SKKN Phương pháp tiếp cận vật lí qua các vấn đề thực tiễn
Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh về mặt bản chất là cần coi trọng thực hiện mục tiêu dạy học hiện tại ở các mức độ cao hơn, thông qua việc yêu cầu học sinh “vận dụng những kiến thức, kĩ năng một cách tự tin, hiệu quả và thích hợp trong hoàn cảnh phức hợp và có biến đổi, trong học tập cả trong nhà trƣờng và ngoài nhà trƣờng, trong đời sống thực tiễn”. Việc dạy học thay vì chỉ dừng ở hướng tới mục tiêu dạy học hình thành kiến thức, kĩ năng và thái độ tích cực ở học sinh thì còn hướng tới mục tiêu xa hơn đó là trên cơ sở kiến thức, kĩ năng đƣợc hình thành, phát triển khả năng thực hiện các hành động có ý nghĩa đối với người học. Nói một cách khác việc dạy học định hướng năng lực về bản chất không thay thế mà chỉ mở rộng hoạt động dạy học hướng nội dung bằng cách tạo một môi trường, bối cảnh cụ thể để học sinh thực hiện các hoạt động vận dụng kiến thức, sử dụng kĩ năng và thể hiện thái độ của mình. Đối với môn học Vật lí có các mục tiêu cụ thể như sau: – Trang bị cho học sinh những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại có hệ thống, bao gồm: + Các khái niệm Vật lí; + Các định luật Vật lí cơ bản; + Nội dung chính của các thuyết Vật lí; + Các ứng dụng quan trọng nhất của Vật lí trong đời sống và trong sản xuất. – Phát triển tư duy khoa học ở học sinh rèn luyện những thao tác, hành động, phương pháp nhận thức cơ bản nhằm chiếm lĩnh kiến thức Vật lí vận dụng sáng tạo để giải quyết vấn đề trong học tập và hoạt động thực tiễn sau này. – Trên cơ sở kiến thức Vật lí vững chắc, có hệ thống, bồi dương cho học sinh thế giới quan duy vật biện chứng, giáo dục lòng yêu nước, thái độ đối với lao động, đối với cộng đồng và những đức tính khác của người lao động. 4 – Góp phần giáo dục kĩ thuật tổng hợp và hướng nghiệp cho học sinh, làm cho học sinh nắm được những nguyên lí cơ bản về cấu tạo và hoạt động của các máy móc được dùng phổ biến trong nền kinh tế quốc dân. Có kĩ năng sử dụng những dụng cụ Vật lí, đặc biệt là dụng cụ đo lường, kĩ năng lắp ráp thiết bị để thực hiện các thí nghiệm Vật lí, vẽ biểu đồ, xử lí các số liệu đo đạc để rút ra kết luận. Những kiến thức kĩ năng đó giúp học sinh sau này có thể nhanh chóng thích ứng được với các hoạt động sản xuất trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Các năng lực chuyên biệt trong bộ môn Vật lí – Năng lực tự học: Lập được kế hoạch tự học và điều chỉnh, thực hiện kế hoạch có hiệu quả; Tìm kiếm thông tin về nguyên tắc cấu tạo, hoạt động của các ứng dụng kĩ thuật; Đánh giá được mức độ chính xác nguồn thông tin; Đặt được câu hỏi về hiện tượng sự vật quanh ta; Tóm tắt được nội dung vật lí trọng tâm của văn bản; Tóm tắt thông tin bằng sơ đồ tư duy, bản đồ khái niệm, bảng biểu, sơ đồ khối; Tự đặt câu hỏi và thiết kế, tiến hành được phương án thí nghiệm để trả lời cho các câu hỏi đó. – Năng lực giải quyết vấn đề (Đặc biệt quan trọng là NL giải quyết vấn đề bằng con đường thực nghiệm hay còn gọi là NL thực nghiệm): Đặc biệt quan trọng là năng lực thực nghiệm Đặt được những câu hỏi về hiện tượng tự nhiên: Hiện tượng… diễn ra như thế nào? Điều kiện diễn ra hiện tượng là gì? Các đại lượng trong hiện tượng tự nhiên có mối quan hệ với nhau như thế nào? Các dụng cụ có nguyên tắc cấu tạo và hoạt động như thế nào? Đưa ra được cách thức tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đã đặt ra; Tiến hành thực hiện các cách thức tìm câu trả lời bằng suy luận lí thuyết hoặc khảo sát thực nghiệm; Khái quát hóa rút ra kết luận từ kết quả thu được; Đánh giá độ tin cậy và kết quả thu được. – Năng lực sáng tạo: Thiết kế được phương án thí nghiệm để kiểm tra giả thuyết (hoặc dự đoán); Lựa chọn được phương án thí nghiệm tối ưu; 5 Giải được bài tập sáng tạo; Lựa chọn được cách thức giải quyết vấn đề một cách tối ưu. – Năng lực giao tiếp: Sử dụng được ngôn ngữ vật lí để mô tả hiện tượng; Lập được bảng và mô tả bảng số liệu thực nghiệm; Vẽ được đồ thị từ bảng số liệu cho trước; Vẽ được sơ đồ thí nghiệm; Mô tả được sơ đồ thí nghiệm; Đưa ra các lập luận lôgic, biện chứng. – Năng lực hợp tác: Tiến hành thí nghiệm theo nhóm; Tiến hành thí nghiệm theo các khu vực khác nhau. – Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông: Sử dụng một số phần mềm chuyên dụng (maple, coachs…) để mô hình hóa quá trình vật lí; Sử dụng phần mềm mô phỏng để mô tả đối tượng vật lí. – Năng lực sử dụng ngôn ngữ: Sử dụng ngôn ngữ khoa học để diễn tả quy luật vật lí; Sử dụng bảng biểu, đồ thị để diễn tả quy luật vật lí; Đọc hiểu đƣợc đồ thị, bảng biểu. – Năng lực tính toán: Mô hình hóa quy luật vật lí bằng các công thức toán học; Sử dụng toán học để suy luận từ kiến thức đã biết ra hệ quả hoặc ra kiến thức mới. Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Vận dụng kiến thức vật lí giải quyết các vấn đề thực tiễn” 6 II. Mô tả giải pháp 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến Vật lí là môn khoa học thực nghiệm, kiến thức vật lí gắn kết một cách chặt chẽ với thực tế đời sống. Tuy nhiên đối với đại đa số học sinh phổ thông hiện nay, việc vận dụng kiến thức vật lí vào đời sống còn rất nhiều hạn chế nếu không muốn nói là thực sự yếu kém. Theo nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu giáo dục, trong những năm qua giáo dục phổ thông ở nước ta đã đạt nhiều kết quả nổi bật, quy mô giáo dục không ngừng được tăng lên; chất lượng giáo dục đã có những chuyển biến tích cực; các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục như đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất kĩ thuật không ngừng được củng cố, tăng cường và phát huy có hiệu quả; chủ trương xã hội hóa giáo dục đang phát huy tác dụng và đã góp phần quan trọng làm cho giáo dục thực sự trở thành sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân; công bằng giáo dục được quan tâm thực hiện … Cũng theo nhiều nhà nghiên cứu giáo dục thì giáo dục nước ta vẫn còn có một số tồn tại, cần từng bước khắc phục. Đó là chất lượng giáo dục tuy có chuyển biến nhưng vẫn còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước; cơ cấu giữa các cấp học, bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu xã hội và cơ cấu vùng miền trong hệ thống giáo dục còn chưa hợp lí; đội ngũ giáo viên còn bất cập về số lượng, chất lượng và cơ cấu; cơ sở vật chất kĩ thuật vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu … Chúng tôi cũng đồng ý với những nhận định trên. Với trách nhiệm của người giáo viên vật lí trực tiếp đứng lớp giảng dạy ở trường trung học phổ thông nhiều năm, chúng tôi quan tâm nhiều đến chất lượng học tập của học sinh, đến suy nghĩ, tâm tư tình cảm của học sinh đối với bộ môn của mình, quan tâm nhiều đến việc đổi mới phương pháp dạy học sao cho chất lượng dạy và học vật lí của thầy trò chúng tôi đạt được hiệu quả tốt nhất trong những điều kiện hiện có. Xuất phát từ những mối quan tâm ấy, chúng tôi xin được trao đổi một thực tế – một thực trạng đáng buồn, đó là sự yếu kém đến khó tưởng tượng của đại đa số học sinh phổ thông hiện nay trong việc vận dụng kiến thức vật lí đã học vào thực tế cuộc sống của chính mình. Trăn trở với thực tế nêu trên, chúng tôi cũng xin mạnh dạn được nêu ra những nguyên nhân và một số giải pháp nhằm phần nào cải thiện thực trạng trên, có thể những giải pháp này còn mang tính rời rạc chưa có tính hệ thống, song theo chúng tôi, nó có thể áp dụng một cách 7 linh hoạt tùy vào điều kiện của mỗi địa phương, mỗi nhà trường trong giai đoạn hiện nay. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến PHẦN 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT Bài toán 1. Mặt Trời là nguồn sáng có kích thước đối với Trái Đất. Ta có thể coi Mặt Trời như là một vật đen tuyệt đối có nhiệt độ bề mặt là Ts = 6000 K. Một cách gần đúng có thể coi góc trông Mặt Trời và Mặt Trăng từ Trái Đất là như nhau và là 2α = 0,520. Mặt Trời sẽ tạo thành vùng sấp bóng phía sau Trái Đất bao gồm vùng sấp bóng một phần và vùng tối hoàn toàn. Khi Mặt Trăng đi vào trong vùng tối hoàn toàn ta sẽ quan sát thấy hiện tượng nguyệt thực. Cho: khoảng cách Mặt Trời-Trái Đất là d = 1,5.108 km; bán kính Trái Đất RE = 6,4.103 km; gia tốc trọng trường tại bề mặt Trái Đất là g = 9,81 m/s2; chu kỳ Mặt Trăng quay quanh Trái Đất là T0 = 27,3 ngày; vùng khí quyển bao quanh Trái Đất có chiều cao h = 7,9 km và có chiết suất coi là không đổi n = 1,00028; quỹ đạo Mặt Trăng cắt qua đường thẳng đi qua tâm của Mặt Trời và Trái Đất. Yêu cầu: 1. Bỏ qua sự lệch đường truyền của các tia sáng bởi vùng khí quyển của Trái Đất. Hãy xác định khoảng thời gian kể từ khi bắt đầu có nguyệt thực đến khi kết thúc nguyệt thực và thời gian nguyệt thực toàn phần. 2. Thực tế có sự tác động đáng kể của vùng khí quyển đến đường truyền của tia sáng. Hãy xác định khoảng cách từ điểm tối xa nhất trong vùng tối hoàn toàn đến tâm Trái Đất và thời gian nguyệt thực toàn phần. 3. Trên mặt đất người ta dùng một thấu kính hội tụ có đường kính khẩu độ (tỷ lệ giữa đường kính đường rìa và tiêu cự) bằng 1/32 để thu bức xạ của Mặt Trời vào trong hộp kín qua lỗ tròn nhỏ A trên mặt hộp. Trục chính của thấu kính đi qua tâm Mặt Trời, tâm lỗ và vuông góc với mặt lỗ. Vì kích thước lỗ A nhỏ hơn chùm sáng khúc xạ qua thấu kính nên chỉ một phần chùm khúc xạ đi Mặt Trời Trái Đất Vùng sấp bóng một phần Vùng sấp bóng một phần Vùng tối hoàn toàn Hình 4 8 vào hộp. Vỏ hộp làm bằng vật liệu cách nhiệt và ở mặt trong có phủ lớp vật liệu hấp thụ, lỗ như là vật đen tuyệt đối, bỏ qua bức xạ của môi trường xung quanh. Hãy xác định nhiệt độ của hộp khi đạt trạng thái cân bằng nhiệt. Biết rằng chỉ có 64% công suất ánh sáng tới thấu kính đi qua được thấu kính. Cho: công suất phát xạ toàn phần của một vật đen tuyệt đối ở nhiệt độ T có diện tích bề mặt S là P S T 4 với = 5,67.10-8 W/m2K4 là hằng số StephanBoltzmann. Hướng dẫn Ta có khoảng cách Mặt Trời – Trái Đất là d = 1,5.108 km nên bán kính mặt trời là
8 0,26 1,5.10 . 180
6
S R d.
.3,14 0,68.10 km
Áp dụng định luật 2 niuton cho quỹ đạo mặt trăng với bán kĩnh quỹ đạo quanh trái đất R0 và tần số góc 0 ta có E E 2 2 2 E 3 0 5 0 0 3 3 2 0 0 0 2 GM gR gT R R 3,84.10 km T R R 4 Đường kính mặt trăng là D 2 R 3, 48.10 km 2 0 3 Đường kính của khoảng tối toàn phần tại vị trí của mặt trăng là D1. S E 3
1 E 0 D 2R 2R 9,35.10 km
R R
Khoảng thời gian nguyệt thực toàn phần là 1 2 1 2 0 D D D D T T 1,59 (h)
0 0 R
0 2 R
d
Thời gian nguyệt thực 1 0 0 D D T R
2 1 0 0 D D T 2 R
2 3,49 (h)
2. Xét tia sáng đến bề mặt khí quyển và bị phản xạ tại bề mặt trái đất, do tính chất đối xứng có
sin n sin
2
2
Có n 1 n; n 2,8.10 1 4
R R+
ξ β
O
d
x1 1 Rs 9 Gần đúng góc nhỏ có 2 2 2 x cosx 1 1 1 n 1
2
2
2
Bỏ qua số hạng gần đúng bậc cao có 2 2 n 2 và n ( ) n Mặt khác 2 E E E
E R h
E R h
R R 2h 2R h cos sin 1 Vùng tối toàn phần có điểm xa nhất là (so với tâm trái đất)
sin
sin
2 L
1,14.10 km
sin
2
E (R h)sin 2
2 L
E R h
6
