ rằng đây không phải là sự
    ban ơn bố thí
    – Liên hệ, phê phán những biểu hiện sai trái
    + Đoàn kết là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Nó còn được thể hiện
    trong các câu ca dao
    “ Nhiễu điều phủ lấy giá gương
    Người trong một nước phải thương nhau cùng”
    Và ông bà thường nhắc nhở con cháu “ Thương người như thể thương
    thân” , “ Lá lành đùm lá rách”.
    + Chúng ta cũng phải nghiêm khắc phê phán những kẻ có lối sống ích kỷ
    chỉ vì quyền lợi của bản thân mà thờ ơ trước khó khăn của người khác.
    * Kết bài
    Khẳng định tính ý nghĩa của vấn đề trong đời sống và rút ra bài học hoặc
    định hướng hành động cho bản thân.
    2.2.3. Rèn kỹ năng viết bài
    2.2.3.1. Những yêu cầu chung:
    Viết bài là công đoạn quan trọng, yêu cầu học sinh triển khai các luận
    điểm đã xây dựng trong bố cục thành những câu văn, đoạn văn có tính liên kết
    chặt chẽ để tạo thành một văn bản hoàn chỉnh. Đây là bước học sinh thể hiện
    được kiến thức, kỹ năng diễn đạt, tư duy phân tích, tổng hợp của bản thân. Qua
    bài viết thày cô giáo đánh giá được năng lực viết văn của các em.
    Trước khi hướng dẫn học sinh viết bài giáo viên cần cho các em thảo luận
    để rút ra những yêu cầu chung của một bài văn giải thích. Ví dụ học sinh phải trả
    lời các câu hỏi sau:
    – Mục đích của bài văn giải thích là gì?
    – Bố cục gồm mấy phần? Chức năng và mối quan hệ giữa các phần?
    12
    – Bài văn gồm mấy đoạn văn ? Nội dung cơ bản của từng đoạn là gì?
    – Để bài văn có sức thuyết phục thì chúng ta cần lưu ý gì về các diễn đạt?
    Sau khi học sinh thảo luận giáo viên cần chốt ý khắc sâu ghi nhớ
    – Mục đích của bài văn giải thích là làm cho người đọc hiểu rõ về các tư
    tưởng đạo lý, phẩm chất quan hệ để nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tư tưởng
    tình cảm.
    – Bài văn giải thích đảm bảo bố cục 3 phần là mở bài, thân bài, kết bài.
    Các phần trong bài văn phải rõ ràng mạch lạc nhưng phải được liên kết chặt chẽ
    với nhau cả về nội dung và hình thức.
    + Mở bài nêu luận điểm khái quát
    + Thân bài trình bày các luận điểm triển khai (Thường có ba luận điểm)
    + Nêu luận điểm kết luận.
    – Bài văn lập luận giải thích thường có 5 đoạn văn bao gồm đoạn mở bài,
    đoạn kết bài và 3 đoạn trong phần thân bài tương ứng với 3 luận điểm là giải
    thích nội dung, giải thích lý do, phải làm gì. Giữa các đoạn văn phải có các câu
    dẫn dắt để tạo sự liên kết chặt chẽ. Ví dụ khi liên kết các đoạn trong bài tập làm
    văn
    Nhân dân ta thường khuyên nhủ
    “Bầu ơi thương lấy bí cùng
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn ”
    Hãy giải thích câu ca dao trên.
    + Khi chuyển từ mở bài xuống luận điểm 1 ta có thể viết “ Trước tiên
    chúng ta đi giải thích rõ nội dung câu ca dao
    + Mở đầu luận điểm 2 ta có thể dẫn dắt nêu luận điểm bằng cách đặt câu
    hỏi “ Vậy vì sao ông bà lại khuyên con cháu phải biết yêu thương đùm bọc giúp
    đỡ lẫn nhau?”.
    + Chuyển sang luận điểm 3 ta viết : “ Vậy mỗi người dân Việt Nam ta cần
    làm gì để phát huy truyền thống tốt đẹp đó”
    – Để bài văn có sức thuyết phục thì bài văn cần được trình bày ngắn gọn,
    dẫn chứng lý lẽ cụ thể, chính xác, có cơ sở, đã được thừa nhận, lời văn trong
    sáng dễ hiểu.
    2.2.3.2. Viết các đoạn cụ thể
    Từ việc học sinh nắm chắc các yêu cầu chung khi viết bài giáo viên định
    hướng cách viết cụ thể các đoạn văn trong bài
    a. Viết đoạn mở bài (Luận điểm xuất phát).
    Mở bài của bài văn nghị luận nói chung và văn giải thích nói riêng cần
    đảm bảo 3 ý là: dẫn dắt; nêu vấn đề; định hướng. Có nhiều cách mở bài khác
    nhau và sự khác nhau này nằm ở phần dẫn dắt.
    * Cách dẫn dắt vấn đề
    Trước đây khi dạy giáo viên thường chia làm 2 cách dẫn dắt: trực tiếp và
    gián tiếp. Nói như vậy chung chung quá. Theo tôi có rất nhiều cách dẫn dắt,
    nhưng với học sinh lớp 7 ta nên hướng dẫn một số cách dẫn dắt sau:
    + Dẫn dắt đi thẳng vào vấn đề. Đây là cách dẫn dắt dễ nhất, ngắn gọn nhất
    nhưng nó thường khô khan nếu không khéo léo trong diễn đạt. Cách dẫn dắt này
    13
    thường xuất phát từ truyền thống của dân tộc, từ vai trò ý nghĩa của vấn đề giải
    thích.
    Ví dụ: với đề giải thích câu ca dao
    “ Bầu ơi thương lấy bí cùng
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn”
    Ta có thể dẫn dắt như sau :
    Dân tộc ta vốn có truyền thống đoàn kết yêu thương đùm bọc giúp đỡ lẫn
    nhau nhất là những lúc gặp khó khăn hoạn nạn.
    + Dẫn dắt bằng cách nêu vấn đề bao quát. Đây là cách dẫn dắt đi từ vấn
    đề lớn hơn, bao trùm vấn đề giải thích để dần dẫn đến vấn đề giải thích.
    Ví dụ :
    Người Việt Nam chúng ta ai mà chẳng thuộc một câu ca dao tục ngữ. Nó
    không chỉ là người bạn tâm tình mà còn là người thầy dạy ta bao điều hay lẽ
    phải…
    + Dẫn dắt bằng cách nêu tác giả tác phẩm. Đây là cách dẫn dắt xuất phát
    từ xuất xứ của vấn đề. Cách dẫn dắt này phù hợp với đề bài đưa ra câu nói của
    một ai đó, câu văn của một tác phẩm nào đó. Người nghị luận cần giới thiệu khái
    quát về tác giả, tác phẩm.
    Ví dụ: Với đề văn : Em hãy giải thích nội dung lời khuyên của Lê-nin “
    Học, học nữa, học mãi”. ta có thể dẫn dẫn dắt như sau:
    Giai cấp vô sản trên toàn thế giới luôn ngưỡng mộ V.I. Lê-nin. Bằng kinh
    nghệm cuộc đời đấu tranh cách mạng của mình, Lê- nin thấy rõ học tập là việc
    vô cùng quan trọng và cần thiết…
    + Dẫn dắt bằng cách nêu vấn đề có liên quan. Đây là cách dẫn dắt đi từ 1
    sự việc, 1 ý nào đó gợi sự liên tưởng đến vấn đề giải thích.
    Ví dụ : Với đề văn : Em hãy giải thích nội dung bài ca dao
    “ Công cha như núi Thái Sơn
    Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
    “Ba sẽ là cánh chim đưa con đi thật xa, mẹ sẽ là nhành hoa cho con cài
    lên ngực….”. Lời bài hát quen thuộc của tuổi thơ cứ ngân nga trong tâm trí tôi,
    gợi tôi nhớ đến bài ca dao….
    * Cách nêu vấn đề giải thích
    Bước này, phần lớn ở các mở bài giải thích đều giống nhau, đều chỉ cần
    một vài câu ngắn gọn nêu đầy đủ, chính xác vấn đề cần giải thích. Với đề bài có
    đưa dẫn câu nói, câu văn thơ, câu ca dao tục ngữ, thì phần này người nghị luận
    cũng phải trích dẫn ra câu nói, câu văn thơ hay câu ca dao tục ngữ ấy.
    * Cách nêu bước định hướng.
    Đây là bước kết thúc của một mở bài giải thích. Bước này có thể có hoặc
    không có cũng được. Nếu có, nó luôn có dạng một câu hỏi: Ta cần hiểu câu
    nói(câu văn thơ, câu ca dao tục ngữ…) như thế nào?
    Nói tóm lại, có nhiều cách mở bài cho một bài văn giải thích. Các cách
    mở bài này khác nhau ở bước dẫn dắt còn bước nêu vấn đề và bước định hướng
    thường là giống nhau. Sau đây là các mở bài trọn vẹn cả ba bước của các ví dụ
    trên
    14
    + Cách dẫn dắt đi thẳng vào vấn đề : Dân tộc ta vốn có truyền thống
    đoàn kết yêu thương đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau nhất là những lúc gặp khó khăn
    hoạn nạn. / Truyền thống đó được thể hiện ở câu ca dao:
    “ Bầu ơi thương lấy bí cùng
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”/
    Câu ca dao có ý nghĩa như thế nào chúng ta cùng tìm hiểu.
    + Cách xuất phát từ vấn đề bao quát: Người Việt Nam chúng ta ai mà
    chẳng thuộc một câu ca dao tục ngữ. Nó không chỉ là người bạn tâm tình mà còn
    là người thầy dạy ta bao điều hay lẽ phải./ Ví như khi đọc câu ca dao
    “ Bầu ơi thương lấy bí cùng
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn”
    chúng ta biết sống đoàn kết yêu thương đùm bọc những người xung
    quanh./ Bây giờ chúng ta cùng đi tìm hiểu nội dung câu ca dao
    + Cách xuất phát từ xuất xứ của vấn đề: Nhân dân tiến bộ trên toàn thế
    giới luôn ngưỡng mộ V.I. Lê-nin vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản. / Bằng
    kinh nghiệm cuộc đời đấu tranh cách mạng của mình, Lê- nin thấy rõ học tập là
    việc vô cùng quan trọng và cần thiết và người đã khuyên tất cả mọi người là
    phải “ Học, học nữa, học mãi”./ Lời dạy trên có ý nghĩa như thế nào chúng ta
    cần tìm hiểu.
    + Cách xuất phát từ vấn đề có liên quan: “…Ba sẽ là cánh chim đưa con
    đi thật xa…/ Lời bài hát quen thuộc của tuổi thơ gợi tôi nhớ đế bài ca dao:
    Công cha như núi Thái Sơn
    Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra/
    Ta cần hiểu câu ca dao trên như thế nào
    Chú ý:
    – Các dấu “/” dùng để ngăn cách các bước của mở bài.
    – Riêng bước định hướng, giáo viên phải cho học sinh thấy sự khác nhau
    với bước định hướng của mở bài chứng minh đã học trước đó. Bước dẫn dắt,
    bước nêu vấn đề của hai kiểu bài lập luận chứng minh và lập luận giải thích có
    thể giống nhau, nhưng bước định hướng của hai kiểu bài này hoàn toàn khác
    nhau. Hay nói khác đi, bước định hướng sẽ giúp chúng ta phân biệt hai kiểu bài
    này.
    Ví dụ : Ta có thể mở bài cho đề bài : Chứng minh tính đúng đắn của câu
    tục ngữ:” Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” như sau:
    “ Dân tộc là dân tộc coi trọng nếp sống ân nghĩa, thủy chung luôn biết ơn
    thế hệ cha anh đi trước. Nếp sống này được ghi lại trong câu tục ngữ: “Ăn quả
    nhớ kẻ trồng cây”. Trong thực tế cũng như trong văn thơ ta thấy nhân dân ta
    luôn sống theo nếp sống này.
    Nhưng với kiểu bài giải thích ta lại nêu định hướng như sau:
    “ Dân tộc là dân tộc coi trọng nếp sống ân nghĩa, thủy chung luôn biết ơn
    thế hệ cha anh đi trước. Nếp sống này được ghi lại trong câu tục ngữ: “Ăn quả
    nhớ kẻ trồng cây”. Lời khuyên sâu sắc được gửi gắm trong câu tục ngữ như thế
    nào chúng ta cùng tìm hiểu.
    Chú ý:
    15
    Tuy nhiên, GV không bắt buộc HS phải nêu định hướng như trên mà nên
    hướng cho các em cách dẫn dắt vấn đề hợp lý. Đây chỉ là cách để giúp các em
    không bị nhầm lẫn giữa bài lập luận giải thích với bài lập luận chứng minh.
    b. Viết các đoạn thân bài (Luận điểm triển khai, luận điểm phụ).
    Phần thân bài của bài văn giải thích thường có ba luận điểm. Mỗi luận
    điểm sẽ được viết thành một đoạn văn. Giáo viên cần hướng dẫn một cách cụ thể
    để học sinh có kỹ năng viết tốt nhất.
    * Kĩ năng viết đoạn giải thích nội dung
    Để cho dễ hiểu giáo viên có thể nêu vấn đề một cách đơn giản cho luận
    điểm này bằng cách đặt câu hỏi “là gì” để tìm ra vấn đề giải thích. Cách đặt vấn
    đề như vậy rất phù hợp với các đề bài giải thích ca dao, tục ngữ, câu nói của ai
    thường gặp trong chương trình lớp 7. Tuy nhiên bên cạnh đó hiện nay theo
    hướng ra đề mở ta cũng có thể gặp các vấn đề mang tính mang tính khái quát
    như: Lòng nhân đạo; Chớ nên tự phụ; Trang phục và văn hoá…Với mỗi kiểu đề
    bài ta có cách giải nghĩa khác nhau. Vì thế đoạn này ta nên gọi chung là đoạn
    giải nghĩa.
    – Cách giải giải thích nội dung ca dao, tục ngữ, danh ngôn:
    Với những đề bài này, tôi thường tích hợp chặt chẽ với phần ca dao đã
    học ở kỳ I và phần tục ngữ ở tiết 77 của học kỳ II để phát huy tối đa kiến thức và
    kỹ năng của phần văn học vào phần tập làm văn để việc học đạt hiệu quả cao
    hơn. Khi hướng dẫn học sinh giải thích việc đầu tiên tôi yêu cầu các em xác định
    câu tục ngữ, ca dao cần giải thích có mấy lớp nghĩa, sau đó tùy vào từng câu mà
    có các bước giải thích khác nhau.
    + Với các câu chỉ có một lớp nghĩa (Chỉ có nghĩa đen) có các bước giải
    thích như sau:
    Bước 1: Giải thích các từ, ngữ có liên quan
    Bước 2: Chỉ ra ý nghĩa của cả câu thông qua mối liên hệ giữa các từ ngữ
    vế câu như quan hệ so sánh, nguyên nhân – kết quả, điều kiện – kết quả.
    Bước 3: Rút ra lời khuyên
    + Với các câu có hai lớp nghĩa (Bao gồm nghĩa đen và nghĩa bóng) ta làm
    như sau:
    Bước 1: Giải thích nghĩa đen của các từ, ngữ có liên quan
    Bước 2: Giải thích nghĩa bóng của từ và chỉ ra ý nghĩa của cả câu thông
    qua các hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ.
    Bước 3: Rút ra lời khuyên
    Khi đã có những định hướng cụ thể, học sinh sẽ không phải loay hoay tìm
    cách giải nghĩa. Tuy nhiên, thực tế viết đoạn giải nghĩa cho đề bài có liên quan
    đến các câu ca dao tục ngữ thì học sinh phải linh hoạt, tuỳ thuộc vào đề bài cụ
    thể mà có cách giải nghĩa cho phù hợp
    Một số ví dụ cụ thể về cách giải thích nội dung các câu tục ngữ, ca dao,
    danh ngôn
    Đề 1: Giải thích câu tục ngữ “ Có chí thì nên” -> Câu tục ngữ có một lớp
    nghĩa.
    16
    Câu tục ngữ gồm 2 vế: “chí” ở đây là ý chí nghị lực, là lòng quyết tâm đạt
    kết quả trong công việc; “nên” là sự thành công, thành đạt là hoàn thành công
    việc một cách tốt đẹp. / Câu nói ngắn gọn súc tích được chia làm hai vế theo
    quan hệ điều kiện – kết quả đã khẳng định có ý chí có lòng quyết tâm thì nhất
    định thành công trong cuộc sống./ Câu tục ngữ nêu bật tầm quan trọng của ý chí
    nghị lực và khuyên chúng ta phải biết cách rèn luyện ý chí nghị lực để đạt kết
    quả như mong muốn trong công việc.
    Đề 2: Giải thích câu ca dao
    “ Bầu ơi thương lấy bí cùng
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn”
    Câu ca dao này có hai nghĩa ta giải thích như sau:
    Câu ca dao là lời nhắn nhủ tới bầu và bí là hai loại cây khác giống nhưng
    cùng loài thường được bà con nông dân trồng nơi góc vườn bờ ao, chúng có
    điều kiện sống giống nhau thì hãy chung sống hòa thuận, chớ có ghen ghét mà
    xa lánh nhau./ Câu ca dao mượn chuyện bầu bí để nói về con người. Bầu bí là
    hình ảnh ẩn dụ để chỉ những người không phải là anh em ruột thịt nhưng là họ
    hàng, là hàng xóm láng giềng của nhau. Còn chung một giàn là cùng sống trên
    một quê hương đất nước. Câu ca dao khuyên mỗi chúng ta luôn biết đoàn kết
    yêu thương chung sống hòa thuận với những người xung quanh. Đây chính là
    một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
    – Cách giải thích những vấn đề có tính khái quát (như: lòng nhân đạo, chớ
    nên tự phụ, trang phục và văn hoá …) thì ta thường giải nghĩa theo cách:
    + Nêu định nghĩa
    + Nêu các biểu hiện
    + So sánh đối chiếu với các biểu hiện khác
    Chẳng hạn với đề bài Lòng nhân đạo, thì có thể hướng dẫn học sinh hiểu
    lòng nhân đạo là tình thương yêu con người, hướng tới con người vì con người.
    Người có lòng nhân đạo là người luôn cảm thông xót thương trước những cảnh
    ngộ éo le, có sự rung động trước những mảnh đời ngang trái, khổ đau, bất hạnh.
    Người có lòng nhân đạo là người sẵn sàng an ủi chia sẻ để xoa dịu nỗi khổ đau
    của người khác, thậm chí sẵn sàng nhận nỗi khổ đau để người khác được sống
    yên ổn, sung sướng. Trái với lòng nhân đạo là sự vô tình thờ ơ, không mảy may
    xúc động, thương xót trước những cảnh ngộ éo le. Thậm chí, người không có
    lòng nhân đạo có khi còn đang tâm làm hại người khác để mưu lợi cho riêng
    mình. Đâu đó, chúng ta vẫn thấy những người tỏ ra khó chịu mỗi khi cán bộ
    phường xã đến vận động, quyên góp giúp đỡ người nghèo; chúng ta cũng biết có
    những kẻ làm hàng giả, thuốc giả, thực phẩm không đảm bảo chất lượng để bán
    cho người dân. Họ chính là những kẻ vô nhân đạo, coi thường tính mạng của
    con người.
    * Kỹ năng viết đoạn lý giải nguyên nhân
    Đây là đoạn trọng tâm của bài giải thích, đưa ra tất cả những kí do, những
    nguyên nhân dẫn đến vấn đề giải thích. Hay nói cách khác, người giải thích phải
    đưa ra các lí lẽ và dẫn chứng để lí giải cho vấn đề giải thích (lí lẽ là chính, dẫn
    chứng chỉ để minh hoạ cho lí lẽ chứ không phải để minh hoạ cho vấn đề như văn
    17
    lập luận chứng minh). Để viết được đoạn văn này, người nghị luận có hai việc
    phải làm: tìm lí lẽ và phát triển các lí lẽ thành các đoạn văn.
    – Việc thứ nhất: Tìm lí lẽ
    Ở luận điểm này chúng ta thường nêu vấn đề bằng cách nêu câu hỏi Tại
    sao? Tuy nhiên nó khá chung chung khiến cho học sinh khó tìm được lý lẽ. Để
    định hướng tốt hơn cho học sinh khi dạy tôi đã định dạng ra một số câu hỏi để
    học sinh tìm lí lẽ cho phần lý giải nguyên nhân dẫn đến vấn đề giải thích như
    sau:
    + Câu hỏi (CH)1: Hoàn cảnh nào dẫn đến vấn đề giải thích (vì sao phải làm rõ
    vấn đề cần giải thích)
    + CH2: Vấn đề giải thích có ý nghĩa gì (thể hiện điều gì)
    + CH3:Vấn đề giải thích có tác dụng gì (tạo ra cái gì, có lợi gì, có hại gì
    cho bản thân, cho mọi người, có vai trò thế nào trong cuộc sống…)
    + CH4: Nếu không có vấn đề này thì sao (lật ngược lại vấn đề)
    Không phải bất cứ đề bài giải thích nào cũng vận dụng cả 4 câu hỏi trên.
    Người viết phải tuỳ từng bài cụ thể để vận dụng các câu hỏi sao cho phù hợp.
    Nội dung trả lời cho các câu hỏi trên chính là lí lẽ.
    Vận dụng hệ thống câu hỏi trên ta có thể tìm lí lẽ cho phần lí giải nguyên
    nhân của đề bài giải thích câu ca dao
    “ Bầu ơi thương lấy bí cùng
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn”

    STTCâu hỏiLí lẽ
    1Dựa trên cơ sở nào mà
    ông cha ta khuyên con
    cháu phải biết yêu
    thương đùm bọc giúp đỡ
    lẫn nhau.
    – Con người không thể tồn tại nếu tách mình ra
    khỏi cộng đồng. Chúng ta chung một nòi giống,
    sống trên cùng một quê hương đất nước nên có
    quan hệ với nhau cả về vật chất và tinh thần nên
    thường xuyên gặp gỡ, giúp đỡ lẫn nhau.
    – Cuộc sống của mỗi người sẽ có lúc gặp khó
    khăn trắc trở nếu chỉ có một mình thì sẽ khó
    vượt qua Chính vì vậy mà chúng ta phải nương
    tựa vào nhau để vượt qua.
    2Sự đoàn kết, yêu thương
    đùm bọc giúp đỡ lẫn
    nhau có ý nghĩa gì?
    Đoàn kết là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta
    nên chúng ta phải có nghĩa vụ phát huy truyền
    thống đó. Sự cảm thông chia sẻ giúp đỡ lẫn
    nhau là cơ sở để hình thành nên lòng yêu nước
    yêu dân tộc.
    3Tinh thần đoàn kết có tác
    dụng gì trong cuộc sống?
    – Nhờ có tinh thần đoàn kết mà dân tộc ta đó
    vượt qua mọi khó khăn thử thách trong kháng
    chiến cũng như trong cuộc sống hằng ngày để
    xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn (Lấy dẫn chứng
    cụ thể)

    18

    4Nếu không có tinh thần
    đoàn kết thì sẽ như thế
    nào?
    Những kẻ đi ngược lại truyền thống tốt đẹp của
    dân tộc thường có lối sống ích kỷ đáng bị mọi
    người khinh bỉ, lên án.

