SKKN Sử dụng biểu đồ KWL để nâng cao chất lượng giảng dạy phần văn bản học của bộ môn Ngữ văn THPT
ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
Dạy Ngữ văn trong nhà trường Trung học Phổ thông (THPT) đang là
một thử thách lớn với giáo viên hiện nay. Dạy như thế nào cho hay, cho hiệu
quả, tạo sự hứng thú, say mê cho học sinh quả thực là cả một vấn đề lớn. Điều
này đòi hỏi phải có sự cố gắng của cả hoạt động của giáo viên và học sinh.
Những hoạt động đó nhằm mục đích: giúp học sinh nắm vững các tri thức về
tác giả, tác phẩm, thời đại; phát triển khả năng tự đọc, tự học, khả năng tư
duy. Công cuộc cải cách giáo dục đang triển khai chú ý tới cả ba mặt: hệ
thống giáo dục, nội dung giáo dục và phương pháp dạy học. Môn Ngữ văn là
bộ môn có vai trò quan trọng giúp học sinh có hiểu biết về thế giới, cuộc sống
con người. Từ đó hoàn thiện và phát triển nhân cách hướng tới vẻ đẹp Chân –
Thiện – Mĩ.
Điều 5 luật Giáo dục nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đề
cập vấn đề: “ Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê
học tập và ý chí vươn lên”. Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương pháp dạy học và học theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học, khắc phục lối
truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách
nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri
thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ
chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa,
nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền
thông trong dạy và học ”.
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống, Chủ biên chương trình môn Ngữ văn mới,
phân biệt giáo án dạy học Ngữ văn theo yêu cầu phát triển năng lực (gọi tắt là
giáo án năng lực) với giáo án chạy theo nội dung (gọi tắt là giáo án nội dung)
như sau:
5
Giáo án nội dung là giáo án nêu lên các nội dung bài dạy mà giáo viên
cần truyền thụ cho học sinh – tức là trả lời cho câu hỏi: bài học gồm những nội
dung gì? (dạy cái gì?). Giáo án năng lực là giáo án nêu lên các hoạt động
(công việc) mà giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện để tìm ra nội dung
cần học, qua đó mà biết cách học – tức là trả lời cho câu hỏi: bài học cần dạy
bằng cách nào, thông qua các hoạt động nào?
Giáo án nội dung tập trung vào mục tiêu trang bị những kiến thức, hiểu
biết của giáo viên về một vấn đề nào đó cho học sinh. Học sinh tiếp thu những
kiến thức mà giáo viên cung cấp một chiều và mang tính áp đặt (cũng có phát
vấn và yêu cầu học sinh trao đổi…nhưng cuối cùng vẫn là ý kiến của giáo
viên), do đó hạn chế về cách học và tự học. Giáo án năng lực tập trung vào
mục tiêu hình thành và phát triển năng lực, học sinh thực hiện các hoạt động
để tự tìm ra kiến thức, hiểu biết phù hợp với mình và qua đó biết cách học và
tự học.
Giáo án nội dung giúp học sinh biết nhiều nhưng vận dụng được ít, làm
và thực hành rất lúng túng trong tình huống tương tự, nhất là ngữ cảnh và vật
liệu mới. Giáo án năng lực giúp học sinh biết có thể không nhiều nhưng vận
dụng được, làm và thực hiện được trong tình huống tương tự, nhất là ngữ cảnh
và vật liệu mới”.
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực trong môn Ngữ văn đã
dẫn đến sự thay đổi trong cách tổ chức một tiết dạy, trong đó cách truyền
thống gồm các bước: Ổn định lớp – Kiểm tra bài cũ – Dạy bài mới – Củng cố
– Dặn dò. Còn theo định hướng mới, một tiết dạy Ngữ văn gồm 5 bước: Khởi
động – Hình thành kiến thức – Luyện tập, thực hành – Vận dụng – Mở rộng,
bổ sung, phát triển ý tưởng sáng tạo.
Ở mỗi một hoạt động, giáo viên có thể linh hoạt chọn các phương pháp
dạy học, kĩ thuật dạy học và biện pháp phù hợp để tổ chức. Dù chọn các
phương pháp, kĩ thuật, biện pháp dạy hoc như thế nào đi nữa thì vẫn phải đảm
bảo nguyên tắc: học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ
6
chức, hướng dẫn của giáo viên, phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động
của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học, trên cơ sở đó trau dồi
các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy.
Trong 5 hoạt động của một giờ học, hoạt động nào cũng quan trọng
giúp học sinh phát triển khả năng tư duy, sáng tạo. Trong đó hoạt động hình
thành kiến thức có vai trò vô cùng quan trọng. Hoạt động này giúp học sinh
tiếp thu được những tri thức quan trọng của bài học để từ đó vận dụng vào
thực tiễn học văn và viết văn để làm giàu có thêm cả tâm hồn và trí tuệ, giờ
học sẽ hào hứng, sôi nổi hơn.
Từ thực tế bài giảng, trong quá trình dạy học, tôi đã sử dụng biểu đồ
KWL để nâng cao chất lượng giảng dạy phần Văn bản văn học của bộ môn
Ngữ văn THPT.