Bán kính vùng tối toàn phần tại vị trí mặt trăng đi qua là D 2(L R ) tan 8,47.10 km 11 2 0 3 Khoảng thời gian nguyệt thực toàn phần là 11 2 11 2 0 0 0 0 D D D D T T 1,36 (h). R 2 R 3. Công suất bức xạ toàn phần của mặt trời 4 2 P T .4 R s s Nếu bỏ qua ảnh hưởng của thấu kính thì công suất bức xạ đến thấu kính và vào lỗ A tương ứng là 4 2 4 2 4 2 2 2 2 s s s s s s 1 1 1 k
k P
A ; P
A 2 2 s ‘ T .R d S 4d .R
T .4 R d
T .R d
P
A 2 S
2
2 d
s’ R
4 d
4
4
Trong đó d là khoảng cách từ mặt trời đến trái đất, Rs, Rs’ là bán kính mặt trời và bánh kính ảnh của nó qua thấu kính, d1 là đường kính rìa của thấu kính, SA là diện tích của lỗ A. Như vậy công suất vào một đơn vị diện tích của lỗ A khi tính đến ảnh hưởng của thấu kính là 10 4 2 2 s s 1
A R 0.64
2 2 s’ 4d .R
T .R d Đó cũng là công suất phát xạ toàn phần (độ trưng) của hộp khi cân bằng nhiệt. Vậy Chú ý rằng s s’ R d R f ta có 1 A s d 0.64 T T 670,8K 2f Bài toán 2: Xe kéo nông nghiệp. Một mô hình đơn giản của một xe kéo nông nghiệp được biểu diễn trong hình vẽ. Hai bánh xe có bán kính r (bỏ qua sự khác biệt giữa bán kính bên trong và bên ngoài) và khối lượng m (khối lượng của nan hoa bánh xe là không đáng kể). Hai bánh xe có thể xoay quanh một trục trơn, mỏng ở tâm của nó (khối lượng của trục không đáng kể); chiều dài của tấm xe là l và khối lượng là 2m và khối tâm của tấm nằm trên trục của bánh xe. Tấm phẳng, tay cầm và trục được gắn với nhau tạo thành 1 vật thể và coi phân bố khối lượng trên các bánh xe, tấm phẳng và tay cầm là đồng đều. Gia tốc trọng trường là g. 1) Bánh xe của xe tải phẳng bị kẹt bởi một vật (không hiển thị) và không thể di chuyển qua lại, nhưng nó vẫn có thể xoay quanh trục. Đưa tay cầm đến vị trí nằm ngang và thả nó khỏi trạng thái đứng yên. a, Tìm mô men quán tính của hệ tay cầm và tấm phẳng đối với trục quay đi qua trục bánh xe. b, Tìm tốc độ góc quay tức thời của tay cầm trước khi va chạm với mặt đất nằm ngang. 2) Ngay trước khi va chạm giữa tay cầm và mặt đất nằm ngang, người ta tháo vật kẹt hai bánh xe, khóa bánh xe và trục cùng một lúc và mở khóa ngay sau khi va chạm, giả sử thời gian va chạm ngắn (nhưng không phải bằng 11 không), phần cuối của tay cầm không bật lại theo hướng dọc. Được biết, các hệ số ma sát trượt giữa tay cầm và mặt đất và giữa các bánh xe và mặt đất đều bằng µ (ma sát nghỉ tối đa bằng với ma sát trượt). Tìm điều kiện của hệ số ma sát µ để trục bánh xe đứng yên. Hướng dẫn 1) Bánh xe bị kẹt và không thể di chuyển tiến và lùi, nhưng nó vẫn có thể xoay quanh trục. Momen quán tính của tay cầm quanh trục là:
2 2
1
12
2 6
1
7
Momen quán tính của tấm xung quanh trục là: 1 1 2 2 2 J ml ml
2 12
6
2 2 2 l J m l m ml Momen quán tính của toàn bộ tấm và tay cầm quanh trục là: 2 2 2 1 2 7 1 4 6 6 3 J J J ml ml ml (1) Khoảng cách từ khối tâm của tay lái và toàn bộ tấm tới trục rC (xem hình a) là: 2 2 C 4 4 l m l r m (2) Hình a Hình b. 12 Đặt vận tốc góc tức thời trước khi tay cầm va chạm với mặt đất là ω, theo định luật bảo toàn năng lượng: 1 2 4 2 Jω mgh (3). Trong đó h là khoảng cách tại đó khối tâm của tay cầm và toàn bộ tấm được hạ xuống (xem hình b). Ta có: 3 / 2 C
h r . Thay (2) vào ta có: 2
r l r .Từ (1) và (3) ta có:
r l 3 4 6 h l ω gr l (4). 2) Ngay trước khi tay cầm va chạm mặt đất, vận tốc của khối tâm của tay cầm và tấm là: 1 C C 4 4 gr gr l v ωr l Ta có các mối liên hệ hình học: 2 9 4 2 2 sin , os 3 3 r l r θ c θ l l .Các thành phần của vận tốc khối tâm của tay cầm và tấm ngay trước khi va chạm (chọn trục dương từ đầu tay cầm về phía trước tay cầm): 1 1 2 sin C x C 4 3 6 gr r gr r v v θ l l (6);
2 2 9 4 gr l r
2 2 9 4 gr l r
1 C y
1 C
4
3 l
12 l
os v v c θ (12);
Gọi khoảng thời gian va chạm là Δt. Hệ bao gồm trục, tay cầm, tấm và bánh xe có thể được coi là một vật thể trong quá trình va chạm. Tại thời điểm va chạm, do tốc độ tương đối giữa đầu tay cầm và mặt đất, Lực tương tác ngang trong quá trình va chạm là lực ma sát trượt. Gọi tổng phản lực của mặt đất theo hướng thẳng đứng trong quá trình va chạm là N’ và vận tốc theo phương ngang của hệ tại thời điểm sau va chạm là v0 (v0 > 0). Áp dụng định lý động lượng cho hệ này theo hướng ngang và thẳng đứng tương ứng:
Δ t
‘
0 6 4
1
0
0
μN dt mv mvC x (7);
1 ‘ 0 4 t N dt mv C y (8).
Δ Ta có thể thấy là xung ở bên trái của phương trình (8) không thể bằng 0, do đó xung ở bên trái của phương trình (7) không thể bằng 0. Từ (7) (8) ta có: 6 4 4 4 sin 4 os mv mv 0 1 1 1 1 C x C y C C μ mv mv θ μ mv c θ 13 Suy ra: 0 1 2 2 sin os sin os sin os 3 3 4 6 C gr gr v θ μc θ v θ μc θ θ μc θ ;
-Khi tan μ θ
2 2 2 9 4 r l r
thì hệ đứng yên, (9)
Bài toán 3. https://www.youtube.com/watch?v=pn9Br2GShUo Tam giác Reuleaux là một hình phẳng hai chiều và là giao của ba hình tròn cùng bán kính được vẽ sao cho tâm của mỗi hình nằm trùng với ranh giới của hai hình kia (phần tô xám trong sơ đồ hình 1.a). Người ta tạo ra một tam giác Reuleaux từ một tấm vật liệu đồng chất có mật độ đều, Cho biết mômen quán tính của tam giác đối với trục quay đối xứng và vuông góc với nó là: I = kmR2, Trong đó m là khối lượng tam giác, R là bán kính hình tròn (hay “bán kính tam giác”) và k là một hằng số. 1. Treo một tam giác Reulaux bởi một trục quay O nằm ngang đi qua một đỉnh của nó (hình 1.b). Kéo lệch tam giác khỏi vị trí cân bằng một góc θ0 (< 100) rồi thả cho chuyển động. Bỏ qua mọi ma sát. Chứng tỏ rằng tam giác dao động điều hòa và tìm chu kỳ dao động của nó? 2. Xét một “bánh xe” có dạng tam giác Reuleaux, mật độ đều, đủ dày để có thể đặt nó đứng trên mặt phẳng nằm ngang mà không bị đổ. Đặt “bánh xe” đứng trên một mặt bàn ngang (hình 1.c). Tìm chu kỳ dao động nhỏ của bánh xe? Biết “bánh xe” không trượt trên mặt phẳng ngang. 