    Như vậy, đề văn trên ta đã vận dụng được cả 4 câu hỏi. Trong đó câu hỏi
    số 1 là để tìm ra nét đặc trưng của đề còn các câu hỏi 2,3,4 giúp ta tìm ra lý lẽ
    cho các đề có vấn đề giải thích gần giống nhau. Do vậy để để học sinh dễ dàng
    nắm bắt được các tìm lý lẽ dẫn chứng cho phần giải thích lý do giáo viên nên
    dạy theo chùm đề (Tức là các đề có vấn đề giải thích tương tự). Ở lớp 7 ta
    thường gặp một số chùm đề như sau:
    – Chùm đề bài về lòng nhân ái: Giải thích các câu ca dao, tục ngữ sau:
    + Nhiễu điều phư lấy giá gương
    Người trong một nước phải thương nhau cùng.
    + Bầu ơi thương lấy bí cùng
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
    + Lá lành đùm lá rách.
    + Thương người như thể thương thân.
    – Chùm đề về ý chí: Giải thích các câu sau
    + Không có việc gì khó
    Chỉ sợ lòng không bền
    Đào núi và lấp biển
    Quyết chí ắt làm nên
    (Hồ Chí Minh
    + Có chí thì nên
    – Chùm đề về học tập: Giải thích các câu tục ngữ và danh ngôn sau
    + Đi một ngày đàng, học một sàng khôn
    + Học, học nữa, học mãi. (Lê-nin)
    Khi dạy một chùm đề, từ việc yêu cầu giải thích nội dung vấn đề giáo
    viên yêu cầu các em tìm ra nét đặc trưng của từng đề sau đó có thể vận dụng
    những lý lẽ chung của chùm đề để hoàn thiện lý lẽ cho luận điểm này. Ví dụ khi
    dạy chùm đề về lòng nhân ái, đây là những truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân
    tộc ta, nó thường được thể hiện trong tục ngữ ca dao, tôi yêu cầu học sinh vận
    dụng kiến thức của mảng văn học này đề giải nghĩa nội dung từ đó yêu cầu các
    em so sánh để rút ra nét đặc trưng của từng đề.

    Đề bài GT
    câu CD,TN
    Câu hỏi tìm lí lẽ
    mang tính đặc trưmg
    Lí lẽ tìm ra
    Nhiễu điều
    phủ lấy giá
    gương…
    Dựa vào cơ sở nào mà
    người trong một nước
    phải thương yêu nhau
    Những người sống chung một đất nước
    có chung một nòi giống, chung phong
    tục tập quán, truyền thống lịch sử,
    chung nền văn hoá…có quan hệ gắn bó
    mật thiết với nhau cả về vật chất và tinh
    thần nên thường xuyên gặp gỡ từ đó
    nảy sinh tình cảm yêu thương đoàn kết,

    19

    giúp đỡ lẫn nhau.
    Bầu ơi
    thương lấy
    bí cùng…
    Dựa vào cơ sở nào mà
    người trong một tập
    thể phải thương yêu
    giúp đỡ nhau
    Sống trong tập thể, tổ chức có quan hệ
    gắn bó, có sự ràng buộc với nhau trong
    công việc nên có trách nhiệm giúp đỡ
    nhau
    Lá lành
    đùm lá rách
    Dựa vào cơ sở nào mà
    người có điều kiện
    thuận lợi phải giúp đỡ
    người có hoàn cảnh
    khó khăn
    Cuộc sống của mỗi người không phải
    lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió mà
    sẽ có những lúc gặp khó khăn trắc trở
    nếu chỉ có một mình thì sẽ khó vượt
    qua nên mọi người cần phải nương tựa
    vào nhau đề cùng nhau xây dựng một
    cuộc sống tốt đẹp hơn.
    Thương
    người như
    thể thương
    thân
    Dựa vào cơ sở nào mà
    chúng ta phải thương
    yêu người khác như
    chính bản thân mình
    Ai cũng mong được người khác quan
    tâm giúp đỡ, được người khác đối xử tử
    tế. Vậy thì ta hãy đối xử tử tế với người
    khác, thương yêu người khác như chính
    bản thân mình

    Sau khi đã tìm được lý lẽ mang tính đặc trưng ta có thể dễ dàng vận dụng
    các lý lẽ
    giống nhau như sau:
    – Thể hiện truyền thống đạo lí, nếp sống văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta
    – Giúp người gặp khó khăn vượt qua khó khăn trở ngại, hoà nhập vào
    cuộc sống đời thường. Tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong xã
    hội
    – Nếu không sẽ khó tạo được sức mạnh giúp người khó khăn vượt qua trở
    ngại, đi ngược lại truyền thống đạo lí, đi ngược lại nếp sống văn hoá của cha
    ông, là kẻ sống ích kỉ, bị mọi người coi thường, khinh bỉ.
    Như vậy. Với hệ thống các câu hỏi trên, học sinh có thể dễ dàng tìm ra
    các lí lẽ cho đề bài giải thích. Song , tôi muốn lưu ý các bạn việc vận dụng các
    câu hỏi trên phải linh hoạt, không máy móc, tuỳ từng đề mà có các câu hỏi phù
    hợp
    – Sau khâu tìm lí lẽ, việc thứ hai là phát triển các lí lẽ thành các đoạn văn.
    Với học sinh việc viết đoạn văn giải thích lý do là tương đối khó. Nó yêu
    cầu các em không chỉ có kiến thức mà còn phải có khả năng trình bày lập luận,
    kỹ năng diễn đạt. Khi hướng dẫn học sinh viết đoạn văn giáo viên phải đặt ra
    yêu cầu cụ thể, phù hợp với từng đối tượng. Với học sinh trung bình trở xuống
    thì tôi chỉ yêu cầu các em xâu chuỗi các lí lẽ đã tìm được thành một luận cứ
    (đoạn luận cứ lí lẽ). Sau đó tìm thêm các dẫn chứng đẻ minh hoạ (luận cứ dẫn
    chứng). Bài như thế này đương nhiên chỉ đạt kết quả trung bình. Với học sinh
    khá trở lên, tôi nêu yêu cầu cao hơn. Các em phải biết cách phát triển lí lẽ thành
    các đoạn văn thường là qua 3 bước sau:
    – Bước 1(Mở đoạn) : Dẫn dắt vào luận điểm (phương tiện liên kết + vấn
    đề giải thích + lí lẽ): Nêu câu hỏi tại sao lại có vấn đề cần giải thích?
    20
    – Bước 2 (Thân đoạn) : Phát triển các lý lẽ dẫn chứng cụ thể làm sáng tỏ
    luận điểm
    – Bước 3 (Kết đoạn): Chốt lại ý nghĩa của vấn đề.
    Ví dụ: Phát triển lí lẽ của đề bài: Giải thích câu tục ngữ “Lá lành đùm lá
    rách”
    Vậy vì sao ông cha ta lại khuyên con cháu phải biết “ Lá lành đùm lá
    rách”? Chúng ta biết rằng con người không thể tồn tại nếu tách mình ra khỏi
    cộng đồng. Chúng ta chung một nòi giống, sống trên cùng một quê hương đất
    nước nên có quan hệ với nhau cả về vật chất và tinh thần nên thương xuyên gặp
    gỡ, giúp đỡ lẫn nhau. Hơn nữa trong cuộc sống của mỗi người không phải lúc
    nào cũng thuận lợi mà sẽ có lúc gặp khó khăn trắc trở nếu chỉ có một mình thì
    sẽ khó vượt qua như những lúc ốm đau, thiên tai, địch họa…Chính vì vậy mà
    chúng ta phải nương tựa vào nhau để vượt qua, cùng nhau xây dựng một cuộc
    sống tốt đẹp hơn. Đoàn kết vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Theo
    quan niệm từ xa xưa người Việt Nam ta có chung một nguồn gốc là con rồng
    cháu tiên nên chúng ta phải có nghĩa vụ phát huy truyền thống đó. Sự cảm thông
    chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau là cơ sở để hình thành nên lòng yêu nước yêu dân tộc.
    Thực tế đó chứng minh nhờ có tinh thần đoàn kết mà dân tộc ta đó vượt qua mọi
    khó khăn thử thách. Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đồng bào ta
    trên cả nước luôn một lòng đoàn kết, các bà mẹ yêu thương các anh chiến sĩ như
    con đẻ của mình. Điều này đó làm nên sức mạnh để ta đánh thắng thù trong
    giặc ngoài bảo vệ toàn vẹn nền độc lập dân tộc. Trong cuộc sống hằng ngày ta
    cũng thấy có rất nhiều nghĩa cử cao đẹp mà bà con dành cho đồng bào mình
    trong những lúc khó khăn hoạn nạn như phong trào vì người nghèo, ủng hộ
    đồng bào vùng lũ hay chương trình cặp lá yêu thương trao cơ hội đi học cho trẻ
    em nghèo. Bên cạnh đó còn rất nhiều người lặng lẽ dành thời gian, tiền bạc để
    giúp đỡ những người nghèo, cô đơn, tàn tật. Đặc biệt ngay cả những lúc khó
    khăn hoạn nạn thì nhiều người vẫn sẵn sàng giúp đỡ những người khó khăn
    hơn mình với tinh thần “ Lá rách ít đùm lá rách nhiều”. Có thể nói những hành
    động nhỏ của mỗi người lại có ý nghĩa rất lớn đối với cả một cộng đồng. Nó
    góp phần xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn.
    (Bài làm của học sinh Trương Xuân Quỳnh – lớp 7A – bài thi học kỳ II
    năm học 2015- 2016)
    Ví dụ: Viết đoạn lý giải nguyên nhân cho đề bài giải thích câu tục ngữ
    “Thương người như thể thương thân”
    Người có điều kiện thuận lợi phải biết giúp đỡ người có hoàn cảnh khó
    khăn vì: Chúng ta biết rằng cuộc sống của mỗi người đâu phải lúc nào cũng
    xuôi chèo mát mái mà có nhiều lúc sẽ gặp khó khăn trắc trở. Có những khó khăn
    mà bản thân không thể tự giải quyết phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác.
    Lúc đó người có điều kiện thuận lợi phải biết giúp đỡ người có hoàn cảnh khó
    khăn. Chẳng hạn những khi gặp phải bệnh trọng, gặp tai nạn phải chạy chữa
    tốn kém, thì phải trông chờ vào sự giúp đỡ của anh em họ hàng, bạn bè thân
    thích. Hơn nữa, biết thương yêu giúp đỡ người gặp khó khăn là nếp sống đẹp thể
    hiện truyền thống đạo lí của dân tộc ta nên mỗi người phải có nghĩa vụ phát
    21
    huy. Từ xưa, ông cha ta luôn coi trọng lối sống nhân ái, giàu tình yêu thương,
    biết giúp đỡ những người khó khăn hoạn nạn. Biết bao phong trào nhân đạo đã
    và đang diễn ra. Mỗi khi đồng bào ở nơi nào đó bị lũ lụt, hạn hán, bão lốc là bà
    con ở mọi nơi lại quyên góp giúp đỡ về cả vật chất lẫn tinh thần. Các phong
    trào nhân đạo như: mua tăm tình thương, hiến máu nhân đạo, cặp lá yêu
    thương… đang diễn ra rất sôi nổi trên toàn quốc. Việc quan tâm giúp đỡ người
    có hoàn cảnh khó khăn sẽ tạo ra mối quan hệ tốt đẹp, tạo ra sức mạnh, giúp cho
    họ có thêm nghị lực để dần vượt qua mọi trở ngại, ổn định cuộc sống. Tinh thần
    đoàn kết tương thân tương ái sẽ sẽ góp phần xây dựng một xã hội văn minh, mọi
    người luôn cởi mở gần gũi cùng nhau xây dựng cuộc sống tốt đẹp. Đây chính là
    cơ sở để hình thành lòng yêu nước yêu dân tộc. Ngược lại, nếu người có điều
    kiên thuận lợi mà không biết giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn thì người đó
    đã đi ngược lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc, sống theo lối ích kỉ hẹp hòi, sẽ
    bị mọi người coi thường, khinh bỉ.
    * Kỹ năng viết đoạn rút ra bài học (Phải làm gì?)
    Đây là đoạn yêu cầu học sinh từ việc có nhận thức đầy đủ về tư tưởng
    đạo lý phải rút ra bài học cho bản thân. Đây là cái đích mà bài văn giải thích
    hướng tới là bồi dưỡng tình cảm và định hướng hành động. Tức là các em phải
    nêu ra những việc cần làm và những việc không nên làm để phát huy truyền
    thống đạo lý, rèn luyện phẩm chất tốt đẹp và phòng tránh các hiện tượng xấu. Để
    viết được đoạn văn này học sinh xác định các lí lẽ bằng các câu hỏi: cần làm gì
    để thực hiện tốt? Cần làm gì để tránh cái xấu? Kèm theo các lí lẽ ta vẫn có thể
    đưa các dẫn chứng để minh hoạ là những việc làm cụ thể mang tính khả thi và
    có phù hợp với xu thế chung thì bài văn mới có sức thuyết phục.
    Khi viết đoạn văn cho luận điểm này cần đảm bảo các yêu cầu sau:
    + Về nội dung: Nêu một cách cụ thể những việc cần làm, những việc
    không nên làm, thái độ với các hành vi đi ngược lại truyền thống đạo lý, phẩm
    chất tốt đẹp.
    + Về hình thức: Đoạn văn cần đảm bảo 2 ý
     Mở đoạn: Nêu được luận điểm (nên đặt dạng câu hỏi chúng ra phải
    làm gì?)
     Thân đoạn: Triển khai các lý lẽ dẫn chứng làm rõ luận điểm
    Ví dụ viết luận điểm phải làm gì cho đề bài giải thích câu ca dao
    “ Bầu ơi thương lấy bí cùng
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn”
    Vậy chúng ta cần làm gì để phát huy tinh thần đoàn kết tương thân tương
    ái? Trước tiên chúng ta phải luôn sống gần gũi, biết quan tâm chia sẻ với những
    người xung quanh để hiểu hơn về cuộc sống, hoàn cảnh của họ. Khi gặp những
    người có khó khăn ta phải động viên giúp đỡ cả về vật chất và tinh thần thông
    qua các hành động cụ thể. Chúng ta cần tích cực tham gia các phong trào xã
    hội như phong trào ủng hộ người nghèo, quyên góp quần áo, sách vở ủng hộ
    các bạn vùng lũ, vùng sâu vùng xa, mua tăm ủng hộ người mù. Khi giúp đỡ
    người khác chúng ta cần nhớ rằng đây không phải là sự ban ơn bố thí mà là sự
    cảm thông chân thành của đồng bào dành cho nhau để cùng nhau xây dựng một
    22
    cuộc sống tốt đẹp hơn. Chúng ta cũng phải nghiêm khắc phê phán những kẻ có
    lối sống ích kỷ chỉ vì quyền lợi của bản thân mà thờ ơ trước khó khăn của người
    khác.
    * Kỹ năng viết đoạn bàn luận nâng cao vấn đề.
    Đây là đoạn học sinh thể hiện kiến thức chuyên sâu hơn của bản thân về
    vấn đề được ra giải thích bằng cách liên hệ với các văn bản khác có cùng nội
    dung; nêu được ý nghĩa của vấn đề trong cuộc sống, đưa ra các ý kiến phản biện,
    phê phán các hiện tượng sai trái. Từ đó bày tỏ quan điểm đúng đắn của bản thân,
    rút ra bài học kinh nghiệm hoặc đưa ra lời khuyên.
    Khi viết đoạn văn cho luận điểm này cần đảm bảo các yêu cầu sau:
    + Về nội dung: Liên hệ mở rộng với các văn bản khác có cùng nội dung;
    nêu được ý nghĩa của vấn đề trong cuộc sông, đưa ra các ý kiến phản biện, phê
    phán các hiện tượng sai trái. Từ đó bày tỏ quan điểm đúng đắn của bản thân, rút
    ra bài học kinh nghiệm hoặc đưa ra lời khuyên.
    + Về hình thức: Đoạn văn cần đảm bảo 3 ý theo trình tự sau:
     Liên hệ, mở rộng.
     Phê phán biểu hiện sai trái.
     Rút ra bài học cho bản thân
    Ví dụ viết luận điểm phải làm gì cho đề bài giải thích câu ca dao
    “ Bầu ơi thương lấy bí cùng
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn”
    Đoàn kết là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Nó còn được thể hiện
    trong câu ca dao
    “ Nhiễu điều phủ lấy giá gương
    Người trong một nước phải thương nhau cùng”
    Và ông bà thường khuyên con cháu “ Thương người như thế thương thân” “ Lá
    lành đùm lá rách”. Chúng ta cũng phải nghiêm khắc phê phán những kẻ có lối
    sống ích kỷ chỉ vì quyền lợi của bản thân mà thờ ơ trước khó khăn của người
    khác đồng thời chống khuynh hướng chia rẽ bè phái cục bộ. Đoàn kết là cội
    nguồn sức mạnh, giúp ta thành công trên mọi lĩnh vực vì mỗi chúng ta cần tích
    cực làm theo. .
    c. Viết đoạn kết bài (Luận điểm kết luận)
    Nhiệm vụ của phần kết bài là đưa ra luận điểm kết luận. Nó là cái đích
    cuối cùng của bài văn giải thích đó là giúp người đọc người nghe nhận thức
    được ý nghĩa của vấn đề trong cuộc sống của bản thân và của xã hội, giúp định
    hướng được nhiệm vụ của bản thân. Có nhiều cách kết bài. Dù là cách nào thì
    đoạn kết bài nên cần đảm bài các yêu cầu: Kết bài phải hô ứng với mở bài; nội
    dung ngắn gọn cô đúc, đảm bảo 2 ý chính
    + Đánh giá, khẳng định vai trò ý nghĩa của vấn đề giải thích.
    + Nêu bài học đối với bản thân.
    Sau đây là phần kết bài của đề bài giải thích đề bài giải thích câu ca dao
    “ Bầu ơi thương lấy bí cùng
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn”
    23
    Câu ca dao đã thể hiện truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc ta. Dù
    cuộc sống có đổi thay nhưng nó luôn được nhân dân ta phát huy nhất là trong
    hoàn cảnh hiện nay đất nước còn nhiều khú khăn. Bản thân em thấy mình cần
    phải quan tâm hơn nữa đến những người xung quanh mà trước tiên là những
    bạn có hoàn cảnh khó khăn để cùng nhau học tốt.
    2.3. Dạy các kĩ năng giải thích trên vào lúc nào?
    Như chúng ta đã biết lập luận giải thích là kiểu bài khó yêu cầu rất nhiều
    kỹ năng với học sinh lớp 7. Tuy nhiên thời gian dành cho việc dạy và học loại
    bài này không nhiều (Tổng số tiết nhiều nhất là 5 tiết) nên giáo viên phải có kế
    hoạch thật cụ thể để từng bước rèn kỹ năng cho học
    Theo tôi việc đầu tiên là phải dạy chắc phần chung về văn nghị luận nhất
    là việc cho học sinh nắm chắc về hệ thống luận điểm, luận cứ, lập luận.
    Trong từng bài cụ thể tôi phải vận dụng linh hoạt, kết hợp giữa yêu cầu
    của SGK với việc rèn các kĩ năng như đã trình bày ở trên (Cần có những điều
    chỉnh phù hợp với yêu cầu hướng dẫn học sinh làm bài văn hoàn chỉnh). Cụ thể,
    tôi đã kết hợp như sau:
    * Ở tiết bài Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích, phần phương
    pháp giải thích, sau khi rút ra kết luận về cách giải thích (ghi nhớ 3) tôi dẫn dắt
    định hướng đễ học sinh biết tách các phương pháp giải thích đưa vào ba luận
    điểm triển khai trong phần thân bài là : Là gì? Tại sao? Phải làm gì?. Việc này
    sẽ giúp các em nhanh chóng xác lập hệ thống luận điểm trong các tiết sau.
    Để chuẩn bị cho bài Cách làm bài văn lập luận giải thích, trong phần
    giao việc về nhà tôi cần định hướng rõ cho học sinh là theo hệ thống luận của
    bài lập luận giải thích thì phần hướng dẫn còn thiếu luận điểm nào? Hãy tìm bổ
    xung? Từ yêu cầu này học sinh phải tiến hành đủ bốn bước tạo lập văn bản với
    đề bài giải thích câu tục ngữ: Đi một ngày đàng học một sàng khôn từ đó rèn kỹ
    năng làm bài giải thích nói chung.
    * Ở bài Cách làm bài văn lập luận giải thích, trên cơ sở học sinh đã chuẩn
    bị bài một cách chu đáo, giáo viên dành lượng thời gian cần thiết cho mục 2-
    Lập dàn bài. Mục này, giáo viên cần gắn kết, huy động thật tốt kiến thức của tiết
    Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích (ghi nhớ 3) để hướng dẫn học sinh
    lập được ý phần thân bài theo 3 luận điểm triển khai (Tìm vấn đề giải thích- là
    gì?; Lí giải nguyên nhân của vấn đề giải thích- tại sao?; Bài học rút ra- phải làm
    gì ?). Với từng luận điểm triển khai, giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh
    cách giải nghĩa, cách tìm lí lẽ, cách phát triển một lí lẽ… (như phần trên tôi đã
    trình bày). Và để thực hiện được các kĩ năng trên thời gian của mục 3 – Viết bài
    đành phải để cho học sinh về nhà làm.
    Phần hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài cho tiết 108, giáo viên cũng phải
    dặn dò học sinh phải chuẩn bị đề bài giải thích câu nói của một nhà văn: “Sách
    là ngọn đèn sáng bất diệt của tri tuệ con người” thật chu đáo.
    * Ở bài Luyện tập lập luận giải thích, trên cơ sở học sinh đã chuẩn bị kĩ
    càng, giáo viên nhanh chóng thống nhất dàn ý rồi dành nhiều thời gian để học
    sinh viết các đoạn văn theo kĩ năng đã được dạy ở bài Tìm hiểu chung về phép
    lập luận giải thích và bài Cách làm bài văn lập luận giải thích
    24
    * Sau mỗi tiết học giáo viên luôn phải chốt về các bước làm bài, những
    yêu cầu cụ thể để rèn kỹ năng làm bài cho học sinh. Đặc biệt trong các tiết luyện
    tập luyện đề giáo viên cần quan tâm đến việc rèn kỹ năng lập dàn ý, viết đoạn,
    cách diễn đạt cho học sinh.
    III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN MANG LẠI
    1. Hiệu quả kinh tế
    Như giáo sư Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Bộ giáo dục đã nói “ Sản
    phẩm của giáo dục, dạy học là con người, là tương lai của dân tộc. Vì vậy không
    được phép tạo ra phế phẩm”. Nói như vậy có nghĩa là sản phẩm của giáo dục
    mang tính đặc thù, hiệu quả của nó mang lại không mang giá trị vật chất đơn
    thuần.
    Tuy nhiên cũng phải khẳng định rằng việc đổi mới phương pháp, nâng
    cao chất lượng giáo dục cũng mang lại những hiệu quả kinh tế đáng kể. Với việc
    giáo viên giúp học sinh nắm chắc đặc điểm, phương pháp làm bài ngay trong
    từng tiết học chính khóa và củng cố, rèn kỹ năng để các em có thể làm tốt một
    bài văn lập luận giải thích trong các buổi dạy thêm- học thêm trong nhà trường
    theo đúng quy định đã giúp tiết kiệm thời gian học tập và cả tiền bạc cho bản
    thân học sinh và gia đình, góp phần làm giảm áp lực dạy thêm – học thêm trong
    xã hội. Tôi nhận thấy rằng, sau khi áp dụng các giải pháp nhằm nâng cao kỹ
    năng viết bài văn lập luận giải thích học sinh không chỉ tự giác tích cực tự tin
    trong học tập mà kết quả học tập của các em đều cao, mang tính bền vững làm
    cơ sở vững chắc để các em tiếp tục học dạng bài nghị luận ở lớp 8 và lớp 9. Đây
    chính là tiền đề để các em có cơ hội thi đỗ vào các trường THPT. Chính vì vậy
    việc các gia đình phải đầu tư cho con em mình học gia sư theo nhóm hầu như
    không còn. Tuy không tính được con số cụ thể nhưng tôi có thể khẳng định rằng
    đây là số tiền không hề nhỏ, và đặc biệt là giảm bớt áp lực học tập cho học sinh,
    để các em có thời gian thư giãn để học tập tốt hơn.
    2. Hiệu quả về mặt xã hội
    Những giải pháp mà tôi đã áp dụng điều chỉnh trong những năm gần đây
    với mong muốn làm thay đổi nhận thức của học sinh khi học về phép lập luận
    giải thích và nâng cao kỹ năng làm bài cho học sinh tránh tình trạng chữa bài,
    làm văn mẫu cũng đã thu được những kết quả nhất định về mặt xã hội.
    – Về chất lượng giảng dạy:
    + Bản thân tôi thấy không còn lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch và
    triển khai bài giảng khi hướng dẫn học sinh cách làm bài. Việc dạy học văn của
    tôi đã kết hợp giữa dạy lý thuyết với thực hành, tập trung rèn kỹ năng cho học
    sinh.
    + Với học sinh tôi thấy hầu hết các em hiểu bài, nắm được cách làm bài,
    các em tự mình tiến hành từng bước khi làm bài để giải quyết các vấn đề. Từ
    một bài cụ thể các em có thể giải quyết được vấn đề trong cùng một chùm đề và
    cao hơn là có thể làm được những bài giải thích dù là quen hay lạ. Kỹ năng viết
    bài của các em cũng tốt dần lên. Hầu hết học sinh trong lớp đều viết được bài
    văn giải thích với bố cục ba phần mạch lạc, đảm bảo nội dung theo yêu cầu. Các
    luận điểm được xác định đúng, triển khai theo một trình tự hợp lý, lập luận chặt
    25
    chẽ. Kỹ năng diễn đạt của học sinh được cải thiện, bài làm rõ ràng mạch lạc hơn.
    Kết quả mà cô trò chúng tôi đạt được đã góp phần nâng cao chất lượng giảng
    dạy bộ môn văn 7 nói riêng và chất lượng của nhà trường nói chung. Uy tín của
    giáo viên và của nhà trường đối với phụ huynh ngày càng lên cao.
    Kết quả khảo sát trên toàn bộ học sinh khối 7 trường THCS Kim Thái
    trong hai năm học 2017-2018, 2018-2019, 2019-2020 và lớp 7B