7
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP:
1. Giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
Việc dạy học trong nhà trường nói chung và việc dạy môn Ngữ văn
hiện nay đã có những chuyển biến rõ rệt. Giáo viên đã tích cực hơn trong việc
dạy, có sự đổi mới phương pháp, hình thức, biện pháp tổ chức dạy học nhằm
phát triển các năng lực ở học sinh. Học sinh đã có những nhận thức tốt hơn và
nắm vững được những kiến thức cơ bản. Các em đã có niềm hứng thú, tình
yêu với môn học. Từ đó giáo dục học sinh tình yêu quê hương, đất nước, gia
đình và trách nhiệm với bản thân, phát huy được khá tốt về năng lực bộ môn.
Tuy nhiên việc dạy học văn trong nhà trường phổ thông còn nhiều hạn
chế :
+ Sự khủng hoảng về nội dung, chất lượng và phương pháp.
+ Giáo viên còn lúng túng trong đổi mới phương pháp dạy học. Một số ít giáo
viên còn có tâm lí ngại đổi mới trong khi học sinh ngày càng ít hứng thú với
môn Văn nên không kích thích được nhu cầu khám phá, hiểu biết của học
sinh.
+ Học sinh còn quen thụ động, quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện một
cách máy mọc, dập khuôn những gì giáo viên đã giảng. Bên cạnh việc chưa có
tư duy sáng tạo, chưa biết cách tự học, học sinh còn tỏ ra chán học Văn, thiếu
cảm hứng, thiếu lửa, thiếu niềm đam mê với môn học. Vì vậy kết quả học sinh
ít hứng thú với môn học và kết quả học tập chưa cao.
Nguyên nhân hạn chế:
+ Một thực tế cho thấy học sinh đang quay lưng lại với các môn khoa học xã
hội đặc biệt là môn Ngữ văn bởi chương trình học còn quá ôm đồm nhiều thứ
và nặng nề, thiếu thực hành. Nhiều học sinh không theo kịp chương trình vì
nặng kiến thức và nhiều môn, nội dung nhiều trong một tiết học nên giáo viên
khó thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực
của học sinh vì sợ cháy giáo án.
8
+ Học sinh chưa tự giác học, mất kiến thức cơ bản ngay từ lớp dưới nên
không theo kịp các bạn sinh ra chán học, sợ học. Học sinh chưa có phương
pháp học tập khoa học, hầu hết là thụ động, lệ thuộc vào các loại sách bài giải
(chép bài tập vào vở nhưng không hiểu gì cả), học vẹt, không có khả năng vận
dụng kiến thức. Học sinh còn phân biệt môn chính, môn phụ, môn lấy kết quả
xét tuyển đại học, cao đẳng và môn không lấy kết quả để xét tuyển.
+ Còn một bộ phận giáo viên chưa thực sự tạo được hứng thú học tập bộ môn
cho học sinh. Việc đổi mới phương pháp dạy học cũng không được thực hiện
một cách triệt để, vẫn còn nặng nề về phương pháp truyền thống, có đổi mới
song chỉ dừng lại ở hình thức, chưa đi sâu vào thực chất nhằm giúp khai thác
kiến thức một cách có chiều sâu; việc hiểu hết bản chất của nhóm năng lực
chung và năng lực chuyên biệt ở môn Ngữ văn ở một số giáo viên vẫn còn hạn
chế.
2. Giải pháp sau khi có sáng kiến:
Việc nâng cao chất lượng giảng dạy các bộ môn có được là do trong
thực tế giảng dạy giáo viên đúc rút, sáng tạo để góp phần nâng cao chất lượng
công tác giảng dạy, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy học của cá nhân tại
nhà trường hướng tới phát triển phẩm chất năng lực của người học.
Việc dạy học sử dụng biểu đồ KWL trong giảng dạy phần Văn bản văn
học môn Ngữ văn là một trong những biện pháp dạy học giúp giáo viên đánh
giá được học sinh đã có những kiến thức nền tảng nào? Có những mong muốn
khám phá kiến thức nào? Để từ đó, giáo viên lựa chọn nội dung và định hướng
cho bài học. Ngoài biện pháp này giáo viên có thể kết hợp với các biện pháp,
kĩ thuật dạy học khác để nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn.
a. Mô tả cách thức thực hiện
* Khái niệm về biểu đồ KWL:
KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986, là hình thức dạy học hoạt
động đọc – hiểu. Học sinh bắt đầu bằng việc động não tất cả những gì các em
đã biết về chủ đề bài học. Thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột K (Know)
9
của biểu đồ. Sau đó học sinh nêu lên danh sách các câu hỏi về những điều các
em muốn biết thêm về bài học vào cột W (Want to know). Trong quá trình
học tập và sau khi học xong, các em sẽ tự trả lời cho các câu hỏi ở cột W và
những thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L (Learned).
* Mục đích sử dụng biểu đồ KWL:
– Tìm hiểu kiến thức có sẵn của học sinh về bài đọc.
– Đặt ra mục tiêu cho hoạt động đọc.