3. Xét hai khúc gỗ có mặt cắt ngang hình tam giác Reuleaux được đặt trên một mặt phẳng nằm ngang và đỡ một tấm ván gỗ dài như hình 1.d. Giả sử không bị trượt và chỉ xem xét trong khoảng thời gian trước khi một trong các khúc gỗ chạm đến cuối ván. a) Tính chiều cao của khối tâm của tấm ván dưới dạng một hàm của độ dời ngang. b) Trong phần a) có cách nào để khối O 1.b 1.a 1.c 1.d 14 tâm của cả hệ (khúc gỗ + tấm ván) vẫn ở độ cao không đổi khi tấm ván chuyển động không? Vì sao? Hướng dẫn 1. – Do tính đối xứng nên khối tâm C của vật là tâm của tam giác đều có 3 đỉnh là 3 tâm hình tròn gốc (cũng là 3 “đỉnh” của “tam giác” Reulaux). Ở trạng thái cân bằng khi treo bằng trục quay O qua đỉnh tam giác thì C nằm trên đường thẳng đứng qua O. Xét góc lệch θ của OC (OC = r) so với phương thẳng đứng. – Lực tác dụng lên tam giác bao gồm trọng lực và phản lực của trục quay. Gọi I(O) là mômen quán tính của tam giác đối với trục quay O; lần lượt là mômen của và đối với trục O. Phương trình ĐLH cho chuyển động quay của tam giác quanh trục O: ⇒ V ới dao động nhỏ thì: sinθ ≈ θ nên ta có: Đặt: ta có: Phương trình có nghiệm dạng: θ = θ0 cos(ωt + φ), với θ0 là biên độ góc, φ là hằng số xác định từ các điều kiện ban đầu. Như vậy với điều kiện góc lêch nhỏ thì tam giác dao động điều hòa với
tấn số góc: ; Thay:
chu kỳ:
Và áp dụng định lý Huyghen: Ta được: 15 2. Ở trạng thái cân bằng trên mặt phẳng nằm ngang (với bề dầy của vật đủ lớn để không bị đổ) – Ta viết phương trình định luật II Newton cho vật theo phương x và y khi bị lệch góc nhỏ θ : Với góc lệch θ nhỏ ta có: ; Do đó: – Phương trình chuyển động quay xét với trục qua khối tâm C: Thay N và Fx vào ta có: + Mặt khác ta có: + Thay vào ta có: ⇒ Tam giác dao động điều hòa với tần số góc ω: 16 + Chu kỳ dao động: Có thể tìm chu kỳ dao động theo phương pháp năng lượng: + Tọa độ khối tâm: + Vận tốc khối tâm: + Cơ năng (mốc thế năng tại mặt phẳng ngang): + Với trường hợp dao động nhỏ: Bảo toàn cơ năng cho: E = const do đó E’ = 0 ⇒ +Với cách tính r2 như trên ta có phương trình vi phân: ⇒ Vật dao động điều hòa,… 3. a) Khoảng cách giữa tấm ván và mặt phẳng ngang luôn không đổi và bằng bán 17 kính của tam giác Reuleaux. Do vậy độ cao khối tâm của tấm ván là yc = const. b) Nếu ta đặt các khúc gỗ sao cho khúc gỗ 1 luôn quay 180⁰ so với khúc gỗ 2 thì tổng chiều cao của khối tâm của hai khúc gỗ sẽ không đổi (hình dưới). Cũng từ phần a ta biết rằng chiều cao của tấm ván luôn không đổi. Do đó chiều cao của trọng tâm của hệ không đổi và tấm ván sẽ lăn trơn tru. Bài toán 4. Hệ thống tự động xả nước cho nhà vệ sinh trong trường học là một ý tưởng được đánh giá cao trong lĩnh vực vật lý tại cuộc thi khoa học kỹ thuật VSEF 2019. Điều đặc biệt là cơ chế hoạt động hoàn toàn nhờ kết cấu cơ học mà không cần đến các thiết bị điện tử. Trong bài này chúng ta sẽ xem xét, tính toán cho cơ cấu đó và cải tiến, đơn giản hóa ý tưởng để giúp các bạn có sản phẩm tốt hơn. Yêu cầu hệ thống: – Khi đẩy cửa vào, xả 3 lít nước để tráng bồn. – Khi đẩy cửa ra, xả 5 lít nước để làm sạch. 1. Bộ phận chính của hệ thống được mô tả như Hình 1a (mặt cắt thẳng đứng của hệ). Các thanh trượt thẳng đứng (1) và (2) kích hoạt van xả nước khi chúng bị đẩy lên trên. Thanh nằm ngang AB sẽ tịnh tiến sang trái khi cửa được đẩy vào và tịnh tiến sang phải khi cửa đẩy ra. Trên AB có một nêm với tiết diện ngang là tam giác MNP. Áp lực F thẳng đứng xuống dưới do các van tác dụng lên thanh trượt AB có độ lớn 20 N. Các thanh cần trượt lên ít nhất 5 cm để kích hoạt các van xả nước. Hãy tính kích thước nhỏ nhất của đáy NP và chiều cao tam giác MNP để có thể mở cửa một cách nhẹ nhàng với lực đẩy lên thanh trượt AB không quá 5 N. Bỏ qua mọi ma sát. Nối van xả Nối van xả N (1) (2) P A B Hình M 18 2. Để cải tiến hệ thống trên, đề xuất thứ nhất là thay thanh trượt ngang AB bằng cơ cấu ròng rọc có bán kính R như Hình 1b (hệ thống nhìn từ trên xuống). Cần tính toán để sao cho dây không bị trượt khi mở cửa. Cho hệ số ma sát giữa dây và ròng rọc là , gia tốc góc lớn nhất của cánh cửa khi mở là max , mô-men quán tính của cơ cấu ròng rọc là I (đối với trục quay cố định là trục của ròng rọc). Tìm lực căng ban đầu tối thiểu của dây để dây không bị trượt trên ròng rọc khi mở cửa. 3. Trong thiết kế ban đầu, các van xả là hệ thống thùng chứa và van nổi khá cồng kềnh. Trong tính toán này ta sẽ xem xét đề xuất thứ hai là thay hệ thống các van xả bằng hệ thống van khóa chậm cấu tạo như Hình 1c. Píttông hình trụ tròn có khối lượng m 100g, chiều dài 3mm, trên nó có khoan n 25 lỗ hình trụ tròn song song với trục của pít-tông, các lỗ được chế tạo đủ nhỏ để gần đúng có thể coi dòng nước chảy qua thành lớp. Bán kính tiết diện ngang của pít-tông là R 3cm, bán kính tiết diện ngang của mỗi lỗ là r 2mm. Khi pít-tông ở vị trí F các lỗ trên pít-tông bị bịt kín. Trên quãng đường EF = 6 cm, hiệu áp suất nước ở hai mặt pít-tông p 28,66 Pa và không thay đổi. Độ nhớt của nước ở nhiệt độ phòng là 1,0.10 Pa.s. 3 Để lượng nước xả đúng bằng 3 lít mỗi khi pít-tông di chuyển từ E đến F, ta cần chế tạo hệ thống tạo lực cản có độ lớn không đổi tác dụng lên pít-tông. Tính độ lớn của lực cản này. Bỏ qua ma sát giữa pít-tông và thành ống nước. Gợi ý: độ nhớt của chất lưu được định nghĩa theo công thức . , . F L S v trong đó F là lực cần tác dụng lên lớp chất lưu trên cùng để duy trì vận tốc v của nó so với lớp đứng yên cách nó một khoảng L, S là diện tích của bề mặt tiếp xúc của lớp chất lưu như mô tả trên Hình 1d.