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Đề xuất quy trình thiết kế và tổ chức hoạt động trải nghiệm dạy học chủ đề Toán trung học cơ sở bằng tiếng Anh đáp ứng chương trình Giáo dục phổ thông 2018

    SKKN Đề xuất quy trình thiết kế và tổ chức hoạt động trải nghiệm dạy học chủ đề Toán trung học cơ sở bằng tiếng Anh đáp ứng chương trình Giáo dục phổ thông 2018

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
    1. Cơ sở lí luận về hoạt động trải nghiệm và trải nghiệm, hướng nghiệp
    trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018
    1.1. Nội dung
    Theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, hoạt động trải ngiệm và
    hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp là hoạt động giáo dục do nhà giáo dục định
    hướng, thiết kế và hướng dẫn thực hiện tạo cơ hội cho học sinh tiếp cận thực tế,
    thể nghiệm cảm xúc tích cực, khai thác những kinh nghiệm đã có và huy động
    tổng hợp kiến thức, kĩ năng của các môn học để thực hiện những nhiệm vụ được
    giao hoặc giải quyết những vấn đề của thực tiễn cuộc sống, môi trường và nghề
    nghiệp tương lai.
    Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp ở cấp THCS thuộc giai đoạn giáo
    dục cơ bản. Các hoạt động tập trung hơn vào hoạt động xã hội, hoạt động hướng
    đến tự nhiên và hoạt động hướng nghiệp, đồng thời hoạt động hướng vào bản
    thân vẫn được tiếp tục triển khai để phát triển các phẩm chất và năng lực học
    sinh. Hoạt động trải nghiệm thực hiện mục tiêu hình thành các phẩm chất, thói
    quen, kỹ năng sống, thông qua sinh hoạt tập thể, các dự án học tập, các hoạt
    động xã hội, thiện nguyện, hoạt động lao động, các loại hình câu lạc bộ khác
    nhau…
    Chương trình giáo dục phổ thông 2018 chính thức triển khai đối với khối
    lớp 6 từ năm học 2021-2022 vì vậy việc xây dựng các hoạt động trải nghiệm và
    trải nghiệm, hướng nghiệp cho học sinh nói chung và Hoạt động trải nghiệm
    trong dạy học môn Toán nói riêng luôn được các cơ sở giáo dục và giáo viên
    quan tâm.
    1.2. Mục tiêu
    Cấp THCS: Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp giúp học sinh củng cố
    thói quen tích cực, nền nếp trong học tập và sinh hoạt, hành vi giao tiếp ứng xử
    có văn hóa và tập trung hơn vào phát triển có trách nhiệm cá nhân: trách nhiệm
    với bản thân, gia đình, cộng đồng, hình thành các giá trị cá nhân theo chuẩn mực
    chung của xã hội; hình thành và phát triển các năng lực giải quyết vấn đề trong
    cuộc sống, biết tổ chức công việc một cách khoa học, có hứng thú, hiểu biết về
    một số lĩnh vực nghề nghiệp, có ý thức rèn luyện những phẩm chất cần thiết của
    người lao động và lập được kế hoạch học tập rèn luyện phù hợp với định hướng
    nghề nghiệp khi kết thúc giai đoạn giáo dục cơ bản.
    2
    Góp phần giúp học sinh có những hiểu biết ban đầu về các ngành nghề gắn với
    môn Toán; có ý thức hướng nghiệp dựa trên năng lực và sở thích, điều kiện và
    hoàn cảnh của bản thân. Từ đó lựa chọn định hướng phân luồng sau Trung học
    cơ sở (tiếp tục học lên, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động).
    1.3. Hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm trong Chương trình Giáo dục
    phổ thông 2018
    Hoạt động trải nghiệm và Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp được tổ
    chức trong và ngoài lớp học, trong và ngoài trường học; theo quy mô nhóm, lớp
    học, khối lớp hoặc quy mô trường; với bốn loại hình hoạt động chủ yếu là Sinh
    hoạt dưới cờ, Sinh hoạt lớp, Hoạt động giáo dục theo chủ đề và Hoạt động câu
    lạc bộ; với sự tham gia, phối hợp, liên kết của nhiều lực lượng giáo dục trong và
    ngoài nhà trường. Có thể liệt kê một số phương thức tổ chức chủ yếu gồm:
    Phương thức khám phá, Phương thức thể nghiệm, tương tác, Phương thức cống
    hiến, Phương thức nghiên cứu.
    1.4. Sự phù hợp của việc tổ chức hoạt động dạy học Toán bằng tiếng Anh
    như một hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Toán ở Trung học cơ sở
    Trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, nội dung Toán cấp THCS
    được phân bổ theo các mạch kiến thức rõ ràng gồm: Số học và đại số, Hình học
    và đo lường, Một số yếu tố thống kê và xác suất, Hoạt động thực hành trải
    nghiệm. Trong mục thực hành trải nghiệm đều có hướng dẫn: “Nhà trường tổ
    chức cho học sinh một số hoạt động sau và có thể bổ sung các hoạt động khác
    tùy vào điều kiện cụ thể”. Như vậy, đối với chương trình Giáo dục phổ thông
    2018 chúng ta hoàn toàn có thể đưa nội dung dạy học một số chủ đề Toán bằng
    tiếng Anh vào giảng dạy như một hoạt động thực hành trải nghiệm của môn học.
    Nghiên cứu tình hình thực tiễn trong những năm gần đây chúng tôi nhận thấy
    nhu cầu học Toán song ngữ của học sinh các cấp ngày các lớn, việc đọc hiểu và
    giải quyết được các bài toán bằng tiếng Anh giúp học sinh: sử dụng được tiếng
    Anh giao tiếp trong học tập kiến thức chuyên ngành, có thêm nguồn tài liệu học
    tập phong phú từ các diễn đàn và tài liệu quốc tế, tiếp cận được chương trình học
    tập của nước ngoài, tham gia được các kì thi giải toán bằng tiếng Anh các cấp
    (SAT, TIMO, SEAMO, Olympic…), tạo tiền đề để học sinh tiếp cận các môi
    trường đào tạo chất lượng cao, đào tạo song bằng hay đào tạo liên kết quốc tế ở
    các cấp học THPT và đại học. Hơn nữa điều đó còn giúp HS có thể sử dụng kết
    quả đánh giá trong các kì thi tuyển sinh vào các trường quốc tế hoặc nộp hồ sơ
    du học.
    3
    Thực tế, để tạo ra các ý tưởng mới thường xuyên khi thiết kế các nội
    dung dạy học cho phần hoạt động trải nghiệm các môn học không phải là đơn
    giản đối với giáo viên nói chung và giáo viên Toán nói riêng. Do vậy, việc sử
    dụng hình thức dạy Toán bằng tiếng Anh như một nội dung dạy học trải nghiệm
    cho HS sẽ giảm được nhiều áp lực về ý tưởng cho giáo viên, đồng thời mang lại
    nhiều hứng thú và niềm say mê khoa học cho học sinh. Bên cạnh đó, việc dạy
    học các tiết học Toán bằng tiếng Anh hay tổ chức các câu lạc bộ, các kì thi giải
    Toán bằng tiếng Anh cũng không đòi hỏi phải đầu tư nhiều thời gian, công sức
    nhân lực và vật chất đối với nhà trường, giáo viên, xã hội.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
    1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
    1.1. Thực tiễn của việc dạy và học học phần Hoạt động trải nghiệm trong dạy
    học môn Toán của sinh viên trường CĐSP Nam Định
    Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học môn Toán là một học phần
    tự chọn được đưa vào giảng dạy trong chương trình SP Toán – Tin từ năm 2016
    với thời lượng gồm 2 tín chỉ với mục tiêu:
    a) Kiến thức: Học xong học phần sinh viên đạt được các mục tiêu sau
    – Hiểu được khái niệm và đặc điểm của hoạt động trải nghiệm và phương
    pháp trải nghiệm trong dạy học môn Toán.
    – Hiểu được quy trình thiết kế và phương pháp tổ chức hoạt động trải
    nghiệm trong dạy học môn Toán ở trường THCS.
    – Hiểu được cách đánh giá (theo năng lực) hoạt động trải nghiệm.
    b) Kỹ năng: Học xong học phần sinh viên đạt được các kĩ năng như sau:
    – Thiết kế hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Toán ở trường THCS
    với các hình thức: tổ chức trò chơi trong giờ dạy học toán, tổ hợp chủ đề dạy học
    trải nghiệm thực tế, tổ chức câu lạc bộ Toán học, tổ chức hội thi Olympic Toán
    các cấp nhỏ (nhóm, lớp, khối), tổ chức tham quan dã ngoại tìm hiểu ứng dụng
    Toán học trong đời sống.
    – Tổ chức và đánh giá các hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Toán
    ở trường THCS.
    Trong quá trình giảng dạy các nội dung của học phần, giảng viên luôn cập
    nhật những đổi mới về chương trình, phương pháp, phương tiện dạy học trong
    mỗi nội dung học tập. Trong các nội dung đó, việc dạy và học Toán song ngữ
    được coi là một trong những hoạt động trải nghiệm có hiệu quả đối với việc tổ
    chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học Toán THCS. Từ năm học 2014-2015
    4
    đến nay, các lớp Toán – Tin đều có sinh viên tham gia hội giảng chào mừng
    ngày 20-11, dạy thực nghiệm một số chủ đề dạy Toán THCS bằng tiếng Anh tại
    một số trường THCS địa phương trong các đợt thực tập sư phạm hàng năm thu
    được những phản hồi tích cực từ người học. Không chỉ thế sinh viên còn linh
    hoạt biết cách vận dụng và tra cứu các phương pháp dạy học của nước ngoài,
    lồng ghép kết hợp một cách phù hợp trong mỗi bài giảng của mình nhằm tăng
    hứng thú và hiệu quả học tập của HS. Việc luyện tập các hoạt động soạn giảng
    Toán THCS bằng tiếng Anh không chỉ giúp kĩ năng sư phạm được rèn luyện mà
    sinh viên ngành sư phạm toán còn được bồi dưỡng thêm về kĩ năng học từ vựng
    chuyên ngành toán bằng tiếng Anh cũng như năng lực sử dụng tiếng Anh giao
    tiếp mà trước đây SV còn chưa thực sự quan tâm.
    1.2. Thực tiễn của việc dạy Toán THCS bằng tiếng Anh trên địa bàn tỉnh
    Nam Định hiện nay
    Từ nhu cầu hội nhập quốc tế về lĩnh vực giáo dục và khoa học, Thủ tướng
    Chính phủ đã ký Quyết định số 1400/QĐ-TTG ngày 30-9-2008 về việc phê
    duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn
    2008 – 2020”. Việc triển khai thí điểm dạy các môn Khoa học tự nhiên bằng
    tiếng Anh trong các cơ sở giáo dục là một trong những nội dung của đề án này.
    Tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, đã có nhiều trường Phổ thông tiến hành thí
    điểm với chuẩn đầu ra theo chuẩn của trường đại học Cambridge. Có nhiều
    trường đại học đã tuyển sinh và đào tạo giáo viên dạy các môn Toán, Khoa học
    tự nhiên bằng tiếng Anh (ĐHSP Hà Nội, ĐHSP Thành phố HCM, ĐHSP Huế và
    ĐHSP Đà Nẵng) và điểm chuẩn trúng tuyển ngày càng cao. Từ cuối năm học
    2013 – 2014, tỉnh Nam Định bắt đầu tổ chức thí điểm dạy các môn Khoa học tự
    nhiên bằng tiếng Anh tại một số cơ sở chất lượng cao và một số cơ sở đại trà có
    đăng kí với Sở. Sở Giáo dục và Đào tạo cũng thường xuyên tổ chức Hội thảo rút
    kinh nghiệm, thi Sáng kiến kinh nghiệm cho giáo viên và thi học sinh giỏi toán
    Tiếng Anh cho HS lớp 8,11. Sau những tiết dự giờ dạy học môn Toán bằng
    tiếng Anh tại Hội thảo cũng như tham khảo kinh nghiệm của các trường và các
    giáo viên đã thực giảng Toán bằng tiếng Anh, bản thân tôi dạy thực nghiệm một
    số tiết tại lớp Toán – Lý K34 và Toán – Tin từ K35 đến K40. Chúng tôi nhận
    thấy việc giảng dạy môn Toán nói riêng và các môn Khoa học tự nhiên nói
    chung bằng tiếng Anh gặp rất nhiều khó khăn, để đạt hiệu quả như mong đợi
    phải trải qua thời gian lâu dài và có lộ trình cụ thể. Tuy hiện nay có nhiều trường
    THCS có nguyện vọng cho HS tiếp cận hình thức học toán song ngữ, tuy nhiên
    5
    giáo viên còn nhiều lúng túng về cách chuẩn bị bài giảng, soạn giảng như thế
    nào và tìm kiếm tài liệu ở đâu…
    Để góp phần giảm bớt áp lực và những khó khăn ban đầu cho GV trong
    việc tiếp cận việc soạn giảng Toán song ngữ ở cấp THCS, chúng tôi nghiên cứu
    và trình bày sáng kiến: Đề xuất quy trình thiết kế và tổ chức hoạt động trải
    nghiệm dạy học chủ đề Toán Trung học cơ sở bằng tiếng Anh đáp ứng
    Chương trình Giáo dục phổ thông 2018.
    2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
    2.1. Các khái niệm liên quan đến hoạt động trải nghiệm và hoạt động dạy
    học dựa vào trải nghiệm sáng tạo
    2.1.1. Khái niệm hoạt động trải nghiệm
    Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục, trong đó HS dựa trên sự
    tổng hợp kiến thức của nhiều lĩnh vực giáo dục và nhóm kĩ năng khác nhau để
    trải nghiệm thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình và tham gia hoạt động phục
    vụ cộng đồng dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó hình thành
    những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và một số năng lực thành phần đặc
    thù của hoạt động này: năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động; năng lực thích
    ứng với sự biến động của nghề nghiệp và cuộc sống.
    2.1.2. Đặc điểm của hoạt động trải nghiệm
    – Trải nghiệm và sáng tạo là dấu hiệu cơ bản của hoạt động
    Hoạt động trải nghiệm tạo cơ hội cho học sinh trải nghiệm trong thực tiễn
    để tích lũy và chiêm nghiệm các kinh nghiệm, từ đó có thể khái quát thành hiểu
    biết theo cách của riêng mình, đó được gọi là sáng tạo của bản thân HS. Hoạt
    động trải nghiệm có khả năng huy động sự tham gia tích cực của HS ở tất cả các
    khâu của quá trình hoạt động: từ thiết kế đến chuẩn bị, thực hiện và đánh giá kết
    quả hoạt động phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và khả năng của bản thân; tạo cơ
    hội cho các em trải nghiệm, được bày tỏ quan điểm, ý tưởng sáng tạo; được
    đánh giá và lựa chọn ý tưởng hoạt động, được thể hiện, tự khẳng định bản thân,
    được tự đánh giá và đánh giá kết quả hoạt động của bản thân, của nhóm mình và
    của bạn bè,…
    – Nội dung của hoạt động trải nghiệm mang tính tích hợp và phân hóa cao
    Nội dung của hoạt động trải nghiệm rất đa dạng và mang tính tích hợp,
    tổng hợp kiến thức, kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực học tập và giáo
    dục như: giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục kĩ năng sống, giáo dục giá
    trị sống, giáo dục thẩm mĩ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động, giáo dục an
    6
    toàn giao thông, giáo dục môi trường, giáo dục phòng chống ma túy, giáo dục
    phòng chống HIV/AIDS và tệ nạn xã hội, giáo dục các phẩm chất người lao
    động, nhà nghiên cứu…
    – Hoạt động trải nghiệm được thực hiện dưới nhiều hình thức
    Hoạt động trải nghiệm được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như
    trò chơi, hội thi, diễn đàn, giao lưu, tham quan du lịch, sân khấu hóa, thể dục
    thể thao, câu lạc bộ, tổ chức ngày hội, các công trình nghiên cứu khoa
    học kĩ thuật,…. Mỗi hình thức hoạt động trên đều tiềm tàng trong nó những khả
    năng giáo dục nhất định. Nhờ các hình thức tổ chức đa dạng, phong phú mà việc
    giáo dục HS được thực hiện một cách tự nhiên, sinh động, nhẹ nhàng, hấp dẫn,
    không gò bó và khô cứng, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí cũng như nhu cầu,
    nguyện vọng của HS. Trong quá trình thiết kế, tổ chức, đánh giá các hoạt động
    trải nghiệm, cả GV và HS đều có cơ hội thể hiện sự sáng tạo, chủ động, linh
    hoạt của mình, làm tăng thêm tính hấp dẫn, độc đáo của các hình thức tổ chức
    hoạt động. Sự đa dạng của hình thức trải nghiệm cũng tạo cơ hội thực hiện giáo
    dục phân hóa.
    – Hoạt động trải nghiệm đòi hỏi sự phối hợp, liên kết nhiều lực lượng giáo dục
    trong và ngoài nhà trường
    Khác với hoạt động dạy học, hoạt động trải nghiệm cần thu hút sự tham
    gia, phối hợp, liên kết nhiều lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. Tùy
    nội dung, tính chất từng hoạt động mà sự tham gia của các lực lượng có thể là
    trực tiếp hoặc gián tiếp; có thể là chủ trì, đầu mối phối hợp; có thể về những mặt
    khác nhau.
    – Hoạt động trải nghiệm giúp lĩnh hội những kinh nghiệm mà các hình thức học
    tập khác không thực hiện được
    Lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người và thế giới xung
    quanh bằng nhiều con đường khác nhau để phát triển nhân cách là mục tiêu quan
    trọng của hoạt động học tập. Tuy nhiên, có những kinh nghiệm chỉ có thể lĩnh
    hội qua trải nghiệm thực tiễn. Thí dụ, phân biệt mùi vị, cảm thụ âm nhạc, tư thế
    cơ thể trong không gian, niềm vui sướng, hạnh phúc,… những điều này chỉ thực
    sự có được khi học sinh được trải nghiệm với chúng. Sự đa dạng trong trải
    nghiệm sẽ mang cho học sinh nhiều vốn sống, kinh nghiệm phong phú mà nhà
    trường không thể cung cấp thông qua các công thức hay định luật, định lí,…
    7
    2.2. Quy trình tổ chức dạy học trải nghiệm môn Toán bằng tiếng Anh
    Về quy trình tổ chức dạy học trải nghiệm sinh viên được nghiên cứu và
    thực hành quy trình 8 bước xây dựng gồm có [3]:
    – Bước 1: Xác định nhu cầu và đối tượng tổ chức hoạt động
    – Bước 2: Đặt tên cho hoạt động
    – Bước 3: Xác định mục tiêu của hoạt động
    – Bước 4: Xác định nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức hoạt
    động.
    – Bước 5: Lập kế hoạch
    – Bước 6: Thiết kế chi tiết hoạt động trên bản giấy
    – Bước 7: Kiểm tra, điều chỉnh và hoàn thiện chương trình hoạt động
    – Bước 8: Lưu trữ kết quả hoạt động
    Đối với việc dạy toán THCS bằng tiếng Anh dưới hình thức là một hoạt
    động trải nghiệm trong dạy và học môn toán, chúng tôi đề xuất quy trình thực
    hiện như sau:
    Bước 1: Xác định nhu cầu và đối tượng tổ chức hoạt động
    Chương trình GDPT 2018 được chính thức triển khai đối với khối lớp 6 từ
    năm học 2021-2022, dạy Toán song ngữ có thể được thiết kế thành các bài học
    trải nghiệm khá phù hợp với nhu cầu cũng như điều kiện và khả năng ngoại ngữ
    của giáo viên và học sinh trên địa bàn tỉnh Nam Định.
    Bước đầu cần tìm hiểu học sinh ở từng vùng, từng địa phương nhằm hiểu
    tâm lý, điều kiện của HS để có thể lựa chọn chủ đề và PPDH cụ thể. Các PPDH
    được chọn phải tích cực hóa hoạt động của HS theo định hướng quan điểm dạy
    học trải nghiệm sáng tạo. Học sinh phải là chủ thể nhận thức, tích cực, chủ động
    và sáng tạo và hợp tác với nhau trong hoạt động học. Đồng thời, phương tiện
    dạy học được chuẩn bị phải phù hợp với PPDH đang thực hiện.
    Đối với hoạt động dạy Toán bằng tiếng Anh, trình độ ngoại ngữ của giáo
    viên và HS có sự ảnh hưởng khá lớn đối với cách thiết kế một bài học để HS có
    thể trải nghiệm việc học toán bằng ngôn ngữ mới một cách tự nhiên và hiệu quả.
    Tùy theo mức độ vốn từ của HS, bài học có thể thiết kế theo hình thức song ngữ
    với tỉ lệ tiếng Việt – tiếng Anh khác nhau. Qua kinh nghiệm thực tiễn tìm hiểu ở
    một số trường địa phương chúng tôi nhận thấy: trong các giờ học GV Toán nên
    sử dụng tiếng Anh đối với các kiến thức chuyên ngành (định nghĩa, định lý, tính
    8
    chất, trình bày lời giải bằng tiếng Anh…) còn đối với những dẫn chứng, giải
    thích phức tạp nên sử dụng tiếng Việt để học sinh chủ động tiếp thu kiến thức.
    Bước 2: Đặt tên cho hoạt động
    + Lựa chọn chủ đề và xác định nội dung giảng dạy
    Giáo viên cần phân tích, hiểu rõ và xác định đúng kiến thức trọng tâm của
    bài học dựa trên chương trình do Bộ Giáo dục biên soạn. Điều này là cơ sở giúp
    GV chọn lựa nội dung cần giảng dạy trong mỗi trải nghiệm.
    Đối với toán THCS các kiến thức toán học được xây dựng đồng tâm xoắn
    ốc có liên quan chặt chẽ nên việc thiết kế bài dạy theo chủ đề ôn tập từng
    chương, từng dạng toán sẽ giúp cho lượng từ vựng cần dùng trong mỗi bài học
    không nhiều, các từ vựng chuyên ngành thường lặp lại. Nhờ đó từ việc lựa chọn
    nội dung đến việc đặt tên cho chủ đề cũng khá đơn giản, GV có thể sử dụng luôn
    tên của bài ôn tập hay dạng toán sẽ dạy cho học sinh làm tên cho chủ đề của
    hoạt động trải nghiệm.
    Ví dụ 1.1:
    – Chủ đề Quan hệ chia hết: bao gồm quan hệ chia hết, tính chất chia hết, dấu
    hiệu chia hết cho 2, 5,3, 9 (Sách Cánh diều, Toán 6 tập 1)
    – Chủ đề Hình thang: bao gồm các bài Hình thang, hình thang cân, hình thang
    vuông.
    – Chủ đề góc trong tam giác: tổng ba góc trong tam giác, mối quan hệ giữa cạnh
    và góc trong tam giác.
    – Chủ đề: Tam giác bằng nhau gồm các bài: ba trường hợp bằng nhau của tam
    giác thường, các trường hợp bằng nhau của tam giác vuông.
    Bước 3 + Bước 4: Xác định mục tiêu, lựa chọn chủ đề và nội dung dạy học
    trải nghiệm
    + Xác định các yêu cầu cần đạt của bài học
    Mục tiêu bài học là yêu cầu góp phần hình thành và phát triển năng lực
    toán học với yêu cầu cần đạt: nêu và trả lời được câu hỏi khi lập luận, giải quyết
    vấn đề, thực hiện được việc lập luận hợp lí khi giải quyết vấn đề, chứng minh
    được mệnh đề toán học không quá phức tạp; sử dụng được các mô hình toán học
    (công thức toán học, phương trình đại số, hình biểu diễn,…) để mô tả tình huống
    xuất hiện trong một số bài toán thực tiễn không quá phức tạp; sử dụng được
    ngôn ngữ toán học kết hợp với ngôn ngữ thông thường để biểu đạt các nội
    dung toán học cũng như thể hiện chứng cứ, cách thức và kết quả lập luận;
    9
    trình bày được ý tưởng và cách sử dụng công cụ, phương tiện học toán để thực
    hiện một nhiệm vụ học tập hoặc để diễn tả những lập luận, chứng minh toán
    học. Tất cả đều được ưu tiên, khuyến khích thực hiện theo ngôn ngữ thứ hai là
    tiếng Anh.
    Xác định mục tiêu của bài học quyết định việc lựa chọn PPDH phù hợp
    trong giờ học và mở rộng, định hướng nội dung kiến thức tiếp theo.
    Đối với việc xây dựng bài học trải nghiệm học toán bằng tiếng Anh, GV
    có hai sự lựa chọn:
    Thứ nhất, nhằm giúp HS trải nghiệm ngôn ngữ: HS học cách diễn đạt
    kiến thức toán học đã biết bằng tiếng Anh. Thường xây dựng theo các giờ ôn tập
    chương, luyện tập ngay sau khi học sinh đã học kiến thức Toán trước đó bằng
    tiếng Việt. HS trải nghiệm việc diễn đạt, thực hành giải toán bằng tiếng Anh
    (chủ yếu là các hoạt động đọc, dịch). Mục tiêu này có thể hướng tới mọi đối
    tượng học sinh đại trà chưa đòi hỏi mức độ phức tạp của khả năng ngoại ngữ.
    Thứ hai, nhằm giúp HS trải nghiệm giờ học toán lí thuyết bằng tiếng
    Anh: HS lĩnh hội kiến thức mới bằng tiếng Anh, học tập và nghiên cứu như một
    HS bản ngữ. Đối với mục tiêu trải nghiệm này đòi hỏi cả giáo viên và học sinh
    phải có vốn từ tiếng Anh chuyên ngành và tiếng Anh giao tiếp khá tốt, thường
    hướng tới đối tượng HS phân ban, có năng khiếu.
    Tuy nhiên ở giai đoạn đầu khi mới thực hiện ở mỗi trường THCS, theo
    chúng tôi nên lựa chọn phương án thứ nhất. Học sinh sẽ hứng thú hơn với giờ
    học, không bị chi phối bởi khó khăn do rào cản ngôn ngữ làm giới hạn việc tiếp
    nhận kiến thức mới và giáo viên không bị áp lực bởi thời lượng tiết học vừa
    truyền tải kiến thức toán vừa hướng dẫn học sinh tư duy Toán học bằng ngôn
    ngữ mới.
    Bước 5 + Bước 6: Lập kế hoạch, thiết kế chi tiết Kế hoạch giảng dạy
    Sau khi tìm hiểu HS, xác định nội dung, mục tiêu, PPDH và phương tiện dạy
    học, giáo viên tiến hành thiết kế Kế hoạch dạy học cho tiết học gồm các nội
    dung sau:
    + Chuẩn bị phiếu học tập nhằm củng cố kiến thức đã học liên quan đến nội
    dung sắp được học.
    + Chuẩn bị những câu hỏi nhằm điều tra kiến thức đã có của HS về bài học.
    10
    Việc điều tra này nhằm xác định học sinh có những kiến thức cơ sở cần thiết cho
    việc nghiên cứu bài học mới hay chưa? Những quan niệm ban đầu này tạo thuận
    lợi hay có cản trở gì đến việc lĩnh hội kiến thức mới?
    + Dự đoán những khó khăn, chướng ngại, thất bại mà HS có thể gặp phải khi
    học bài mới. Để dự đoán chính xác thì GV phải dựa vào kinh nghiệm giảng dạy
    và chú ý đến đặc điểm riêng của từng đối tượng HS. Kết quả công việc này sẽ
    giúp GV xây dựng các tình huống học tập khác nhau, hấp dẫn, phù hợp với
    nhiều đối tượng HS trong lớp.
    + Xây dựng những tình huống dạy học và những phương án xử lý tình huống.
    Các tình huống dạy học dự kiến được xây dựng kết hợp chặt chẽ với nhau. Kết
    quả tri thức mà HS tự trải nghiệm kiến thức hay qua tương tác với nhóm trong
    tình huống này là cơ sở để giải quyết tình huống kế tiếp theo định hướng chung
    của bài học.
    + Viết Kế hoạch dạy học: là kế hoạch hoạt động chi tiết cho một tiết học được
    GV chuẩn bị và thực hiện nhịp nhàng, hợp lý, sáng tạo trong lớp học nhằm giúp
    HS lĩnh hội tri thức.
    Cụ thể để thiết kế một giờ học trải nghiệm học toán bằng tiếng Anh, giáo
    viên cần lên kế hoạch chi tiết và cụ thể từ đầu năm học. Việc dạy các chủ đề cần
    có lộ trình cụ thể, giúp cho HS thích nghi dần với cách học và tư duy kiến thức
    toán trên nền tảng ngôn ngữ mới. Có thể thực hiện ở các khối lớp mỗi tuần 1
    tiết, giúp cho HS tích lũy dần vốn từ và cấu trúc câu diễn tả nội dung toán học,
    có thể xây dựng thêm các câu lạc bộ, tổ chức kì thì giải toán bằng tiếng Anh để
    tạo chuỗi hoạt động liên tiếp mang lại hiệu quả tốt hơn cho hoạt động học tập.
    Sau khi có lộ trình cụ thể, GV lựa chọn và sắp xếp các chủ đề, sau đó thiết kế
    chi tiết kế hoạch dạy học theo quy trình sau:
    a. Phần 1: Chuẩn bị
    Giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể cho HS như:
    – Chuẩn bị từ mới, tra từ điển, tra cách đọc trên phần mềm, dịch nghĩa và
    điền vào từ điển cá nhân.
    – Chuẩn bị một số dụng cụ học tập tùy theo bài học mà GV hướng dẫn
    – Chuẩn bị các nhiệm vụ học tập theo nhóm hoặc cá nhân.
    Chúng tôi đề xuất đối với việc học Toán bằng tiếng Anh thì phương tiện
    cần thiết nhất xuyên suốt chương trình học mà học sinh cần chuẩn bị là Từ điển
    mini cá nhân. Từ điển mini cá nhân là sổ tay do HS tự thiết kế theo sở thích
    11
    (phân chia chuyên đề hoặc sắp xếp theo bài học..). Trước mỗi bài học, HS có thể
    tự tra cứu từ mới (phiên âm, dịch nghĩa) điền vào sổ từ điển và tập đọc. Việc
    làm này cần được thực hiện xuyên suốt từ lớp 6 đến lớp 9.
    Phần chuẩn bị cũng có đặc điểm riêng theo từng mục đích của hoạt động:
    + Nếu hướng tới mục đích trải nghiệm ngôn ngữ: giáo viên thiết kế các
    phiếu bài học dạng điền khuyết hoặc đọc dịch dựa trên kinh nghiệm về kiến thức
    toán sẵn có và việc tự tra cứu tài liệu (Sách giáo khoa song ngữ, từ điển)
    Ví dụ 1.2: Khi dạy chủ đề Tứ giác: GV chia lớp thành các nhóm học tập, phát
    phiếu và yêu cầu HS hoàn thành phiếu học tập sau theo nhóm (Hình 1):
    Hình 1: Phiếu học tập
    + Nếu giờ học hướng tới mục đích HS học giờ học Toán bằng Tiếng Anh:
    Củng cố từ vựng chỉ là yếu tố phụ, giáo viên hướng dẫn HS đọc và dịch nghĩa
    12
    một số từ mới quan trọng trong bài học. Vào từng hoạt động dạy học, giáo viên
    có thể cung cấp thêm các từ vựng và cấu trúc ngữ pháp nếu cần. Các hoạt động
    trọng tâm trong phần chuẩn bị của HS là chuẩn bị nội dung Toán học phục vụ
    bài học chứ không phải việc chuẩn bị về ngôn ngữ, từ vựng.
    Để nâng cao hiệu quả, giáo viên nên hướng dẫn HS đọc từ vựng của bài
    sau ở 2 phút cuối của giờ học trước đó, yêu cầu HS về nhà tự đọc và ôn tập lại
    cách phát âm cũng như dịch nghĩa, cung cấp cho HS một số phần mềm hoặc tài
    liệu tham khảo để các em luyện đọc như Tflat, soha tra từ,
    tudientoanhoc.com…có thể phân chia theo nhóm đội để HS tự hỗ trợ, kiểm tra
    nhau trong quá trình học từ vựng.
    Ngoài ra, đối với từng bài học GV có thể yêu cầu HS tự chuẩn bị những
    đồ dùng học tập vừa có nội dung Toán vừa có nội dung cung cấp và củng cố từ
    vựng chuyên ngành.
    Ví dụ 1.3: đối với bài “Đa giác” – Hình học 8, GV yêu cầu mỗi HS tự
    làm biển tên cho mình bằng giấy màu chọn 1 trong những loại hình dạng và màu
    sắc mà các em thích, sau đó tra từ điển tìm thuật ngữ tiếng Anh cho tên các hình
    mà các em lựa chọn.
    b. Phần 2: Thiết kế các hoạt động dạy học trên giấy
    Hoạt động 1: Củng cố từ vựng
    Tùy theo trình độ ngoại ngữ của giáo viên và học sinh của từng lớp từng
    trường mà có thể lựa chọn hoạt động ở bước 1 cho phù hợp. Hình thức đơn giản
    nhất là GV cung cấp và hướng dẫn HS đọc, dịch từ mới. Tiếp theo có thể cho
    HS trải nghiệm qua một số trò chơi hay hoạt động nhóm tự tìm hiểu nội dung
    mà GV yêu cầu trước đó. Điều cần thiết là GV phải cung cấp cho HS những cấu
    trúc câu dùng để diễn đạt các nội dung Toán học. Thực tế, chúng ta đều biết rằng
    bản thân từ vựng chuyên ngành cũng có nhiều sự khác biệt về nghĩa so với các
    từ vựng giao tiếp, cùng với đó là cấu trúc câu để diễn đạt nội dung Toán cũng có
    sự khác biệt so với cấu trúc ngữ pháp giao tiếp các em học trong môn Tiếng Anh
    theo khối từng khối lớp ở cùng thời điểm. Vì vậy tùy theo trình độ HS mà GV
    có phương pháp giúp các em học từ vựng chuyên ngành phù hợp.
    Ví dụ 1.4: Đối với phiếu bài tập {*}, GV kiểm tra thông qua báo cáo nhóm hoặc
    cho các nhóm kiểm tra chéo.
    Ví dụ 1.5: Đối với bài Tỉ số của hai số – Toán 7. GV có thể tổ chức trò chơi học
    tập như Bingo, Ô cửa bí mật…giúp HS học bảng từ vựng (Bảng 1):
    13