– Giúp học sinh tự giám sát quá trình đọc – hiểu của mình.
– Cho phép học sinh đánh giá quá trình đọc – hiểu của mình.
– Tạo cơ hội cho học sinh diễn tả ý tưởng của mình vượt ngoài khuôn khổ bài
đọc.
* Vai trò của biểu đồ KWL:
– Là công cụ đắc lực cho giáo viên khi muốn kích hoạt kiến thức nền tảng của
học sinh về một chủ đề / chủ điểm nào đó. Nhờ thế học sinh có cơ hội liên hệ
mở rộng nâng cao những gì đã biết.
– Nó giúp khơi gợi sự tò mò khám phá của học sinh làm cho hoạt động đọc trở
nên chủ động hơn và đặc biệt có ích khi các em được giao nhiệm vụ nghiên
cứu chủ đề nào đó.
10
– Đây còn là cách giáo viên và học sinh tự đánh giá kết quả học tập, định
hướng cho các hoạt động học tập kế tiếp.
* Sử dụng biểu đồ KWL khi nào thì phù hợp:
Ngay sau khi giáo viên tổ chức xong hoạt động khởi động và hướng dẫn
học sinh vào hoạt động hình thành kiến thức thì để kiểm tra kiến thức có sẵn
của học sinh và tìm hiểu mức độ nhận thức, tư duy của học sinh giáo viên sẽ
phát phiếu bảng KWL cho các em. Sau đó, giáo viên hướng dẫn các em điền
thông tin vào cột K, W (trong khoảng 3 đến 5 phút), còn cột L (điền sau khi
học xong bài học). Hoạt động này giáo viên sẽ kiểm tra được sự chuẩn bị bài
của học sinh ở nhà thay cho việc kiểm tra vở soạn bài của các em.
* Sử dụng biểu đồ KWL như thế nào:
– Chọn bài đọc: phương pháp này đặc biệt có hiệu quả với các bài đọc mang
tính chất gợi mở, tìm hiểu, giải thích (phù hợp với bộ môn Ngữ văn).
– Tạo bảng KWL: giáo viên vẽ lên bảng hoặc in mẫu cho học sinh.
– Học sinh động não nhanh nêu ra các cụm từ có liên quan đến chủ đề vào cột
K, W, L.
Trong quá trình học sinh điền các thông tin giáo viên có thể đưa ra một số gợi
ý:
+ Cột K: có thể đưa ra câu hỏi đơn giản: “ Hãy nói những gì các em đã biết về
bài học này?”.
+ Cột W: có thể hỏi thêm: “ Các em muốn biết thêm những điều gì về bài học
này?”.
+ Sau khi học xong bài học giáo viên cho học sinh hoàn thiện Cột L trong
biểu đồ KWL. Có thể gợi ý: “ Em sẽ rút ra được những điều gì khi học bài học
này?”.
11
Ví dụ 1:
Dạy bài Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi (Ngữ văn 10- Tập 1): khi bắt đầu
vào hoạt động hình thành kiến thức giáo viên phát phiếu thông tin KWL cho
học sinh và học sinh làm việc cá nhân trong 3 – 5 phút để hoàn thiện cột K, W.
Sau khi thu lại phiếu thông tin, giáo viên đọc kết quả 2 – 4 phiếu của bất kì
học sinh nào đó và tổng hợp lại các cột K, W cho học sinh nắm được điều đã
biết và điều muốn biết.
BẢNG KWL bài Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi (khi bắt đầu đọc–hiểu)
K(Những điều đã biết) | W (Những điều muốn biết) | L (Những điều đã học được) |
– Nguyễn Trãi là một trong những người mở đường cho sự phát triển của thơ ca Tiếng Việt. – Tập thơ Quốc âm thi tập là tập thơ Nôm sớm nhất hiện còn. – Bài thơ “Cảnh ngày hè” thuộc mục “Bảo kính cảnh giới” (Gương báu răn mình). – Nội dung của bài thơ: Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống và tâm hồn Nguyễn Trãi. – Bức tranh thiên nhiên hài hòa, sinh động, tràn trề sức sống | – Trong bức tranh ngày hè sẽ xuất hiện thêm những hình ảnh, những yếu tố nào nữa? – Bài thơ giúp ta hiểu điều gì về thế giới tâm hồn của nhà thơ? – Vì sao bài thơ “Cảnh ngày hè” được Nguyễn Trãi xếp vào mục“Bảo kính cảnh giới” ? |
Ngay sau khi đã tổng hợp được kết quả của học sinh, giáo viên sẽ
hướng dẫn học sinh khai thác bài học để giúp các em khám phá được những
điều mình cần biết. Kết thúc bài học giáo viên phát lại phiếu cho học sinh để
các em hoàn thiện cột L (Những điều đã học được). Từ đó góp phần định
hướng các năng lực, phẩm chất cho học sinh để học sinh có kĩ năng vận dụng
trong thực tiễn.
12
Xem bản đầy đủ trên google drive: TẠI ĐÂY
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
Hoặc xem nhiều SKKN hơn tại: Tổng hợp SKKN luận văn luận án O2 Education