Các thầy cô cần file pdf liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
SKKN Xây dựng và sử dụng bài tập có nội dung thực tiễn nhằm bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề trong dạy học nội dung Động lực học Vật lí 10 chương trình GDPT 2018
ĐIỀU KIỆN TẠO RA SÁNG KIẾN Xuất phát từ quan điểm của Đảng: Giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là đầu tư cho phát triển. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với tiến bộ khoa học, công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và thị trường lao động; chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Đây là tiêu điểm của sự phát triển mang tính đột phá, khai mở con đường phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỷ XXI, khẳng định triết lý nhân sinh mới của nền giáo dục nước nhà “dạy người, dạy chữ, dạy nghề’’ Xuất phát từ vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của xã hội cũng như mục tiêu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là giúp học sinh có kiến thức rộng rãi, sâu sắc, có khả năng tự giác, chủ động, sáng tạo phù hợp với đặc điểm của từng môn học, lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học đối với học sinh. Ở Việt Nam, việc phát triển năng lực nói chung và năng lực giải quyết vấn đề (NLGQVĐ) cho học sinh được chú trọng quan tâm từ những năm 90, thể hiện qua nội dung của các kì đại hội của Đảng. Nghị quyết của hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã định hướng: “Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Kết hợp tốt học với hành, học tập với lao động sản xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với xã hội. Áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề của học sinh”. Xuất phát từ đặc thù của kiến thức Vật lí ở nhà trường phổ thông, Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm, gắn liền với thực tế sản xuất và đời sống và có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục. đây là môn học khoa học nghiên cứu những hiện tượng xảy ra trong đời sống, do đó nó rất gần gũi với cuộc sống. Đây là môn học chứa đựng tiềm năng giúp học sinh phát triển NLGQVĐ. Nhưng thực tế hiện nay, lượng kiến thức cần truyền đạt nhiều nhưng thời gian làm việc trên lớp có hạn, áp lực thi cử nặng nề,… do đó, phần lớn giáo viên còn nặng về việc “nhồi nhét” kiến thức cho học sinh mà chưa quan tâm đến việc giúp học sinh hình thành năng lực. Đa số học sinh còn học một cách máy móc, rập khuôn theo hướng dẫn của giáo viên do đó trước những yêu cầu như vận dụng kiến thức để giải thích các hiện tượng thực tế hay giải những bài tập mới thì hầu hết đều không giải quyết được. Mà kho tàng kiến thức là vô tận, nhu cầu giải quyết các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống ngày càng cao, chúng ta không thể cung cấp đủ hết tất cả kiến thức cũng như chỉ dẫn cách thức giải quyết cho học sinh. Do đó, thay vì việc dạy nhồi nhét, luyện nhớ, chúng ta hãy góp phần phát triển cho học sinh cách phát hiện và giải quyết vấn đề, dạy cho học sinh cách học. Có rất nhiều cách bồi dưỡng NLGQVĐ cho học sinh nhưng đối với đặc thù môn vật lý chúng ta có thể áp dụng các phương pháp dạy học tích cực vào quá trình dạy học. Không những thế, song song với việc tổ chức hoạt động dạy học kiến thức mới, thì việc sử dụng bài tập thực tiễn trong dạy học vật lí cũng là một thành phần quan trọng trong môi trường học tập mà giáo viên cần thực hiện. Thông qua việc giải bài tập thực tiễn không những HS biết cách vận dụng các kiến thức khoa học vào thực tế cuộc sống, từ đó hình thành kỹ năng hoạt động thực tiễn tìm tòi và phát hiện các tình huống có thể vận dụng kiến thức khoa học vào thực tế đời sống nhẳm nâng cao chất lượng cuộc sống, mà còn giúp HS có thể bồi dưỡng năng lực tư duy, sáng tạo, giải quyết vấn đề khi gặp những bài tập vận dụng trong tình huống mới, khó. Do đó, bài tập thực tiễn là một phương tiện hỗ trợ hiệu quả cho quá trình dạy học để giúp phát triển NLGQVĐ của học sinh. Trong kiến thức trong nội dung “Động lực học” – Vật lí 10 khá trừu tượng đối với học sinh, gây khó khăn trong hoạt động nhận thức. Tuy nhiên, nội dung kiến thức của chủ đề có nhiều vấn đề gắn liền với thực tiễn cuộc sống nên dễ tạo đươc hứng thú học tập với học sinh, lôi cuốn học sinh vào giải quyết các vấn đề kiến thức đặt ra. Xuất phát từ các lí do trên, nhằm bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh trong dạy học Vật lí, tôi đã lựa chọn đề tài “Xây dựng và sử dụng bài tập có nội dung thực tiễn nhằm bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề trong dạy học nội dung “Động lực học” – Vật lí 10 chương trình giáo dục phổ thông 2018” II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến 1.1. Tổ chức thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 ở trường THPT Trần Nhân Tông, Nam Định Năm học 2022-2023 là năm học bắt đầu triển khai tổ chức dạy học Chương trình giáo dục phổ thông 2018, trong đó có môn Vật lí được tổ chức dạy cho HS lớp 10. Ở trường THPT môn Vật lí 10 được tổ chức dạy dạy ở 06 lớp trong đó có 03 lớp thuộc tổ hợp gồm các môn tự nhiên và 03 lớp thuộc tổ hợp các môn xã hội. Các giáo viên dạy được phân công giảng dạy bộ môn Vật lí đã được Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức tập huấn về nội dung Chương trình giáo dục phổ thông 2018, các phương pháp, kĩ thuật dạy học, kiểm tra đánh giá, xây dựng kế hoạch giáo dục và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và kiểm tra đánh giá. Khi tổ chức dạy học môn Vật lí lớp 10 GV đã thực hiện theo quy trình xây dựng kế hoạch giáo dục, kế hoạch bài dạy (giáo án) một cách khá bài bản. Tuy nhiên một số GV khi thiết kế giáo án và xây dựng bài giảng vẫn dựa nhiều vào tài liệu là sách giáo khoa, sách giáo viên với các mục tiêu cần đạt của mỗi bài về: Kiến thức thuần túy khoa học ít gắn với thực tiễn, kĩ năng giải các bài tập mang tính lí thuyết, khi giải quyết một số bài tập có liên hệ với thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn do chưa được luyện tập nhiều các thao tác, kĩ năng giải quyết vấn đề. Nội dung kiến thức “Động lực học” liên hệ khá nhiều với thực tiễn và có nhiều ứng dụng trong cuộc sống nhưng thời gian học trên lớp còn ít. Đa phần các GV chỉ chú trọng cho HS giải bài tập tính toán, vận dụng các kiến thức đã học để làm bài luyện tập, chuẩn bị cho các bài kiểm tra, thi cử. GV chỉ chú trọng đến kiến thức và khả năng giải bài tập của HS mà chưa quan tâm đến năng lực và phẩm chất mà HS cần