    TừPhiên âmDịch nghĩa
    Ratio[ˈreɪʃiəʊ]Tỉ số
    Quotient[‘kwou∫nt]Thương
    Division[di’viʒn]Phép chia
    Denote[di’nout]Kí hiệu
    Concept[‘kɔnsept]Khái niệm
    Quantities[‘kwɔntəti]Đại lượng
    Measurement[‘məʒəmənt]Đo lường
    Percentage[pə’sentidʒ]Tỉ số phần trăm
    Scale[skeil]Tỉ lệ xích

    Bảng 1: Từ vựng
    Hoạt động 2: Củng cố kiến thức cơ bản đã được biết liên quan đến bài học
    Phần này đối với giờ học toán bằng tiếng Anh để tăng hứng thú cho HS,
    giáo viên nên tổ chức các hoạt động tập thể thông qua các trò chơi học tập hay
    các dự án học tập để HS có thể hình dung sự móc nối giữa kiến thức toán học đã
    được học với cách biểu đạt chúng bằng ngôn ngữ mới một cách tự nhiên và hiệu
    quả.
    Một loại hình hoạt động trải nghiệm giúp HS tăng cường kiến thức toán
    có giao thoa ngôn ngữ chuyên ngành mà giáo viên có thể khai thác khi hướng
    dẫn HS củng cố kiến thức cơ bản trong giờ học Toán bằng tiếng Anh là yêu cầu
    các nhóm tự chuẩn bị và đổi chéo các câu hỏi ghép câu, câu hỏi điền khuyết …
    có nội dung toán học, xây dựng các sơ đồ tư duy…
    Ví dụ 1.6: Học sinh vẽ sơ đồ tư duy để tổng hợp kiến thức phần dấu hiệu nhận
    biết chương Tứ giác – Toán 8. (Hình 2)

    Hình 2: Sơ đồ tư duy chương tứ giác

    14
    Hoạt động 3: Các hoạt động học tập trên lớp theo hình thức song ngữ
    Phần này khuyến khích việc GV sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy
    học tiên tiến giúp HS giảm áp lực ngôn ngữ và chủ động linh hoạt trong tiếp thu
    bài học. Ở mỗi hoạt động dạy học, GV thực hiện việc chuyển ngữ nhịp nhàng
    tùy theo quan sát của mình đối với học sinh (thấy HS tiếp thu tốt và tích cực có
    thể thực hiện hoàn toàn các hoạt động giảng dạy bằng tiếng Anh, nếu quan sát
    thấy HS còn lúng túng khó khăn có thể ngừng lại và thực hiện hoạt động giảng
    giải song ngữ). Ở mỗi hoạt động dạy học nên nhấn mạnh lại các từ vựng, cấu
    trúc, yêu cầu HS phát biểu định lý, tính chất, định nghĩa theo cách hiểu riêng của
    mình: diễn đạt ngôn ngữ nói, dùng kí hiệu, dùng sơ đồ…
    Đối với HS chưa thạo thuật ngữ chuyên ngành, GV nên sử dụng sự hỗ trợ
    của Công nghệ thông tin và Internet khi thiết kế bài học giúp HS lĩnh hội và ghi
    nhớ một cách trực quan dễ hiểu. Trong các hoạt động hình thành kiến thức, GV
    có thể tăng cường tổ chức hoạt động nhóm. Sử dụng các phần mềm chuyên
    ngành (GSP, Geogebra, Maple… ) phiên bản tiếng Anh tùy theo mức độ nhận
    thức HS. Ví dụ, khi sử dụng phần mềm GSP: Hướng dẫn học sinh làm quen câu
    lệnh trong Toán 6 (line, construct, measure, …); GV hướng dẫn và yêu cầu HS
    lớp 7 thực hành vẽ hình đơn giản (Vẽ trung điểm của đoạn thẳng, HS thực hiện:
    vẽ đoạn thẳng nhờ phím tắt -> chọn đoạn thẳng -> construct -> midpoint); HS
    lớp 8-9 có thể chủ động tư duy xác định các thao tác vẽ hình phức tạp (Ví dụ:
    Let a triangle ABC, D is a point on base BC. Find the set of all the midpoints of
    AD). Để thiết kế các hoạt động luyện tập, GV có thể thiết kế dạng bài tập trắc
    nghiệm, tự luận, bài tập nhóm hoặc theo hình thức trò chơi. GV nên tham khảo
    các trang web Toán học nước ngoài tương thích với chương trình hiện hành. Các
    lời giải mẫu cần được trình bày bằng tiếng Anh tỉ mỉ, rõ ràng. Để HS nâng cao
    kĩ năng sử dụng ngoại ngữ trong tư duy toán, GV thực hiện lộ trình nâng cấp
    mức độ theo 3 giai đoạn: (1) cho HS tìm hướng và giải bài bằng tiếng Việt, thảo
    luận nhóm để dịch lời giải đó sang tiếng Anh; (2) sử dụng Sơ đồ xuôi ngược tìm
    hướng giải bỏ qua bước giải bằng tiếng Việt mà trình bày luôn bằng tiếng Anh;
    (3) yêu cầu HS tư duy và giải trực tiếp bằng tiếng Anh. Ở hoạt động vận dụng
    mở rộng, GV nên chọn các vấn đề vừa sức cả về nội dung Toán và cấu trúc
    ngoại ngữ để HS dễ hiểu. Các phần đọc dịch nên hướng dẫn HS đánh dấu
    Keywords để dễ tư duy, suy luận và tra cứu.
    15
    Ví dụ 1.7: Giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm thảo luận để đọc dịch
    các bài tập toán, trình bày hoặc kiểm tra lỗi các bài giải Toán bằng tiếng Anh.
    Việc làm này phù hợp với HS lớp 8 và lớp 9. Giáo viên nên cung cấp cho HS
    một số tài liệu tham khảo trực tuyến hoặc sách tham khảo như
    http://www.aproged.pt/biblioteca/planeandsolidgeometry.pdf
    https://archive.org/stream/elementsofalgebr00eule#page/n21
    Hoạt động 4: Thiết kế bài tập áp dụng, tổng kết bài học
    Giáo viên khuyến khích HS giải quyết vấn đề, tình huống thực tế được
    đặt ra, cao hơn là yêu cầu các em tìm kiếm và tự đưa ra những vấn đề, tình
    huống thực tiễn. HS được GV hỗ trợ, tư vấn để tiếp tục tìm hiểu và đưa ra những
    ý tưởng, dự đoán, kiểm nghiệm, giải thích, phương án nhằm giải quyết nhưng
    vấn đề gặp phải.
    Giáo viên khái quát, so sánh những kiến thức HS trải nghiệm với kiến thức
    chuẩn. Mở rộng, tăng hứng thú cho HS về các chủ đề khác.
    c. Phần 3: Thiết kế bài giảng trên phần mềm trình chiếu Microsoft
    PowerPoint
    Ngoài những kiến thức chung để thiết kế giáo án điện tử môn Toán
    THCS, cần chú ý một số điều khi sử dụng phần mềm Microsoft PowerPoint để
    xây dựng giáo án điện tử môn Toán bằng tiếng Anh như sau:
    (i). Lựa chọn những kiến thức cơ bản, trọng tâm, khái quát để sắp xếp vào slide
    Đây là thao tác quan trọng đòi hỏi phải chắt lọc, khái quát nội dung từ
    những kiến thức trọng tâm của từng hoạt động để đưa vào các slide. Ở mỗi slide,
    GV nên tạo sự khác biệt (bôi đậm, gạch chân, đổi màu) cho các từ mới quan
    trọng (keywords). Thiết kế slide cho hoạt động xuất phát thường mô phỏng các
    trò chơi trí tuệ hoặc trình chiếu các video, thí nghiệm chứa vấn đề vừa kích thích
    tư duy kiến tạo kiến thức vừa tạo hứng thú cho HS. Mỗi bài học chỉ cần 1 Slide
    cung cấp khoảng 5-10 từ (cấu trúc) mới, minh họa bằng hình ảnh (nếu có) giúp
    HS ghi nhớ trực quan, hiểu cách dùng ngay khi ghi các em đọc và ghi chép.
    Slide thể hiện hoạt động hình thành kiến thức của lớp 6-7 nên trình bày đầy đủ
    các khái niệm, định nghĩa được minh họa kết hợp hình ảnh và kí hiệu; các định
    lí, tính chất nên có dòng dịch mờ bằng tiếng Việt để giảm khó khăn khi HS đọc
    hiểu, ghi chép chính xác vào vở (minh họa hình 3).
    16

    Hình 3: Khái niệm Cung (Toán 6)

    Đối với lớp 8, 9 không cần dịch mờ các thành tố như lớp dưới, các slide
    chỉ cần trình bày tóm tắt nội dung chính. Phần luyện tập của môn Toán thường
    chỉ dùng slide chiếu đề bài, những lập luận thường dùng khi trình bày lời giải,
    hoặc liên kết sang các phần mềm vẽ hình. Bài toán tự luận giáo viên nên hướng
    dẫn HS trình bày lời giải bằng phấn bảng, tăng cường hoạt động tự luyện tập
    trình bày của học sinh. Hoạt động vận dụng nên chọn các slide bao gồm phần
    tóm tắt nội dung và hình ảnh minh họa trong thực tiễn để HS dễ dàng tư duy.
    (ii). Lựa chọn ngôn ngữ, liên kết các phần mềm công nghệ, các ứng dụng tin học
    để thiết kế giáo án điện tử
    GV căn cứ vào từng mức độ phức tạp của nội dung Toán và trình độ tiếng
    Anh của từng đối tượng HS để dự kiến slide nào 100% tiếng Anh, lồng ghép
    ngôn ngữ hay các slide thuần tiếng Việt (nếu cần). Trên slide cần có sự kết hợp
    hài hòa giữa ngôn ngữ viết, hình ảnh, âm thanh đảm bảo HS hiểu kiến thức toán
    và biết sử dụng các thuật ngữ chuyên ngành một cách logic trực quan nhất. Khi
    thiết kế slide ngoài thao tác tạo các link liên kết giữa các slide, cần tạo liên kết
    hợp lý với các phần mềm dạy học chuyên ngành. Giờ học Toán bằng tiếng Anh
    sẽ hiệu quả và sinh động hơn rất nhiều nếu GV phát huy triệt để tiện ích của
    bảng Tương tác với kết nối Internet sẽ giúp HS được luyện phát âm trực tuyến
    các từ chuyên ngành phức tạp dưới sự hỗ trợ của GV, có thể cho HS xem các
    17
    video các bài giảng tương tự bài học của các bạn nước ngoài để HS rèn kĩ năng
    nghe (https://www.youtube.com/watch?v=_PnPM8VVHBA …), thậm chí kết nối giúp
    học sinh được tham gia lớp học Skype toàn cầu…
    Từ thực tiễn tổ chức dạy học, chúng tôi tổng kết thành các slide chính của
    mỗi bài giảng Toán THCS bằng tiếng Anh là: slide mô phỏng trò chơi (giới
    thiệu video hình ảnh), Slide giới thiệu từ vựng, slide về hoạt động khởi động bài
    học, slide trình bày các nội dung chính (định nghĩa, định lý, khái niệm…), slide
    ví dụ minh họa, slide hướng dẫn trình bày lời giải, chứng minh, sử dụng phần
    mềm vẽ hình (nếu có), slide miêu tả ứng dụng của kiến thức bài học trong thực
    tiễn (liên môn với các môn khoa học khác), slide tổng kết nội dung bài học, slide
    phiếu học tập ở nhà hoặc giao nhiệm vụ chuẩn bị bài học tiếp theo.
    2.3. Phương pháp tổ chức giờ học trải nghiệm môn Toán Trung học cơ sở
    bằng tiếng Anh
    Khó khăn nhất của GV Toán khi dạy giờ Toán bằng tiếng Anh là chưa
    thực sự tự tin khi giao tiếp bằng tiếng Anh trong lớp học do rào cản về ngôn
    ngữ, GV chưa được đào tạo chuẩn như giáo viên tiếng Anh. Tuy nhiên với môn
    Toán, GV có thể thực hiện giờ dạy dễ dàng hơn bởi lượng thuật ngữ tiếng Anh
    chuyên ngành Toán THCS không nhiều, sáng nghĩa, dễ đọc và khá có nhiều sự
    hỗ trợ bằng hình ảnh giúp HS hiểu bài. Do đó, để tổ chức giờ học hiệu quả, GV
    cần lưu ý Chuẩn bị ngữ liệu trước khi lên bục giảng (rà soát lại các từ và luyện
    phát âm, các tình huống thường xuất hiện của nó), dự kiến các từ cần giải nghĩa
    (nhất là các từ đa nghĩa), chú ý giải thích cho HS những khái niệm thuật ngữ dễ
    gây nhầm lẫn cho HS. Ví dụ, trong đại số “square = bình phương” còn đối với
    hình học “square = hình vuông”. Sự tương tác bằng tiếng Anh trong giờ học
    tăng dần qua các bài học sẽ giúp HS vừa học Toán vừa có cơ hội phát triển năng
    lực giao tiếp, năng lực sử dụng ngoại ngữ trong học môn chuyên ngành.
    Bên cạnh việc tự trang bị một số mẫu câu giao tiếp trong lớp học (gọi học
    sinh lên bảng, nhận xét bài, khích lệ hay phê bình học sinh…) GV còn cần tự
    trang bị một số cấu trúc câu thường dùng trong giờ học môn Toán Trung học cơ
    sở bằng tiếng Anh ở các giai đoạn của giờ học như: ổn định lớp, Giới thiệu bài
    18
    học, cấu trúc bài học, Tổng kết lại bài học, giao bài tập và thông báo về nội
    dung bài học tiếp theo…
    Tùy theo đặc điểm của tiết dạy lí thuyết, luyện tập có nội dung đại số hay
    hình học mà GV thiết kế các hoạt động cụ thể cho bài học. Để hạn chế sự phức
    tạp của ngôn ngữ làm chi phối tư duy Toán của HS thì kĩ năng lựa chọn tỉ lệ
    ngoại ngữ khi thiết kế bài học của GV có vai trò quan trọng. Tỉ lệ ngoại ngữ GV
    sử dụng trong bài học không chỉ phụ thuộc trình độ của HS mà còn căn cứ vào
    mức độ trừu tượng của nội dung Toán học. Từ thực tiễn dạy và điều tra, tỉ lệ
    song ngữ Anh – Việt khi thiết kế bài giảng của các khối lớp có thể áp dụng như
    sau: Lớp 6 tỉ lệ 40% – 60%, lớp 7 tỉ lệ 60% – 40%, lớp 8 dùng 100% TA, lớp 9 tỉ
    lệ 60% -40%. Tỉ lệ có thể thay đổi tùy theo từng trường và từng lớp do GV điều
    chỉnh theo thực tế. GV nên tham khảo một số bài giảng có nội dung tương tự
    của người nước ngoài, tham gia các diễn đàn dạy học quốc tế để chuẩn hóa ngữ
    liệu trước mỗi giờ dạy.
    2.4. Minh họa Kế hoạch bài giảng hoạt động trải nghiệm học toán bằng
    tiếng Anh
    KẾ HOẠCH BÀI GIẢNG
    HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM HỌC TOÁN BẰNG TIẾNG ANH
    CHỦ ĐỀ: TỔNG BA GÓC TRONG TAM GIÁC
    (LESSON: THE SUM OF THE THREE ANGLES IN A TRIANGLE)
    Môn Toán lớp 7. Thời lượng: 60 phút
    I. Mục tiêu
    1. Yêu cầu cần đạt
    – Vận dụng được kiến thức về tổng ba góc trong tam giác, góc ngoài tam giác
    trong thực hành giải toán.
    – Biết các từ vựng chuyên ngành Toán – Tiếng Anh phần tam giác và tổng ba
    góc trong tam giác.
    – Biết các cấu trúc câu và cấu trúc diễn đạt nội dung Toán học bằng tiếng Anh.
    – Sử dụng phần mềm vẽ hình GSP phiên bản tiếng Anh để đo góc trong tam
    giác.
    – Đọc, dịch xuôi ngược được một số nội dung hình học (định nghĩa, định lý về
    góc trong tam giác) bằng tiếng Anh.
    19
    – Nghe được một số từ vựng chuyên ngành Toán bằng tiếng Anh từ các video
    của người nước ngoài.
    – Giải được một số bài Toán bằng tiếng Anh đơn giản.
    2. Định hướng phát triển năng lực
    *Năng lực Toán học:
    – NL Tư duy và lập luận Toán học bằng tiếng Anh: HS trình bày các lập luận
    logic trong việc chứng minh các định lý, giải các bài toán.
    – NL Giải quyết vấn đề Toán học bằng tiếng Anh: HS sử dụng kiến thức đã học
    giải các bài toán và chứng minh các định lý về tổng ba góc trong tam giác.
    – NL Mô hình hóa Toán học bằng tiếng Anh: HS chuyển đổi được bài toán thực
    tế tháp Pisa về bài toán hình học quen thuộc, viết được giả thiết – kết luận các
    định lý.
    – NL Giao tiếp Toán học bằng tiếng Anh: HS đọc, hiểu được các đề bài toán học
    bằng tiếng Anh, dịch xuôi – ngược được các bài toán bằng tiếng Anh.
    – Sử dụng công cụ và phương tiện học Toán bằng tiếng Anh: sử dụng công cụ đo
    góc, vẽ hình, phần mềm GSP phiên bản tiếng Anh.
    *Năng lực chung: Năng lực tự chủ, tự học, năng lực ngôn ngữ (học, trình bày
    vấn đề Toán học bằng tiếng Anh, nghe hiểu được video).
    3. Định hướng phát triển phẩm chất
    – Trung thực, trách nhiệm trong hoạt động nhóm.
    – Chăm chỉ trong các hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm.
    – Yêu nước: Khâm phục đồng bào vùng cao trong việc sử dụng ngoại ngữ, yêu
    quý và có ý thức bảo tồn các danh lam thắng cảnh, trò chơi dân gian.
    II. Chuẩn bị
    1. Chuẩn bị của giáo viên
    – Phát phiếu từ vựng và phát phiếu bài tập cho HS. Các mô hình ảnh thực
    tiễn liên quan bài học, 6 tờ giấy A3, keo dán. Một số video về người Sapa
    nói tiếng Anh, video chứng minh định lý của người nước ngoài.
    2. Chuẩn bị của học sinh
    – Tự chia lớp thành 6 nhóm, bầu nhóm trưởng và thư kí
    – Nhận phiếu từ vựng, nhóm sử dụng tập đọc trước.
    – Chuẩn bị từ điển, dụng cụ học tập cần thiết, chuẩn bị kéo cắt giấy, các
    tam giác tự cắt sẵn ở nhà.
    – HS nhận giấy A3, trang trí (tên nhóm, slogan nhóm, tên bài học…)
    20
    III. Tiến trình giờ học
    1. Ổn định lớp và kiểm tra sĩ số (3p)
    Giáo viên cho HS xem video về Người dân tộc ở Sapa nói tiếng Anh
    https://www.youtube.com/watch?v=KuB6oafjudg và phỏng vấn cảm nhận của
    HS, giới thiệu về nhu cầu học toán song ngữ.
    2. Tiến trình giờ học
    2.1. Bước Khởi động: Củng cố từ vựng (7p)
    – Giáo viên dạy học sinh đọc 1 lượt các từ vựng theo phiên âm trong Phiếu từ
    vựng
    – Hướng dẫn HS tra cứu sách giáo khoa song ngữ và điền Phiếu học tập số 1, các
    bạn tập đọc trong 2 phút.
    – GV chiếu bài chữa và kiểm đếm HS giơ tay cho biết số HS làm bài đúng hết,
    sai 1-3 từ, 3-5 từ, nhiều hơn 5 từ. Sau đó dặn dò và nhắc nhở cách học từ.
    – Yêu cầu tất cả HS về nhà chép lại phiếu học tập số 1 vào vở và tập đọc 5 lần
    (nhóm trưởng kiểm tra).
    2.2. Bước Hình thành kiến thức mới

    Thời
    gian
    Hoạt động của GVHoạt động của HSNội dung
    Hoạt động 1: Phát biểu và chứng minh định lý Tổng ba góc trong tam giác
    bằng tiếng Anh
    Mục tiêu:- HS biết được cách phát biểu các định lý bằng tiếng Anh.
    – HS biết cách trình bày lời chứng minh định lý tổng ba góc trong tam
    giác bằng tiếng Anh.
    – HS thực hành được chính xác cách đo đạc, cắt ghép giấy để kiểm
    chứng kết quả của định lý.
    Phương pháp/ Kĩ thuật dạy học: Nhóm, Chiến thuật tạm nghỉ, Kĩ thuật Think –
    pair – share.
    Dự kiến sản phẩm đánh giá: Lời đọc dịch của HS, bài chứng minh định lý Tổng
    3 góc của các nhóm, Hình dán mô hình hóa kết quả định lý tổng 3 góc trong tam
    giác của các HS.
    7GV: Dẫn dắt vào
    bài: Các em đã được
    học các kiến thức về
    tổng ba góc trong
    1. The sum of the three
    angles in a triangle

    21

    8tam giác trong giờ
    học trước, hôm nay
    cô cùng các bạn sẽ
    trải nghiệm nội dung
    toán học này bằng
    ngôn ngữ toàn cầu,
    cô hy vọng sau giờ
    học này các bạn sẽ
    yêu thích tìm tòi và
    tiếp tục vun đắp kĩ
    năng học toán bằng
    tiếng Anh, tiếp cận
    các kì thi TIMO,
    SEAMO,…
    GV: Quan sát câu 4
    trong Phiếu học tập
    số 1 tìm từ khóa.
    GV hướng dẫn học
    sinh dịch.
    Dịch mẫu cho HS.
    GV chuẩn hóa định
    lý lên màn chiếu, gọi
    HS đọc và dịch xuôi
    ngược. Yêu cầu HS
    ghi GT, KL vào vở.
    +GV: hướng dẫn HS
    đo 3 góc của tờ giấy
    hình tam giác các
    em đã chuẩn bị và
    HS phát biểu: sum,
    angle, triangle
    HS đọc câu 4 và dịch
    sang tiếng Việt:
    Trong 1 tam giác
    tổng số đo 3 góc bằng
    180 độ.
    HS dịch: In a
    triangle, the sum of
    three angles is equal
    180 degree.
    HS ghi chép, đọc
    dịch
    HS: Thực hành đo,
    cắt ghép và kiểm
    chứng kết quả của
    định lý.
    Câu 4(Phiếu học tập số 1)
    The sum of three angles of
    triangle is equal.
    * Theorem:
    The sum of three angles of
    triangle is equal 180.
    (Triangle sum theorem)
    Given  ABC
    Prove

    1800 x y
    1 2
    B C
    A
    A B C + + =  180
    22

    thực hành đo đạc,
    cắt, dán sản phẩm
    vào tờ giấy A3.
    Vấn đáp HS các câu
    hỏi có liên quan
    – GV cho HS xem
    video và trả lời các
    câu hỏi
    + Nghe được bao
    nhiêu từ, là những từ
    nào
    + Video nói về cái
    gì?
    *Vấn đáp HS: Để
    trình bày lời giải đó
    bằng tiếng Anh cái
    khó của các em là gì
    (Phỏng vấn học
    sinh). GV giải đáp.
    GV: hướng dẫn 1 số
    cụm từ thường dùng
    trong chứng minh
    hình học.
    Gọi HS đọc dịch.
    GV: Yêu cầu HS
    đọc chứng minh
    định lý trong SGK.
    Yêu cầu HS về nhà
    chứng minh lại định
    HS Trả lời.
    HS xem video
    https://www.youtube.co
    m/watch?v=_PnPM8VV
    HBA
    HS lắng nghe, quan
    sát, tập đọc dịch và
    ghi chép.
    HS đọc chứng minh
    định lý bằng tiếng
    Anh
    Cụm từ thường dùng:
    Vì Since
    Because
    Because of
    Based onTheo Accoding
    toTừ (1) và
    (2) ta cóFrom (1)
    and (2), we
    haveNên Hence, soÁp dụng ApplyCho, giả
    thiếtGivenProof the theorem:
    Through A, draw line
    .
    Because (Since) xy // BC
    So
    (based on two
    alternate interior angles).

    xy BC / / A B 1 =
    23

    lý bằng tiếng Anh
    vào vở, luyện đọc
    bằng tiếng Anh giao
    nhiệm vụ cho tổ
    trưởng kiểm tra
    chéo.
    And
    (based on two
    alternate interior angles).
    Hoạt động 2: Áp dụng vào tam giác vuông
    Mục tiêu: – HS biết cách phát biểu khái niệm tam giác vuông bằng tiếng Anh.
    – HS biết định lý tổng 2 góc nhọn trong tam giác vuông bằng tiếng
    Anh.
    Phương pháp/ Kĩ thuật dạy học: Nhóm, dạy học đồng đẳng.
    Dự kiến sản phẩm đánh giá:Lời đọc dịch xuôi ngược các vấn đề toán bằng Tiếng
    Anh, Bài Chứng minh định lý bằng tiếng Anh của học sinh.
    5 5GV: Cho HS xem
    video và giới thiệu
    về lớp học Skype.
    Vấn đáp HS có nghe
    được không? có hiểu
    nghĩa không?
    GV: Gọi HS tập tìm
    từ khóa và dịch câu
    5 trong Phiếu học
    tập số 1.
    Nhận xét câu này
    phát biểu định nghĩa
    tam giác vuông, gọi
    HS đọc.
    – Gv Giới thiệu 2
    cấu trúc cách nói
    tam giác ABC
    vuông/cân tại A
    – Vấn đáp HS làm ví
    HS quan sát, trả lời.
    HS ghi chép và nhẩm
    đọc, HS dịch.
    HS ghi cách đọc.
    HS làm ví dụ:
    – Given triangle ABC
    2. Applying to right
    triangle
    Câu 5(Phiếu học tập số 1)
    A triangle having one right
    angle is a right triangle.
    Definition:
    Right triangle is a triangle
    having one right angle.
    Cấu trúc:
    Cho tam
    giác ABC
    có ….Given(Let
    ) triangle
    ABC
    with…Tam giác
    ABC
    vuông/cân
    tại ATriangle
    ABC is
    right/isosc
    -eles at AVí dụ:

    A C 2 =  + + = A B C
    A A A 1 2 3 + + = 1800

    24

    dụ:
    – Gọi HS dịch câu 6
    trong Phiếu học tập
    số 1. Vấn đáp HS có
    biết là kiến thức
    Toán học nào
    không?
    Đây là định lý về
    tổng 2 góc nhọn
    trong tam giác
    vuông.
    Kiểm tra tại chỗ HS
    viết GT và KL bằng
    tiếng Anh. Gọi HS
    đọc dịch lại định lý.
    Gọi HS vẽ hình và
    chứng minh bằng
    tiếng Anh tại chỗ.
    Gọi HS đọc lại lời
    giải.
    is right at A
    with .
    Calculate ?
    – Let triangle ABC
    with .
    Prove that it is a right
    triangle.
    HS nhẩm đọc và trả
    lời câu hỏi
    HS chứng minh:
    Proof: Apply the
    angles-sum theorem,
    we have
    .
    Since then
    .
    Dịch các câu
    – Cho tam giác ABC
    vuông tại A có .
    Tính
    – Cho tam giác ABC có
    . Chứng
    minh tam giác ABC
    vuông.
    Câu 6(Phiếu học tập số 1)
    In a right triangle, two
    acute angles are
    complementary.
    Theorem:
    In a right triangle, two
    acute angles are
    complementary.
    Given ,
    Prove

    B = 350C A B = = 40 ; 50 0 0 A B C + + =1800A = 900 0 0
    0
    180 90
    90
    B C + = –
    =
    B = 350 C
    A B = = 40 ; 50 0 0 ABC A = 900
    B C + = 900
    2.3. Bước Luyện tập

    Thời
    gian
    Hoạt động của GVHoạt động của HSNội dung
    Hoạt động 1: Thực hành giải toán
    Mục tiêu: – HS biết cách tìm từ khóa trong các nhiệm vụ đọc dịch xuôi ngược
    các bài toán
    – HS biết cách trình bày giải các bài toán bằng tiếng Anh
    – HS vận dụng được định lý Tổng ba góc trong tam giác để thực hành
    giải toán
    Phương pháp/ Kĩ thuật dạy học: Nhóm, PP sử dụng trò chơi.

    25

    Dự kiến sản phẩm đánh giá: số lượng câu trả lời đúng trong trò chơi, các câu trả
    lời cho câu hỏi vấn đáp của GV.
    5 5Hướng dẫn HS bốc
    thăm theo nhóm giải
    1 bài cụ thể. HS tìm
    từ khóa và tập đọc
    dịch xuôi ngược bài
    tập trong phiếu học
    tập số 2.
    GV chữa bài.
    GV: Phổ biến luật
    và tổ chức 1 phần
    trò chơi Rung
    chuông vàng.
    GV: Vấn đáp HS
    nhận xét về loại góc
    trong tam giác.
    (Căn theo thời gian
    GV có thể thay thế
    bằng việc hướng
    dẫn hs làm bài tập
    trực tuyến trên 1 số
    diễn đàn: mathisfun,
    violympic…
    HS bốc thăm, đọc
    dịch, ghi GT, KL và
    vẽ hình.
    HS giải toán theo
    nhóm trình bày bằng
    tiếng Anh
    HS chơi trò chơi
    Bài 3, 4, 5 Phiếu học tập
    số 2.
    Chú ý: Trong 1 tam giác
    không thể có 2 góc tù,
    không thể có 2 góc vuông,
    không thể có 1 góc tù 1
    góc vuông.