được bồi dưỡng và phát trển khi học vật lí. Trong quá trình giải bài tập, học sinh thường giải theo thói quen, theo cách mà HS từng làm chứ không quan tâm đến việc tìm ra nhiều phương án khác nhau rồi lựa chọn phương án tối ưu, hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, hầu như GV đều cho HS làm bài theo hình thức trắc nghiệm (bài kiểm tra 15 phút) và theo hình thức trắc nghiệm – tự luận (bài kiểm tra 45 phút) nên HS không được rèn luyện đầy đủ để phát triển các thành tố của năng lực GQVĐ. 1.2. Thực trạng tổ chức dạy học phát triển năng lực giải quyết vấn đề đối với học sinh trường THPT Trần Nhân Tông, Nam Định Để điều tra thực trạng tổ chức dạy học phát triển năng lực giải quyết vấn đề đối với học sinh, tôi tiến hành điều tra trên 120 HS, 10 GV (gồm 04 GV Vật lí, 06 GV Toán) ở trường THPT Trần Nhân tông, Nam Định * Nội dung điều tra + Giáo viên có thường xuyên áp dụng phương pháp dạy học kết hợp với sử dụng bài tập có nội dung thực tế trong dạy học vật lí không? + Kết quả ra sao? Khả năng GQVĐ của HS đang ở mức độ nào trong thang đo năng lực GQVĐ? – Những khó khăn gặp phải (đối với giáo viên và học sinh) khi tổ chức dạy học phát triển năng lực giải quyết vấn đề. – Xác định được hướng dạy phù hợp, nguyên tắc để xây dựng những bài tập có nội dung thực tiễn sao cho vừa đảm bảo tính sư phạm, tính thực tiễn mà vẫn đảm bảo nội dung kiến thực vật lí nhằm khơi dậy hứng thú, say mê của HS, giúp HS tự lực, tích cực học tập và góp phần phát triển năng lực GQVĐ cho các em. – Tìm hiểu được mức độ nắm vững kiến thức vật lí của học sinh ở lớp dưới từ đó xác định kiến thức xuất phát của học sinh trước khi học nội dung “Động lực học” – vật lí 10. – Tìm hiểu mức độ quan tâm, hứng thú của học sinh đối với môn vật lí nói chung. – Tìm hiểu cách thức tổ chức dạy học của các GV khác, tình hình vận dụng những bài tập có nội dung thực tiễn trong quá trình dạy học của GV, trang thiết bị của trường và việc sử dụng trang thiết bị trong quá trình dạy học. * Kết quả điều tra đối với giáo viên Bảng 1.1. Ý kiến của GV về sự hiểu biết các khái niệm, cấu trúc, năng lực thành phần và hành vi biểu hiện của năng lực GQVĐ
Stt
Nội dung
Số lượng
Tỷ lệ %
1
Hiểu về khái niệm
10/10
100
2
Hiểu về các năng lực thành phần
8/10
80
3
Hiểu về hành vi biểu hiện
6/10
60
4
Hiểu về cấu trúc
7/10
70
5
Hiểu một phần một chút nhưng chưa đầy đủ
2/10
20
6
Chưa hiểu
0
0
Khi được hỏi về khái niệm, cấu trúc và các năng lực thành phần của năng lực GQVĐ thì 100% GV được hỏi đều hiểu về khái niệm năng lực GQVĐ là gì, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có một số GV chưa xác định được rõ các thành phần của năng lực GQVĐ (20%); Vẫn còn 03/10 GV chưa hiểu đầy đủ về cấu trúc của năng lực GQVĐ. Bên cạnh đó vẫn có 2/10 tương ứng với 20% GV được hỏi vẫn hiểu mơ hồ về năng lực GQVĐ cũng như vai trò của nó với sự phát triển của HS. GV có được tập huấn về đổi mới phương pháp giảng dạy nhưng nội dung tập huấn dàn trải nên chưa thực sự hữu ích. Qua đây có thể thấy được cần phải tổ chức thêm nhiều buổi tập huấn, bỗi dưỡng kiến thức nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ GV hơn nữa. Bảng 1.2. Ý kiến của GV về sự cần thiết phát triển NLGQVĐ cho HS
STT
Nội dung
Số lượng
Tỉ lệ %
1
Rất cần thiết
8/10
80
2
Cần thiết
2/10
20
3
Không cần thiết lắm
0
0
4
Hoàn toàn không cần thiết
0
0
GV thấy được sự cần thiết (100% GV đánh giá từ mức độ cần thiết trở lên) phải bồi dưỡng năng lực GQVĐ cho học sinh, thấy được thông qua dạy học vật lý sẽ giúp các em hình thành và phát triển đày đủ các năng lực lực cần thiết như năng lực GQVĐ, năng lực làm việc nhóm…, thấy được cần phải tăng cường sử dụng thí nghiệm trong dạy học để góp phần phát triển năng lực vật lí cho học sinh. Bảng 1.3. Ý kiến của GV về sự cần thiết sử dụng bài tập thực tiễn trong việc hình thành và phát triển NLGQVĐ của HS
STT
Nội dung
Số lượng
Tỉ lệ %
1
Rất cần thiết
8/10
80
2
Cần thiết
2/10
20
3
Ít cần thiết lắm
0
0
80% 20% 1st Qtr 2nd Qtr
4
Không cần thiết
0
0
Từ bảng số liệu trên ta thấy, tất cả các GV đều cho rằng việc sử dụng bài tập thực tiễn trong việc hình thành và phát triển NLGQVĐ của HS là cần thiết và rất cần thiết. Điều này cho thấy GV có nhận thức đúng đắn về việc sử dụng bài tập thực tiễn trong dạy học Vật lí giúp phát triến phảm chất, năng lực cho HS. Khi đánh giá mức độ cần thiết của việc sử dụng BT có NDTT trong dạy học VL, có 100% GV đánh giá từ mức độ cần thiết trở lên (20% đánh giá cần thiết, 80% đánh giá rất cần thiết) và lí do các thầy cô đưa ra về cơ bản đều tập trung vào việc tạo hứng thú, động lực trong học tập của HS trong môn vật lí và thực hiện mục tiêu vận dụng kiến thức, kĩ năng để giải quyết vấn đề của thực tiễn mà chương trình GDPT 2018 đã đề ra. * Kết quả điều tra đối với học sinh Bảng 1.4. Tìm hiểu về sự hứng thú của học sinh trong giờ học vật lí
STT
Nội dung
Số lượng
Tỉ lệ %
1
Rất hứng thú
21
17,5
2
Hứng thú
52
43,33
3
Ít hứng thú
34
28,33
4
Không hứng thú
13
10,83
Từ kết quả khảo sát cho thấy, số học sinh hứng thú và rất hứng thú trong giờ học vật lí chiếm 60,83%. Tuy nhiên vẫn còn 10,83% học sinh không hứng thú với tiết học vật lí, điều này cũng dễ hiểu vì trong số học sinh điều tra có cả các học sinh ban xã hội không tham gia thi tốt nghiệp môn vật lí. Bảng 1.5. Tìm hiểu về mức độ sử dụng các bài tập có nội dung thực tiễn của thầy, cô trong dạy học vật lí ở trường THPT
STT
Nội dung
Số lượng
Tỉ lệ %
1
Thường xuyên
10
8,33
2
Thỉnh thoảng
48
40,00
3
Rất ít
62
51,67
4
Không bao giờ
0
0