    2.4. Bước Vận dụng – Mở rộng

    Thời
    gian
    Hoạt động của GVHoạt động của HSNội dung
    Hoạt động 1: Sử dụng phần mềm GSP phiên bản tiếng Anh
    Mục tiêu: – HS biết được một số ứng dụng của định lý Tổng 3 góc trong tam giác
    trong thực tiễn cuộc sống
    – HS thực hành được việc sử dụng phần mềm GSP phiên bản tiếng Anh
    để đo các góc trong tam giác
    Phương pháp/ Kĩ thuật dạy học: PP dạy học giải quyết vấn đề, dạy học đồng
    đẳng, Kĩ thuật tranh luận khoa học.

    26

    Dự kiến sản phẩm đánh giá: Kết quả tính được các góc trong các mô hình thực
    tiễn, kiểm chứng được số đo góc bằng phần mềm của nhóm HS.
    8– GV hướng dẫn
    nhóm HS bốc thăm
    chọn những hình ảnh
    thực tiễn (Theo Phụ
    lục), yêu cầu HS mô
    hình hóa từng bài
    toán hình học và giải
    bài toán.
    Khuyến khích,
    hướng dẫn học sinh
    trình bày lời giải
    bằng tiếng Anh.
    – HS: Mô hình hóa
    các bài toán thực tiễn,
    thực hành giải.
    – HS trình bày những
    hiểu biết của mình
    xung quanh vấn đề
    của bài toán đặt ra.
    Nội dung 1: Vận dụng
    thực tiễn
    1. Kiến trúc: Tháp nghiêng
    Pisa, Mái nhà, Biệt thự…
    2. Thiên văn học: Chùm
    sao xử nữ
    3. Kĩ thuật công nghiệp:
    mô hình chiếc ghế chuẩn
    kích thước cho HS cấp 2
    4. Địa lý: Tam giác Quỷ,
    Góc lệch nhìn từ ngọn hải
    đăng.
    7GV: giới thiệu phần
    mềm GSP phiên bản
    tiếng Anh, HS học
    sinh cách sử dụng.
    GV: Củng cố kiến
    thức bài học, dặn dò
    làm bài tập còn lại
    trong phiếu bài tập
    số 2
    HS: thực hành sử
    dụng theo nhóm
    Nội dung 2: Sử dụng
    phần mềm GSP phiên
    bản tiếng Anh
    Kiểm chứng lại các kết
    quả tính toán ở Hoạt động
    trên

    PHỤ LỤC
    1. Kiến trúc, xây dựng

    Tháp nghiêng Pisa ở I-ta-li-a được
    xây dựng năm 1173. Ngay trong khi
    đang xây, tòa tháp đã bắt đầu nghiêng
    vì xây trên nền đất mềm. Vào năm
    1990 độ nghiêng của tháp lên tới 5,5
    độ, nhưng đến năm 2008 nhờ sự nỗ lực
    của các chuyên gia tòa tháp đã được
    thẳng hơn 46 cm so với trước và đến
    nay tháp chỉ còn nghiêng 3,97 độ so
    House
    Mô hình hóa phần nóc nhà và tính góc
    còn lại

    27

    với phương thẳng đứng. Tính độ
    nghiêng của tháp so với mặt đất hiện
    nay.
    – Hình ảnh tòa biệt thự được xây theo tỉ
    số vàng. Mô hình hóa và dự đoán góc
    ở đỉnh

    2. Thiên văn học: Virgo is one of the constellations of Zodaic. Chòm sao xử
    nữ (23/8 – 22/9)
    Problem: Three principal stars of the constellation form a triangle.
    If m∠S=25 and m∠P=135, then find the m∠V
    Đánh dấu 3 ngôi sao    ; ; của chòm sao xử nữ, mô hình hóa thành tam giác
    và tính góc theo số liệu bài cho.
    3. Địa lý:
    a. Bermuda Triangle Problem Revisited (Tam giác quỷ Bermuda)
    The Bermuda Triangle is an acute scalene triangle. The angle measures
    are in the picture below. Your measured angles should be within a degree or two
    of these measures. The angles should add up to 180 degree. However, because
    your measures are estimates using a protractor, they might not exactly add
    up.The angle measures in the picture are the measures from a map (which is
    flat). Because the earth is curved, in real life the measures will be slightly
    different.
    28

    Mô hình hóa tam giác quỷ Bermuda trên giấy, theo số đo trên bản đồ biết góc
    ở đỉnh Miami là 55 độ, góc ở đỉnh Sanjuan là 63 độ. Tính góc tại đỉnh
    Bermuda?

    b. Góc lệch khi nhìn từ đỉnh ngọn hải đăng
    4. Mỹ thuật, công nghiệp, giải trí
    29
    PHIẾU HỌC TẬP SỐ 1
    Fill in these blanks:
    Triangle ABC has:
    1. Three…… ……… are AB, BC, AC
    2. Three…………….are A, B and C
    3. Three …………….. are A B C ; ,
    4. The…………… of ……………………….of triangle is ………..1800
    5. A triangle having one…………..angle is …………..
    6. In a right triangle, two …………….angles are complementary
    PHIẾU HỌC TẬP SỐ 2
    Bài 1:False or True?
    A. Triangle ABC has three angles: 90 ;20 ;90 0 0 0
    B. Triangle ABC has three angles be 105 ;20 ;95 0 0 0
    C. Triangle ABC has three angles be 65 ;25 ;90 0 0 0
    D. Triangle ABC has three angles be 60 ;45 ;50 0 0 0
    Bài 2: Find x in each figure below
    550 x
    B C
    A
    x
    300
    400
    G
    H I
    x
    500 x
    N
    M
    P
    Bài 3: In a triangle, the second angle is 5° greater than the first angle and the
    third angle is 5° greater than second angle, find the three angles of the triangle.
    Bài 4: Given the angles of a triangle are in the ratio 2 : 7 : 11, find the angles.
    Bài 5: In a triangle, if the second angle is 2 times the first angle and the third
    angle is 3 times the first angle, find the angles of the triangle.
    Bài 6: Cho tam giác vuông có hai góc nhọn là x + 1 và 2x + 5. Tính số đo mỗi
    góc của tamgiác vuông đó.
    Bài 7: In a triangle, if the second angle is 3 times the sum of the first angle and
    3, and the third angle is the sum of 2 times the first angle and 3, find the three
    angles of the triangle.
    Bài 8: Given the figure below with ABC BCD = . Find DCA; Prove that BC//AD
    30
    Phiếu từ vựng (New words):

    STTTừPhiên âmNghĩa
    1Triangles (n)[‘traiæηgl]Tam giác
    2Right triangle (n)[rait ‘traiæŋg(e)]tam giác vuông
    3Side(n)[said]Cạnh; cạnh bên
    4Base(n)[beis]Cạnh đáy
    5Altitude[´æltitju:d]đường cao
    6Degree (n)[di’gri:]Độ
    7Measure(v)[‘meʤə]Đo
    8Acute angle (adj)[ə’kju:t ‘æƞg(e)l]góc nhọn
    9Obtuse angle[əb’tju:s ‘æηgl]Góc tù
    10Right angle (n)[Right ‘æηgl]Góc vuông
    11Straight angle (n)[streit ‘æηgl]Góc bẹt
    12Complementary
    angles
    [‘kɒmpliməntary
    ‘æƞg(e)l]
    hai góc phụ nhau
    13Supplementary[sʌpli’mentəri]góc bù nhau
    14Linear pair of angles/’liniə/ /peə/ /ɔv/
    ‘æƞg(e)l
    Góc kề bù
    15Alternate interior
    angles (n)
    [ɔ:l’tɜ:nət in’tiəriə(r)
    ‘æƞg(e)l]
    góc so le trong
    16Corresponding
    angles (adj)
    [ˌkɒri’spɒndiɳ
    ‘æƞg(e)l]
    góc đồng vị
    17Vertex angle[´və:teks ‘æƞg(e)l]góc ở đỉnh
    18Same – side interior
    angles
    [seim said in’tiəriə(r)
    ‘æƞg(e)l]
    góc trong cùng phía
    19Vertical angles[‘vɜ:tikl ‘æƞg(e)l]hai góc đối đỉnh
    20Congruent angles[‘kɒƞgrʊənt ‘æƞg(e)l]cặp góc bằng nhau
    21Bisector[bai´sektə]Phân giác

    31
    III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI
    1. Hiệu quả về mặt xã hội
    Sáng kiến bước đầu giúp sinh viên sư phạm toán trường CĐSP mạnh dạn tự
    tin khi thiết kế và tổ chức các giờ học song ngữ mang lại nhiều hứng thú và sự
    ủng hộ tích cực từ phía học sinh và nhà trường tại các trường mà các em dạy
    thực nghiệm. Việc học toán bằng tiếng Anh giúp cho nguồn học liệu của học
    sinh và giáo viên, sinh viên trở nên phong phú hơn cập nhật được nhiều hơn sự
    đổi mới phương pháp của nền giáo dục toàn

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

  • SKKN Phát triển năng lực tư duy, khả năng sáng tạo cho học sinh qua dạy học về diện tích đa giác

    SKKN Phát triển năng lực tư duy, khả năng sáng tạo cho học sinh qua dạy học về diện tích đa giác

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education

    ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
    Môn toán ở trung học cơ sở có một vai trò rất quan trọng, một mặt nó phát
    triển hệ thống hóa kiến thức, kỹ năng và thái độ mà học sinh đã lĩnh hội và hình
    thành ở bậc tiểu học, mặt khác nó góp phần chuẩn bị những kiến thức, kỹ năng và
    thái độ cần thiết để học sinh tiếp tục lên trung học phổ thông, trung học chuyên
    nghiệp, học nghề hoặc đi vào các lĩnh vực lao động sản xuất đều đòi hỏi những
    hiểu biết nhất định về toán học. Bên cạnh đó, Toán học còn có mối quan hệ gắn bó
    chặt chẽ và tác động qua lại với các môn khoa học khác. Nhiều kiến thức, kĩ năng
    đạt được qua môn toán là cơ sở cho việc học tập tốt một số môn học khác như: Vật
    lý, hoá học, sinh học, địa lí, công nghệ …
    Trong học toán cũng như trong việc học các môn khác việc tiếp thu kiến thức
    một cách linh hoạt và xuyên suốt sẽ giúp cho học sinh linh hoạt hơn trong việc vận
    dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống để có hiệu quả trong việc học
    tập và lao động.
    Vì vậy việc giảng dạy môn Toán ở các trường THCS nói chung và môn
    Toán lớp 8 nói riêng là một vấn đề hết sức quan trọng. Đặc biệt dạy toán hướng tới
    đối tượng học sinh Khá, Giỏi, đòi hỏi giáo viên phải hình thành cho học sinh
    những kiến thức cơ bản, gợi mở cho học sinh tìm tòi các phương pháp giải bài toán
    để phát huy tính tích cực của học sinh, mở rộng tầm suy nghĩ.
    Trong chương trình Toán lớp 8 cụ thể là phân môn Hinh học, học sinh được
    học về diện tích đa giác. Đây là phần kiến thức có tính ứng dụng thực tế cao, có
    nhiều dạng bài tập đòi hỏi học sinh phải vận dụng đa dạng nhiều kiến thức hình
    học của bậc trung học cơ sở. Những bài tập về diện tích đa giác góp phần phát
    triển tư duy logic, khả năng sáng tạo, vận dụng linh hoạt các kiến thức đã học của
    học sinh. Có nhiều dạng toán hình học hay và khó. Các bài tập về diện tích đa giác
    rất hay xuất hiện trong các đề thi giữa kỳ, cuối kỳ, các đề thi học sinh giỏi các cấp,
    đề thi vào các trường chuyên, lớp chọn và thường là những bài tập phân loại học
    sinh, ở mức độ vận dụng cao. Phát triển khả năng tư duy, vận dụng linh hoạt các
    kiên thức đã được học của học sinh thông qua việc dạy về diện tích đa giác là một
    nội dung kiến thức quan trọng. Thông qua đó giáo viên truyền tải cho học sinh
    2
    niềm đam mê môn học, say mê với các bài toán khi cần phải tìm ra lời giải, khơi
    gợi, kích thích, phát triển khả năng tư duy sáng tạo của học sinh. Đồng thời qua đó
    giáo viên phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng những học sinh năng lực, tố chất vào
    đội tuyển HSG.
    Trong khi đó, nội dung và thời lượng về phần kiến thức này trong sách giáo
    khoa và sách bài tập còn rất ít, lượng bài tập chưa có sự đa dạng, những bài tập ở
    mức độ vận dụng cao, đòi hỏi học sinh tư duy ở mức độ cao chưa nhiều. Mặt khác
    trong các sách tham khảo có trình bày thì chỉ có bài tập và lời giải vắn tắt do đó
    học sinh rất lúng túng khi giải các bài tập về thể loại này. Thường là học sinh chưa
    nắm rõ cách giải, không biết trình bày như thế nào, trình bày thiếu căn cứ, lập luận
    không chặt chẽ. Mặt khác số học sinh có điều kiện để mua sách tham khảo không
    nhiều hoặc nếu có các tài liệu tham khảo các em cũng không biết cách phân tích để
    tóm lại cho mình những kỹ năng cần thiết để giải quyết tốt dạng toán này và đặc
    biệt hơn là học sinh luôn bị động trước các kiến thức cần tiếp nhận.
    Chính vì thế tôi đã suy nghĩ làm thế nào để nâng cao chất lượng học tập cho
    học sinh, giúp học sinh học phần nào tháo gỡ được những khó khăn, vướng mắc
    trong quá trình học về diện tích đa giác. Đồng thời giúp các em biết tư duy, phân
    tích, tổng hợp các kiến thức liên quan một cách có hệ thống từ đó hình thành kỹ
    năng giải dạng toán này, góp phần để các em tự tin hơn, đạt kết quả cao hơn trong
    các kỳ thi tuyển đặc biệt là đối với các kỳ thi chọn học sinh giỏi nên tôi chọn đề
    tài:
    “ Phát triển năng lực tư duy, khả năng sáng tạo của học sinh qua dạy học về
    diện tích đa giác ’’.
    II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP:
    1.Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
    Những kiến thức cơ bản liên quan đến diện tích đa giác trong Hình học 8
    được trình bày trong Chương 2, thời lượng số tiết không nhiều ( 8 tiết). Chủ yếu là
    công thức tính diện tích các đa giác, một sốt tính chất cơ bản của diện tích đa giác.
    Lượng kiến thức và bài tập ở mức độ vận dụng cao hướng đối tượng học sinh Khá,
    3
    Giỏi không nhiều. Kiến thức về diện tích đa giác còn được cung cấp rải rác trong
    các chương tiếp theo nhưng không có tính hệ thống. Giáo viên cũng không có
    nhiều thời gian để giảng dạy.
    Những bài tập về diện tích đa giác xuất hiện trong các đề thi đặc biệt là đề thi học
    sinh giỏi thường là bài tập khó, đòi hỏi mức độ vận dụng cao. Tạo ra tâm lý của
    một bộ phận giáo viên và hầu hết học sinh: mặc định bài tập về diện tích đa giác là
    khó nên giáo viên ngại dạy, học sinh ngại học. Do đó, giáo viên thường chỉ dạy về
    diện tích đa giác ở mức độ bám sách giáo khoa, sách bài tập. Học sinh có tâm lý
    khi gặp bài tập về diện tích đa giác là bỏ qua. Những yếu tố trên làm giáo viên và
    học sinh đã bỏ qua một mảng kiến thức mà ở đó có thể phát triển năng lực tư duy,
    khả năng sáng tạo, kỹ năng vận dụng linh hoạt kiến thức đã học vào giải quyết vấn
    đề cho học sinh… Học sinh thường lúng túng khi gặp những bài toán về diện tích
    đa giác.
    Qua điều tra học sinh bằng nhiều biện pháp và bài kiểm tra có nội dung liên
    quan đến diện tích đa giác của học sinh lớp 8C Trường THCS Hải Hậu trước khi
    áp dụng sáng kiến có kết quả như sau:

    Lớp
    số
    GiỏiKháTBYếu- kém
    SL%SL%Sl%SL%
    8C3126,5825,81961,326.4

    Sau khi kiểm tra tôi thấy rằng học sinh hiểu và làm toán về dạng toán vẫn
    còn rất mơ hồ, học một cách máy móc thụ động. Khi gặp một bài toán đòi hỏi phải
    vận dụng và có sự tư duy thì học sinh không xác định được phương hướng để giải
    bài toán dẫn đến lời giải sai hoặc không làm được bài. Sự vận dụng lí thuyết vào
    việc giải các bài tập cụ thể của học sinh chưa linh hoạt.
    Trước thực trạng trên, là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn toán 8 ở lớp
    mà đối tượng học sinh được chọn lựa tôi thấy:
    Trong việc học toán để các em tự tìm tòi lời giải để đưa ra phương án giải
    một bài toán đúng và hoàn chỉnh thì đa số học sinh thường lúng túng trước những
    vấn đề mới, đặc biệt các em là những học sinh chưa thực sự có tố chất và chăm chỉ
    4
    học tập, chỉ một số ít học sinh có nhận thức và tư duy tốt là có thể tự mình tìm ra
    hướng đi đúng đắn. Vì vậy việc đưa ra và khái quát cho các em một phương pháp
    chung cho một dạng toán nào đó là thật sự cần thiết, cần phân tích để học sinh có
    thể lựa chọn cho mình hướng đi chính xác trong những hướng đi là vấn đề vô cùng
    quan trọng và trong công việc này người thầy đóng vai trò chủ đạo còn học sinh
    chủ động tìm tòi kiến thức.
    2.Mô tả giải pháp sau khi tạo ra sáng kiến
    Đối với học sinh việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo các kiến thức đã được
    học vào giải bài toán về diện tích đa giác là không đơn giản. Nhưng nếu làm được
    điều đó sẽ góp phần phát triển năng lực tư duy, khả năng sáng tạo là rất lớn. Muốn
    vậy đòi hỏi các em phải có lòng say mê và một sự nhiệt tình với việc tìm tòi các
    kiến thức mới. Bên cạnh đó đòi hỏi các em phải dành ra một quỹ thời gian đủ
    nhiều để nghiên cứu và tìm hiểu, trong khi quỹ thời gian của các em tương đối hạn
    hẹp, cộng với điều kiện kinh tế của các em đa số còn khó khăn không thể mua cho
    mình những cuốn sách để có thể tự đọc và tự nghiên cứu . Do đó để học sinh học
    tập có hiệu quả cao với chủ đề này thì giáo viên cần phải tổng hợp kiến thức có
    liên quan từ đó phân ra làm các dạng toán“ từ cơ bản đến nâng cao, từ đơn giản
    đến phức tạp” để luyện tập cho học sinh. Trong giảng dạy giáo viên cần chỉ ra
    phương pháp giải đối với từng dạng, chỉ ra những điểm nhấn thể hiện đặc điểm
    riêng của từng dạng, chỉ ra những chỗ mà học sinh hay mắc sai lầm đồng thời phải
    giúp cho các em học sinh biết liên kết kiến thức giữa mảng này với mảng khác
    theo một hệ thống.
    Trong sáng kiến, này tôi đã phân ra các dạng bài, chỉ ra phương pháp giải đối
    với từng dạng và thông qua các các bài tập trong từng dạng. Giúp giáo viên rèn kỹ
    năng trình bày bài làm của học sinh, giúp học sinh nâng cao năng lực tư duy, phân
    tích, khả năng sáng tạo tìm cách giải và biết cách làm bài toán tương tự, biết cách
    vận dụng linh hoạt các kiến thức đã học để giải quyết tốt các tình huống trong mỗi
    bài toán cụ thể. Qua đây cũng hình thành tư duy lôgíc, sáng tạo cho các em trong
    việc giải toán. Các dạng bài mà tôi đã phân cụ thể là:
    5
    Dạng 1: Tính diện tích đa giác
    Loại 1. Tính trực tiếp: Sử dụng công thức tính diện tích đa giác
    Loại 2. Tính gián tiếp: Sử dụng phương pháp cộng diện tích.
    Loại 3. Tính gián tiếp: Sử dụng tỉ số diện tích của hai tam giác có chung cạnh hoặc
    chung đường cao.
    Loại 4. Tính gián tiếp: Sử dụng tỉ số diện tích của hai tam giác dồng dạng.
    Loại 5. Tính gián tiếp: Sử dụng phương pháp đại số.
    Dạng 2: Chứng minh hệ thức hình học sử dụng diện tích đa giác.
    Loại 1. Chứng minh hệ thức hình học sử dụng diện tích đa giác.
    Loại 2. Chứng minh đẳng thức diện tích.
    Loại 3. Tính tỉ số diện tích đa giác
    Dạng 3: Cực trị hình học sử dụng diện tích đa giác.
    Loại 1. Chứng minh bất đẳng thức hình học sử dụng diện tích đa giác
    Loại 2. Bất đẳng thức diện tích
    Loại 3. Tìm vị trí của điểm để diện tích đa giác đạt giá trị cực trị
    Để học sinh nắm vững các dạng toán trên giáo viên cần hệ thống lại cho học
    sinh các kiến thức sau:
    * Các kiến thức liên quan đến diện tích đa giác lớp 8 bao gồm:
     Công thức tính diện tích cách đa giác đặc biệt:
    1. Công thức tính diện tích hình chữ nhật:
    Diện tích hình chữ nhật bằng tích hai kích thước của nó:
    S = a.b
    2. Công thức tính diện tích hình vuông:
    Diện tích hình vuông bằng bình phương cạnh của nó:
    S = a2
    a
    b
    a
    6
    3. Công thức tính diện tích tam giác:
    a) Diện tích tam giác:
    Diện tích tam giác bằng nửa tích của một cạnh với
    chiều cao ứng với cạnh đó: S = 1
    2
    a.h
    Mở rộng: Công thức Herong tính diện tích tam giác
    khi biết dộ dài 3 cạnh:
    S = p(p a)(p b)(p c)    ( trong đó a, b, c là độ dài 3 cạnh của tam giác)
    b) Diện tích tam giác vuông:
    Diện tích tam giác vuông bằng nửa tích hai cạnh góc
    vuông: S = 1
    2
    a.b
    4. Công thức tính diện tích hình thang:
    Diện tích hình thang bằng nửa tích của tổng hai
    đáy với chiều cao: S = 1
    2
    ( a b ).h 
    5. Công thức tính diện tích hình bình hành:
    Diện tích hình bình hành bằng tích của một
    cạnh với chiều cao ứng với cạnh đó:
    S = a.h
    6. Công thức tính diện tích của tứ giác có hai
    đường chéo vuông góc:
    Diện tích của tứ giác có hai đường chéo vuông góc
    với nhau bằng nửa tích của hai đường chéo đó:
    S = 1 1 2
    2
    d .d
    a
    h
    a
    b
    a
    b
    h
    a
    h
    d2
    d1
    7
    7. Công thức tính diện tích của hình thoi
    Diện tích hình thoi bằng nửa tích của hai đường
    chéo:
    S =
    1 2
    1 2
    d .d
     Các tính chất của diện tích đa giác:
    1. Mỗi đa giác có một diện tích xác định. diện tích đa giác là một số dương.
    2. Các đa giác bằng nhau có diện tích bằng nhau.
    3. Nếu một đa giác được chia thành những đa giác không có điểm trong
    chung thì diện tích của nó bằng tổng diện tích của những đa giác đó.
    4. Hình vuông có cạnh có độ dài bằng 1 (đơn vị đo chiều dài) thì có diện tích
    bằng 1 (đơn vị đo diện tích). Hình vuông này gọi là hình vuông đơn vị.
    5. Tỉ số diện tích của hai tam giác đồng dạng bằng bình phương tỉ số đồng dạng
     Các tính chất suy ra được từ công thức tính diện tích tam giác:
    1. Đường trung tuyến của tam giác chia tam giác thành hai tam giác có diện
    tích bằng nhau.
    2. Tỉ số diện tích của hai tam giác có chung cạnh (hoặc có 1 cặp cạnh bằng
    nhau) bằng tỉ số hai đường cao tương ứng.
    3. Tỉ số diện tích của hai tam giác có chung đường cao (hoặc có đường cao
    bằng nhau) bằng tỉ số hai cạnh tương ứng.
    Sau đây tôi xin trình bày cụ thể những dạng toán đã đưa ra và phương pháp
    giải những bài toán đó.
    d2
    d1
    8
    I. DẠNG 1: TÍNH DIỆN TÍCH CÁC HÌNH.
     Loại 1: Tính trực tiếp: Sử dụng công thức tính diện tích của đa giác.
    Phương pháp giải: Sử dụng các tính chất hình học, tính được các yếu tố chưa biết
    rồi áp dụng công thức tính diện tích để tính diện tích của các đa giác.
    Bài 1. Cho ΔABC cân tại A có AB = AC = a, BC = b. Tính diện tích của ΔABC?
    Phân tích: Theo giả thiết, ΔABC đã biết độ dài 3 cạnh
    nên để tính được diện tích ΔABC có 2 cách:
    Cách 1. Sử dụng công thức cơ bản S= a.h 1
    2
    trong cách
    này cần tính được chiều cao của tam giác.
    Cách 2. Sử dụng công thức Herong.
    Hướng dẫn:
    Cách 1: Sử dụng công thức cơ bản S= a.h 1
    2
    – Vẽ đường cao AH.
    – Chứng minh: AH là đường trung tuyến BH = HC = 1 b BC
    2 2

    – Áp dụng định lý Pitago vào ΔAHB (vuông tại H)
    2 2 2
    2 2 2 2 b 4a b
    AH AB BH a
    4 4

         
    4a b 2 2 4a b 2 2
    AH
    4 2
     
     
    – Áp dụng công thức tính diện tích S= a.h 1
    2
    ta tính được:
    2 2 2 2
    ABC
    1 1 4a b b. 4a b
    S = BC.AH .b.
    2 2 2 4
     
     
    Cách 2: Sử dụng công thức Herong: S = p(p a)(p b)(p c)    trong đó p là nửa
    chu vi, a,b,c là ba cạnh của tam giác.
    – Áp dụng công thức Herong vào ΔABC ta có:
    a a b a a b a a b a a b
    S = ( a)( a)( b)
    2 2 2 2
           
      
    B H C
    A
    9
    2a b b b 2a b b (2a b)(2a b) 2 b 4a b 2 2
    S = . . . .
    2 2 2 2 4 4 4
        
     
    Mở rộng: Bài 1.1 Cho ΔABC đều có cạnh là a. Tính diện tích ΔABC ?
    – Vì Δ đều là Δ cân đặc biệt nên áp dụng 2 cách tính diện tích Δ cân ở trên ta tính
    diện tích ΔABC đều như sau:
    Cách 1: Sử dụng công thức cơ bản S= a.h 1
    2
    – Độ dài đường cao
    2 2 2
    4a a 3a a 3
    AH
    4 4 2

      
    – Khi đó:
    2
    ABC
    1 1 a 3 a 3
    S = BC.AH .a.
    2 2 2 4
     
    Cách 2: Sử dụng công thức Herong.
    a 4a a 2 2 a 3a a 3 2 2
    S
    4 4 4

      
    Bài 2. Một mảnh đất hình tam giác (hình ảnh)
    Thửa đất có các cạnh là: 18,1m; 19,3m; 4,3m. Tính diện tích thửa đất.
    BC = 4,3m
    AC = 19,3m
    AB = 18,1m
    A B
    C
    10
    Phân tích: Đây là bài toán thực tế tính diện tích ΔABC. Trên thực địa có thể đo
    đạc được chiều cao của tam giác. Tuy nhiên khi đo chiều cao thì phải xác định tính
    vuông góc cũng khá phức tạp. Khi đã biết độ dài 3 cạnh để tính được diện tích
    ΔABC cách đơn giản là áp dụng công thức Herong để tính:
    Hướng dẫn:
    – Sử dụng công thức Herong :
    S = p(p a)(p b)(p c) 20,85(20,85 18,1)(20,85 19,        3)(20,85 4,3)
    S = 20,85(2,75)(1,55)(16,55) 38,35 (m )  2
    Bài 3. Cho hình thang vuông ABCD ( A D  900 ). Biết AB = 2, AD = 3 và
    0
    B 150 . Tính diện tích hình thang ABCD ?
    Phân tích : Có 2 cách để tính : Cách
    1. Áp dụng công thức tính diện tích
    hình thang. Để tính theo cách này cần

    biết độ dài 2 đáy và chiều cao. Theo
    đề bài thì cần tính độ dài của DC.

    Cách 2. Chia hình thang thành 2 hình : hình chữ nhật và tam giác vuông. Để tính
    diện tích hình thang cần tính diện tích của 2 hình trên.
    Hướng dẫn:
    – Vẽ BH  DC ( H DC)
    – Chứng minh được ABHD là hình chữ nhật BH =AD = 3 , DH = AB =2.
    – Có B 1500  C 300 . ΔBHC vuông tại H có C 300 BC = 2 BH = 2 3
    – ΔBHC vuông tại H có BC = 2 3 , BH = 3 DH = 3 DC = 5
    – Hình thang vuông ABCD có 2 đáy AB = 2, DC = 5, đường cao AD = 3

    ABCD
    1
    S (AB DC).AD
    2
      =
    1 7 3
    (2 5). 3
    2 2
      (đvdt).
    1500
    H
    A D
    B
    C
    11
    Bài 4. Một mảnh đất hình thang ( hình ảnh), 2 cạnh đáy có kích thước lần lượt
    là: 15m và 20m, hai cạnh bên có kích thước là 12m và 10m. Tính diện tích mảnh
    đất?
    Phân tích: Do hình thang ABCD chưa biết chiều cao nên để tính diện tích mảnh
    đất ta chia hình thang thành 01 tam giác và 01 hình bình hành.
    Hướng dẫn:
    – Qua A vẽ đường thẳng song song với BC cắt DC tại E, vẽ đường cao AI.
    – Ta chứng minh được ABCE là hình bình hành  AE = BC = 10 m,
    CE = AB = 15 m. Từ đó DE = 5 m.
    – Áp dụng công thức Herong tính diện tích ΔADE biết độ dài 3 cạnh :
    2
    S 13,5.(13,5 10)(13,5 12)(13,5 5) 24,54 m ADE     
    – Có AI là đường cao chung của tam giác ADE và hình bình hành ABCE nên:
    ABCE
    ADE
    S AI.AB 2.15
    6
    S 5    12AI.DE  S 6.S 6.24,54 147,27 m ABCE ADE    2
    – Do đó: S 24,54 m 147,27 m 171,8 m ABCD    2 2 2
    I E
    A B
    D C
    12
    Bài 5. Cho hình thoi ABCD có cạnh bằng a. Lấy điểm M trên cạnh AD, điểm N
    trên cạnh CD sao cho DM = CN. Biết ΔBMN là tam giác đều, tính diện tích
    hình thoi ABCD?
    Phân tích: Để tính diện tích của
    hình thoi phải tính được độ dài 2
    đường chéo. Từ giả thiết ΔBMN là
    tam giác đều dự đoán các ΔABD và
    ΔBCD là các tam giác đều, từ đó
    tính được độ dài hai đường chéo.
    Để chứng minh điều đó đi chứng
    minh C 600 bằng cách chứng minh ΔCFN đều ( CN = CF = FN)
    Hướng dẫn:
    – Qua M, N vẽ các đường thẳng song song với BD cắt AB, BC lần lượt tại E, F.
    – Chứng minh: CF = CN ( sử dụng FN // BD) và BE = DM ( sử dụng ME // BD)
     CF = CN = BE = DM
    – Chứng minh: DMFC là hình bình hành ( DM // CF, DM = CF) và BENC là hình
    bình hành ( BE // CN, BE = CN) MF = DC và EN = BC
    MF = EN ( vì BC = DC)
    – Chứng minh : EFNM là hình thang cân ( EM // NF, MF = EN)
    EF = MN EF = BN ( vì MN = BN do ΔBMN đều)
    – Chứng minh: BFNE là hình thang cân ( BF // EN, BN = EF)
    BE = NF NF = CN = CF (vì CF = CN = BE = DM)  ΔCFN đều
     C 600  ΔABD và ΔBCD là các tam giác đều có cạnh bằng a.
    – Tính được độ dài AC = 2.
    2
    a 3
    = a 3 ( cách tính đường cao của Δ đều ở Bài 1)
    – Áp dụng công thức tính diện tích hình thoi:
    2
    ABCD
    1 1 a 3
    S AC.BD .a.a 3
    2 2 2
      
    F
    E
    N
    C
    D
    A
    B
    M
    13
    N
    O
    B C
    A D
    M
     Loại 2. Tính gián tiếp: Sử dụng phương pháp cộng diện tích
    Phương pháp giải: Sử dụng tính chất cộng diện tích, đưa diện tích đa giác cần tính
    về diện tích của các đa giác khác tính được bằng công thức tính.
    Bài 6. Cho hình vuông ABCD có cạnh AB = 10 cm, hai đường chéo AC và BD
    cắt nhau tại O. Trên cạnh AB và BC lần lượt lấy hai điểm M, N sao cho AM =
    BN. Tính diện tích tứ giác BMON?
    Phân tích: Nhận thấy ΔAMO = ΔBON, do đó
    S = S BMON AOB. Từ đó để tính diện tích tứ giác
    BMON ta tính diện tích ΔAOB.
    Hướng dẫn:
    – Chứng minh: ΔAOM = ΔBON ( c.g.c)  S = S AOM BON

    S S = S S AOM BOM BON BOM    S = S AOB BMON
    – Có ABCD là hình vuông  S = AB 10 100 cm ABCD 2 2 2  
    – Chứng minh được: S = S AOB ABCD 1
    4
     2
    S = 25 cm AOB
    Bài 7. Cho ngũ giác ABCDE. Vẽ AH  CD, BM //AC, EN //AD ( M, N thuộc
    đường thẳng CD). Cho biết AH = h, MN = a, tính diện tích ngũ giác ABCDE?
    Phân tích: Ngũ giác ABCDE được chia
    thành 3 tam giác: ΔABC, ΔACD, ΔAED. Giả
    thiết chỉ cho biết AH và MN nên ta chứng
    minh
    S = S ABCDE AMN
    Để chứng minh S = S ABCDE AMN ta chứng
    minh:
    S = S ABC AMC và S = S AED ADN
    I
    K
    M N
    C H D
    B
    A
    E
    14
    H K
    E
    F
    D
    A
    B C
    Hướng dẫn:
    – Vẽ đường cao BI của ΔABC và đường cao MK của ΔAMC
    – Vì BM // AC  Khoảng cách từ B và từ M đến AC bằng nhau  BI = MK
    Có :
    ABC
    1
    S = BI.AC
    2
    , AMC
    1
    S = MK.AC
    2
    từ đó 
    S = S ABC AMC
    – Tương tự ta chứng minh được: S = S AED ADN
    – Có:
    S = S S S ABCDE ABC ACD ADE    S = S S S ABCDE AMC ACD AND  

    ABCDE AMN
    1
    S = S a.h
    2

    Bài 8. Cho ΔABC có AB = 3cm, AC = 4cm, BC = 5cm. Các đường phân giác
    AD, BE, CF. Tính diện tích tam giác DEF?
    Phân tích: Nhận định không thể
    tính trực tiếp được diện tích ΔDEF.
    Nhận thấy ΔABC vuông tại A nên
    tính được diện tích ΔABC, vì AD,
    BE, CF là các đường phân giác nên
    tính được các đoạn AE, AF, BD,
    DC từ đó tính được diện tích ΔAEF,
    ΔFBD, ΔEDC. Từ đó tính được diện tích ΔAEF.
    Hướng dẫn:
    – Vẽ các đường cao FH của ΔFBD, và đường cao EK của ΔEDC.
    – Chứng minh ΔABC vuông tại A dựa vào định lý đảo Pitago.
    Từ đó tính được: S AB.AC 6 ABC 1
    2
      (cm2)
    – Có BD là phân giác của ΔABC  DB AB
    DC AC
     
    DB AB
    DB DC AB AC

     

    DB AB
    BC AB AC



    DB 3
    5 3 4



    15
    BD
    7
     
    20
    DC
    7
     (cm)
    15
    Tương tự tính được: AF 4
    3
     (cm) và AE 3
    2
     (cm)
    – Tính được: S AE.AF . . 1 AEF 1 1 4 3
    2 2 3 2
       (cm2)
    – Vì CF và BE là các phân giác  FH = AF 4
    3
     ( cm) và EK = AE 3
    2
     ( cm)
    Tính được: SFBD 10
    7
     (cm2) và SEDC 15
    7
    (cm2)
    Từ đó tính được: S S S S S DEF ABC AEF FBD EDC 10
    7
         (cm2)
     Loại 3: Tính gián tiếp: Sử dụng tỉ số diện tích của hai tam giác có chung
    một cạnh hoặc chung đường cao.
    Phương pháp giải: Sử dụng tính chất: Tỉ số diện tích của hai tam giác có chung
    cạnh bằng tỉ số hai đường cao tương ứng; Tỉ số diện tích của hai tam giác có chung
    đường cao bằng tỉ số hai cạnh tương ứng. Lập hệ thức liên hệ giữa diện tích của đa
    giác cần tính diện tích ( hoặc liên quan) và đa giác đã biết diện tích (hoặc có thể
    tính được diện tích). Từ đó tính được diện tích của đa giác cần tính.
    Bài 9. Cho ΔABC vuông ở A, AB = 6cm, AC = 8 cm, phân giác AI. Tính diện
    tích tam giác ABI?
    Phân tích: Nhận thấy: ΔABI và ΔABC có

    chung đường cao từ đỉnh A nên

    ABI
    ABC
    S BI
    =
    S BC
    ΔABC tính được diện tích và tỉ số BI
    BC
    tính
    được bằng cách sử dụng tính chất đường
    phân giác. Do đó ta tính được diện tích ΔABI.
    Hướng dẫn:
    – Tính được S = AB.AC = .6.8 = ABC 1 1 24
    2 2
    (cm2) (1)
    I
    A
    B C
    16

    – Có: ΔABI và ΔABC có chung đường cao từ đỉnh A nên

    ABI
    ABC
    S BI
    =
    S BC
    . (2)
    – Có AI là phân giác của ΔABC  IB AB
    IC AC
     
    IB AB
    IB IC AB AC

     

    IB AB 6 6 3
    BC AB AC 6 8 14 7
       
     
    (3)
    – Từ (1), (2), (3) ta có: . .24 ABC 3 72
    7 7
    ABI  
    BI
    S = S
    BC
    (cm2)
    Bài 10. Cho ΔABC cân ở A, AB = AC = 5cm, BC = 6cm. Gọi O là trung điểm
    của đường cao AH. Các tia BO và CO cắt cạnh AC và AB lần lượt tại D và E.
    Tính diện tích tứ giác ADOE ?
    Phân tích: Trong bài tập này diện tích
    ΔABC tính được. Để tính được diện tích tứ
    giác ADOE cần thiết lập hệ thức liên hệ giữa
    SADOE và SABC.

    Chứng minh được:

    ADOE ADO
    ABC AHC
    S S
    =
    S S

    do đó để tính SADOE ta tính.

    ADO
    AHC
    S S
    Hướng dẫn:
    – Gọi N là trung điểm của DC.
    – Chứng minh: HN là đường trung bình của ΔBDC HN // BD OD // HN.
    Kết hợp với O là trung điểm của AHD là trung điểm của AN
    AD = DN mà DN = NC  AD = DN = NC AD = 1
    3
    AC.
    – Xét ΔAOD và ΔAOC có chung đường cao từ đỉnh O  ADO
    AOC
    S AD 1
    = =
    S AC 3
    (1)
    – Xét ΔAOC và ΔAHC có chung đường cao từ đỉnh C  AOC
    AHC
    S AO 1
    = =
    S AH 2
    (2)
    E
    N
    D
    O
    B H C
    A
    17
    – Từ (1) và (2)  ADO AOC
    AOC AHC
    S S 1 1
    . = .
    S S 3 2
     ADO
    AHC
    S 1
    =
    S 6
    (3)
    – Chứng minh: S = 2S ABC AHC và S = 2S ADOE ADO ( ΔAEO = ΔADO) (4)

    Từ (3) và (4)

     ADOE
    ABC
    S 1
    =
    S 6
    – Tính được: S = 12cm ABC 2 . Từ đó  S = 2cm ADOE 2
    Bài 11. Cho ΔABC có diện tích là S. Trên các cạnh AB, BC, CA lần lượt lấy các
    điểm M, N, P sao cho AM = 2BM, BN = 2CN, CP = 2AP. Tính diện tích tam giác
    MNP theo S?

    Phân tích: Theo đề bài biết AM = 2BM, BN =
    2CN, CP = 2AP và diện tích ΔABC là S nên tính
    được diện tích ΔAMP, ΔBMN, ΔCNP. Từ đó
    tính được diện tích ΔMNP

    Hướng dẫn:

    – Nối A với N
    – Ta có ΔABN và ΔABC có chung đường cao xuất phát từ đỉnh A

     ABN
    ABC
    S BN
    =
    S BC
    mà BN = 2CN nên BN 2 =
    BC 3

    2 3
    ABN
    ABC
    S
    =
    S
    Ta có ΔNBM và ΔABN có chung đường cao từ đỉnh N  NBM
    ABN
    S BM
    =
    S BA
    Mà AM = 2BM nên BM 1 =
    BA 3
     NBM
    ABN
    S 1
    =
    S 3

    Từ đó

     ABN NBM
    ABC ABN
    S S 2 1 2
    . = . =
    S S 3 3 9
     NBM
    ABC
    S 2
    =
    S 9

    NBM
    2
    S = S
    9
    – Tương tự ta chứng minh được: S = S MAP 2
    9
    , NCP
    2
    S = S
    9
    – Có
    S = S S S S MNP ABC AMP BMN CNP   
    Do đó: 1
    3
    MNP    
    2 2 2
    S = S S S S S
    9 9 9
    A
    B C
    M
    N
    P
    18
     Loại 4. Sử dụng tính chất: tỉ số diện tích của hai tam giác đồng dạng bằng
    bình phương tỉ số đồng dạng.
    Phương pháp giải: Sử dụng tính chất: Tỉ số diện tích của hai tam giác đồng dạng
    bằng bình phương tỉ số đồng dạng. Lập hệ thức liên hệ giữa diện tích của đa giác
    cần tính (hoặc liên quan) và diện tích của các đa giác đã biết diện tích (hoặc có thể
    tính được diện tích). Từ đó tính được diện tích đa giác.
    Bài 12. Cho hình bình hành ABCD có diện tích bằng a cm2 và AB = AC. Gọi M
    là trung điểm của BC. Gọi K là giao điểm của của hai đường chéo AC và DM.
    Tính diện tích tứ giác AKMB theo a?
    ( Trích đề thi chọn HSG huyện Hải Hậu năm học 2009 – 2010)
    Phân tích: Nhận thấy S = S S AKMB ABC CKM  do đó để tính diện tích tứ giác
    AKMB ta tính diện tích ΔABC và ΔKCM theo a.
    Hướng dẫn:
    – Chứng minh ΔABC = ΔCDA để  S = S S ABC ACD ABCD 1 a
    2 2
      (cm2)
    – Chứng minh ΔCKM ∽ ΔCAB 
    2 2
    CKM
    CAB
    S CK 1 1
    =
    S CA 2 4
       
         
       

    CKM CAB
    1 1 a a
    S = S .
    4 4 2 8
      (cm2)
    – Có
    AKMB ABC CKM
    a a 3a
    S = S S
    2 8 4
        (cm2)
    K
    E
    M
    C
    A
    D
    B
    19
    Bài 13. Cho hình chữ nhật ABCD, biết AB = a, BC = b. Kẻ AH  BD ( H thuộc
    BD). Tính diện tích tam giác AHB?
    Phân tích: Nhận thấy ΔAHB ∽ ΔDHB và
    diện tích ΔDAB tính được nên để tính diện
    tích ΔAHB ta đi tính tỉ số đồng dạng của
    ΔAHB và ΔDHB.
    Hướng dẫn:
    – Tính diện tích tam giác ABD: S = AB.AD ABD 1 a.b
    2 2

    – Chứng minh: ΔAHB ∽ ΔDHB ( g-g)


    2 2
    AHB
    2
    DAB
    S AB AB
    =
    S DB BD
     
      
      (1)
    – Tính BD2: áp dụng định lý Pitao vào ΔDAB ta có:
    BD = AB AD a b 2 2 2 2 2    (2)
    – Từ (1) và (2) 
    2
    AHB
    2 2
    DAB
    S a
    =
    S a b 

    2 2 3
    AHB DAB 2 2 2 2 2 2
    a a ab a b
    S = .S .
    a b a b 2(a b ) 2
     
      
    (đvdt)
    Bài 14. Cho hình thang ABCD ( AD // BC), hai đường chéo cắt nhau ở O. Tính
    diện tích tam giác AOB biết diện tích tam giác AOD là 169 cm2 và diện tích tam
    giác BOC là 196 cm2.

    Phân tích: Nhận thấy ΔAOB và ΔAOD có
    chungđườngcaotừđỉnhAnên
    và diện tích ΔAOD đã biết.