Qua bảng số liệu khảo sát cho thấy, giáo viên đã sử dụng bài tập thực tiễn và có nội dung thực tiễn vào trong giảng dạy tuy nhiên còn chưa thường xuyên, ít khi sử dụng (51,67%. Thực trạng trên chứng tỏ, GV sử dụng phương pháp áp dụng bài tập thực tiễn trong dạy học phát triển năng lực học sinh còn có những hạn chế nhất định dẫn đến hiệu quả chưa cao. 1.3. Một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn – Giáo viên phải tích cực liên hệ kiến thức với thực tế bằng việc soạn thảo những bài tập có yếu tố thực tế để tạo sự hứng thú cho HS trong giờ học và kích thích sự say mê sáng tạo của HS. – Giáo viên cần đa dạng hóa các hình thức dạy học. Để làm được điều đó giáo viên phải trau dồi thêm kiến thức và kĩ năng cần thiết cho việc bồi dưỡng, phát triển, đánh giá năng lực vật lí của HS. – Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá chất lượng HS cho phù hợp với đặc thù bộ môn và tự xây dựng cho mình hệ thống bài tập và tiến trình sử dụng chúng để bồi dưỡng được năng lực vật lí của HS trong quá trình dạy học. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến 2.1. Năng lực và năng lực giải quyết vấn đề của học sinh 2.1.1. Một số năng lực cần phát triển cho học sinh trung học phổ thông Trong chương trình giáo dục phổ thông ở một số nước, việc phát triển năng lực cho học sinh THPT đã được đề cập: Năng lực của học sinh phổ thông do tổ chức OEDC đề nghị gồm: Năng lực GQVĐ, năng lực xã hội, năng lực linh hoạt sáng tạo, năng lực sử dụng thiết bị một cách thông minh. Năng lực của học sinh phổ thông của một số nước như Australia được yêu cầu trong chương trình giáo dục bao gồm: Năng lực đọc hiểu, năng lực làm toán, năng lực giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực ứng dụng công nghệ thông tin. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đi sâu nghiên cứu về năng lực giải quyết vấn đề. 2.1.2. Các khái niệm năng lực giải quyết vấn đề của học sinh Năng lực GQVĐ là khả năng của một cá nhân hiểu và giải quyết tình huống vấn đề khi mà giải pháp giải quyết chưa rõ ràng. Nó bao gồm sự sẵn sàng tham gia vào giải quyết tình huống vấn đề đó – thể hiện tiềm năng là công dân tích cực và xây dựng (Định nghĩa trong đánh giá PISA, 2012). Giải quyết vấn đề là hoạt động trí tuệ được coi là trình độ phức tạp và cao nhất về nhận thức, vì cần huy động tất cả các năng lực trí tuệ của cá nhân. Để GQVĐ, chủ thể phải huy động trí nhớ, tri giác, lý luận, khái niệm hóa, ngôn ngữ, đồng thời sử dụng cả cảm xúc, động cơ, niềm tin ở năng lực bản thân và khả năng kiểm soát được tình thế (Theo Nguyễn Cảnh Toàn – 2012 (Xã hội học tập – học tập suốt đời)). 2.1.3. Các thành tố và tiêu chí đánh giá năng lực giải quyết vấn đề của học sinh Năng lực GQVĐ bao gồm nhiều thành tố. Các tiêu chí của mỗi thành tố và các mức độ của mỗi tiêu chí chúng được thể hiện qua bảng sau: Bảng 1.2: Cấu trúc của năng lực giải quyết vấn đề
STT
Nhóm năng lực
Năng lực
Môn học được quy định hình thành và phát triển NL
1
Chung
– Tự chủ và tự học – Giao tiếp và hợp tác
Tất cả các môn học và hoạt động giáo dục
– Giải quyết vấn đề và sáng tạo
2
Đặc thù
– Ngôn ngữ; – Tính toán; – Khoa học; – Công nghệ; – Tin học; – Thẩm mĩ; – Thể chất
Một số môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc
2.1.4. Tiêu chí đánh giá năng lực giải quyết vấn đề – Đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kỹ năng và thái độ trong bối cảnh có ý nghĩa. Theo quan điểm giáo dục phát triển, thì đánh giá kết quả giáo dục phải hướng tới việc xác định sự tiến bộ của người học. Vì vậy đánh giá năng lực người học được hiểu là đánh giá khả năng áp dụng những kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống thực tiễn. Theo – Đánh giá năng lực GQVĐ của người học cũng như đánh giá các năng lực khác thì không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trọng tâm mà chú trọng đến khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống sáng tạo khác nhau. Đánh giá năng lực thông qua các sản phẩm học tập và quá trình học tập của người học, đánh giá năng lực người học được thực hiện bằng một số phương pháp (công cụ) sau: – Đánh giá qua quan sát: Đánh giá qua quan sát là thông qua quan sát mà đánh giá các thao tác, động cơ, các hành vi, kỹ năng thực hành và kỹ năng nhận thức như là cách GQVĐ trong một tình huống cụ thể. Để đánh giá qua quan sát, GV cần tiến hành các hoạt động: + Xây dựng mục tiêu, đối tượng, nội dung, phạm vi cần quan sát. + Đưa ra các tiêu chí cho từng nội dung quan sát (thông qua các biểu hiện của các năng lực cần đánh giá) + Thiết lập bẳng kiểm phiếu quan sát. + Ghi chú những thông tin chính vào phiếu quan sát. + Quan sát và ghi chép đầy đủ những biểu hiện quan sát được vào phiếu quan sát và đánh giá. – Đánh giá qua hồ sơ học tập: Hồ sơ học tập là tài liệu minh chứng cho sự tiến bộ của cá nhân, trong đó mỗi cá nhân tự đánh giá về bản thân, nêu những điểm mạnh, điểm yếu, sở thích của mình, tự ghi kết quả học tập, tự đánh giá đối chiếu với mục tiêu đã đặt ra để nhận ra sự tiến bộ hoặc chưa tiến bộ của mình, từ đó tìm nguyên nhân và cách khắc phục trong thời gian tới. Hồ sơ học tập có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi cá nhân, giúp người học tìm hiểu về bản thân, khuyến khích hứng thú học tập và hoạt động tự đánh giá. Từ đó thúc đẩy mỗi cá nhân chú tâm và có trách nhiệm với nhiệm vụ học tập của mình. – Tự đánh giá: Tự đánh giá là một hình thức mà người học tự liên hệ phần nhiệm vụ đã thực hiên với các mục tiêu của quá trình học, người học sẽ học cách đánh giá các nỗ lực và tiến bộ cá nhân, nhìn lại quá trình và phát hiện những điều cần thay đổi để hoàn thiện bản thân. – Đánh giá qua bài kiểm tra: Đánh giá qua bài kiểm tra là một hình thức giáo viên đánh giá năng lực học sinh bằng cách giáo viên cho đề kiểm tra trong một thời gian nhất định để học sinh hoàn thành, sau đó giáo viên chấm bài và cho điểm. Qua bài kiểm tra, giáo viên đánh giá được ở học sinh những kĩ năng và kiến thức, qua đó giáo viên có thể điều chỉnh các hoạt động dạy học và có biện pháp giúp đỡ đến từng học sinh. – Đánh giá đồng đẳng: là một quá trình trong đó các nhóm người học trong lớp sẽ đánh giá công việc lẫn nhau dựa theo tiêu chí đã định sẵn. Đánh giá đồng đẳng giúp người học làm việc hợp tác, cho phép người học tham gia nhiều hơn vào quá trình học tập đánh giá. Qua đó phản ánh được năng lực của người đánh giá về sự trung thực, linh hoạt, nhạy bén và khả năng tập trung. – Như vậy, trong việc đánh giá năng lực GQVĐ cũng như các năng lực khác giáo viên cần sử dụng đồng bộ các công cụ đánh giá trên cùng với bài kiểm tra kiến thức kĩ năng. Khi xây dựng các công cụ đánh giá cần xác định rõ mục tiêu, biểu hiện của năng lực cần đánh giá để từ đó xây dựng các tiêu chí một cách cụ thể rõ ràng. Trong phần này chứng tôi chú trọng việc đánh giá năng lực GQVĐ thông qua khả năng vận dụng kiến thức và kỹ năng thực hiện nhiệm vụ của Hs thông qua các bài tập có nội dung thực tế. Việc đánh giá năng lực GQVĐ của HS được thực hiện thông qua việc đánh giá các tiêu chí của từng thành tố trong năng lực GQVĐ. Tiêu chí đánh giá năng lực giải quyết vấn đề được thể hiện ở bảng dưới đây. Bảng 1.3: Tiêu chí đánh giá năng lực giải quyết vấn đề
Thành tố
Chỉ số hành vi
Tiêu chí chất lượng của hành vi
1. Tìm hiểu vấn đề cần giải quyết
1.1. Tìm hiểu tình huống trong BT có NDTT
M1.1.1. Quan sát, mô tả được các quá trình, hiện tượng trong BT có NDTT để làm rõ được dữ kiện và vấn đề cần giải quyết (ẩn số phải tìm) M1.1.2. Bước đầu phân tích thông tin đã cho trong tình huống của BT có NDTT để xuất hiện các câu hỏi riêng lẻ liên quan đến tình huống của BT. M1.1.3. Phân tích, giải thích thông tin đã cho trong tình huống của BT có NDTT để đưa ra được các câu hỏi liên quan đến dữ kiện và ẩn số phải tìm
1.2. Diễn đạt lại hiện tượng, quá trình trong BT có NDTT bằng bằng ngôn ngữ vật lí, hình học
M1.2.1. Diễn đạt lại BT có NDTT một cách đơn giản theo thông tin bài tập đã có M1.2.2. Diễn đạt lại BT có NDTT trong đó có sử dụng các hình vẽ, kí hiệu để chỉ ra được dữ kiện đã cho, ẩn số phải tìm (vấn đề cần giải quyết) M1.2.3. Diễn đạt lại BT có NDTT bằng nhiều cách khác nhau một cách linh hoạt để chỉ ra được dữ kiện đã cho, ẩn số phải tìm (vấn đề cần giải quyết)
Thành tố
Chỉ số hành vi
Tiêu chí chất lượng của hành vi
2. Đề xuất giải pháp GQVĐ
2.1. Xác định các kiến thức vật lí có liên quan đến việc giải BT có NDTT
M2.1.1. Nêu được tên các kiến thức vật lí cần sử dụng để giải quyết vấn đề trong BT có NDTT M2.1.2. Trình bày được một số nội dung kiến thức, công thức vật lí liên quan trong việc giải quyết vấn đề trong BT có NDTT nhưng chưa đầy đủ M2.1.3. Phân tích các thông tin có trong BT có NDTT để đưa ra được các nội dung kiến thức, công thức vật lí liên quan trong việc giải quyết vấn đề trong BT có NDTT
2.2. Đề xuất giải pháp vận dụng các kiến thức, công thức vật lí liên quan để giải BT có NDTT
M2.2.1. Bước đầu đề xuất được phương án suy luận lí thuyết hoặc thực nghiệm để thiết lập các mối liên hệ giữa dữ kiện đã cho và ẩn số phải tìm nhằm giải quyết BT có NDTT M2.2.2. Đề xuất được phương án suy luận lí thuyết hoặc thực nghiệm và xác lập được một số mối liên hệ cơ bản giữa dữ kiện đã cho với ẩn số cần phải tìm trong BT có NDTT từ phương án đã đề xuất nhưng chưa hoàn thiện M2.2.3. Phân tích các thông tin trong phương án đã đề xuất để xác lập được (các) mối liên hệ cơ bản giữa dữ kiện đã cho với những cái chưa biết và ẩn số phải tìm (thông qua hình thức suy luận lí thuyết hoặc thực nghiệm) trong BT có NDTT
3. Thực hiện giải pháp GQVĐ
3.1. Thực hiện giải pháp giải BT có NDTT
M3.1.1. Bước đầu xây dựng lập luận/thực hiện thí nghiệm/luận giải các mối liên hệ hướng tới mục đích tìm ra đáp án của BT có NDTT nhưng chưa ra kết quả M3.1.2. Xây dựng được các lập luận/thực hiện được thí nghiệm/luận giải các mối liên hệ để tìm ra đáp án của BT có NDTT nhưng chưa đầy đủ để rút ra được kết luận M3.1.3. Xây dựng được lập luận/thực hiện được thí nghiệm/luận giải được các mối liên hệ từ việc huy động ít nhất hai kiến thức, hoặc tiến hành ít nhất hai phép đo … để tìm ra đáp án của BT có NDTT
Thành tố
Chỉ số hành vi
Tiêu chí chất lượng của hành vi
3.2. Đánh giá và điều chỉnh các bước giải BT có NDTT
M3.2.1. Đánh giá các bước trong quá trình giải quyết BT có NDTT, phát hiện ra sai sót, khó khăn M3.2.2. Đánh giá các bước trong quá trình giải quyết BT có NDTT, phát hiện ra sai sót, khó khăn và đưa ra hướng điều chỉnh M3.2.3. Đánh giá các bước trong quá trình giải quyết BT có NDTT, phát hiện ra sai sót, khó khăn, đưa ra hướng điều chỉnh và thực hiện việc điều chỉnh
4. Đánh giá việc GQVĐ, phát hiện vấn đề mới
4.1. ĐG quá trình giải quyết vấn đề, phát hiện vấn đề mới
M4.1.1. So sánh kết quả cuối cùng thu được với đáp án và rút ra kết luận khi giải BT có NDTT M4.1.2. Đánh giá được kết quả cuối cùng và chỉ ra khả năng ứng dụng của kết quả thu được trong tình huống thực tiễn mới M4.1.3. Xem xét kết quả thu được trong tình huống thực tiễn mới, phát hiện những khó khăn vướng mắc cần giải quyết và diễn đạt vấn đề mới cần giải quyết
Tuy nhiên không phải ở mọi bài học, việc vận dụng năng lực GQVĐ của HS cũng đủ cả 4 thành tố và không phải ở thành tố nào cũng có đủ các tiêu chí với đầy đủ những mức độ như bảng trên. Vì vậy, khi cho điểm đánh giá năng lực GQVĐ của HS ở một bài nào đó, cần căn cứ vào yêu cầu cụ thể của bài để cho điểm thành phần. Việc cho điểm mỗi thành tố, mỗi tiêu chí ở mỗi mức độ của các bài là khác nhau. 2.2. Các khái niệm bài tập có nội dung thực tiễn 2.2.1. Khái niệm bài tập thực tiễn Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (2000) định nghĩa: “Bài tập là bài giao cho HS làm để vận dụng những điều đã học được”. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang (1986): “Bài tập là bài ra cho HS làm để vận dụng những điều đã học nhằm hình thành kiến thức mới, củng cố, hoàn thiện, nâng cao kiến thức đã học”. Tác giả Lê Thanh Oai (2016) định nghĩa: “Bài tập thực tiễn là dạng bài tập xuất phát từ các tình huống thực tiễn, được giao cho HS thực hiện để vận dụng những điều đã học nhằm hình thành kiến thức mới hoặc củng cố, hoàn thiện, nâng cao kiến thức đã học đồng thời phát triển năng lực người học”. Trong đề tài này chúng tôi sử dụng quan niệm bài tập Vật lý có nội dung thực tiễn là những bài tập mà nội dung của chúng là các tình huống cụ thể hoặc mô phỏng các tình huống có thể nảy sinh trong thực tế cuộc sống xung quanh chúng ta. Những bài tập này thể hiện được mối liên hệ giữa các kiến thức, định luật vật lý mà học sinh đã được học với các thành tựu và ứng dụng của những tri thức đó trong khoa học và kỹ thuật. 2.2.2. Phân loại bài tập vật lí thực tiễn a. Phân loại theo tính chất của bài tập – Bài tập định tính: Là các bài tập về giải thích các hiện tượng, các tình huống nảy sinh trong thực tiễn. HS phải biết vận dụng các định luật, nguyên lí vật lí để giải thích các hiện tượng xảy ra trong thực tế cuộc sống. Ví dụ: Giải thích hiện tượng ảo giác; giải thích hiện tượng nhật thực, nguyệt thực; giải thích hiện tượng cầu vồng… – Bài tập định lượng: Là loại bài tập trong đó yêu cầu tính toán thực tiễn, phải vận dụng các tính chất, công thức vật lí mới có thể giải quyết được. Ví dụ: Xác định nhiên liệu cần tiêu tốn để xe ô tô dịch chuyển một quãng đường nhất định. – Bài tập tổng hợp: Là loại bài tập trong đó bao gồm cả kiến thức định tính lẫn định lượng. Phải dùng cả giải thích định tính lẫn tính toán mới có thể tìm ra được kết quả của bài toán. Ví dụ: Tính toán tiền điện trả cho nhà nước mỗi tháng của gia đình; giải thích sự tiêu hao điện năng trên dây dẫn và đưa ra giải pháp khắc phục.
Các thầy cô cần file liên hệ với chúng tôi tại fanpage facebook O2 Education
SKKN Vận dụng mô hình giáo dục STEM trong dạy học môn Hóa học 9 nhằm phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho HS tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông mới