    AOB
    AOD
    S BO
    =
    S OD
    Do đó, cần tính được tỉ số BO
    OD
    H
    C
    A D
    B
    O
    A D
    B C
    20
    Hướng dẫn:
    – Chứng minh: ΔOBC ∽ ΔDOA 
    2
    BOC
    DOA
    S OB
    =
    S OD
     
     
      
    2
    OB 196
    OD 169
     
      
     

    OB 14
    OD 13

    – Có ΔAOB và ΔAOD có chung chiều cao xuất phát từ đỉnh A  AOB
    AOD
    S OB
    =
    S OD

    AOB AOD
    OB 14
    S = .S .169 182
    OD 13
     

    (cm2)

    Bài 15. Cho tam giác ABC có AB = 2a, AC = 3a, BC = 4a. Các đường phân giác

    AD và BE cắt nhau tại I, trung tuyến BM, trọng tâm G. Tính= ?

    EIGM
    ABC
    S S
    Phân tích: Dự đoán IG // AC nên ΔBIG ∽ ΔBEM và G là trọng tâm nên tính

    được

    EIGM
    BEM
    S S

    . Sau đó tính

    BEM
    ABC
    S S

    từ đó tính được

    EIGM
    ABC
    S S
    Hướng dẫn:
    – Vì BM là trung tuyến, M là trọng tâm  BG 2
    GM
     (1)
    – ΔABE có AI là phân giác  BI AB
    IE AE
     (2)
    ΔABC có AE là phân giác  AE AB
    EC BC
     
    AE AB
    AE EC AB BC

     
    G
    I M
    D
    E
    A
    B C
    21

    AB AB BC AB BC 2a 4a
    2
    AE AE EC AC 3a
      
       

    (3)
    Từ (2) và (3)  BI 2
    IE
     Kết hợp với (1)  BG BI
    GM EI

    – Từ BG BI
    GM EI
     chứng minh được: ΔBIG ∽ ΔBEM 
    2
    BIG
    BEM
    S BG
    S BM
     
      
     

    2
    BIG
    BEM
    S 2 4
    S 3 9
     
       
       S S BEM BIG S 9 BEM   9 4   SS 9 EIGM BEM  5

    (I)

    – Có ΔAEB và ΔABC có chung đường cao từ đỉnh B nên AEB
    ABC
    S AE
    S AC

    Ta có: AE AB
    AE EC AB BC

     

    AE 2a 1
    AC 2a 4a 3
     

     AEB
    ABC
    S 1
    S 3

    (4)
    – Có ΔABM và ΔABC có chung đường cao từ đỉnh B nên(5)

    ABM
    ABC
    S AM 1
    S AC 2
      Từ (4) và (5)  ABM AEB
    ABC ABC
    S S 1 1
    S S 2 3
        BEM
    ABC
    S 1
    S 6

    (II)

    – Từ (I) và (II)  EIGM BEM
    BEM ABC
    S S 5 1
    . .
    S S 9 6
      EIGM
    ABC
    S 5
    S 54

    Mở rộng: Cũng với dữ kiện của bài tập trên cho biết thêm a = 2cm. Tính diện tích
    tứ giác EIGM?
    Hướng dẫn:
    – Khi a = 2cm thì AB = 4cm, AC = 6cm, BC = 8cm khi đó nửa chu vi p = 9 cm.
    – Sử dụng công thức Herong ta tính được diện tích ΔABC:
    S p.(p a)(p b)(p c) 9.(9 4)(9 6)(9 8) 3 5 ABC          (cm2)
    – Áp dụng kết quả bài tập trên ta có: S .S .3 5 EIBMC ABC 5 5 5 5
    54 54 18
       (cm2)
    22
    Loại 5: Tính diện tích đa giác bằng phương pháp đại số
    Phương pháp giải: Dùng phương pháp đặt ẩn là diện tích đa giác cần tính ( hoặc là
    yếu tố để tính diện tích). Sử dụng các tính chất của diện tích lập các hệ thức liên hệ
    giữa các ẩn và dữ kiện đã biết. Tìm ẩn bằng các phương pháp đại số, từ đó tính
    được diện tích đa giác cần tính.
    Bài 16. Cho ΔABC có diện tích là S ( đvdt). Trên cạnh AB lấy điểm M. trên
    cạnh AC lấy điểm N sao cho: AM = 3MB, AN = 4NC. Gọi O là giao điểm của
    BN và CM. Tính diện tích ΔAOB và ΔAOC theo S?

    Phân tích: Nhận thấy không thể biễu diễn
    diện tích riêng ΔAOB hoặc ΔAOC theo diện
    tích của ΔABC mà chỉ có thể biểu diễn hệ
    thức liên hệ giữa diện tích của cả hai tam
    giác theo diện tích ΔABC. Nên trong bài tập
    này ta dùng cách đặc biệt để tính diện tích

    của 2 tam giác ΔAOB và ΔAOC.
    Hướng dẫn:
    – Đặt S x AOB  và S y AOC 

    – Có

    AN 4
    AC 5


    AON AOC
    4 4
    S .S .y
    5 5
      ( vì ΔAON và ΔAOC có chung đường cao từ đỉnh O)

    ABN ABC
    4 4
    S .S .S
    5 5
      ( vì ΔABN và ΔABC có chung đường cao từ đỉnh B)

    S S S ABN AOB AON    x y S 4 4
    5 5
      (1)
    – Tương tự có AM 3
    AB 4


    AOM AOB
    3 3
    S .S .x
    4 4
      ( vì ΔAOM và ΔAOB có chung đường cao từ đỉnh O)

    ACM ABC
    3 3
    S .S .S
    4 4
      ( vì ΔACM và ΔABC có chung đường cao từ đỉnh C)
    O
    M
    B
    A
    C
    N
    23

    S S S ACM AOC AOM    3 3 x y S
    4 4
      (2)
    – Từ (1)  5 x y S
    4
      
    5
    y S x
    4
      thay vào (2) ta được: 3 5 3 x S x S
    4 4 4
      

    1 1
    S x
    4 2
     
    1
    x S
    2
     từ đó tìm được y S 3
    8

    Vậy S S AOB 1
    2
     và
    AOC
    3
    S S
    8

    .

    Bài 17. Cho ΔABC, có BC = a, chiều cao AH = h. Giả sử có hình vuông MNPQ
    nội tiếp tam giác với M AB N AC   ; và P Q BC ;  . Tính diện tích hình vuông
    MNPQ theo a và h?
    Phân tích: Để tính diện tích hình vuông ta đi tính
    độ dài cạnh của hình vuông.
    Hướng dẫn:
    – Gọi I là giao điểm của AH và MN
    – Gọi độ dài cạnh hình vuông MNPQ là x
    – Chứng minh được HI = x
     AI = AH – HI = h – x;  S AI.MN .x.(h x) AMN 1 1
    2 2
      
    – Tứ giác BMNC là hình thang có: S HI.(MN BC) .x.(x a) BMNC 1 1
    2 2
       
    – Có
    S S S AMN BMNC ABC    1 1 1 .x.(h x) x.(x a) a.h
    2 2 2
       
     x.(h x) x.(x a) a.h      x.h x x ax a.h     2 2

    a.h
    x
    a h

    . Từ đó tính được

    2
    MNPQ
    a.h
    S
    a h
     
      
      
    I
    A H
    N P
    M Q
    B C
    24
    II. DẠNG 2. CHỨNG MINH HỆ THỨC HÌNH HỌC SỬ DỤNG DIỆN TÍCH
    Loại 1. Chứng minh hệ thức hình học sử dụng diện tích đa giác.
    Bài 1. Chứng minh rằng trong tam giác vuông bình phương độ dài cạnh huyền
    bằng tổng bình phương độ dài hai cạnh góc vuông. ( Định lý Pitago)
    Cụ thể: Cho ΔABC vuông tại A, Chứng minh BC2 = AB2 + AC2
    Nếu đặt BC = a, AB = c, AC = b thì chứng minh: a2 = b2 + c2.
    Phân tích: Có nhiều cách để chứng minh định lý

    trên, trong đó có thể sử dụng diện tích đa giác để
    chứng minh.
    Vẽ 4 tam giác bằng tam giác ABC và ghép hình

    như hình sau:
    Hướng dẫn:
    – Theo cách ghép hình trên ta có tứ giác ADFH là

    hình vuông có cạnh là b + c
    – Chứng minh được tứ giác BCEG là hình vuông có
    cạnh là a

     S (b c) ADFH   2
     S a BCEG  2
    – Tam giác ABC vuông tại A có S b.c ABC 1
    2

    – Ta có
    S 4.S S ADFH ABC BCEG    (b c) 4. b.c a 2 2 1
    2
      
     b 2bc c 2bc a 2 2 2      b c a 2 2 2   ( đpcm)
    Bài 2. Cho tam giác ABC, D và E lần lượt thuộc các cạnh AB và AC . Chứng
    minh rằng nếu DE // BC thì
    AC
    AE
    AB
    AD
     ( Định lý Talet)

    Phân tích: Nhận thấy

    nên để chứng minh

    CA
    CAB
    AD S
    AB S

    D BAE
    BAC
    AE S
    AC S
     AC
    AE
    AB
    AD

    ta đưa về chứng minh S S BAE CA  D. Để chứng minh S S BAE CA  D đi chứng minh
    S S BDE C  DE
    c
    a
    b
    A
    B
    C
    c
    b c
    b
    a
    b c
    c b F
    E
    H G
    C D
    A B
    25
    Hướng dẫn:
    – Vẽ BH  DE ( H DE) và CK  DE ( K  DE)
    – Vì DE // BC nên chứng minh được BH = CK từ
    đó chứng minh được: S S BDE C  DE 
    S S S S BDE ADE C ADE    DE  S S BAE CA  D
    – Có ΔCDA và ΔABC có chung đường cao từ đỉnh C nên: CA
    CAB
    S AD
    S AB

    D
    Có ΔBEA và ΔABC có chung đường cao từ đỉnh B nên: BAE
    BAC
    S AE
    S AC

    – Mà
    S S BAE CA  D  CA BAE
    CAB BAC
    S S
    S S

    D

    AC
    AE
    AB
    AD
     ( đpcm)
    Bài 3. Cho ABC, AD là đường phân giác (D BC).
    Chứng minh: DB AB
    DC AC
     ( Định lý Tính chất đường phân giác của tam giác)

    Phân tích: Nhận thấy

    A B
    A C
    DB S
    DC S

    D D
    ΔADB và ΔADC có đường cao xuất phát từ

    đỉnh D bằng nhau do đó:từ đó

    A B
    A C
    S AB
    S AC

    D D
    chứng minh được DB AB
    DC AC

    Hướng dẫn:
    – Kẻ các đường cao DH và DK của ΔADB và ΔADC
    – Vì AD là phân giác của BAC nên chứng minh được DH = DK
    – Có ΔADB và ΔADC có chung đường cao hạ từ đỉnh A nên: A B
    A C
    S DB
    S DC

    D D
    (1)
    H E K
    A
    B C
    D
    K
    H
    D
    A
    B C
    26
    – Lại có A B
    A C
    1
    .DH.DB
    S 2
    S 1
    .DK.DC
    2

    D D
    mà DH = DK nên A B
    A C
    S AB
    S AC

    D D
    (2)
    – Từ (1) và (2)  DB AB
    DC AC
     (đpcm)
    Bài 4. Cho ABC, gọi D, E, F là các điểm thuộc các cạnh BC, AC, AB sao cho
    AD, BE và CF đồng quy tại O. Chứng minh: DB EC F . . 1
    DC E FB

    A
    A
    .( Định lý Ceva )
    Phân tích: Để chứng minh định lý Ceva
    có nhiều cách trong đó có cách sử dụng
    diện tích đa giác. Sử dụng tính chất tỉ số
    của hai tam giác có chung đường cao và
    tính chất của dãy tỉ số bằng nhau. Biểu
    diễn các tỉ số bằng tỉ số diện tích của các
    tam giác có liên quan, từ đó chứng minh
    được DB EC F . . 1
    DC E FB

    A
    A
    Hướng dẫn:
    – Có ΔOFA và ΔOFB có chung đường cao xuất phát từ đỉnh O nên: OFA
    OFB
    S F
    S FB

    A
    Có ΔCFA và ΔCFB có chung đường cao xuất phát từ đỉnh C nên: CFA
    CFB
    S F
    S FB

    A
    Từ đó  CFA OFA CFA OFA OFA
    CFB OFB CFB OFB OFB
    F S S S S S
    FB S S S S S

       

    A
    – Chứng minh tương tự ta chứng minh được:
    ODB
    ODC
    S
    DC S

    DB

    – Từ đó ta có:

    OEC
    OE
    S
    E S

    A
    EC
    A
    O B OEC OFA
    O C OE OFB
    DB EC F S S S
    . . . . 1
    DC E FB S S S
     
    D
    D A
    A
    A
    ( đpcm)
    F
    O
    B D C
    A
    E
    27
    Bài 5. Cho ΔABC, một đường thẳng cắt các cạnh AB, AC và cạnh BC (kéo dài)
    lần lượt tại M, N, P. Chứng minh: MA PB . . 1
    MB PC NA

    NC
    ( Định lý Menelaus)
    Phân tích: Cũng có nhiều cách để
    chứng minh được định lý Menelaus,
    trong đó có cách sử dụng diện tích
    đa giác. Cách chứng minh sử dụng tỉ
    số diện tích của hai tam giác có
    chung đường cao kết hợp sử dụng
    tính chất dãy tỉ số bằng nhau.
    Hướng dẫn:
    – Nối B với N, A với P.
    – Có: ΔNMA và ΔNMB có chung đường cao xuất phát từ đỉnh N nên:
    NMA
    NMB
    S
    S MB

    MA
    ΔPMA và ΔPMB có chung đường cao xuất phát từ đỉnh P nên: PMA
    PMB
    S
    S MB

    MA
     PMA NMA PMA NMA NPA
    PMB NMB PMB NMB NPB
    S S S S S
    MB S S S S S

       

    MA
    – Có : ΔNPB và ΔNPC có chung đường cao xuất phát từ đỉnh N nên: NPB
    NPC
    S PB
    S PC

    – Có: ΔPNC và ΔPNA có chung đường cao xuất phát từ đỉnh P nên: PNC
    PNA
    S NC
    S NA

    – Từ đó ta có:

    NPA NPB PNC
    NPB NPC PNA
    MA PB S S S
    . . . . 1
    MB PC NA S S S
     
    NC
    (đpcm).
    Bài 6. Cho hình thang ABCD (AB//CD, AB<CD) có 2 đường chéo AC và BD cắt
    nhau tại O. Gọi diện tích của các tam giác OAB, OCD, ACD, ABC lần lượt là S1,

    S2, S3, S4. Chứng minh:

    1 2
    4 3
    S S
    1
    S S
     
    P
    A
    B C
    M
    N
    28

    Phân tích: Để chứng minh đượcta sử

    1 2
    4 3
    S S
    1
    S S
      dụng tỉ số diện tích của hai tam giác có chung
    chiều cao đua hai phân số khôn cùng mẫu thành
    hai phân số có cùng mẫu rồi cộng hai phân số có
    cùng mẫu.
    Hướng dẫn:
    – Có: ΔOAB và ΔABC có chung chiều cao hạ từ đỉnh B nên:
    OAB
    ABC
    S
    S AC

    OA
    hay 1
    4
    S
    S AC

    OA
    – Có: ΔOCD và ΔACD có chung chiều cao hạ từ đỉnh D nên:
    OC
    ACD
    S
    S AC

    D OC
    hay 2
    3
    S
    S AC

    OC

    – Từ đó suy ra:

    1 2
    4 3
    S S OA OC AC
    1
    S S AC AC AC AC

         
    OA OC
    ( đpcm)
    Bài 7. Cho ΔABC nhọn, các đường cao AD, BE, CF cắt nhau tại H. Chứng
    minh rằng:
    a) HD HE HF 1
    AD BE CF
       b) AF AE AH
    FB EC HD
     
    Phân tích: Để chứng minh tổng của
    ba phân số bằng 1 thường phải biến
    đổi ba phân số thành ba phân số có
    cùng mẫu để cộng các phân số.
    Trong bài tập này ta sử sụng tỉ số
    diện tích để đưa các phân số thành
    các phân số có cùng mẫu chính là
    diện tích của ΔABC.
    Hướng dẫn:
    H
    D
    F
    E
    A
    B C
    O
    A B
    D C
    29
    a) Chứng minh: HD HE HF 1
    AD BE CF
      
    – Có: ΔHBC và ΔABC có chung cạnh BC, hai đường cao tương ứng với BC là HD
    và AD nên: HBC
    ABC
    S H
    S A

    D D
    – Chứng minh tương tự ta được: HAC
    ABC
    S HE
    S BE
     và HAB
    ABC
    S HF
    S CF

    – Từ đó ta có: HBC HAC HAB
    ABC ABC ABC
    H HE HF S S S
    A BE CF S S S
        
    D D
    HBC HAC HAB ABC
    ABC ABC
    S S S S
    1
    S S
     
      

    (đpcm)

    b) Chứng minh : AF AE AH
    FB EC HD
     
    – Có : ΔHFA và ΔHFB chung đường cao hạ từ đỉnh H nên: HFA
    HFB
    S F
    S FB

    A
    ΔCFA và ΔCFB chung đường cao hạ từ đỉnh C nên: CFA
    CFB
    S F
    S FB

    A
     CF CF HFA CHA HFA
    CFB HFB CFB HFB CHB
    F S S S S S
    FB S S S S S

       

    A A A
    – Chứng minh tương tự ta có: BHA
    BHC
    S
    EC S

    EA
     HF HE
    HFB HEC
    F E S S
    FB EC S S
    A A    A A

    – Suy ra:

    CHA CHA BHA BHA
    CHB CHB CHB
    F E S S S S
    FB EC S S S

       
    A A
    (1)
    – Có: ΔBHA và ΔBHD chung đường cao hạ từ đỉnh B nên: BHA
    BH
    S
    S H

    D
    HA
    D
    ΔCHA và ΔCHD chung đường cao hạ từ đỉnh C nên: CHA
    CH
    S
    S H

    D
    HA
    D
     BHA CHA BHA CHA BHA CHA
    BH CH BH CH BHC
    S S S S S S
    H S S S S S
     
       

    D D D D
    HA
    D
    (2)
    – Từ (1) và (2)  F E HA
    FB EC H
     
    A A
    D
    ( đpcm)
    30
    Bài 8. Cho ΔABC nhọn, gọi D, E, F lần lượt thuộc các cạnh AB, AC, AB sao
    cho AD, BE, CF đồng quy tại O. Chứng minh: OA OB OC 2
    AD BE CF
       .
    Phân tích: Tương tự bài tập 6. Trong bài tập này ta
    sử sụng tỉ số diện tích của 2 tam giác có chung chiều
    cao và sử dụng tính chất của dãy tỉ số bằng nhai để
    đưa các phân số thành các phân số có cùng mẫu
    chính là diện tích của ΔABC.
    Hướng dẫn:

    – Có: ΔBOA và ΔBAD chung đường cao hạ từ đỉnh B nên:

    BOA
    BA
    S S

    D
    OA
    AD

    – Có: ΔCOA và ΔCAD chung đường cao hạ từ đỉnh C nên:

    COA
    CA
    S S

    D
    OA
    AD
     BOA COA BOA COA BOA COA
    B C B C BAC
    S S S S S S
    S S S S S
     
       

    DA DA DA DA
    OA
    AD
    (2)

    – Chứng minh tương tự ta có:

    BOA BOC
    BAC
    S S
    BE S


    OB

    COA COB
    BAC
    S S
    CF S


    OC
    – Từ đó suy ra:
    AOB AOC BOA BOC COA COB
    BAC BAC BAC
    OA OC S S S S S S
    AD BE CF S S S
      
        
    OB

    AOB AOC BOC ABC
    BAC ABC
    OA OC 2(S S S ) 2
    2
    AD BE CF S S
     
        
    OB S
    (đpcm)
    Mở rộng: Từ kết quả trên ta chứng minh được: OD OE OF 1
    AD BE CF
       .
    Hướng dẫn:
    – Ta có: OD OA AD OA 1
    AD AD AD

      
    ,
    OE OB BE OB
    1
    BE BE BE

       và
    OF OF CF OC
    1
    CF CF CF

      
    – Từ đó ta có: OD OE OF OA OB OC 1 1 1 ( ) 3 2 1
    AD BE CF AD BE CF
               (đpcm)
    F
    O
    B D C
    A
    E
    31
    Loại 2: Chứng minh đẳng thức diện tích.
    Phương pháp giải: Sử dụng các tính chất của diện tích đa giác như: cộng diện
    tích, tỉ số diện tích của hai tam giác có chung cạnh hoặc chung đường cao, tỉ số
    diện tích của hai tam giác đồng dạng, công thức tính diện tích… Chứng minh hai đa
    giác hoặc tổng các đa giác có diện tích bằng nhau từ đó chứng minh được đẳng
    thức diện tích.
    Bài 9. Cho hình thang ABCD ( AB//CD), hai đường chéo AC và BD cắt nhau
    tại O. Chứng minh: S S AO BOC D 
    Phân tích: Nhận thấy ΔACD và ΔBCD có chung
    cạnh và chiều cao bằng nhau nên diện tích bằng
    nhau. Sử dụng phương pháp cộng diện tích ta chứng
    minh được S S AO BOC D 
    Hướng dẫn:
    – Kẻ AH  DC ( H DC), BK  DC ( K DC)
    – Chứng minh được AH = BK
    – Có:
    AC
    1
    S AH.C
    2
    D  D , S BK.C BC 1
    2
    D  S S AC BC D D 

    S S S S AO OC BO OC D D D D     S S AO BO D D  (đpcm)
    Bài 10. Cho hình bình hành ABCD, M là một điểm bất kì trên cạnh CD, AM cắt
    BD tại O. Chứng minh rằng:
    S S S ABO DMO BMC   .
    Phân tích: Nhận thấy tứ giác ADMB là
    hình thang có hai đường chéo cắt nhau tại
    O. Theo kết quả Bài 9 chứng minh được
    S S AO BOM D  . Vì ABCD là hình bình
    hành nên cũng chứng minh được
    O
    C
    A
    D
    B
    M
    H K
    O
    A B
    D C
    32
    S S AB BCD D  từ đó dùng phương pháp cộng diện tích ta chứng minh được:
    S S S ABO DMO BMC  
    Hướng dẫn
    – Có ABCD là hình bình hành nên chứng minh được: ΔADB = ΔCBD

    S S AB BCD D  (1)
    – Có DM // AB nên tứ giác DMBA là hình thang có hai đường chéo cắt nhau tại
    O. Theo kết quả Bài 10, ta chứng minh được: S S AO BOM D  (2)
    – Từ (1) và (2)  S S S S AB AO BCD BOM D D     S S S AOB DOM BMC   (đpcm)
    Bài 11. Cho ΔABC trên cạnh AB và AC lấy lần lượt các điểm M và N sa

    Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY

    Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education

    Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại:  Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education